Xu Hướng 12/2023 # Xây Dựng Mô Hình Kế Toán Quản Trị Chi Phí Trong Doanh Nghiệp Khởi Nghiệp # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Xây Dựng Mô Hình Kế Toán Quản Trị Chi Phí Trong Doanh Nghiệp Khởi Nghiệp được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội phát triển, tuy nhiên, các doanh nghiệp khởi nghiệp muốn tồn tại, phát triển bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, các nhà quản trị cần nhận thức về vai trò quan trọng của kế toán quản trị trong điều hành doanh nghiệp.

Đặc biệt, để hoạch định chiến lược phát triển, kiểm soát chi phi hiệu quả nhất, việc xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí là một yêu cầu cấp bách, nhằm tăng cường hiệu quả quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, làm tăng khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp khởi nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt.

Kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp

Về bản chất, kế toán quản trị (KTQT) chi phí là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của hệ thống kế toán nói chung và KTQT nói riêng, nên bản chất của KTQT chi phí trước hết thể hiện ở bản chất của kế toán, đều làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp (DN). KTQT chi phí là kênh thông tin quan trọng giúp cho nhà quản trị xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra, kiểm soát, đánh giá hoạt động và đưa ra các quyết định tối ưu. KTQT chi phí bao gồm các nội dung cơ bản sau: Nhận diện và phân loại chi phí; Xây dựng định mức và dự toán chi phí; Kế toán chi phí hoạt động và tính giá thành sản phẩm; Phân tích biến động chi phí; Hệ thống báo cáo KTQT chi phí; Phân tích thông tin chi phí.

Trong hoạt động của DN nói chung và DN khởi nghiệp nói riêng, KTQT chi phí có mối quan hệ hữu cơ với chức năng quản lý. Theo đó, để đạt được mục tiêu điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh, nhà quản trị DN cần lập kế hoạch và dự toán chi phí trên cơ sở mục tiêu đã đề ra, tổ chức điều hành thực hiện kế hoạch và kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch, cụ thể hoá các thông tin chỉ đạo điều hành của nhà quản trị.

Bên cạnh đó, KTQT chi phí cũng có chức năng quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực bởi có thể giúp cho các nhà quản trị tính toán, lựa chọn để đưa ra quyết định tối ưu nhất cho việc phân bổ các nguồn lực sẵn có một cách hiệu quả hơn. Chẳng hạn, khi thông tin KTQT chi phí được cung cấp trung thực về tình hình chi phí, thu nhập và kết quả lợi nhuận thu được của từng lĩnh vực, các rủi ro hiện hữu (rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá…), các nhà quản trị có thể có đủ thông tin để đưa ra các quyết định điều hành theo hướng có lợi cho DN…

Theo Lê Thị Bình (2023), để tiến hành hoạt động KTQT chi phí sao cho đạt hiệu quả cao nhất, cần tuân thủ một số yêu cầu như sau: Cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin theo yêu cầu quản lý về chi phí của từng hoạt động, bộ phận, công việc, sản phẩm; Thông tin KTQT chi phí cung cấp chi tiết, cụ thể hơn so với kế toán tài chính; Thông tin KTQT chi phí cung cấp có tính logic và so sánh được nhằm nhận diện thông tin nhanh, chính xác; Thông tin KTQT chi phí phải mang tính bảo mật. Tuy nhiên, do phục cho việc điều hành và ra quyết định của nhà quản trị DN, nên để không tạo thêm các quy định hành chính gây khó dễ cho DN, hiện nay, cơ quan quản lý chưa có văn bản nào quy định về việc phải thực hiện KTQT chi phí.

Nguyên tắc xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp khởi nghiệp

Tại Việt Nam, trong những năm qua, Chính phủ đã có nhiều động thái hỗ trợ DN khởi nghiệp phát triển thông qua việc đưa ra các chính sách hỗ trợ về thuế, tín dụng, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ thông tin… Tuy nhiên, thực tế, các DN khởi nghiệp của Việt Nam đều có quy mô nhỏ hoặc siêu nhỏ nên rất dễ bị tổn thương. Các DN này thường có năng lực tài chính và năng lực quản trị yếu; nguồn nhân lực, năng lực mở rộng thị trường tìm kiếm đối tác… chưa đáp ứng được thực tiễn. Do vậy, việc quản trị nói chung và quản trị chi phí nói riêng tại các DN khởi nghiệp vẫn còn nhiều thách thức. Thực tế này đặt ra đòi hỏi cấp thiết về việc xây dựng mô hình KTQT chi phí phù hợp với các đặc điểm riêng có của các DN khởi nghiệp tại Việt Nam.

Theo Lê Thế Anh (2023), mô hình KTQT chi phí là việc tổ chức bộ máy kế toán và thiết lập quy trình thực hiện những nội dung cơ bản của KTQT chi phí nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị. Mô hình KTQT chi phí được xây dựng nhằm cung cấp thông tin tài chính và phi tài chính giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc xây dựng mô hình KTQT chi phí nhằm trang bị cho các nhà quản trị một công cụ để xây dựng và thực hiện chiến lược, sau đó biến các kế hoạch, chiến lược thành các biện pháp thực hiện và điều chỉnh. Mô hình KTQT chi phí sẽ cung cấp những thông tin chi tiết từng thành phần chi phí, tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành cho từng loại sản phẩm. Bên cạnh đó, mô hình KTQT chi phí còn giúp các nhà quản trị kiểm soát tình hình thực hiện và giải trình các nguyên nhân dẫn đến chênh lệch giữa chi phí dự toán và chi phí thực tế. Ngoài ra, khi sử dụng mô hình KTQT chi phí sẽ cung cấp không chỉ các thông tin tài chính mà còn cung cấp các thông tin về tính hoạt động, các thông tin mang tính dự báo giúp các nhà quản trị ra các quyết định phù hợp và kịp thời.

Thứ nhất, việc xây dựng mô hình KTQT chi phí phải đảm bảo tính khách quan và phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Có như vậy, mô hình KTQT chi phí mới phát huy được vai trò là công cụ đắc lực cho các nhà quản trị. Tuy nhiên, khi xây dựng mô hình KTQT chi phí cần tôn trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế. Các thông tin được cung cấp từ mô hình phải khái quát được toàn cảnh bức tranh về tình hình chi phí của DN. Hiện nay, các DN khởi nghiệp tại Việt Nam có quy mô nhỏ nên việc xây dựng mô hình KTQT cũng sẽ theo hướng gọn nhẹ.

Thứ hai, mô hình phải đáp ứng được nhu cầu thông tin đa dạng của các nhà quản trị. Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt, các nhà quản trị DN rất cần đến những thông tin hữu ích để có thể đưa ra các quyết định kinh doanh tối ưu. Nhu cầu cung cấp thông tin cho các nhà quản trị đòi hỏi hệ thống KTQT chi phí phải vừa cung cấp được những thông tin chi tiết, cụ thể về từng hoạt động trong DN, vừa phải cung cấp những thông tin mang tính khái quát, so sánh, đánh giá các mặt hoạt động của DN.

Thứ ba, mô hình KTQT chi phí được xây dựng phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả và tiết kiệm. Để xây dựng và vận hành mô hình KTQT chi phí, các DN sẽ phải có những đầu tư về nhân lực, vật lực, phải có những thay đổi trong cách thức quản lý và tổ chức công tác kế toán. Tuy nhiên, mô hình KTQT chi phí cần có sự kết hợp hài hòa với hệ thống kế toán tài chính, không gây khó khăn trong việc tổ chức công tác kế toán chung, không quá tốn kém nhưng đảm bảo thông tin phải được cung cấp một cách hiệu quả. Ngoài ra, cần chú trọng đến kiểm soát chi phí, vì mọi DN muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thành công đều phải thực hiện tốt hoạt động kiểm soát chi phí, đặc biệt là đối với các DN khởi nghiệp vốn có tiềm lực tài chính yếu và thường phải dựa vào việc gọi vốn của các nhà đầu tư.

Một số tồn tại, hạn chế

Thực tiễn hoạt động của DN khởi nghiệp nói chung và ứng dụng KTQT chi phí nói riêng, việc xây dựng mô hình KTQT chi phí trong DN khởi nghiệp vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, các nhà quản trị DN chưa thực sự quan tâm đến công tác KTQT nói chung và việc xây dựng mô hình KTQT tại DN nói riêng. Do các DN khởi nghiệp thường khó khăn về vốn, nên gần như chỉ quan tâm đến làm sao có thể tồn tại, phát triển và hoặc kêu gọi được vốn đầu tư. Có thể nói, bắt nguồn từ nhận thức của nhà quản trị DN khởi nghiệp, nên KTQT nói chung chưa quan tâm hoặc ít chú ý tới việc tổ chức bộ máy KTQT của DN mình, cũng như hiểu rõ được tầm quan trọng của KTQT trong việc cung cấp các thông tin để đưa ra quyết định điều hành, từ đó dẫn tới các chiến lược kinh doanh và quản lý điều hành DN chưa thực sự hiệu quả. Do vậy, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức về KTQT cho DN, tạo chuyển biến về nhận thức đối với việc ứng dụng công tác KTQT vào hoạt động quản trị của DN. Nhà quản trị DN phải là người đi đầu nhận thức về vai trò, nội dung của KTQT, là người chèo lái, dẫn dắt các bộ phận trong DN áp dụng mô hình KTQT.

Thứ hai, hiện nay hầu hết các DN đã áp dụng KTQT mới chỉ dừng lại ở việc áp dụng sơ khai, đơn giản chỉ là sự kết hợp giữa kế toán tài chính và KTQT, KTQT chỉ là chi tiết hóa số liệu của kế toán tài chính (KTTC). Các DN chưa khai thác triệt để công cụ KTQT vào DN. Bên cạnh đó, các nhà quản trị DN còn lúng túng khi nghiên cứu nội dung KTQT để áp dụng thực tế vào DN. Thực tế cho thấy, các DN khởi nghiệp đa phần là mới thành lập nên năng lực quản lý của các nhà quản trị còn hạn chế, dẫn đến các quyết định điều hành cũng như việc hoạch định chiến lược kinh doanh chưa hợp lý làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trên thị trường và thu hút vốn đầu tư vào DN khởi nghiệp, từ đó ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của DN. Do vậy, bên cạnh việc quan tâm đến kế toán tài chính, các DN cũng cần tận dụng

Thứ ba, hiện nay, các DN chỉ tổ chức bộ máy KTTC, còn bộ máy KTQT chưa được quan tâm và đầu tư. Để có một hệ thống kế toán tốt, đặc biệt là hệ thống KTQT, các DN cần đầu tư một khoản phí không nhỏ để đào tạo nhân viên kế toán và các chi phí vận hành khác. Điều này khiến cho các nhà quản trị phải cân nhắc tính cấp thiết của các khoản đầu tư dành cho KTQT. Hiện nay, một số DN khởi nghiệp với mục tiêu giảm chi phí đã thực hiện giải pháp là thuê kế toán viên có nghiệp vụ giỏi làm ngoài giờ hoặc thuê những người có trình độ thấp với chi phí có thể chấp nhận được. Với những DN quan tâm đến KTQT, nhân viên kế toán hầu hết chỉ có kinh nghiệm về kế toán tài chính, còn kiến thức về KTQT chưa được đào tạo bài bản nên khó thực hiện các công việc KTQT nói chung và hướng đến xây dựng một mô hình KTQT chi phí nói riêng. Do vậy, trong thời gian tới, cần căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của DN khởi nghiệp để sắp xếp, tổ chức và xây dựng mô hình KTQT cho phù hợp với DN; Chú trọng học hỏi kinh nghiệm KTQT hiện đại từ các nước quốc gia khởi nghiệp phát triển thông qua việc hợp tác và đào tạo về KTQT để ứng dụng vào DN Việt Nam trong thời gian sớm nhất…

Thứ tư, việc xây dựng mô hình KTQT chi phí tại các DN khởi nghiệp cần phải cung cấp những thông tin tối ưu. Do đó, khi xây dựng mô hình KTQT chi phí phải đáp ứng được những yêu cầu sau: Xây dựng mô hình phải đảm bảo tính khái quát, trong đó, tính khái quát của mô hình KTQT chi phí phải cung cấp được những thông tin đảm bảo các thuộc tính như đảm bảo thông tin trung thực, hợp lý và Đảm bảo tính kịp thời của thông tin; Yêu cầu mô hình được xây dựng phải đơn giản để làm giảm áp lực đối với các nhân viên kế toán trong việc ghi chép, phản ánh, lập dự toán, đánh giá và đưa ra các thông tin tư vấn cho nhà quản trị; Yêu cầu mô hình KTQT chi phí được xây dựng phải cung cấp được các thông tin tổng hợp và chi tiết theo yêu cầu của nhà quản trị…

ThS. Đinh Thị Thùy Liên – Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp (Tạp chí Tài chính)

Nghiên Cứu Về Kế Toán Quản Trị Chi Phí Trong Các Doanh Nghiệp

1. Đặt vấn đề

Chi phí là một trong các nội dung NQT cần theo dõi nhằm hoạch định và kiểm soát chi phí, góp phần gia tăng gía trị cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh cho DN. Thông tin về chi phí sản xuất kinh doanh trong DN, có thể là thông tin kế hoạch/thực tế hay phân tích biến động chi phí/dự báo chi phí,… Tất cả các TTCP trong DN được các cấp quản trị phối hợp thu thập và phân tích đầy đủ kịp thời cho NQT các cấp, trong quá trình điều hành và ra quyết định. QTCP được các NQT quan tâm tổ chức thu thập thông qua hệ thống KTQTCP trong các DN. Các DN tổ chức thu thập thông tin kế toán chi phí tốt làm cơ sở để xác định giá bán, phân tích điểm hòa vốn, lập kế hoạch lợi nhuận, dự báo chi phí, kiểm soát chi phí, đưa ra các quyết định thích hợp trong các trường hợp cụ thể,… Để thực hiện các vấn đề QTCP, KTQTCP cần thiết tổ chức phân loại chi phí theo các mục tiêu quản trị như: Phân loại chi phí theo chức năng, theo cách ứng xử chi phí, theo mức độ kiểm soát chi phí,… Chính vì thế, có rất nhiều các nghiên cứu về KTQTCP theo các hướng khác nhau.

2. Quan điểm về KTQTCP

Có nhiều định nghĩa về kế toán ở các tài liệu khác nhau, cụ thể như: Theo nguyên lý kế toán Mỹ: “Kế toán là phương pháp cung cấp thông tin cần thiết cho quản lý có hiệu quả và để đánh giá mọi hoạt động của mọi tổ chức”. Theo Liên đoàn kế toán quốc tế, trong những năm của thập kỷ 70 “Kế toán là nghệ thuật ghi chép, phân loại, tổng hợp theo cách riêng có bằng những khoản tiền các nghiệp vụ và các sự kiện mà chúng có ít nhất một phần tính chất tài chính và trình bày kết quả của nó”. Theo Robert Anthoney trường Kinh doanh Hardvard “Kế toán là ngôn ngữ của kinh doanh”. Mỗi định nghĩa có những ý nghĩa riêng, nhưng chung quy lại, kế toán là một quá trình phục vụ cho việc ra quyết định quản lý kinh doanh. Kế toán được phân chia theo các mục đích khác nhau ở thành hai nhóm là Kế toán tài chính và KTQT, hoặc phân thành 3 nhóm là Kế toán tài chính, Kế toán chi phí và KTQT.

ở các góc độ khác nhau, chi phí lại được định nghĩa theo những cách khác nhau. Trong kế toán tài chính chi phí được coi như một khoản phí tổn thực tế phát sinh gắn liền với hoạt động của DN để đạt được một mục đích cụ thể trong kinh doanh. Nó được định lượng bằng một sự giảm sút về giá trị tài sản hoặc sự gia tăng một khoản nợ phải trả, kết quả là làm cho vốn chủ sở hữu giảm xuống nhưng không phải do phân phối vốn cho các chủ sở hữu. Như vậy, chi phí được đặt trong mối quan hệ với tài sản, vốn chủ sở hữu của DN và thường phải được đảm bảo bởi các chứng cứ nhất định (chứng từ) chứng minh là phí tổn thực tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Trong kế toán quản trị, với mục đích cung cấp TTCP thích hợp, hữu ích cho việc ra quyết định của nhà quản lý, chi phí được hiểu theo nhiều hướng, nhiều cách khác nhau. Theo đó, chi phí có thể là những chi phí thực tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể là những chi phí ước tính để thực hiện một hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng có thể là một khoản thu nhập tiềm tàng bị mất đi do lựa chọn phương án kinh doanh,… Như vậy, trong kế toán quản trị, khi nhận thức chi phí cần đến sự lựa chọn, so sánh theo mục đích sử dụng, ra quyết định kinh doanh hơn là chú trọng vào chứng cứ. Trong kế toán chi phí, với mục tiêu cung cấp TTCP cho cả kế toán tài chính và kế toán quản trị nên tuỳ thuộc vào mục đích cung cấp thông tin cho lĩnh vực nào chi phí sẽ được nhận diện, đo lường và hệ thống theo yêu cầu thích hợp. Chi phí có thể được hiểu là hao phí của một số nguồn lực được sử dụng cho một mục đích nào đó. Nói chung, tất cả các định nghĩa về chi phí đều thống nhất rằng, chi phí là thước đo bằng tiền các hao phí về các nguồn lực về tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh.

KTQTCP là một nội dung của KTQT hay một bộ phận KTCP, khái niệm về KTQTCP được các tác giả đưa ra trong các nghiên cứu cụ thể. Theo Viện Kế toán viên quản trị của Mỹ cho rằng, KTQTCP là kỹ thuật hay phương pháp để xác định chi phí cho một dự án, một quá trình hoặc một sản phẩm. Chi phí này được xác định bằng việc đo lường trực tiếp, kết chuyển tuỳ ý hoặc phân bổ một cách có hệ thống và hợp lý (Montvale, N.J, 1983) “KTQTCP là hệ thống kế toán chính thức được thiết lập để ghi nhận chi phí. Nó là một quá trình hệ thống để xác định giá thành đơn vị của sản phẩm sản xuất ra hoặc dịch vụ được cung cấp” (Periasamy P, 2010). Theo VanDerbeck “KTQTCP cung cấp chi tiết TTCP theo nhu cầu của NQT để kiểm soát hoạt động kinh doanh hiện tại và lập kế hoạch cho tương lai” (Edward J. VanDerbeck, 2010). (Trích từ Lê Thế Anh 2023): Theo Phạm Thị Thủy (2007) KTQTCP là một bộ phận của hệ thống KTQT, nhằm cung cấp thông tin về chi phí để mỗi tổ chức thực hiện chức năng quản trị yếu tố nguồn lực tiêu dùng cho các hoạt động, nhằm xây dựng kế hoạch, kiểm soát, đánh giá hoạt động và ra các quyết định hợp lý; Nguyễn Hoàn (2012), xác định KTQTCP là hệ thống nhằm cung cấp thông tin cụ thể về chi phí phát sinh tại những thời điểm cụ thể, với những đặc điểm và bối cảnh chi tiết, để từ đó có những giải pháp nhằm kiểm soát chi phí; Hồ Mỹ Hạnh (2013) tiếp cận KTQTCP trên góp độ tổ chức cho rằng, Hệ thống thông tin KTQTCP là việc thu thập các dữ liệu về chi phí và xử lý các dữ liệu này theo một trình tự, để có thể cung cấp TTCP nhằm xây dựng kế hoạch chi phí, kiểm soát chi phí, từ đó đánh giá các hoạt động và ra quyết định; Nguyễn Phú Giang (2014) cho rằng, KTQTCP là một bộ phận của KTQT chuyên thực hiện việc xử lý và cung cấp thông tin về chi phí, nhằm phục vụ các chức năng của NQT như hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra và ra quyết định; Đào Thúy Hà (2023), KTQTCP là một phân hệ của hệ thống KTQT nhằm cung cấp TTCP phục vụ quản trị tổ chức.

Mặc dù chưa có khái niệm thống nhất, nhưng nhìn chung các tác giả đều cho rằng KTQTCP là một bộ phận của kế toán, nhằm cung cấp các TTCP cho các NQT và thực hiện các mục tiêu nhất định trong từng giai đoạn của quản trị tổ chức.

3. Nhu cầu TTCP trong quản trị DN

Tùy thuộc vào từng thời điểm mà mục tiêu của NQT sẽ khác nhau như: Tối đa hóa lợi nhuận hoặc đạt được mức lợi nhuận mong muốn; Cực tiểu chi phí; Tối đa hóa thị phần hoặc đạt được một mức thị phần nào đó; Nâng cao chất lượng sản phẩm; Duy trì được sự tồn tại của DN; Tăng trưởng; Cực đại giá trị tài sản,… Cho dù mục tiêu hoạt động của một tổ chức là gì đi nữa, công việc của các NQT là phải đảm bảo các mục tiêu được thực hiện. Trong quá trình theo đuổi mục tiêu của tổ chức, các NQT thực hiện bốn hoạt động: Lập kế hoạch, Tổ chức và điều hành, Kiểm soát, Ra quyết định.

Lập kế hoạch: Trong giai đoạn này NQT cần các thông tin kế toán để lập kế bán hàng như: Số lượng sản phẩm tiêu thụ, chi phí bán hàng, chi phí sản xuất, giá bán dự kiến. Thông tin kế toán cung cấp cho NQT cần là lượng khách hàng hiện có, doanh số tiêu thụ của các khách hàng chủ lực, đơn giá bán, chi phí sản xuất thời gian qua, các dữ liệu này có thể tham khảo ở sổ kế toán chi tiết phải thu khách hàng, sổ chi tiết bán hàng, sổ chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh, thẻ tính giá thành. Bên cạnh đó, thông tin kế toán chi phí còn làm cơ sở xây dựng định mức theo phương pháp lịch sử và dự báo chi phí cho thời kỳ kế hoạch.

Trên cơ sở kế hoạch tiêu thụ NQT sẽ lập các kế hoạch khác như: Kế hoạh sản xuất, kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu, kế hoạch sử dụng lao động,… Các thông tin này, một phần do kế toán cung cấp dựa trên các sổ chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Các thông tin kế toán chi tiết cung cấp cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, là các thông tin có thể lượng hóa được và có độ tin cậy cao cùng với các phương pháp dự báo khác của NQT, làm cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch của DN.

Tổ chức và điều hành: Trong việc tổ chức, NQT sẽ quyết định cách liên kết tốt nhất giữa tổ chức, con người với các nguồn lực lại với nhau sao cho kế hoạch được thực hiện có hiệu quả nhất. Trong việc điều hành, các NQT giám sát hoạt động hàng ngày và giữ cho cả tổ chức hoạt động trôi chảy. Yêu cầu của thông tin kế toán là kịp thời, trung thực,.. là một trong những công cụ cho NQT điều hành hoạt động của đơn vị. Chẳng hạn, số liệu trên sổ chi tiết chi phí nguyên vật liệu cho biết lượng vật liệu đã sử dụng, đơn giá xuất kho,… Thông tin này, làm cơ sở cho NQT tiếp tục mua hàng của nhà cung cấp trước hay không, số lượng cần mua thêm, mức tiêu hao nguyên vật liệu, để tiếp tục sản xuất phù hợp với kế hoạch tiêu thụ. Thông tin trên sổ chi tiết chi phí có thể làm cơ sở theo dõi tiến độ chi phí, chi phí thực tế làm cơ sở điều hành hoạt động của đơn vị.

Kiểm soát: Để thực hiện chức năng kiểm tra, các NQT sử dụng các bước công việc cần thiết để đảm bảo cho từng bộ phận và cả tổ chức đi theo đúng kế hoạch đã vạch ra. Trong quá trình kiểm soát, NQT sẽ so sánh hoạt động thực tiễn với kế hoạch đã thiết lập, thông qua đó, chỉ ra ở khâu nào công việc thực hiện chưa đạt yêu cầu, và cần sự hiệu chỉnh để hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đã thiết lập.

Thông tin các sổ chi tiết làm cơ sở so sánh giữa kế hoạch và thực hiện, nhằm làm cơ sở đánh giá thành quả và trách nhiệm của NQT điều hành đơn vị. Thông tin trên sổ chi tiết chi phí sản xuất kinh doanh làm cơ sở so sánh giữa chi phí thực tế và chi phí dự toán, giữa chi phí kỳ này với kỳ khác, giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa sản phẩm này với sản phẩm khác,… Thông qua số liệu của kế toán giúp NQT có thể kiểm soát chi phí hoạt động của đơn vị một cách khách quan, đồng thời làm cơ sở hoạch định chi phí cho các kỳ tiếp theo.

4. Các nghiên cứu về KTQTCP

KTQTCP là công cụ cung cấp thông tin phục vụ công tác QTCP trong các DN. Tại các quốc gia trên thế giới, các chuyên gia kế toán đã quan tâm và nghiên cứu về KTQT  nói chung và KTQTCP nói riêng, nhằm giải quyết những bài toán kinh tế khó khăn trong các DN. Tác giả Ronald W.Hilton (2005) đã đưa ra năm yếu tố làm tăng giá trị cho các DN khi áp dụng KTQT: (1) Cung cấp thông tin cho việc ra quyết định, lập kế hoạch; (2) Là cơ sở để NQT đưa ra quyết định; (3) Hỗ trợ các NQT trong việc chỉ đạo và kiểm soát các hoạt động; thúc đẩy NQT và nhân viên đạt được mục tiêu của DN; (4) Đo lường việc thực hiện các hoạt động, NQT và các nhân viên trong DN; (5) Đánh giá vị thế cạnh tranh của DN, đảm bảo khả năng cạnh tranh dài hạn của DN trong ngành. Các công trình khoa học tập trung nghiên cứu và vận dụng các nội dung KTQTCP cho các ngành cụ thể theo hai hướng chính đó là: (1) Tổ chức hệ thống KTQTCP (2) Xây dựng mô hình KTQTCP.

4.1. Các nghiên cứu về tổ chức hệ thống KTQTCP

Tổ chức KTQTCP bao gồm hai nội dung chính là tổ chức bộ máy và tổ chức các nội dung của kế toán chi phí như: Tổ chức nhận diện chi phí; Tổ chức xây dựng định mức và dự toán chi phí; Tổ chức các phương pháp xác định chi phí; Tổ chức báo cáo QTCP; Tổ chức phân tích thông tin và ra quyết định; Tổ chức sử dụng thông tin KTQT để đo lường và đánh giá thành quả của các bộ phận trong DN.

Trần Văn Dung (2002), nêu được bản chất của KTQT trong việc cung cấp thông tin, hệ thống hóa và phân tích làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức KTQT chi phí và giá thành trong các DN sản xuất Việt Nam, tác giả đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện KTQT và giá thành trong DN sản xuất; phân tích hệ thống kế toán chi phí, tổ chức KTQT phối hợp với kế toán tính giá thành cho DN sản xuất từ đó từng bước đưa KTQT vào công tác kế toán tại các DN sản xuất. Tuy nhiên, hiện nay các DN sản xuất rất đa dạng và nghiên cứu chỉ tập trung vào các DN Nhà nước. Do đó, nghiên cứu mang tính chung cho các DN sản xuất mà chưa phân loại DN theo ngành nghề cụ thể.

Lê Đức Toàn (2002), nghiên cứu đánh giá thực trạng KTQT và phân tích chi phí của các DN sản xuất công nghiệp. Từ đó, xây dựng mô hình KTQT và phân tích chi phí, hoàn thiện dự toán chi phí, phân tích đánh giá tình hình tài chính theo biến động của các yếu tố, phân tích trung tâm phí, trung tâm trách nhiệm. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào mối liên hệ phân tích chi phí sản xuất với KTQT trong các DN sản xuất công nghiệp ở phạm vi rộng.

Phan Thị Kim Vân (2002), nghiên cứu đã làm rõ bản chất, mục tiêu và phương pháp của KTQTCP và kết quả kinh doanh trong các DN sản xuất kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng; đánh giá thực trạng kế toán chi phí và kết quả kinh doanh, đánh giá thực trạng của KTQT trong DN kinh doanh du lịch Việt Nam để từ đó xác định phương hướng xây dựng mô hình tổ chức KTQT chi phí và kết quả kinh doanh dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, vì mô hình hệ thống KTQT ở các DN rất rộng nên luận án chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu những nội dung cơ bản để hoàn thiện mục tiêu và phạm vi KTQT; hoàn thiện tổ chức KTQTCP và kết quả kinh doanh; hoàn thiện tổ chức phân tích chi phí và kết quả kinh doanh trong phạm vi nghiên cứu các DN du lịch thuộc sở hữu Nhà nước.

Hoàng Văn Tưởng (2010), để hoàn thiện tổ chức KTQT với việc tăng cường quản trị hoạt động kinh doanh trong các DN xây lắp Việt Nam, tác giả đã đưa ra 05 yêu cầu: Cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin kinh tế tài chính cho NQT; Hoàn thiện cơ chế quản trị của DN xây lắp; Phù hợp với chính sách quản trị tài chính đã ban hành để đảm bảo tính hiệu lực; Đảm bảo tính khả thi và có hiệu quả; Hướng tới sự hội nhập và phát triển kinh tế của Việt Nam. Đồng thời, tác giả đưa ra 6 giải pháp cụ thể như: Hoàn thiện việc xây dựng hệ thống định mức chi phí và hệ thống dự toán ngân sách; Hoàn thiện việc tổ chức KTQT các yếu tố sản xuất; Hoàn thiện tổ chức KTQT chi phí; Hoàn thiện việc tổ chức kế toán trách nhiệm; Hoàn thiện tổ chức hệ thống báo cáo KTQT; Hoàn thiện về mô hình tổ chức bộ máy KTQT.

Nguyễn Thị Ngọc Lan (2012), trên cơ sở phân tích các đặc điểm và thực trạng tổ chức KTQT chi phí vận tải hàng hóa trong các công ty vận tải đường bộ Việt Nam, tác giả đã nêu lên các nguyên tắc và yêu cầu để hoàn thiện tổ chức KTQT chi phí vận tải hàng hóa trong các công ty vận tải đường bộ Việt Nam. Đồng thời, đưa ra hai điều kiện cụ thể để thực hiện và ba giải pháp như: Hoàn thiện tổ chức bộ máy KTQT chi phí; Hoàn thiện tổ chức thu nhận thông tin ban đầu về KTQT chi phí; Hoàn thiện tổ chức, phân tích, xử lý và cung cấp thông tin về KTQT chi phí.

4.2. Các nghiên cứu về mô hình KTQTCP

Mô hình KTQTCP thể hiện khái quát hai yếu tố cấu thành gồm sự phối hợp của bộ máy nhân sự thực hiện KTQTCP và nội dung, quy trình cùng các phương pháp, kỹ thuật KTQTCP vận dụng nhằm thực hiện  mục tiêu cung cấp TTCP cho các cấp quản trị nội bộ đơn vị.

Với các phương pháp xác định chi phí định mức, tác giả John Blake, Pilar Soldevila & Philip Wraith (2003) cho rằng, có 3 phương pháp xác định chi phí định mức: Phương pháp kỹ thuật đòi hỏi sự kết hợp của các chuyên gia kỹ thuật nghiên cứu thời gian thao tác công việc, để định lượng nguyên liệu và lao động hao phí cần thiết sản xuất sản phẩm với điều kiện hiện có của DN (công nghệ, năng lực quản lý, nguồn nhân lực); Phương pháp phân tích số liệu lịch sử xem xét chi phí và giá thành của kỳ trước cùng với những thay đổi của kỳ này, để xây dựng định mức chi phí cho kỳ tương lai; Phương pháp điều chỉnh dùng để điều chỉnh chi phí định mức cho phù hợp với điều kiện hoạt động trong tương lai của DN. Trong bài báo này, tác giả sử dụng các dữ liệu 23 quốc gia để xác định 5 khía cạnh khác nhau của KTQT ở các quốc gia: (1) ảnh hưởng của các quy định về các khuyến nghị chính phủ; (2) Dữ liệu của KTQT; (3) ảnh hưởng từ nước này sang nước khác; (4) Các thay đổi trong việc sử dụng các kỹ thuật cụ thể; (5) Và các thay đổi trong mục tiêu của hệ thống KTQT. Sau đó, xác định 9 yếu tố tạo nên sự khác biệt trong môi trường KTQT bao gồm: Thuế, kiểm soát giá cả, bảo vệ và cạnh tranh, các nhà nghiên cứu, quyền sở hữu công ty, các chương trình thưởng, lạm phát, mức độ thao túng và ý thức hệ.

Các mô hình phân bổ chi phí sản xuất chung được Kip R Krumwiede (2009 thể hiện: (1) Mô hình phân bổ chi phí chung theo bộ phận: Kế toán sử dụng nhiều tiêu chuẩn phân bổ khác nhau phù hợp với bản chất của các công việc được thực hiện ở từng bộ phận chịu chi phí. Mô hình này cho phép xác định giá phí của từng loại dịch vụ, sản phẩm một cách chính xác hơn nhưng lại gặp khó khăn khi các sản phẩm đa dạng về tính chất, kích cỡ, quy trình sản xuất. (2) Mô hình sử dụng một tiêu chuẩn phân bổ duy nhất, có thể là chi phí nhân công được lấy làm tiêu chuẩn phân bổ chi phí chung cho từng loại sản phẩm.

Phạm Thị Thủy (2007), nghiên cứu chế độ kế toán chi phí trong các DN sản xuất Việt Nam qua các thời kỳ và đánh giá thực trạng kế toán chi phí trong các DN sản xuất dược phẩm Việt Nam. Mô hình KTQTCP bao gồm những nội dung của KTQTCP và cách thức tổ chức thực hiện những nội dung đó. Nội dung cơ bản của KTQTCP bao gồm việc phân loại chi phí, lập dự toán chi phí, xác định giá phí của các sản phẩm sản xuất, phân tích chi phí để ra quyết định kinh doanh và đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận. Mô hình được xây dựng đó là việc tăng cường kiểm soát chi phí thông qua hoạt động phân loại chi phí, lập dự toán chi phí, phân tích biến động chi phí, xác định qui mô hợp lý cho từng lô sản xuất. Bên cạnh đó, cần đánh giá kết quả hoạt động chi tiết theo từng sản phẩm, từng phân xưởng sản xuất và từng đại lý, chi nhánh tiêu thụ. Tác giả đã đưa ra các điều kiện để có thể thực hiện được mô hình KTQTCP này trong các DN sản xuất dược phẩm Việt Nam. Đó là, cần có sự kết hợp của cả Nhà nước, DN, Bộ Tài chính và các Hội nghề nghiệp. Nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu nội dung KTQTCP, chưa đề cập đến tổ chức hệ thống thông tin KTQTCP.

Trần Thế Nữ (2013), với mục tiêu xây dựng được mô hình cung cấp thông tin KTQTCP phù hợp với đặc điểm và quy mô sản xuất kinh doanh của các DN nhỏ và vừa. Trên cơ sở khảo sát thực trạng, tác giả đã nghiên cứu sâu về nội dung KTQTCP trong các DN nhỏ và vừa. Một nghiên cứu về xây dựng mô hình KTQTCP ở phạm vi hẹp hơn với đề tài Xây dựng mô hình KTQT trong các công ty cổ phần chuyển phát nhanh thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam” của Ngụy Thu Hiền (2013). Tác giả đã trình bày khái quát về KTQT, đánh giá thực trạng công tác KTQTCP trong công ty cổ phần chuyển phát nhanh. Từ đó, đề ra phương hướng xây dựng và vận dụng mô hình KTQTCP trong các công ty cổ phần chuyển phát nhanh thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.

Trần Thị Dự (2012), đã chỉ ra vai trò quan trọng của thông tin kế toán chi phí đối với việc tăng cường quản trị chi phí trong doanh nghiệp sản xuất, cụ thể là việc cung cấp thông tin chi phí giúp các nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị doanh nghiệp, cung cấp thông tin cần thiết và hữu ích cho hoạt động ra quyết định, đảm bảo chi phí được sử dụng hiệu quả và đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Tác giả đã bổ sung tiêu thức phân bổ chi phí chung trong phương pháp ABC, bao gồm 3 tiêu thức phân bổ là phân bổ chi phí theo tần suất hoạt động, theo thời gian và theo mức độ công việc. Trong phương pháp ABC, để đánh giá được tình hình sử dụng các nguồn lực, tác giả đề xuất nên xác định chi phí của một đơn vị nguồn lực trên cơ sở khả năng thực tế của nguồn lực. Nếu số lần (thời gian) phát sinh nhỏ hơn khả năng thực tế của các nguồn lực, thì chênh lệch chi phí đó chính là chi phí của các nguồn lực chưa sử dụng hết, không tính vào sản phẩm hoặc khách hàng và được gọi là chi phí duy trì sản phẩm.

Chi phí của 1 đơn vị nguồn lực (1 lần hoặc 1 đơn vị thời gian) = Chi phí của nguồn lực/Khả năng thực tế của nguồn lực hoặc thời gian

Chi phí thực tế sử dụng = Chi phí đơn vị x số lần (thời gian) phát sinh.       

Nghiên cứu đã chỉ ra những điểm cần áp dụng cho DN chế biến thức ăn chăn nuôi như: (1) Phân loại chi phí theo mức độ hoạt động và theo đối tượng tập hợp chi phí làm cơ sở quản lý chi phí và xây dựng hệ thống định mức và dự toán chi phí trong các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi; (2) Xây dựng hệ thống định mức chi phí và dự toán chi phí khoa học và đồng bộ phù hợp với đặc điểm công nghệ sản xuất sản phẩm thức ăn chăn nuôi là quy trình sản xuất liên tục và khép kín và sản xuất theo mẻ sản phẩm, sản phẩm phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký. Xây dựng dự toán linh hoạt cho các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi; (3) Xây dựng hệ thống chứng từ kế toán, tài khoản kế toán làm cơ sở thu thập thông tin chi phí theo các đối tượng chịu phí là mẻ sản phẩm, sản phẩm, khách hàng và chi nhánh, phục vụ quản trị chi phí trong các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi; (4) áp dụng phương pháp ABC để tính giá phí của từng mẻ sản phẩm trên cơ sở phân chia toàn bộ hoạt động phát sinh chi phí sản xuất chung, trong phạm vi phân xưởng sản xuất thành các nhóm chi phí hoạt động: Hoạt động kiểm nghiệm sản phẩm, hoạt động chạy máy, hoạt động vận chuyển sản phẩm, hoạt động duy trì chung tại phân xưởng. Xác định giá phí cho từng loại sản phẩm, từng khách hàng và từng chi nhánh; (5) Xây dựng hệ thống báo cáo phục vụ quản trị chi phí trong các DN, bao gồm hệ thống báo cáo chi phí và hệ thống báo cáo kết quả hoạt động; (6) Các DN có quy mô lớn nên áp dụng mô hình kế toán quản trị tách biệt với kế toán tài chính, các DN có quy mô nhỏ và vừa nên áp dụng mô hình hỗn hợp.

Trần Thị Thu Hường (2014) nghiên cứu tập trung phân tích các yếu tố trọng tâm của mô hình là các phương pháp KTQTCP như: Các phương pháp phân loại chi phí đặc thù của KTQT ; Xây dựng định mức và dự toán chi phí; Phương pháp xác định chi phí trong DN sản xuất; Phương pháp phân tích thông tin ngắn hạn,… là những công cụ để thực hiện nhiệm vụ phân tích thông tin về chi phí sản xuất, đánh giá kết quả hoạt động nhằm cung cấp thông tin cho công tác quản lý. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình với các yếu tố cấu thành như: Mô hình bộ máy KTQTCP kết hợp với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại như hệ thống ERP và các kỹ thuật, phương pháp đặc trưng của KTQTCP ứng dụng trong công tác ghi nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin hữu ích cho các NQT nhằm kiểm soát và QTCP phù hợp. Mô hình được xây dựng, trên cơ sở phát huy những mặt đạt được và giải quyết những tồn tại để hoàn chỉnh và đem lại hiệu quả cao cho công cụ cung cấp thông tin, giúp các NQT kiểm soát tình hình hoạt động của các DN, đưa ra các quyết định hợp lý để đạt được mục tiêu kinh doanh của từng DN. Việc xây dựng mô hình KTQTCP, nhằm cung cấp các thông tin hữu ích cho NQT như: Làm cơ sở định giá bán, xây dựng kế hoạch lợi nhuận, kiểm soát chi phí cũng như hoạch định chi phí cho các DN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Với ba mô hình chi phí truyền thống là: Theo chi phí thực tế, kết hợp chi phí thực tế và ước tính, chi phí định mức cũng như các mô hình hiên đại ABC, làm cơ sở nghiên cứu áp dụng cho các DN.

Đào Thúy Hà (2023) đã đề nghị: Các DN sản xuất thép Việt Nam, phải lựa chọn phương pháp xác định chi phí phù hợp với đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh trong đó: (1) Phương pháp chi phí tiêu chuẩn nên áp dụng trong các DN có mô hình tổ chức bộ phận đơn giản hoặc chức năng tham gia một hoặc hai giai đoạn trong chuỗi chế biến; (2) Phương pháp chi phí Kaizen của Yasuhiro Moden và Kazuki Hamada (1991) nên áp dụng trong các DN có mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược tham gia hai giai đoạn trong chuỗi chế biến; (3) Phương pháp xác định chi phí theo hoạt động nên thí điểm áp dụng cho giai đoạn luyện thép trong các DN có mô hình tổ chức bộ phận theo đơn vị chiến lược hoặc chức năng tham gia ba hoặc bốn giai đoạn trong chuỗi chế biến. Các giai đoạn khác sẽ áp dụng phương pháp chi phí Kaizen.

Đỗ Thị Hồng Hạnh (2023) nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí, doanh thu, kết quả kinh doanh cho các Công ty sản xuất thép, thuộc Tổng công ty Thép Việt Nam, đó là: (1) Trên phương diện KTTC xác định rõ nội dung và phạm vi chi phí, doanh thu; Xác định thời điểm ghi nhân doanh thu; Phương pháp kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh. (2) Trên phương diện KTQT, mô hình tổ chức bộ máy theo mô hình kết hợp giữa KTTC và KTQT; Xây dựng định mức giá và lập dự toán; Phân tích biến động chi phí để kiểm soát chi phí và phục vụ ra quyết định.

Theo Lê Thế Anh (2023) cho rằng, mô hình KTQTCP là việc tổ chức bộ máy kế toán và thiết lập quy trình thực hiện những nội dung cơ bản của KTQTCP, nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho NQT. Nội dung cơ bản của KTQTCP trong DN xây dựng giao thông bao gồm: (1) Phân loại chi phí, (2) Lập dự toán chi phí, (3) Phản ánh chi phí thực hiện và xác định giá thành sản phẩm, (4) Phân tích chi phí, (5) Đánh giá hiệu quả QTCP, (6) Báo cáo KTQTCP, (7) Kế toán trách nhiệm. Trong 7 nội dung trên, nội dung phân loại chi phí là cơ sở quan trọng, để thực hiện các nội dung còn lại.

5. Kết luận

KTQTCP được nghiên cứu ở rất nhiều quốc gia cũng như ở Việt Nam, nhằm tìm ra cách thức tổ chức và xây dựng mô hình phù hợp cho các ngành nghề riêng với các đặc điểm sản xuất kinh doanh vốn có của nó. Các nghiên cứu đều cho rằng, KTQTCP đều vô cùng quan trọng công tác QTCP trong tổ chức chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài. Các nghiên cứu đã hệ thống hoá những nội dung lý luận chung về tổ chức và xây dựng mô hình KTQTCP, từ đó định hướng những nội dung cần hoàn thiện cho từng ngành kinh doanh đặc thù được nghiên cứu. Nội dung KTQT được hoàn thiện trong các công trình nghiên cứu như tổ chức bộ phận KTQT trong bộ máy kế toán; Vận dụng phương pháp phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí để nhận diện chi phí; Xây dựng hệ thống dự toán; Phương pháp xác định chi phí; Phương pháp phân bổ chi phí; Phương pháp phân tích thông tin phục vụ quá trình ra quyết định,… Các tác giả đều đã khai thác công dụng của KTQTCP, trong cung cấp thông tin cho quản trị của nhiều ngành sản xuất kinh doanh khác nhau. Với đặc thù khác biệt của DN chế biến thủy sản đó là, nguyên liệu mang tính mùa vụ cao, mau ươn chóng thối. Cùng loại nguyên liệu cho ra nhiều loại sản phẩm khác nhau, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm sản xuất thường phải cấp đông, sản xuất theo yêu cầu khách hàng nước ngoài với nhiều vùng miền khác nhau,… Chính những đặc điểm này mà việc tổ chức sản xuất sản phẩm và theo dõi chi phí, nhằm cung cấp thông tin cho NQT ra quyết định là vấn đề cần được quan tâm. Thông qua tổ chức hệ thống TTCP tốt, giúp DN có thể kiểm soát và hoạch định chi phí một cách hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng tính cạnh tranh cho DN. Để thực hiện điều này, các DN chế biến thủy sản cần thiết xây dựng hệ thống tổ chức KTQT hữu hiệu. Tuy nhiên, hiện nay các DN chế biến thủy sản, công tác kế toán quản trị chưa được quan tâm, thực hiện một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống để có thể tổ chức tốt công tác quản lý DN. Bên cạnh đó, các công trình trong nước chưa có nghiên cứu nào về xây dựng mô hình KTQTCP cho các DN chế biến thủy sản ở Việt Nam. Chính vì vậy, lựa chọn nghiên cứu xây dựng mô hình KTQTCP cho các DN chế biến thủy sản, để lấp khoảng trống nghiên cứu trong KTQTCP cho các ngành đặc thù là hướng cần được quan tâm hiện nay./.

 Tài liệu tham khảo

1. Lê Thế Anh (2023), Xây dựng mô hình KTQT chi phí trong các DN xây dựng giao thông Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Kinh tế (LATSKT) Viện nghiên cứu quản lí kinh tế trung ương

2. Trần Văn Dung (2002), Tổ  chức  kế  toán  quản  trị  chi  phí  và  giá  thành trong DN sản xuất ở Việt Nam, LATSKT, Học viện Tài chính.

3. Trần Thị Dự (2012), Hoàn thiện kế toán chi phí với việc tăng cường QTCP trong các DN chế biến thức ăn chăn nuôi, LATSKT, ĐH KTQD Hà Nội

4. Đào Thúy Hà (2023) “Hoàn thiện KTQTCP trong các DN  sản xuất Thép ở Việt Nam, LATSKT, ĐH KTQD Hà Nội

5. Đỗ Thị Hồng Hạnh (2023): Hoàn thiện kế toán chi phí, doanh thu, kết quả kinh doanh trong các DN sản xuất Thép, thuộc Tổng công ty Thép Việt Nam, Luận án T.iến sỹ Kinh doanh và Quản lý  Đại học Kinh tế Quốc dân

6. Hồ Mỹ Hạnh (2013), Tổ chức hệ thống thông tin KTQTCP trong các DN May Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh doanh và Quản lý Đại học Kinh tế Quốc dân

7. Nguyễn Hoản (2012), Tổ chức KTQTCP trong các DN sản xuất Bánh kẹo Việt Nam. LATSKT Đại học Kinh tế Quốc dân

8. Trần Văn Hợi (2007), Tổ chức công tác KTQT chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các DN khai thác than, LATSKT, Học viện Tài chính, Hà Nội.

9. Lê Thị Minh Huệ (2023), Hoàn thiện KTQT chi phí trong các DN mía đường trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, LATSKT, Học Viện Tài chính, Hà Nội

10. Ngụy Thu Huyền (2013), Xây dựng mô hình KTQT trong các công ty cổ phần chuyển phát nhanh thuộc Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, LATSKT, Học viện Tài chính, Hà Nội.

11. Trần Thị Thu Hường (2014) “Xây dựng mô hình KTQTCP trong các DN  sản xuất Xi măng Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh doanh và Quản lý  Đại học Kinh tế Quốc dân

12. Nguyễn Phú Giang (2014), Xây dựng mô hình KTQTCP trong các DN sản xuất Thép trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước.

13. Jonas Gerdin – Accounting, Organizations and Society 30 -2 (2005), Management accounting system design in manufacturingdepartments: an empirical investigation usinga multiple contingencies approach

14. John Blake, Pilar Soldevila & Philip Wraith (2008), The dimensions of, and factors giving rise to, variations in national management accounting approaches, European Business Review, Vol.15, Is.3.

15. Kip R Krumwiede (2009), Reward and realities of German Cost Accounting, Strategic Finance, Apr. Vol. 86.

16. Michốle Pomberg , Hamid Pourjalali , Shirley Daniel & Marinilka Barros Kimbro (2012), Management accounting information systems: a case of a developing country: Vietnam

17. Naughton-Travers, Joseph P. (2009), Activity-Based Costing: The new management tool,  Behavioral health Management

18. Lưu Thị Hằng Nga (2000), Hoàn thiện tổ chức KTQT trong các DN dầu khí Việt Nam, LATSKT, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

19. Nguyễn Thị Hằng Nga (2004), Hoàn thiện tổ chức KTQT trong các DN dầu khí Việt Nam, LATSKT, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội

20. Trần Thế Nữ (2013), Xây dựng mô hình KTQT chi phí trong các DN thương mại quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam, LATSKT, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2013), ‘Tổ chức KTQT chi phí vận tải hàng hoá trong các công ty vận tải đường bộ Việt Nam, LATSKT, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

22. Quốc hội Luật 88/QH13 (2023), Luật Kế toán

23. Lê Đức Toàn (2002), “KTQT và phân tích chi phí sản xuất trong ngành sản xuất công nghiệp ở Việt Nam LATSKT , Học  viện  Tài chính.

24. Phạm Thị Thủy (2007), Xây dựng mô hình KTQTCP trong các DN sản xuất Dược phẩm Việt Nam. LATSKT Đại học Kinh tế Quốc dân

25. Hoàng Văn Tưởng (2010), “Tổ chức KTQT với việc tăng cường quản trị hoạt động kinh doanh trong các DN xây lắp Việt Nam. LATSKT, Đại học Kinh tế quốc dân

26. Phan Thị Kim Vân (2002), “Tổ chức KTQT chi phí và kết quả kinh doanh ở các DN kinh doanh Du lịch.

Theo Tạp chí Kế toán và Kiểm toán của Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) TS Phan Thị Dung – Trường Đại học Nha Trang

Khái Niệm Về Kế Toán Quản Trị Chi Phí Sản Xuất Trong Doanh Nghiệp

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán góp phần rất quan trọng vào công tác quản lý các hoạt động kinh tế, tài chính. Việc thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin về tình hình thu nhập, chi phí, so sánh thu nhập với chi để xác định kết quả là một trong những yêu cầu của kế toán tài chính.

Tuy nhiên doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm, kinh doanh nhiều loại hàng hóa, dịch vụ nhằm tổng hợp lại trong một cơ cấu hệ thống kế toán phục vụ cho yêu cầu của quản trị doanh nghiệp thì kế toán tài chính không đáp ứng được yêu cầu này. Do đó, các doanh nghiệp tổ chức hệ thống kế toán quản trị để trước hết nhằm xây dựng các dự toán chi phí, dự toán thu nhập và kết quả của từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Sau đó tiến hành theo dõi, kiểm tra suốt quá trình chi phí sản xuất, mua bán hàng hóa dịch vụ, tính toán giá thành sản phẩm, giá vốn hàng mua, hàng bán, doanh thu và kết quả cụ thể của doanh nghiệp.

Theo Ronald W.Hilton, giáo sư đại học Cornell (Mỹ ): ” Kế toán quản trị là một bộ phận của hệ thống thông tin quản trị trong một tổ chức mà nhà quản trị dựa vào đó để hoạch định và kiểm soát hoạt động của tổ chức ”

Theo các giáo sư đại học South Florida là Jack L.Smith, Robert M. Keith và William L.Stephens: Theo Luật kế toán Việt Nam (năm 2003) và Thông tư 53/2006/TT-BTC ngày 12/6/2006 của Bộ Tài chính hướng áp dụng kế toán quản trị doanh nghiệp: ” Kế toán quản trịlà một hệ thống kế toán cung cấp cho các nhà quản trị những thông tin định lượng mà họ cần để hoạch định và kiểm soát” “Kế toán quản trịlà việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán “

Kế Toán Tài Chính Doanh Nghiệp Và Kế Toán Quản Trị Doanh Nghiệp

Kế toán tài chính là việc ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu, lập báo cáo tài chính phục vụ cho các nhu cầu thông tin cho các đối tượng bên ngoài đơn vị, doanh nghiệp là chính. Kế toán tài chính phản ánh thực trạng và các biến động về vốn và tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài.

2. Đặc điểm của kế toán tài chính doanh nghiệp

– Kế toán tài chính doanh nghiệp cung cấp thông tin chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, do đó để đảm bảo tính khách quan, thống nhất kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ hiện hành về kế toán của từng quốc gia.

– Kế toán tài chính mang tính pháp lệnh, nghĩa là được tổ chức ở tất cả các đơn vị kế toán và hệ thống sổ ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin của kế toán tài chính đều phải tuân thủ các quy định thống nhất nếu muốn được thừa nhận.

– Thông tin kế toán tài chính cung cấp là những thông tin thực hiện về những hoạt động đã phát sinh, đã xảy ra mang tính tổng hợp thể hiện dưới hình thái giá trị.

– Báo cáo của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính tổng quát về sản nghiệp, kết quả hoạt động cùa doanh nghiệp trong một thời ký báo cáo của kế toán tài chính được thực hiện theo định kỳ thường là hàng năm.

Theo bộ luật Kế toán Việt Nam (năm 2003 ) và thông tư 53/2006/TT-BTC ngày 12/6/2006 của Bộ Tài chính hướng áp dụng kế toán quản trị doanh nghiệp: “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán “.

Từ khái niệm được nêu trên, cho thấy những điểm chung nhất về kế toán quản trị là:

– Một hệ thống kế toán cung cấp các thông tin định lượng.

– Những người sử dụng thông tin là những đối tượng trong tổ chức/đơn vị.

– Mục đích sử dụng thông tin là để hoạch định và kiểm soát các hoạt động của tổ chức/đơn vị.

4. Đặc điểm cơ bản của kế toán quản trị doanh nghiệp:Kế toán quản trị có nội dung rất rộng, sau đây là một số nội dung cơ bản.

​- Kế toán quản trị các yếu tố sản xuất kinh doanh (mua sắm, sử dụng các đối tượng lao động – hàng tồn kho, tư liệu lao động – tài sản cố định, tuyển dụng và sử dụng lao động – lao động và tiền lương,…)

– Kế toán quản trị về chi phí và giá thành sản phẩm (nhận diện sản phẩm, phân loại chi phí, giá thành sản phẩm, lập dự toán chi phí, tập hợp, tính toán, phân bổ chi phí, giá thành, lập báo cáo phân tích chi phí theo bộ phận, theo các tình huống quyết định..)

– Kế toán quản trị về doanh thu và kết quả kinh doanh (phân loại doanh thu, xác định giá bán, lập dự toán doanh thu, tính toán, hạch toán chi tiết doanh thu, phân bổ chi phí chung, xác định kết quả chi tiết, lập báo cáo phân tích kết quả chi tiết theo bộ phận, theo các tình huống ra quyết định..)

– Kế toán quản trị các khoản nợ.

– Kế toán quản trị các hoạt động đầu tư tài chính

– Kế toán quản trị các hoạt động khác của doanh nghiệp

– Chính thức hóa các mục tiêu của đơn vị thành các chỉ tiêu kinh tế.

– Lập dự toán chung và các dự toán chi tiết.

– Thu thập, cung cấp thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu.

– Soạn thảo báo cáo kế toán quản trị

Thông tin của kế toán quản trị doanh nghiệp không chỉ là thông tin quá khứ (thông tin thực hiện) mà còn bao gồm các thông tin về tương lai (kế hoạch, dự toán, dự tính…) Mặt khác, thông tin kế toán quản trị không chỉ là các thông tin về giá trị còn bao gồm các thông tin khác (hiện vật, thời gian lao động…).

5. So sánh giữa kế toán quản trị doanh nghiệp và kế toán tài chính doanh nghiệp

Để hiểu rõ mối quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính ta cần phân tích sự giống nhau và khác nhau của 2 vấn đề này.

5.1. Sự giống nhau giữa kế toán quản trị doanh nghiệp và kế toán tài chính doanh nghiệp

Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.

Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết.

Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.

5.2. Sự khác nhau giữa kế toán quản trị doanh nghiệp và kế toán tài chính doanh nghiệp

​- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

– Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.

– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc).

– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)

– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.

– Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.

– Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.

– Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm.

– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.

Kế Toán Chi Phí Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp

Kế toán chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp. Kế toán là một nghề nhưng cũng là một môn khoa học. Học kế toán thuế giỏi thì các bạn phải biết và hiểu rõ về kiến thức thuế, pháp luật thuế…Áp dụng kiến thức thuế vào công tác báo cáo thuế hàng quý, tháng, năm…Trung tâm gia sư kế toán trường chia sẻ các bạn kiến thức về kế toán chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp. Trước khi đọc bài viết này, các bạn nên biết trong nghề kế toán cho bạn điều hữu ích gì trong cuộc sống? Nghề kế toán cho bạn:

· Cơ hội việc làm rất lớn

· Công việc ổn định

· Môi trường làm việc năng động và chuyên nghiệp

· Thu nhập của nhân viên kế toán ngày càng cao

· Là người tạo niềm tin cho mọi người

. Tập cho bạn tính cẩn thận, tỉ mỉ, đạo đức hành nghề tốt.

Một doanh nhân thành đạt đã nói rằng: “Tôi chỉ có thể ngủ ngon khi có một kế toán trưởng giỏi”.

+ Vì tờ khai là do tổ chức, cá nhân nộp thuế tự lập trên cơ sở kết quả sản xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về thuế mà không cần có sự xác nhận của cơ quan thuế.

+ Tổ chức, cá nhân nộp thuế chịu trách nhiệm về kết quả của việc tính thuế, kê khai thuế của mình trước pháp luật. + Cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế của tổ chức, cá nhân kinh doanh,

– Cơ sở sản xuất, kinh doanh tự xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp hàng quý theo mẫu quy định của Bộ tài chính và tự nộp thuế vào ngân sách nhà nước chậm nhất không quá ngày 25 của tháng đầu quý tiếp theo.

– Thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp hàng quý được xác định trên cơ sở doanh thu của quý kê khai, tỷ lệ thu nhập chịu thuế trên doanh thu của năm trước và thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.

– Trường hợp trong năm có sự thay đổi lớn về sản xuất, kinh doanh làm tỷ lệ thu nhập chịu thuế trên doanh thu thay đổi so với năm trước, cơ sở sản xuất, kinh doanh được điều chỉnh tỷ lệ thu nhập chịu thuế tạm nộp và nộp thuế theo tỷ lệ đã điều chỉnh, nhưng phải có văn bản giải trình nêu rõ nguyên nhân, lý do gửi cơ quan thuế.

– Khi cơ quan thuế kiểm tra phát hiện việc điều chỉnh tỷ lệ thu nhập chịu thuế tạm nộp không có căn cứ thì có quyền ấn định số thuế tạm nộp từng quý. + Thời hạn tự quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định là kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính, cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp theo mẫu tờ khai do Bộ tài chính ban hành chậm nhất không quá 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính; đồng thời, tự nộp đầy đủ số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước, nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ nộp thuế tiếp theo. + Cơ sở sản xuất, kinh doanh tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, tính chính xác của việc kê khai, tính thuế.

– Trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản, cơ sở sản xuất, kinh doanh phải thực hiện quyết toán thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp với cơ quan thuế theo quy định của pháp luật hiện hành. + Như vậy, về nguyên tắc, cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đòi hỏi tổ chức, cá nhân nộp thuế phải nâng cao trách nhiệm vì tờ khai là do tổ chức, cá nhân nộp thuế tự lập trên cơ sở kết quả sản xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về thuế mà không cần có sự xác nhận của cơ quan thuế. 3. Tài khoản sử dụng + Tài khoản “Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp” dùng để phản ánh chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp bao gồm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành và chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại làm căn cứ xác định kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong năm tài chính hiện hành.

Trường hợp thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành của các năm trước phải nộp bổ sung do phát hiện sai sót không trọng yếu của các năm trước được ghi tăng chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành của năm hiện tại, kế toán ghi: – Nợ 8211 Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành – Có 3334 Thuế thu nhập doanh nghiệp g. Trường hợp số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp được ghi giảm do phát hiện sai sót không trọng yếu của các năm trước được ghi giảm chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành trong năm hiện tại, kế toán ghi: – Nợ 3334 Thuế thu nhập doanh nghiệp – Có 8211 Chi phí thuế thu nhập hiện hành h.Cuối năm tài chính, kế toán kết chuyển chi phí thuế thu nhập hiện hành, nếu tài khoản 8211 có số phát sinh Nợ lớn hơn số phát sinh Có, thì số chênh lệch ghi: – Nợ 911 Xác định kết quả kinh doanh – Có 8211 Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành i. Nếu tài khoản 8211 có số phát sinh Nợ nhỏ hơn số phát sinh Có, thì số chênh lệch kế toán ghi: – Nợ 8211 Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành – Có 911 Xác định kết quả kinh doanh

Mô Hình Xác Định Chi Phí Logistics Doanh Nghiệp

Bài viết này tập trung thống kê một số mô hình xác định chi phí logistics thường được áp dụng cho doanh nghiệp (DN), từ đó làm tài liệu tham khảo cho việc lựa chọn mô hình phù hợp và hiệu quả nhất có thể áp dụng cho mỗi DN.

Xét ở tầm vi mô, thuật ngữ chi phí logistics đề cập việc sử dụng các nguồn lực khác nhau bao gồm nhân lực, hàng hóa, tiền bạc, thông tin để thực hiện dịch vụ đưa sản phẩm tới khách hàng và dịch vụ chăm sóc khách hàng. Chi phí logistics là số tiền cho hệ thống phân phối, dịch vụ hậu mãi, nguồn cung ứng hàng hóa và việc điều hành sản xuất.

1. Mô hình xác định chi phí logistics của Lambert

Mô hình xác định chi phí logistics cho DN sử dụng dịch vụ logistics như sau:

Mô hình này không thể hiện chi phí quản trị logistics.

Thực chất, loại chi phí này phân bổ trong các khoản chi phí khác như chi phí lên kế hoạch, chi phí xử lý đơn hàng, dự đoán nhu cầu, thu mua…

2. Mô hình xác định chi phí logistics của Jan Havenga

Xét ở góc độ vi mô, chi phí logistics gồm các thành phần sau:

TLC = TC + SC + MAP + ICC

TLC: tổng chi phí logistics (total logistics cost)

TC: chi phí vận tải (transport cost)

SC: chi phí kho bãi và làm hàng

(storage and port handling cost)

MAP: chi phí quản lý và chi phí lãi vay (management, admin and profit cost)

ICC: chi phí giữ hàng (inventory carrying cost)

Còn một thành phần nữa là chi phí kho rỗng (stock-out cost), tức là chi phí mà DN phải chịu khi khách hàng đặt hàng mà không có hàng trong kho hoặc không đủ hàng để giao cho khách hàng. Việc xác định chi phí này rất khó nên trong các mô hình thường coi bằng không, tức là DN luôn đảm bảo đủ hàng.

3. Mô hình ABC

Mặc dù mô hình ABC chủ yếu được dùng cho sản xuất nhưng cũng có thể áp dụng trong lĩnh vực logistics. Để chứng minh điều này, một mô hình ước tính chi phí cho hoạt động mua hàng được đưa ra bằng cách xác định những hoạt động giống nhau và các nhân tố chi phí. Một ví dụ khác là khi chi phí logistics được phân loại bởi tổng chi phí hoạt động được phân tích ở các DN sản xuất qua sử dụng mô hình ABC. Tuy nhiên, kết luận cuối cùng là các chi tiết về chi phí logistics được thu thập bằng cách này cho phép quản lý logistics hiệu quả hơn trong các DN sản xuất.

Nhu cầu thông tin chính xác về chi phí logistics cao hơn trong những tình huống ra quyết định so với hệ thống sản xuất truyền thống. Điều này cũng đúng cho việc xác định chi phí phân phối. Theo cách truyền thống, chi phí phân phối được phân bổ dựa trên những nhân tố có giá trị đơn giản. Mặc dù hầu hết những ứng dụng của phương pháp ABC đều tập trung vào sản xuất, nhưng nó vẫn có thể được áp dụng vào quản trị phân phối logistics; và có thể tính được chi phí logistics chính xác hơn. Ứng dụng của mô hình ABC cũng có thể được áp dụng vào quản lý kho bãi. Ứng dụng này tăng khả năng phát hiện chi phí logistics và góp phần làm tăng độ chính xác bằng cách đo lường hiệu quả và sử dụng chúng để phân bổ chi phí. Tuy nhiên, một tình huống với một bộ số liệu đơn giản và chi tiết đã chỉ ra rằng giao dịch đơn lẻ dựa trên nhân tố chi phí có thể không đủ: bộ số liệu tự động có thể là một giải pháp cho vấn đề này.

Mô hình ABC có thể được mở rộng cho chuỗi cung ứng.

Phương pháp ABC được tích hợp vào trong quản trị chuỗi cung ứng xác định các nhân tố kích ứng chi phí ảnh hưởng tới hoạt động logistics chính và giúp cải thiện việc phân bổ chi phí logistics. Quản trị chuỗi cung ứng yêu cầu nhiều thông tin chi phí chính xác hơn, và phương pháp ABC có thể đóng góp đáng kể vào quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả hơn bằng cách đưa ra những số liệu đáng tin cậy và chi tiết về chi phí và lợi nhuận.

Khi xác định chi phí trong chuỗi cung ứng, những phương pháp nội bộ thì không phù hợp; do vậy, một phương thức mới, phương thức ABC gồm 2 bước có thể được sử dụng bao gồm giai đoạn thiết kế và vận hành; hơn nữa, thông tin ước tính chi phí sẽ được tiêu chuẩn hóa toàn bộ chuỗi. Phương pháp ABC có thể là một công cụ đánh giá việc lên kế hoạch sản phẩm chiến lược trong chuỗi cung ứng bằng cách thêm những đánh giá tài chính vào các thông số vật chất (physical parameters) và sử dụng các hoạt động logistics. Tại đây liên kết giữa dòng tài chính và vật chất được xác định một cách chính xác.

Một số thử nghiệm đã được thực hiện nhằm mô tả sự vận hành của các công ty logistics và xây dựng những mô hình ABC cho riêng từng trường hợp. Có thể kết luận rằng phương pháp xác định chi phí truyền thống không phù hợp cho những thành phần tham gia trong hoạt động kinh doanh này, không có mô hình tổng quát nào có thể được dùng vì mỗi DN có những đặc trưng riêng. Mô hình ABC được xây dựng cho riêng từng trường hợp trên cơ sở các giả thiết nghiên cứu, nhưng được chú ý hơn cả là mô hình trade-off.

Cập nhật thông tin chi tiết về Xây Dựng Mô Hình Kế Toán Quản Trị Chi Phí Trong Doanh Nghiệp Khởi Nghiệp trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!