Bạn đang xem bài viết Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là gì?
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là các hành vi trái phép xâm phạm quyền và lợi ích của chủ thể sở hữu đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp?
Hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí (Điều 126 Luật Sở hữu trí tuệ)
Sử dụng sáng chế được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó, thiết kế bố trí được bảo hộ hoặc bất kỳ phần nào có tính nguyên gốc của thiết kế bố trí đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu;
Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mà không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời quy định tại Điều 131 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh (Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ)
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó; Người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh bao gồm chủ sở hữu bí mật kinh doanh, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng bí mật kinh doanh, người quản lý bí mật kinh doanh.
Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh;
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm quyền;
Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật quy định tại Điều 128 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý (Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ)
Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại.
Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ:
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, nhưng sản phẩm đó không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý;
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý;
Sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó làm cho người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó;
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hóa hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại, kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ)
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
Lưu ý:
Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa.
Tự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp?
Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp?
Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự , hành chính (Nghị định số 99/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp) hoặc hình sự (Điều 226 Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự số 01/VBHN-VPQH).
Chương 14. Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu
Các tội xâm phạm sở hữu là các hành vi nguy hiểm cho XH, có lỗi, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Quan hệ xã hội bị xâm hại: quan hệ sở hữu (không phải là quyền):
Đối tượng tác động là tài sản, phải thỏa mãn 2 đặc điểm sau:
– Là sản phẩm lao động của con người: quyền sở hữu thiết lập do lao động, không phải do tự nhiên.
– Những vật sau đây không phải là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu: tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản), vật có tính năng công dụng đặc biệt (ma túy, vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, chất nổ, chất phóng xạ), là những vật mà chủ sở hữu hủy bỏ hoặc từ chối quyền sở hữu (không phải CSH đánh rơi, hoặc bỏ quên)
– Các hành vi xâm phạm quan hệ xã hội thông thường do người không phải là chủ sở hữu thực hiện, tuy nhiên trong môt số trường hợp đặc biệt, chủ sở hữu có thể tác động đến chính tài sản của mình và qua đó gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. A mượn xe của B, B lấy lại xe nhưng A tưởng mình làm mất xe, nên bồi thường cho B.
Cấu thành tội phạm hình thức (CTTP cắt xén): 133, 134, 135, 136.
Định nghĩa: Chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý dịch chuyển trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình.
Về mặt chủ quan, lỗi của người có hành vi chiếm đọa là lỗi cố ý trực tiếp.
Là cơ sở để phân biệt các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt với các tội phạm không có tính chất chiếm đoạt (ví dụ: chiếm giữ)
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
– Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản chưa có chủ hoặc không có chủ. Đó là những tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu của chủ tài sản hoặc tài sản chưa được phát hiện.
– Người phạm tội do ngẫu nhiên mà có được tài sản như do được giao nhầm, tìm được, bắt được…
– Người phạm tội đã có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản nói trên (cố tình không trả tài sản lại cho chủ tài sản hoặc không giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu).
Hành vi sử dụng trái phép tài sản là hành vi khai thác lợi ích do tài sản đem lại mà không được sự đồng ý của người quản lý tài sản.
Thỏa mãn tội này còn yêu cầu các điều kiện khác
Hành vi huỷ hoại tài sản: là hành vi làm cho tài sản mất giá trị sử dụng ở mức độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được.
Hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản: là hành vi cố ý làm giá trị sử dụng của tài sản bị mất ở mức độ còn điều kiện khôi phục lại được.
Hành vi thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước: là hành vi của người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, vì thiếu trách nhiệm đã gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước.
Thiệt hại về vật chất: tính mạng: vô ý, sức khỏe (cố ý: cướp, còn lại vô ý), tác động đến tài sản thì thường tác động đến người chủ sở hữu tài sản.
Hậu quả nghiêm trọng khác: an ninh chính trị, tài sản, tính mạng sức khỏe gián tiếp gây ra (Thông tư liên tịch 02/2001)
* Lỗi: đa số cố ý hoặc 2 tội vô ý
Đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm (TTLT số 02/2003/TTLT )
Đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Khách thể của tội cướp tài sản đồng thời xâm phạm hai quan hệ là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân.
+ Cấu thành tội phạm: Tội phạm có cấu thành cắt xén (không có cướp chưa đạt), lấy được tài sản hay không thì xử nhẹ hay nặng hơn.
i/. Dùng vũ lực: là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người này. Đối tượng bị dùng vũ lực không những là người quản lý tài sản mà còn là những người tuy không quản lý tài sản nhưng người phạm tội đã dùng vũ lực đối với họ vì cho rằng người này đã hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt.
A trộm tài sản, hàng xóm phát hiện, A gây thương tích cho người hàng xóm, để thực hiện chiếm đoạt tới cùng à cướp.
ii/. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc: là hành vi dùng lời nói hoặc cử chỉ doạ sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc (không đáp ứng yêu cầu thì dùng vũ lực ngay) , khiến người bị hại
là trường hợp nguời phạm tội bằng lời nói hay cử chỉ đe dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc, tức là sự đe dọa đó phải mãnh liệt về cường độ, nhanh chóng về thời gian khiến người bị hại tê liệt ý chí, các căn cứ để đánh giá hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Ngay tức khắc:
Tương quan lực lượng giữa bên đe dọa và bên bị đe dọa
Hoàn cảnh không gian và thời gian khi xảy ra sự việc
Tình hình trật tự xã hội nơi và lúc xảy ra hành vi phạm tội
Chú ý một vài tính tiết định khung tăng nặng:
Dùng mũ bảo hiểm để tấn công có phải là phương tiện nguy hiểm hay không?
chủ thể thường (người phạm tội có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS).
– hành vi bắt cóc là hành vi bắt giữ giam người trái pháp luật, và thủ đoạn của việc bắt giữ này rất là đa dạng và không có ý nghĩa định tội.
– hành vi đe dọa chủ tài sản về việc sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của con tin, bằng thủ đoạn này người phạm tội đã khống chế tinh thần của chủ tài sản buột họ phải giao tài sản.
a. Khách thể loại: quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân
Tương quan giữa người chiếm đoạt với người bị chiếm đoạt tài sản.
* Công khai: giống cướp giật, không che dấu.
Ví dụ: trường hợp hôi của, quá đông người, không có điều kiện ngăn cản.
Nghị quyết 01/2000 dùng tội trộm cắp tài sản làm ví dụ, tội này có thể truy cứu ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
– Trong trường hợp một ăn trộm vào nhà, nhưng chưa kịp trộm tài sản thì bị bắt, nếu tên trộm này khai thấy gì trộm đó thì theo nguyên tắc suy đoán có lợi cho người phạm tội thì chỉ được áp dụng khoản 1 điều 138. Tuy nhiên nếu tên ăn trộm này chỉ mới bắt ghế định trèo vào nhà người khác, mà bị bắt quả tang thì không xử lý hình sự được (giai đoạn chuẩn bị phạm tội).
– Loại cấu thành tội phạm: Tội phạm có cấu thành vật chất.
– Lén lút chiếm đoạt tài sản là việc chiếm đoạt tài sản theo ý thức chủ quan của người phạm tội là bí mật đối với chủ tài sản. Người phạm tội có ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình.
– Tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự quản lý của người khác.
– Thiệt hại về tài sản từ 2 triệu đồng trở lên;
– Nếu tài sản bị thiệt hại dưới 2 triệu đồng, phải rơi vào một trong những trường hợp sau:
+ Gây hậu quả nghiêm trọng;
+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt;
+ Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
– Động cơ và mục đích không có ý nghĩa trong việc định tội.
d) Chủ thể : chủ thể thường (người phạm tội có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS).
– Dưới 2 triệu đồng (những trường hợp luật định)
Hành vi lừa dối: cố đưa ra thông tin không đúng sự thật, nhằm để người khác tin vào đó mà giao tài sản.
Hành vi chiếm đoạt được thể hiện ở hình thức nhận tài sản từ chủ tài sản (tội phạm hoàn thành) sau khi có hành vi gian dối.
Chưa lừa được: hành vi chỉ mới lừa dối chưa chiếm đoạt tài sản được? Xử tội gì? Ví dụ như dọa trẻ em lấy tài sản nhưng bị phát hiện, chưa chiếm đoạt được tài sản.
– Đối tượng tác động: tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên ( đối với trường hợp thông thường).
– Dưới 2 triệu đồng (trong trường hợp quy định tại khoản 1).
Chiếm đoạt 1 phần hoặc toàn bộ tài sản đã nhận bằng 1 trong các thủ đoạn sau: bằng cách gian dối để không trả lại tài sản (nói mất, luột xe,…) hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt (khó xác định, dễ oan sai vì đó là hành vi vi phạm hợp đồng hay ranh giới giữa vi phạm hợp đồng với tội này rất mong manh), hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại.
– Tình tiết hành hung để tẩu thoát, đây là tình tiết quy định tại khoản 2 điều 136, 137, 138 như sau: có 2 trường hợp như sau:
a. Dùng vũ lực để nhằm chiếm đoạt cho bằng được tài sản, lúc này hành vi này đã chuyển hóa sang tội cướp tài sản, hoặc có thể ban đầu chi cướp giật, nhưng dủng vũ lực để cướp cho bằng được thì đã chuyển hóa từ hành vi chiếm đoạt sang hành vi cướp tài sản.
– Biểu hiện gian dối trong các hành vi chiếm đoát: 3 trường hợp như sau
1/ Có biểu hiện gian dối nhằm để tiếp cận tài sản, sau đó dùng các hình thức khác để chiếm đoạt thì phải định tội danh theo hình thức chiếm đoạt đó. Chẳng hạn gian dối để tiếp cận tài sản, thừa lúc chủ tài sản sơ hở thì trộm tài sản thì đây là tội trộm cắp tài sản.
Đặc Điểm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp là một loại quyền tài sản, do đó, nó có đầy đủ các đặc tính của quyền sở hữu tài sản nói chung, đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của mình và không ai được sử dụng tài sản đó nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu.
Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất đặc thù của các đối tượng sở hữu công nghiệp – tài sản trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp có những đặc điểm khác với các quyền sở hữu khác và thậm chí khác cả với quyền tác giả – một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ.
a) Sự khác biệt giữa quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu đối với tài sản hữu hình
Sự khác biệt giữa quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu đối với tài sản hữu hình xuất phát từ thuộc tính vô hình của các đối tượng sở hữu công nghiệp. Quyền sở hữu công nghiệp không thể xác định được thông qua các đặc điểm vật chất của đối tượng sở hữu công nghiệp mà nó phải được thể hiện thông qua một dạng vật chất hữu hình hoặc một cách thức cụ thể nào đó để có thể bảo vệ được. Có thể xem xét, đánh giá sự khác biệt của hai phạm trù này trên các khía cạnh sau:
– Về căn cứ xác lập quyền:
Quyền sở hữu tài sản hữu hình được xác lập trên cơ sở các sự kiện pháp lý quy định trong BLDS. Quyền sở hữu công nghiệp đối với hầu hết các đối tượng sở hữu công nghiệp được xác lập thông qua việc nộp đơn đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ hoặc có thể được xác lập một cách tự động nếu đối tượng sở hữu công nghiệp đáp ứng những tiêu chuẩn bảo hộ nhất định do pháp luật quy định.
– Về chủ thể quyền:
Chủ thể quyền sở hữu tài sản nói chung có thể là bất kỳ ai: cá nhân, pháp nhân, tổ chức và cũng có thể là Nhà nước – người chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản hợp pháp. Trong khi đó, chủ thể quyền sở hữu công nghiệp chỉ có thể là những cá nhân, tổ chức, đáp ứng các điều kiện tương ứng với từng loại đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, chủ sở hữu nhãn hiệu phải là những người có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực đăng ký nhãn hiệu; chủ ở hữu nhãn hiệu tập thể chỉ có thể là một tổ chức (hội, hiệp hội ngành nghề); chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận chỉ có thể là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng nhận đối với loại sản phẩm mang nhãn hiệu.
– Về đối tượng quyền:
Đối tượng của quyền sở hữu tài sản nói chung là các loại vật chất hữu hình có thể “cầm, nắm, giữ” được và một số quyền tài sản luôn xác định được bằng một số lượng vật chất cụ thể. Trong khi đó, đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là những sản phẩm vô hình chỉ có thể được định tính, định lượng khi ứng dụng vào các loại sản phẩm hữu hình hoặc các hoạt động cụ thể.
– Về phạm vi bảo hộ:
Quyền sở hữu đối với tài sản thông thường được bảo hộ vô thời hạn và chỉ chấm dứt khi có các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hoặc khi tài sản bị tiêu huỷ. Quyền sở hữu đối với tài sản thông thường không bị giới hạn về mặt không gian. Trong khi đó, quyền sở hữu công nghiệp chỉ có thể được bảo hộ trong một khoảng thời gian xác định tùy thuộc vào từng loại đối tượng và chỉ giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ xác định.
– Về nội dung, ý nghĩa của các quyền năng sở hữu:
Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng cơ bản của chủ sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dường như là quyền cơ bản và quan trọng nhất. Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình: trong hầu hết các trường hợp, chủ sở hữu phải chiếm hữu tài sản thì mới có thể khai thác công dụng của tài sản đó.
Trong khi đó, đối với quyền sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng lại được coi là quyền năng cơ bản nhất. Điều này cũng xuất phát từ tính vô hình của các đối tượng sở hữu công nghiệp. Chủ sở hữu không thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản. Việc khai thác giá trị quyền được thực hiện thông qua hành vi sử dụng đối tượng. Bản thân các đối tượng sở hữu công nghiệp không tạo ra giá trị mà chúng phải được ứng dụng vào những loại vật chất hữu hình cụ thể và phát sinh giá trị quá trình sử dụng, vận hành, khai thác các loại vật chất hữu hình này. Về bản chất, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng là sự bảo hộ độc quyền khai thác, sử dụng đối tượng chống lại các hành vi khai thác, sử dụng trái phép. Quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cũng được thể hiện chủ yếu và cơ bản nhất ở quyền sử dụng đối tượng.
b) Sự khác biệt giữa quyền sở hữu công nghiệp và quyền tác giả
Quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp là hai nội dung cơ bản hợp thành quyền sở hữu trí tuệ. Hai lĩnh vực này có những thuộc tính chung như: đặc tính “vô hình” của đối tượng, tính chất của các quyền nhân thân và quyền tài sản dành cho chủ thể sáng tạo và/hoặc chủ sở hữu, quyền sử dụng là quyền năng cơ bản nhất và sự giới hạn về thời gian và không gian bảo hộ… Tuy nhiên, có thể phân biệt hai lĩnh vực này thông qua những đặc điểm chủ yếu sau:
Lịch sử hình thành
Xuất hiện nhằm giải quyết những nhiệm vụ khoa học công nghệ, kỹ thuật, thương mại đặt ra trong quá trình sản xuất sản phẩm công nghiệp bằng máy móc thay cho phương pháp thủ công truyền thống. Do đó, gắn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Xuất hiện nhằm đáp ứng nhu cầu về tinh thần, văn hóa, tình cảm, nhận thức, hiểu biết của con người. Do đó, được tiến hành song song cùng với sự tiến triển của xã hội loài người.
Lĩnh vực áp dụng
Kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ
Chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Đối tượng quyền
Các kết quả của hoạt động sáng tạo kỹ thuật (sáng chế, giải pháp hữu ích, thông tin bí mật, thiết kế bố trí mạch tích hợp); hoạt động sáng tạo mỹ thuật ứng dụng (KDCN) hay hoạt động sáng tạo trong thương mại (nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại).
Nội dung bảo hộ
– Bảo hộ đối tượng thông qua các quy định cấm người khác không được sử dụng đối tượng đang được bảo hộ để thu lợi nhuận mà không xin phép chủ sở hữu.- Chú trọng bảo hộ quyền tài sản hơn so với các quyền nhân thân.- Chú trọng bảo hộ quyền của chủ sở hữu hơn so với quyền của người trực tiếp sáng tạo.
– Bảo hộ hình thức sáng tạo của tác phẩm nhằm cấm người khác sao chép tác phẩm nếu không được phép của tác giả/chủ sở hữu tác phẩm.- Các quyền nhân thân được chú trọng bảo hộ hơn so với quyền tài sản.- Thông thường chú trọng bảo hộ quyền của tác giả hơn so với quyền của chủ sở hữu.
Thời hạn bảo hộ
Thời hạn bảo hộ ngắn hơn so với thời hạn bảo hộ quyền tác giả (5 năm đối với KDCN, 10 năm đối với nhãn hiệu, 20 năm đối với sáng chế – có thể gia hạn thêm 1 khoảng thời gian tương ứng với từng đối tượng).
Thời hạn bảo hộ dài hơn: thường là hết cuộc đời tác giả và 50 (hoặc 60, 70) năm sau khi tác giả qua đời; một số quyền nhân thân của tác giả được bảo hộ vô thời hạn (đặt tên tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh, nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố…)
Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Admin Mr.Luân
Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍
Khái Quát Về Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Và Các Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp
1. Khái niệm về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHCN, trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm về bảo hộ, thực thi QSHCN và mối liên hệ giữa chúng.
Trong Công ước Paris, bảo hộ QSHCN bao gồm các đối tượng là sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn xuất xứ hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa, cũng như việc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “bảo hộ” được hiểu theo nghĩa thông thường là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất”. Việc bảo hộ luôn được gắn với sự quản lý của nhà nước thông qua các giải pháp để bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ bằng chính sách, pháp luật mà mỗi quốc gia dành cho công dân hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động, cư trú ở nước đó.
Theo TS. Nguyễn Thanh Tâm: bảo hộ QSHCN được hiểu là việc nhà nước, bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó. Trong Luật SHTT, nội dung nhà nước bảo hộ đối với QSHCN là các quy định về việc bảo hộ QSHCN tại các cơ quan quản lý nhà nước như: các điều kiện bảo hộ, nội dung quyền SHCN, giới hạn QSHCN, thời hạn bảo hộ QSHCN, chuyển giao QSHCN, chứng nhận QSHCN…qua đó nhà nước đảm bảo quyền sở hữu với các đối tượng của QSHCN cho các cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đã được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ hoặc được thừa nhận. Hoạt động bảo hộ dưới góc độ của quản lý nhà nước đó chính là việc xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHCN theo quy định của pháp luật. QSHCN được nhà nước bảo hộ bằng các chính sách và hệ thống pháp luật về QSHCN.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội thì: bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể QSHCN như tác giả, chủ văn bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng QSHCN.
Do vậy, bảo hộ QSHCN được hiểu là nhà nước, bằng những quy định của pháp luật xác lập QSHCN (cấp văn bằng bảo hộ), xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó.
Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp luật về SHCN, thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là nói tới trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm.
Xét về bản chất, nội dung quan trọng nhất của QSHCN là độc quyền sử dụng, khai thác đối tượng thuộc quyền. Vì vậy, thực thi QSHCN cũng có nghĩa là đảm bảo quyền khai thác, sử dụng đối tượng QSHCN của chủ thể nắm giữ quyền đó sao cho khi tiến hành việc khai thác sử dụng, người nắm giữ quyền không gặp phải sự cản trở từ phía người thứ ba. Nói cách khác, bản chất của việc bảo đảm điều kiện cần thiết để các chủ thể QSHCN thực hiện các quyền của mình là ngăn chặn mọi hành vi cản trở việc sử dụng, khai thác đối tượng QSHCN của chủ thể quyền.
Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn thi hành, vấn đề thực thi QSHCN được tiếp cận và giải quyết theo hướng bảo đảm các điều kiện ngăn ngừa và ngăn chặn việc người thứ ba (người không nắm giữ quyền) khai thác, sử dụng các đối tượng QSHCN đang trong thời hạn bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh mà không được phép của người nắm giữ quyền và không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép sử dụng. Như vậy, mục đích của thực thi QSHCN là ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN, tạo ra sức sống trên thực tế cho các quy phạm pháp luật về SHCN.
Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là bằng những quy định của pháp luật, Nhà nước xác định những hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác trong hoạt động sở hữu công nghiệp.
Bảo vệ QSHCN hiện nay là đòi hỏi khách quan, không chỉ nhằm bảo vệ quyền của người sáng tạo, mà còn là cơ chế bảm bảo sự công bằng, thúc đẩy hoạt động sáng tạo tìm tòi của con người, góp phần bảo đảm một nền thương mại bình đẳng, dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh; góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hợp pháp, qua đó nâng cao sự phát triển của toàn xã hội.
Ý nghĩa của việc bảo vệ QSHCN
Mục tiêu cuối cùng của hệ thống bảo vệ QSHCN chính là chống lại nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng tạo và bảo vệ các cơ hội cho người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó, nhờ vậy mà kích thích, thúc đẩy các nỗ lực sáng tạo trong nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh. Hiển nhiên, mục tiêu nói trên sẽ không đạt được nếu không khắc phục được tệ nạn xâm phạm QSHCN. Hệ thống bảo vệ QSHCN chính là đảm bảo ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN. Vì vậy, bảo vệ QSHCN chính là bảo đảm hiệu lực QSHCN của chủ thể quyền, khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo, phát triển sản xuất, buôn bán trong nước.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc QSHCN không được bảo vệ và thực thi thoả đáng, hiệu quả thì sẽ bị coi là thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Vì, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D), có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều, và vì thế chiếm chỗ và loại các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới, làm thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại và đầu tư của họ. Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ thương mại (ví dụ như Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ). Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế – xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Do đó, nếu hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp không hiệu quả thì sẽ làm tổn hại đến chính sách hội nhập quốc tế và đầu tư nước ngoài của quốc gia cho sự phát triển của mình.
Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thương mại toàn cầu, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã kích thích nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất phải nhanh chóng đưa ra thị trường các sản phẩm mới có sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã, cũng như sự hoàn thiện về tính năng, tác dụng. Có thể khẳng định rằng, hiện nay không có hàng hoá có giá trị nào được thị trường chấp nhận mà lại không chứa các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một điều kiện không thể thiếu để các nhà sản xuất có thể duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, có thể nói, các đối tượng sở hữu công nghiệp được tạo ra để đáp ứng nhu cầu nhất định của người tiêu dùng và việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp cũng chính là bảo đảm cho người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm chính hiệu, đảm bảo chất lượng đúng bản chất của nó. Và như vậy, hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, mà còn là phương tiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tức là hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp còn có ý nghĩa nhất định đối với xã hội.
Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội, Việt Nam đang chú trọng tạo dựng một hệ thống thực thi có hiệu quả trong hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng để đạt được sự phát triển kinh tế đất nước nhanh chóng trong xu thế hội nhập với chính sách phát huy nội lực và tranh thủ sự đầu tư nước ngoài.
2. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, vi phạm hoặc tranh chấp về sở hữu công nghiệp, có thể áp dụng một hoặc một số trong ba loại trình tự pháp luật sau đây với mục đích nhằm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp: bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự (tiến hành các vụ kiện theo thủ tục dân sự); bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính (đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính) và bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hình sự (xét xử tội phạm về sở hữu công nghiệp). Cụ thể từng loại trình tự đó như sau:
2.1. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự hành chính (bằng biện pháp hành chính) là thủ tục xử lý hành chính các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp gồm các hình thức sau:
(i) Hình thức xử phạt chính là: Cảnh cáo hoặc phạt tiền;
(iii) Các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc tiêu huỷ vật phẩm, hàng hoá vi phạm; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên sản phẩm, hàng hoá, phương tiện kinh doanh…
2.2. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự
Như phần trên đã đề cập, các đối tượng sở hữu công nghiệp được coi là một loại tài sản và quyền sở hữu công nghiệp có bản chất là một loại quyền sở hữu tài sản. Bởi vậy, quyền sở hữu công nghiệp trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự. Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ quyền sở hữu công nghiệp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền phải tự chấm dứt vi phạm, yêu cấu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi người xâm phạm nhận được yêu cầu xong không chấm dứt hành vi vi phạm. Để nhận được sự bảo vệ như vậy, người nắm giữ quyền phải chỉ ra người xâm phạm, phải chứng minh hành vi xâm phạm và có quyền đưa ra các yêu cầu về hình thức xử lý, nhưng trước hết bản thân người nắm giữ quyền phải chủ động tự mình tiến hành việc theo dõi, giám sát thị trường để phát hiện người và nơi đã thực hiện hành vi xâm phạm để cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Cơ quan có thẩm quyền chỉ chấp nhận xử lý theo yêu cầu của người nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp khi hành vi xâm phạm quyền được người đó chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ.
Trong các loại tranh chấp dân sự về sở hữu công nghiệp được giải quyết tại Toà án có các tranh chấp về việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, tức là về việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Việc giải quyết tranh chấp có thể được khái quát như sau:
– Quyền khởi kiện dân sự: Theo nguyên tắc thông thường, người nào chứng minh được rằng mình là người có quyền hợp pháp theo quy định của pháp luật đều có quyền khởi kiện với lý do quyền của mình không được tôn trọng hoặc bị xâm phạm. Theo nguyên tắc đó, người có quyền khởi kiện về việc xâm phạm quyền của mình là người được cấp Văn bằng bảo hộ hoặc có căn cứ để chứng minh là người nắm giữ quyền.
Hầu hết quyền sở hữu công nghiệp đều có phạm vi (khối lượng) xác định và có thời hạn. Do vậy, quyền khởi kiện cũng chỉ giới hạn tương ứng với phạm vi và thời hạn đó. Theo quy định về tố tụng dân sự, quyền khởi kiện có đặc tính thời hiệu, nếu quá thời hiệu đó, quyền khởi kiện bị coi như mất.
Khi khởi kiện, người khởi kiện (nguyên đơn) phải chứng minh quyền khởi kiện của mình bằng cách xuất trình các chứng cứ cần thiết như: Văn bằng bảo hộ, các tài liệu chứng minh sự phát sinh quyền…
Nghĩa vụ chứng minh trong các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: bên khởi kiện (nguyên đơn) có nghĩa vụ phải chỉ ra tên, địa chỉ người bị kiện, mô tả và chứng minh hành vi hoặc sự kiện là đối tượng của vụ kiện. Để làm được điều đó, nguyên đơn phải xuất trình các chứng cứ nhằm chứng minh cho các yêu cầu của mình. Nguyên đơn phải tự tiến hành điều tra, xác minh để phát hiện người xâm phạm quyền, thu thập chứng cứ để chứng minh về hành vi xâm phạm, đánh giá thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền đó gây ra. Nếu không có hoặc không đủ chứng cứ đáng tin cậy để chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, Toà án sẽ bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.
Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự dân sự: Tuỳ theo tính chất, nội dung và mức độ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, người nắm giữ quyền có thể yêu cầu Toà án áp dụng và thực hiện một hoặc một số biện pháp xử lý sau:
(i) Bắt buộc người xâm phạm (bị đơn) chấm dứt hành vi xâm phạm, kể cả các biện pháp ngăn ngừa việc đưa các sản phẩm xâm phạm vào các kênh thương mại, nếu sản phẩm đó đã được nhập khẩu và hoàn tất thủ tục hải quan;
(ii) Bắt buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại, kể cả khoản lợi nhuận đáng lẽ mình thu được khi không xảy ra hành vi xâm phạm của bị đơn;
(iii) Bắt buộc bị đơn phải trả cho mình chi phí tham gia vụ kiện, kể cả chi phí hợp lý để thuê luật sư.
Nhằm đối phó với tình trạng tẩu tán, tiêu huỷ tang vật xâm phạm hoặc tẩu tán tài sản dùng để thi hành lệnh xử lý hoặc bồi thường trong các tình huống đặc biệt, người có quyền sở hữu công nghiệp bị xâm phạm có thể yêu cầu Toà án ra lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nội dung của biện pháp tạm thời có thể là:
(i) Tạm giữ hàng hoá, sản phẩm bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi có căn cứ để nghi ngờ rằng bên xâm phạm có thể tẩu tán hoặc tiêu huỷ các hàng hoá, sản phẩm đó;
(ii) Lục soát nơi tàng trữ hàng hoá bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc nơi mà bị đơn kiểm soát với điều kiện là có cơ sở để tin rằng ở đó có tàng trữ chứng cứ và có nguy cơ chứng cứ đó bị thủ tiêu;
(iii) Tạm thời niêm phong thiết bị, phương tiện được dùng để thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
(iv) Tạm thời phong toả tài khoản của bị đơn nhằm bảo đảm tài chính để khắc phục hậu quả hoặc đền bù thiệt hại do việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra.
Tuy nhiên, để thuyết phục Toà án thực hiện việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì người yêu cầu phải chứng minh nguy cơ mà nếu không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ đe doạ việc tiến hành xét xử hoặc cản trở việc thi hành các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả thi hành án sau này và phải cam kết đền bù mọi thiệt hại cho bên bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không xác đáng hoặc bị lạm dụng. Thông thường, người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo chứng đủ để đền bù thiệt hại và bảo vệ lợi ích của bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách thoả đáng khi yêu cầu đó không xác đáng. Và quyền buộc người đã yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải bồi thường thiệt hại do việc áp dụng các biện pháp đó gây ra cho người đã bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu biện pháp đó bị huỷ bỏ hoặc đình chỉ do bất kỳ lý do nào thuộc về người yêu cầu, thuộc về cơ quan tư pháp.
2.3. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hình sự
Trong trường hợp việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây tác hại nghiêm trọng cho xã hội và việc sử dụng chế tài hành chính không đủ để trừng phạt và răn đe người xâm phạm thì phải áp dụng biện pháp có chế tài mạnh hơn. Biện pháp hình sự, tức là coi người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đó là tội phạm và việc điều tra, xét xử loại tội phạm này phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của việc phạm tội, mức phạt có thể được áp dụng là phạt tiền hoặc phạt tù tương ứng với hành vi phạm tội quy định tại Bộ luật hình sự.
Đối với bảo vệ quyền SHCN theo thủ tục hình sự, khi xác định chủ thể của hành vi phải là cá nhân cụ thể để truy cứu trách nhiệm hình sự; còn theo thủ tục hành chính thì chủ thể của hành vi có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Biện pháp hình sự mặc dù có tác dụng ngăn chặn và răn đe lớn đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN vì hình phạt của biện pháp hình sự thường nặng hơn rất nhiều so với hai biện pháp còn lại là dân sự và hành chính song biện pháp này cũng có những khó khăn riêng.
Ví dụ, theo quy định hiện hành thì việc chứng minh “gây hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu bắt buộc: Tại mục 2.1 của Thông tư liên tịch 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì yếu tố “gây hậu quả nghiêm trọng” dựa trên các trường hợp: đã thu được lợi nhuận từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu nhãn hiệu từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng; hàng hóa vi phạm có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng.
Trong thực tế, việc chứng minh lợi nhuận của người có hành vi xâm phạm quyền SHCN là khó khăn vì những đối tượng này thường ít sử dụng giấy tờ, sổ sách phục vụ thu thập chứng cứ chứng minh lợi nhuận.
3. Lựa chọn biện pháp dân sự hay hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Thông qua việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN, Tòa án sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về SHCN. Thông thường, việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN tại Tòa án là cơ chế bảo hộ hữu hiệu nhất bởi QSHCN với bản chất là quyền dân sự, do vậy tranh chấp phát sinh từ QSHCN là các tranh chấp dân sự. Bảo vệ QSHCN không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền với việc bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHCN. Trong đó quyền nhân thân là quyền thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với các đối tượng của QSHCN, còn quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép sử dụng các đối tượng QSHCN thuộc sở hữu của mình.
Như trên đã đề cập, nói đến QSHCN là nói đến sự công nhận từ phía nhà nước đối với một quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức. Bởi vậy, QSHCN trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự, pháp luật về bảo vệ QSHCN cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ QSHCN có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi có sự xâm phạm.
So với bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính, chúng ta thấy: đặc điểm quan trọng của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính chính là ý nghĩa trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền. Mọi hành vi xâm phạm, người thực hiện hành vi xâm phạm mà có gây tổn hại cho xã hội thì đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý hành chính. Bên cạnh đó, biện pháp hành chính có tính tới đến tăng nặng mức phạt đối với các tình tiết tăng nặng như: vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm khi người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó, sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che dấu vi phạm…Tuy nhiên, biện pháp hành chính không thể buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền. Đây là hạn chế của việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính. Trong quá trình thụ lý và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, cơ quan hành chính có thẩm quyền thường chỉ xử phạt hành vi xâm phạm quyền, còn phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chủ thể quyền đề nghị tách riêng và thực hiện theo trình tự dân sự.
Ngược lại, cơ chế dân sự điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu quyền và người xâm phạm quyền. Chẳng hạn, việc đền bù thiệt hại đã khắc phục tác hại của hành vi xâm phạm quyền gây ra cho người nắm giữ quyền, mà không đền bù thiệt hại cho người thứ ba và xã hội. Các biện pháp xử lý do biện pháp dân sự đưa ra về căn bản, giúp lặp lại thế cân bằng lợi ích cho người có quyền bị xâm phạm. Đối với người thực hiện hành vi xâm phạm, sau khi bị xử lý bằng biện pháp dân sự sẽ trở về trạng thái ban đầu trước khi thực hiện hành vi xâm phạm và không phải chịu trách nhiệm nặng hơn khi tiếp tục có hành vi xâm phạm. Chính vì vậy, việc thực hiện bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự sẽ đạt được mục tiêu là ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể quyền.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều ý kiến cho rằng: ý nghĩa trừng phạt của biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền thì việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính có tác dụng răn đe và phòng ngừa cao và chính vì vậy nó bảo đảm khắc phục phần nào khiếm khuyết trong việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự. Mặt khác, việc xâm phạm QSHCN nếu muốn xử lý theo thủ tục dân sự, thì bản thân chủ thể quyền hoặc đại diện của chủ thể quyền (nguyên đơn) phải gửi đơn khiếu kiện đến Toà án và phải đáp ứng yêu cầu tự chứng minh (tự cung cấp các chứng cứ để chứng minh hành vi xâm phạm quyền đối với bị đơn). Việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo thủ tục hành chính trong trường hợp là hàng hóa giả mạo thì không bắt buộc chủ sở hữu quyền phải có đơn đề nghị xử lý, nếu được dư luận phát hiện hoặc do chính cơ quan có thẩm quyền biết được, thì đều có thể dẫn tới việc áp dụng các biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm đó. Bên cạnh đó, cơ quan hành chính có thẩm quyền có thể tự thu thập chứng cứ để xác minh làm rõ đối với hành vi xâm phạm quyền cho quyết định xử lý của mình.
Cập nhật thông tin chi tiết về Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!