Xu Hướng 3/2023 # Vấn Đề Nông Dân, Nông Nghiệp, Nông Thôn Trong Sự Nghiệp Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Hiện Nay: Quan Điểm Và Những Định Hướng Chính Sách # Top 7 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Vấn Đề Nông Dân, Nông Nghiệp, Nông Thôn Trong Sự Nghiệp Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Hiện Nay: Quan Điểm Và Những Định Hướng Chính Sách # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Vấn Đề Nông Dân, Nông Nghiệp, Nông Thôn Trong Sự Nghiệp Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Hiện Nay: Quan Điểm Và Những Định Hướng Chính Sách được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay: Quan điểm và những định hướng chính sách

Để góp phần trao đổi học thuật, bài viết này tập trung làm rõ: 1) một số quan điểm phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân; 2) thực trạng vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay và 3) đề xuất một số định hướng và chính sách cho phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn.

1. Một số quan điểm về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn

1.1.Về khái niệm nông nghiệp, nông dân và nông thôn

Theo nghĩa thông thường, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất sử dụng đất đai và sinh vật làm ra sản phẩm nông nghiệp. Cách định nghĩa này chỉ dừng lại ở sản xuất nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, nền kinh tế càng phát triển thì yêu cầu của xã hội với nông nghiệp càng cao. Nông nghiệp không chỉ đơn thuần là sản xuất ra các sản phẩm tươi sống mà còn bao gồm cả khâu chế biến, marketing và tiêu thụ nông sản. Do vậy, sản phẩm cuối cùng của nông nghiệp không đơn thuần là nông sản (agro-products) mà thực phẩm nông sản (agrofoods) (Đỗ Kim Chung, 2002). Do đó, nông nghiệp cần được định nghĩa ở phạm vi rộng hơn. Nông nghiệp là ngành sản xuất – kinh doanh làm ra thực phẩm nông sản, bao gồm cả sản xuất nông nghiệp, chế biến, marketing và phân phối các thực phẩm nông sản.

Chủ thể của các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp là nông dân. Theo nghĩa thông thường, nông dân là những người tham gia sản xuất nông nghiệp. Trên thực tế, rất nhiều nông dân, ngoài việc tham gia vào sản xuất nông nghiệp vẫn tham gia vào các hoạt động kinh tế khác như sản xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn và dịch vụ. Nông thôn càng phát triển thì cơ cấu ngành nghề trong nông thôn càng đa dạng. Do đó, khái niệm về nông dân cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Nông dân là những người dân sống ở nông thôn làm các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ khác nhau tuỳ theo khả năng và lợi thế so sánh của họ.

Khu vực của nền kinh tế mà trong đó các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp được tiến hành là nông thôn. Nông thôn là khu vực khác với thành thị về không gian, hoạt động kinh tế, đặc điểm cộng đồng và sinh thái. Nông thôn gắn liền với đời sống, tập tục và bản sắc văn hoá của một cộng đồng. Về phương diện kinh tế, nông thôn bao gồm cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, văn hoá, tài nguyên thiên nhiên, tổ chức và thể chế, công nghiệp và hạ tầng cơ sở. VÌ thế phát triển nông thôn phải bao gồm phát triển cả kinh tế, xã hội, tổ chức và môi trường.

1.2. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân

Có mốt số quan điểm cho rằng: khi xã hội phát triển và đạt đến trình độ một nước công nghiệp thì: 1) nông nghiệp kém phần quan trọng hơn, bằng chứng là tỷ trọng thu nhập quốc dân (GDP) của nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm xuống; 2) hầu hết nông dân sẽ biến thành đại nông và sẽ hết hoặc rất ít tiểu nông, nông nghiệp chủ yếu là sản xuất quy mô lớn; 3) kinh tế phát triển thì tỷ trọng của lao động nông nghiệp sẽ giảm, một đại bộ phận cư dân nông nghiệp sẽ giảm, một đại bộ phận cư dân nông thôn sẽ không làm nông nghiệp nữa, do đó vị thế chính trị của nông dân có thể giảm; 4) nông thôn sẽ hiện đại như thành thị (có nhà cao tầng, có các kết cấu hạ tầng, quy hoạch, không gian kiến trúc như thành thị), nghĩa là sẽ mất đi cái cảnh “làng ta phong cảnh hữu tình, dân cư đông đúc như hình con long”; 5) văn hoá nông thôn chuyển dần từ văn hoá cộng đồng, tộc họ sang văn hoá đô thị theo kiểu “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Những quan điểm này đang xuất hiện và được biểu hiện tập trung ở những thiên lệch trong hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn. Liệu những quan điểm đó là đúng? Thực tiễn phát triển nông nghiệp và nông thôn ở các nước phát triển và đang phát triển đã chứng tỏ những quan điểm trên không phù hợp với sự phát triển chung. Kết quả phân tích thực tiễn và tổng kết lý luận về phát triển nông thôn đã chỉ ra rằng, các quan điểm trên là không phù hợp vì những lý do sau:

Thứ nhất, khi xã hội phát triển, nông nghiệp càng quan trọng, mặc dù tỷ trọng GDP của nông nghiệp trong nền kinh tế giảm xuống. Vị thế của nông nghiệp cũng đồng nghĩa với vị thế của nông dân, không chỉ nhìn vào giá trị GDP. Nông nghiệp trở nên đa chức năng. Nông nghiệp chẳng những có các chức năng kinh tế (cung cấp lương thực thực phẩm cho con người, nguyên liệu cho công nghiệp), mà còn có chức năng văn hoá (bảo tồn các giá trị truyền thống thông qua các sản phẩm từ nông nghiệp), chức năng xã hội (sự liên kết phụ thuộc lẫn nhau của các nhóm xã hội, các cộng đồng thông qua sản xuất và trao đổi các sản phẩm nông nghiệp) và chức năng môi trường (quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên như: đất , nước, sinh vật và không khí). Nông nghiệp sẽ bảo tồn các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể mà hàng nghìn năm qua con người đã tích luỹ được. Nông nghiệp cân bằng các vấn đề xã hội, bằng chứng là các sự bất ổn của xã hội đều bắt đầu từ nông thôn trước. Nông nghiệp và nông thôn che phủ tới 90% tài nguyên đất, 100% tài nguyên rừng, 95% tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2006). Do đó, nếu chủ thể của nông nghiệp là nông dân không được nhìn nhận đúng thì chúng ta có phát triển ổn định và bền vững?

Thứ hai, khi xã hội phát triển và đạt đến trình độ một nước công nghiệp, thì không phải hầu hết nông dân sẽ biến thành đại nông, mà vẫn còn rất nhiều tiểu nông. Ngay ỏ những nươc phát triển, một xã hội nông thôn vẫn đa dạng, gồm có tầng lớp nông dân đại nông, trung nông, tiểu nông và cả những người làm thuê nông nghiệp (landless farmers). Thực tế chỉ chưa đầy 20% các hộ nông dân chuyển thành kinh doanh đại nông, phần lớn là trung nông và tiểu nông. Một đặc trưng phổ biến trong nông thôn là sự chấp nhận lực lượng lao động nông nghiệp không đất để bổ sung cho thị trường sức lao động. Đặc điểm này vừa là khách quan và vừa là tất yếu. Là khách quan vì không phải tất cả nông dân có kỹ năng như nhau. Có nhiều nông dân rất thành thạo việc canh tác cấy trồng, song cũng có một bộ phận nông dân chưa thật giỏi quản lý cây trồng, vật nuôi. Những người này đi làm thuê để kiếm sống thì tốt hơn là có đất để canh tác. Vì thế, nỗ lực để cho nông dân phát triển thành đại nông không thuần tuý dựa vào biện pháp hành chính, mà phải thông qua cơ chế thị trường, nhất là các thị trường đất đai và lao động mà chúng ta hay miễn cưỡng khi nói đến vì nó “phạm phải” điều “cấm kỵ trước đây”.

Thứ ba, khi xã hội phát triển thì không phải tỷ trọng của lao động nông nghiệp (theo nghĩa rộng) sẽ giảm đi, không phải một đại bộ phận cư dân nông thôn sẽ không làm nông nghiệp nữa, vị thế chính trị của nông dân vẫn không hề giảm. Điều này đã thấy rất rõ ở các nước phát triển như: Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Canada… Điều quan trọng là quan niệm thế nào là làm nông nghiệp. Nông nghiệp theo cách nhìn mới là quá trình sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, từ khâu nuôi trồng trên đồng ruộng, tới sản phẩm bày trên bàn ăn của người tiêu dùng. Có thể tỷ trọng những người trực tiếp tham gia cày cuốc, cấy trồng sẽ giảm, nhưng tỷ trọng những người tham gia vào quá trình làm ra nông sản thực phẩm sẽ không giảm. Tỷ lệ này ở Pháp, Canada… vẫn không giảm trong vài thập kỷ qua. Mặt khác do làm ra các sản phẩm nuôi sống con người, quản lý lượng lớn tài nguyên của quốc gia (đất, nước, rừng…) nên vị thế chính trị của nông dân càng ngày càng quan trọng.

Thứ tư, khi xã hội phát triển, thì nông thôn sẽ phát triển, nhưng nét hiện đại của nông thôn vẫn không như thành thị. Nông thôn vẫn giữ nguyên cái không gian làng xã, gắn với cấu trúc dân cư phản ánh nét văn hoá riêng của từng tộc người, từng cộng đồng. Cái hiện đại sẽ là hệ thống hạ tầng, hiện đại của kiến trúc làng xã chính là đưa về cấu trúc kiến trúc mang bản sắc văn hoá phù hợp với từng cộng đồng và các căn nhà được trang bị một cách phù hợp với nhu cầu và tập quán của cộng đồng cư dân. Điều đáng lo ngại hiện nay là: do thiếu chỉ đạo và thiếu hướng dẫn nên nhiều làng quê đang được bê tông hoá, nhà ống, ngay cả các khu định cư mới của đồng bào dân tộc ở các công trình thủy điện Sơn La, Yaly, Na Hang… người dân tộc được cấp nhà mặt tiền mặt hậu, gần nhau san sát, đúng như văn hoá kiến trúc của người Kinh. Chúng ta nên định hướng quy hoạch và phát triển nông thôn theo từng vùng, miền phù hợp với văn hoá của tộc người và cộng đồng. Những nơi làm tốt đã và đang trở thành các điểm du lịch nhân văn – sinh thái. Nếp nhà rông của người dân Tây Nguyên mang hình lưỡi rìu – công cụ mà họ gắn bó với rừng bao đời nay. Trái lại, mái nhà tranh của cư dân Bắc Bộ mang hình con thuyền úp ngược – công cụ mà cư dân của nền văn minh sông nước dùng, úp ngược lại khi có mùa đánh bắt bội thu.

Thứ năm, khi xã hội phát triển thì không phải văn hoá nông thôn chuyển dần từ văn hoá cộng đồng, tộc họ sang văn hoá đô thị theo kiểu “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Cấu trúc cộng đồng nông thôn được dựa trên quan hệ tộc họ, các tộc họ liên kết nhau lại, sống chung một dải đất, thờ chung một “thành hoàng” (như ở đồng bằng), chung một “mẫu mẹ” như ở trung du, chung một Yang (như ở Tây Nguyên), chung một thần núi, thần rừng… như ở các vùng núi. Lòng tin có giá trị kinh tế và xã hội đặc biệt. ”Yên tâm đi, cả làng thuộc vào họ nhà này cả”. Điều này không thể có được ở thành phố. Do cùng một họ, cư dân nông thôn có thể tạo ra sự thống nhất cao trong cộng đồng, văn hoá cộng đồng sẽ kết gắn họ lại.

2.Một số vấn đề đặt ra của nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam hiện nay.

2.1. Nông nghiệp

Nông nghiệp nước ta vẫn là ngành sản xuất quan trọng của nền kinh tế. Nông nghiệp tao ra 85% việc làm cư dân nông thôn và là nguồn sinh kế kiếm sống của hơn 70% dân số cả nước. Trong thời gian qua, nông nghiệp, đặc biệt là lương thực thực phẩm tăng khá, đã góp phần to lớn vào việc bảo đảm an ninh lương thực và góp phần quan trọng ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Đến năm 2008, sản lượng lương thực (quy thóc) đạt 25,4 triệu tấn, trong đó lương thực có hạt (lúa, ngô) 42,9 triệu tấn, riêng lúa đạt 38,73 triệu tấn; sản lượng rau, đậu thực phẩm đạt 12 triệu tấn; quả các loại trên 8 triệu tấn; sản lượng thịt hơi các loại đạt 3,44 triệu tấn, trứng trên 5 tỷ quả, sữa tươi 280 nghìn tấn; sản lượng thủy sản đạt 4,3 triệu tấn. Bình quân đầu người/năm 2008: lúa 421 kg; rau, đậu thực phẩm 154,5 kg; quả các loại 97,7 kg; thịt hơi các loại 39,7 kg, trứng 58 quả, sữa tươi 3,2 kg; thủy sản 50 kg. So với năm 2000, các sản phẩm lương thực, thực phẩm tăng bình quân đầu người từ 20 đến 30% (riêng sữa tươi tăng gấp 4,5 lần, lúa gạo tăng 12%). Mức đáp ứng dinh dưỡng bình quân đạt 2.400 Kcl/người/ngày, riêng từ gạo chiếm 72,8% (khoảng hơn 1.600 Kcal/người/ngày). Hàng năm Việt Nam xuất khẩu từ 4,5-5 triệu tấn gạo (đứng thứ 2 thế giới), riêng năm 2008 xuất khẩu 4,74 triệu tấn gạo, thu về 1,9 tỷ USD; thủy sản đạt 4,51 tỷ USD. Do sản xuất phát triển, nguồn lương thực, thực phẩm tăng nhanh, khả năng tiếp cận tốt hơn, nên tỷ lệ nghèo đói và trẻ em suy dinh dưỡng giảm đáng kể. Năm 2007, cả nước tỷ lệ hộ nghèo còn 14,8%, năm 2008 còn 12,1% mỗi năm giảm được 0,7-1,0%  tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33% năm 2002 xuống còn 21,1% năm 2007; đây là một bước tiến quan trọng trong Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 (Bộ NN & PTNT, 2009).

Tuy nhiên, sự phát triển của nông nghiệp nước ta bộc rõ một số thách thức sau đây:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp giảm dần. Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp đạt 4,5%/năm trong những năm 1992-1995, 3,9-4,0% những năm 1995-2000, tiếp tục giảm xuống 3,7% giai đoạn 2000-2005 và tiếp tục giảm tới 2,1-2,8% những năm 2006-2008 (Bộ NN và PTNT, 2009). Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân: cơ sở vật chất kỹ thuật của nông nghiệp nghèo nàn, sản xuất nông nghiệp quá lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên, bị ảnh hưởng lớn của thiên tai. Hơn nữa, năng suất biên của đầu tư trong năng suất tổng số của nền nông nghiệp có xu hướng giảm dần. Điều đó nói lên rằng, hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp đã đạt tới cận trên của đường cong năng suất. Do đó, động lực thúc đẩy cho nông nghiệp tăng trưởng là phải tập trung đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ để có thể tăng năng suất nông nghiệp ổn định và bền vững.

Thứ hai, đầu tư công cho nông nghiệp có xu hướng giảm dần. Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp trong tổng đầu tư công của nền kinh tế từ 15% trong những năm 1997-2006 giảm xuống còn 8,6% trong năm 2007. Đầu tư của xã hội cho nông nghiệp tính trong đầu tư của toàn nền kinh tế giảm từ 13,8% nàm 2000, xuống còn 7,5% năm 2007. Tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài trong ngành nông nghiệp chiếm chưa đầy 4,0% vào năm 2007 (Đặng Kim Sơn, 2008). Thực trạng trên là một trong những lý do quan trọng làm cho tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp chậm lại.

Thứ ba, tỷ lệ giá cánh kéo ngày càng bất lợi cho nông nghiệp. Sự bất lợi trên thể hiện ở chỗ giá đầu ra của nông nghiệp tăng chậm hơn so với mức độ tăng giá đầu vào của nông nghiệp. Trong giai đoạn 1989 – 2000, giá đầu ra của nông nghiệp tăng 14,3%, thì giá đầu vào tăng 19,9%, giai đoạn 2000-2006, giá đầu ra tăng 4,2%, thì giá đầu vào tăng 10,0%. Điều đó có nghĩa là nông dân phải đổi nhiều nông sản hơn để có được một đơn vị đầu vào dùng cho nông nghiệp. Lợi nhuận mà nông dân thu được đang bị giảm dần. TÍnh trừ chi phí, thu nhập một ngày lao động của nông dân Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định, Phú Thọ, Thanh Hoá chỉ chưa đầy 2000-3000đ/ngày công (Đỗ Kim Chung, 2008).

Thứ tư, diện tích đất nông nghiệp đang suy giảm. Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá bình quân mỗi năm cả nước mất khoảng 74.000 ha đất nông nghiệp chuyển thành đất phi nông nghiệp (Nguyễn Sinh Cúc, 2008). Trong giai đoạn 2000 2005 đã có 366,4 nghìn ha đất nông nghiệp chuyển sang phi nông nghiệp (chủ yếu xây dựng hạ tầng, các khu, cụm công nghiệp và đô thị); trong đó 302,5 nghìn ha đất lúa (phần lớn là đất canh tác thuần thục). Ở các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, nếu chuyển 1 ha đất nông nghiệp thành khu công nghiệp thì sẽ làm mất một tài sản kinh tế và ảnh hưởng đến ít nhất 12-25 người dân sống ở nông thôn (Đỗ Kim Chung, 2008). Điều này sẽ đe doạ tới quỹ đất nông nghiệp và khả năng đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm cho Việt Nam. Tình trạng manh mún đất tiếp tục diễn ra bởi quá trình tách hộ, thừa kế tài sản đất đai diễn ra ngày một nhiều. Tình trạng này hạn chế đến việc áp dụng cơ khí và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất nông nghiệp.

2.2. Nông dân

Nông dân sản xuất nhỏ và manh mún. Cả nước hiện nay vó 12,6 triệu hộ nông dân. Bình quân mỗi hộ có 2,2 lao động, canh tác trên 0,4-1,2 ha. Số hộ có diện tích dưới 0,5 ha chiếm tới 61,2%. Nhiều nơi ở đồng bắng sông Hồng và miền Trung chỉ dưới 0,3 ha/hộ, cá biệt có xã quy mô đất sản xuất dưới 0,1 ha/hộ. Trong nông thôn, tỷ lệ số hộ chia đất của mình cho con cái theo truyền thống thừa kế tài sản chiếm tới 90%, trong số đó, số hộ tập trung ruộng đất để phát triển trang trại chưa đầy 3% (Đỗ Kim Chung, 2000). Do vậy, nông dân sản xuất nhỏ, manh mún vẫn là đặc trưng chủ yếu.

Cả nước đến năm 2008 có 113,7 nghìn trang trại. Trong đó, ĐBSCL chiếm 50%; cả ba vùng (ĐBSCL, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ) có 80.063 trang trại, chiếm 70,4% số trang trại cả nước. Xu hướng từ năm 2001 đến nay tăng mạnh trang trại chăn nuôi, thủy sản và sản xuất kinh doanh tổng hợp (đa canh); từ năm 2001 – 2007, trang trại trồng cây hàng năm giảm 35,6% xuống còn 28,7%; trồng cây lâu năm giảm từ 27,2% còn 20,1%; trang trại chăn nuôi tăng từ 2,9% lên 14,6%; trang trại nuôi trồng thủy sản từ 27,9% lên 29,6%… (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009).

Càng làm nông nghiệp nông dân càng nghèo, làm lúa nông dân nghèo hơn. Cả nước 71% dân số làm nông dân, tỷ lệ nghèo là 20,4% cao gấp 4 lần so với cư dân không làm nông dân (5,0%). Cả nước có 53% dân số làm nghề trồng lúa và tỷ lệ nghèo của người trồng lúa là 23,4% gấp 3 lần so với những người không làm lúa (7,5%) (Đỗ Kim Chung, 2009).

Thu nhập của nông dân còn thấp. Mặc dù tỷ lệ lãi trong sản xuất lúa chiếm từ 35-45% (tuỳ vụ), nhưng thu nhập bình quân của hộ nông dân còn thấp (kể cả công lao động tự làm được gần 3 triệu đồng/hộ/vụ). Trong khi đó, việc đóng góp tuy đã giảm nhiều, nhưng bình quân chung vẫn còn cao (2007 còn 28 khoản, Bộ NN và PTNT, 2009). Mặt khác, ở nhiều vùng hạn hán, bão, lũ thường xuyên xảy ra, giá cả còn bấp bênh, nên thu nhập của người sản xuất (nhất là trồng lúa) còn rất thấp, tính rủi ro cao.

Nông dân di cư vào thành thị và các vùng nông thôn khác. Do thu nhập thấp, nông nghiệp trở nên không hấp dẫn, nhiều lao động nông thôn di cư vào thành thị để kiếm việc làm. Do đó, có tới 84,4% số hộ nông thôn ít nhiều có người đi làm thuê ở nơi khác (Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam và CARE, 2006). Tình trạng nông dân di cư vào thành thị đã để lại ở nông thôn một lực lượng lao động nữ và người già. Những người nông dân kiếm việc làm ở thành thị chịu nhiều rủi ro về kinh tế và xã hội.

2.3. Nông thôn

Sự phát triển của nông thôn Việt Nam thể hiện ở các đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao thông, điện góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Đến nay, điện lưới quốc gia đã cấp điện cho 525/536 huyện đạt 97,95% (còn 1 huyện Mường Tè – Lai Châu, và 10 huyện đảo chưa có điệ lưới nhưng đã có điện diesel hoặc thủy điện nhỏ tại chỗ); 10.522 xã phường có điện lưới quốc gia, đạt 96,8%; số hộ có điện lưới quốc gia đat 93,34%; hầu hết các xã (98,9%). Thứ hai, nhà ở nông thôn đã được đầu tư xây dựng mới một cách nhanh chóng. Nhiều xã, thôn ở nông thôn vùng đồng bằng Băc Bộ, vùng miền Trung đã cơ bản hoàn thành việc “xoá” nhà tranh tre, nứa lá; vùng đồng bằng sông Cửu Long cơ bản hoàn thành việc “xoá” nhà tạm, nhà dột nát… Nhiều huyện, xã ở miền Bắc và miền Trung đã cơ bản “ngói hoá” nhà ở. Thứ ba, về thông tin liên lạc: tính đến năm 2006 đã lắp được hơn 2.848 tổng đài bưu điện tại vùng nông thôn, 64/64 tỉnh thành có mạng cáp quang; 100% xã có điện thoại cố định, bình quân 6,67 máy/100 dân; lắp đặt 749 trạm truy cập Internet và hơn 80.000 thuê vao Internet tại khu vực nông thôn; 7.920 điểm bưu điện văn hoá xã, đạt 85,5% (năm 2001 là 72%) (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009). Thứ tư, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện một bước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nông thôn Việt Nam đang phải đương đầu với các thách thức sau đây:

Thứ nhất, dân số tăng nhanh, tài nguyên đất nông nghiệp giảm tính trên đầu người giảm, làm tăng nguy cơ không an ninh về lương thực thực phẩm. Tỷ lệ dân số nông thôn giảm từ 93,1% năm 1930 xuống 75% năm 2005 và 73,0% năm 2009. Cùng với gia tăng dân số, mức ruộng đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm từ 2.542m2 năm 1930 xuống 630m2 vào năm 2005 (bảng 1). Việc giảm diện tích đất nông nghiệp (nhất là đất lúa), cùng với tốc độ tăng dân số còn cao đã làm cho sản lượng lúa bình quân đầu người giảm dần (năm 2005 đạt bình quân 431 kg/người/năm, năm 2006 còn 426 kg, năm 2007 còn 421 kg và năm 2008 còn dưới 410 kg).

Bảng 1: Dân số nông thôn và bình quân đất nông nghiệp trên đầu người của Việt Nam

Năm

Dân số nông thôn (triệu người)

Tỷ lệ dân số nông thôn (%)

Đất nông nghiệp/khẩu (m2)

1930

16,375

93,1

2.542

1960

25,615

84,8

1.671

1990

45,143

80,6

829

2000

59,065

76,5

680

2005

63,750

75,0

630

Nguồn: Số liệu từ 1930-2000 trích trong Đỗ Kim Chung, 200, số liệu 2005 từ Niên giám thống kê.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng ở nông thôn vẫn còn rất nghèo nàn. Tuy nhiều nơi được báo cáo là đã hoàn thành các mục tiêu cơ bản của phát triển nông thôn, nhưng chất lượng các cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn rất thấp.

Thứ ba, nông thôn đang được đô thị hoá và công nghiệp hoá trong bối cảnh chưa có quy hoạch tổng thế. Kiến trúc không gian nông thôn đang bị phá vỡ, môi trương nông thôn đang bị giảm cấp, tình trạng thất nghiệp của cư dân nông thôn đang tăng.

3. Định hướng chính sách cho vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn

3.1. Quan điểm

Để phát triển được nông nghiệp, nông thôn và giải quyết tốt vấn đề nông dân, cần coi nền kinh tế là hai khu vực: khu vực đầu tư công và khu vực tư nhân. Do đó, sự can thiệp chính sách của Chính phủ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn cần tập trung vào khu vực đầu tư công – những lĩnh vực không hấp dẫn đầu tư tư nhân. Đầu tư công là để tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển. Sự can thiệp của Chính phủ phải dựa trên cơ sở cơ chế thị trường. Chính phủ không làm thay thị trường. Thị trường điều tiết kinh tế tư nhân về cơ cấu nền kinh tế nông nghiệp – nông thôn theo quy luật giá trị.

3.2. Một số định hướng chính sách

3.2.1. Định hướng chính sách phát triên nông nghiệp

Thực hiện tốt quy hoạch nông nghiệp. Quy hoạch nông nghiệp phải được đi trước một bước khi quy hoạch công nghiệp và đô thị. Quy hoạch nông nghiệp phải mang tính lâu dài, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia một cách bền vững, không phải 5 hay 10 năm mà là phải nhiều thập kỷ. Từ quy hoạch tổng thể mới có căn cứ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn.

Tăng cường đầu tư công cho nông nghiệp. Lĩnh vực đầu tư công của nông nghiệp nhằm tạo điều kiện để kinh tế tư nhân, các tổ chức kinh tế nâng cao được năng lực cạnh tranh, tham gia hiệu quả vào thị trường. Đầu tư công của nông nghiệp tập trung vào các lĩnh vực không hấp dẫn đầu tư tư nhân như tăng cường cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, giao thông, kiểm soát dịch bệnh, phòng chống thiên tai, nghiên cứu khoa học, khuyến nông, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin.

Thực hiện đổi mới công nghiệp áp dụng trong nông nghiệp theo hướng công nghệ chi phí thấp, tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của nông nghiệp.

Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp. Phân định rõ vai trò của Nhà nước và của thị trường trong việc phát triiển nông nghiệp. Tránh tình trạng Nhà nước làm thay thị trường.

3.2.2. Định hướng chính sách đối với nông dân

Tập trung nguồn lực tiến hành hỗ trợ nông dân về kiến thức và kỹ năng để ra các quyết định trong cơ chế thị trường. Thực hiện đào tạo nghề, nhất là ở những nơi đô thị hoá và thu hồi đất làm khu công nghiệp. Thực hiện tốt công tác khuyến nông, chuyển giao công nghệ để nông dân sản xuất hàng hoá, tăng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Tăng cường vai trò của các tổ chức tự quản của Hội nông dân. Có chính sách cụ thể cho nông dân ở các vùng sản xuất khác nhau, nhất là các vùng được quy hoạch đảm bảo an ninh về lương thực thực phẩm. Gắn đầu tư công với phát triển kinh tế và xoá bỏ đói giảm nghèo một cách bền vững. Tôn trọng và có chính sách đảm bảo cho chuyển dịch có hiệu qủa lao động nông thôn. Xoá bỏ chính sách hộ khẩu để cho lao động tự do chuyển dịch, tìm cơ hội việc làm.

3.2.3. Định hướng chính sách phát triển nông thôn

Để phát triển bền vững nông thôn, phải thực hiện đồng thời các giải pháp về kinh tế, xã hội và môi trường. Về kinh tế cần tập trung đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, kiến trúc nông thôn, cung cấp thông tin, áp dụng công nghệ để tăng cao sức cạnh tranh của sản phẩm được sản xuất từ nông thôn. Về xã hội, phải phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, kiến trúc nông thôn, cung cấp thông tin, áp dụng công nghệ để tăng cao sức cạnh tranh của sản phẩm được sản xuất từ nông thôn. Về xã hội, phải phát triển tổ chức xã hội theo hướng tăng cao vai trò và sự tham gia của cư dân nông thôn. Cần chấp nhận nền kinh tế nông thôn có hộ nông dân, trang trại và các doanh nghiệp phát triển ở các mức độ khác nhau, thậm chí cả nông dân không đất. Tôn trọng và tạo điều kiện cho thị trường sức lao động, thi trường đất đai và thị trường khoa học công nghệ phát triển. Về môi trường, cần bảo tồn tài nguyên đất, nước và sinh vật, thực hiện quản lý tốt môi trường nông thôn./.

Tài liệu tham khảo

1.    Đỗ Kim Chung, 2002, Từ marketing nông nghiệp sang marketing thực phẩm nông sản: Kinh nghiệm từ các nước Châu Á, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế ssó 291, tháng 11-2002.

2.    Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2006, Báo cáo về đa dạng sinh học, Hà Nội.

3.    Đỗ Kim Chung, 2000, Thị trường đất đai trong nông nghiệp Việt Nam: Thực trạng và các định hướng chính sách, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 260, tr.21-31.

4.    Đỗ Kim Chung, 2003, Rural development for Poverty Reduction and Growth in Vietnam, Vietnam Journal of Agriculture and Rural Development, Hanoi, pp 30-32.

5.    Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2009, Đề án an ninh lương thực quốc gia đến năm 2020, Hà Nội.

6.    Đặng Kim Sơn, 2008, Nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.

7.    Đỗ Kim Chung, 2008, Học thuyết kinh tế đối ngẫu trong phát triên nông thôn: bài học kinh nghiệm của Trung Quốc cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 371, tr.46-50.

8.    Đỗ Kim Chung, 2009, An ninh lương thực thực phẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, định hướng chính sách cho Việt Nam, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 135, năm 2009.

9.    Nguyễn Sinh Cúc, 2008, Làm gì để phát triển bền vững tam nông trong thời gian tới. Tạp chí Ban tuyên giáo trung ương, http://tuyengiao.vn/Home/diendan/2008/7/74.aspx  trích lúc 13h23’ ngày 18/7/2008.

10.  Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam và CARE, 2006, Kết quả điều tra lao động di cư ở nông thôn.

Quá Trình Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Nông Nghiệp, Nông Thôn Ở Việt Nam

Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Những năm gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của nông nghiệp, nông thôn không những không giảm sút, mà có những nét mới, cao hơn so với vai trò trước đây. Vai trò mới này xuất hiện từ chính xã hội công nghiệp và thành thị hiện đại. Bên cạnh những vai trò có tính truyền thống trước đây, nông nghiệp, nông thôn còn có vai trò trong việc thỏa mãn những nhu cầu mới xuất hiện từ chính xã hội công nghiệp và nền văn minh công nghiệp, từ yêu cầu phát triển bền vững và lấy con người là mục tiêu của sự phát triển.

Bài học, kinh nghiệm của những thành công trong phát triển nông nghiệp và nông thôn ở một số nước phát triển rất có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, hiện thực hóa hình ảnh thể hiện vai trò, vị trí mới của nông nghiệp, nông thôn ở các nước đang phát triển là quá trình lâu dài và phức tạp. Lâu dài vì trình độ hiện tại của nông nghiệp còn thấp kém và giữa nông thôn và đô thị còn có sự chênh lệch lớn. Phức tạp vì vừa phải định hình cái tương lai, vừa phải cải tạo cái hiện hữu và vấp phải những cản trở từ tính thủ cựu vốn có của một bộ phận dân cư nông thôn. Và, để hiện thực được điều đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Có thể thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là một quy luật có tính phổ biến trong phát triển của tất cả các quốc gia. Còn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận hợp thành của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nằm trong tổng thể quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, song vị trí đặc biệt quan trọng, tầm ảnh hưởng sâu rộng cả về kinh tế và xã hội, cũng như những đặc thù của khu vực nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên những nét đặc thù về mục tiêu, nội dung, con đường, bước đi và các giải pháp thực hiện quá trình này, bởi thành công ở khu vực này có tác động tạo nền tảng và thúc đẩy nhanh, có hiệu quả và bền vững tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ngược lại, sự trục trặc trong khu vực này chắc chắn sẽ gây nên những tác động tiêu cực khôn lường cả về kinh tế, chính trị và xã hội.

Thực tế nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á và Đông Á trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ 1997 – 1998 và kinh nghiệm của ngay chúng ta sau khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã chỉ ra bài học cực kỳ quan trọng là: nông nghiệp, nông thôn là bàn đạp khi phát triển ổn định, chỗ dựa an toàn khi khủng hoảng. Bài học này càng có ý nghĩa với Việt Nam chúng ta khi có đến 70% dân số vẫn sinh sống ở khu vực này.

Mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời đại ngày nay là chuyển nông nghiệp, nông thôn từ trạng thái của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, manh mún, trình độ kỹ thuật, năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp, mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ cựu kiểu tiểu nông sang trạng thái của nền kinh tế công nghiệp và văn minh công nghiệp có chứa đựng những yếu tố nhất định của nền kinh tế tri thức và văn minh trí tuệ.

Với vị trí trọng yếu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc xác định đúng vai trò, vị trí, mục tiêu và các giải pháp chiến lược thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không chỉ có ý nghĩa với việc tạo sự chuyển biến về chất các mặt của đời sống kinh tế – xã hội ở nông thôn, mà còn có ý nghĩa chung với toàn bộ sự phát triển của đất nước.

Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn coi “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, khóa X của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã khẳng định. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định: Phát triển nông – lâm – ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn. Đồng thời, khẳng định ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn.

Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta

Có thể thấy, nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bao hàm hai vế. Vế thứ nhất, đó là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Đây là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu của khoa học – công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trên thị trường.

Ở vế thứ hai, đó là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Đây là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, việc phát triển lực lượng sản xuất phải được thực hiện đồng bộ ở cả các yếu tố vật chất và yếu tố con người. Song, trong sự giới hạn về nguồn lực và với điểm xuất phát thấp, cần lựa chọn được nội dung trọng tâm mang tính đột phá và nội dung mang tính hỗ trợ, nội dung mang tính điều kiện.

Với mục tiêu tổng quát và lâu dài của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển ngày càng hiện đại, Đảng ta đã đưa ra những chủ trương và giải pháp lớn sau:

– Phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn;

– Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;

– Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa nông thôn;

– Xây dựng đời sống văn hóa – xã hội và phát triển nguồn nhân lực;

– Các giải pháp về quy hoạch, khoa học – công nghệ, đất đai, tài chính, tín dụng, lao động và việc làm, thương mại và hội nhập kinh tế.

Xét tổng quát, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn những năm qua bao hàm những nội dung cơ bản sau đây:

– Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn; huy động sự tham gia chủ động, rộng rãi và có hiệu quả của mọi lực lượng trong xã hội vào phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn;

– Xây dựng nền kinh tế thị trường văn minh thay thế cho nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ mang nặng tính chất tự cung tự cấp của những người tiểu nông;

– Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng hiện đại đủ điều kiện đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống vật chất – văn hóa của dân cư, có thuần phong mỹ tục, lối sống với bản sắc nông thôn được hài hòa với nền văn minh công nghiệp và văn minh trí tuệ và môi trường sinh thái trong lành;

– Xây dựng con người mới ở nông thôn bảo đảm được các yêu cầu: có tri thức làm chủ quá trình hoạt động của mình; có tính cộng đồng cao; năng động đổi mới và tiếp thu cái mới; tư duy, lối sống văn minh hiện đại nhưng vẫn giữ được bản sắc của người dân nông thôn…

Một số vấn đề đặt ra để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay

Với những nỗ lực chung, năm 2015 cho thấy tốc độ tăng trưởng nông nghiệp tốt hơn các năm trước đây, Việt Nam cũng xuất khẩu được xấp xỉ 30 tỷ USD nông sản. Tập trung tổ chức lại sản xuất, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi theo nhu cầu thị trường và xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Sản lượng lương thực tăng ổn định, sản lượng lúa năm 2015 đạt khoảng 44,8 triệu tấn. Phát triển mạnh khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt thứ hạng cao trên thế giới, như gạo, cà-phê, cao-su, hồ tiêu, hạt điều, cá tra, tôm, sản phẩm gỗ chế biến…

Đã rà soát, điều chỉnh các chính sách, tiêu chí nông thôn mới phù hợp hơn với đặc thù từng vùng. Đến hết năm 2015, có khoảng 1.500 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 16,8% tổng số xã. Cùng với phong trào xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã có những bước tiến quan trọng góp phần tạo nền tảng cho nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay, đó là:

– Nội lực ngành nông nghiệp khởi điểm ban đầu rất thấp, quy mô hộ nông nhỏ, chỉ vào khoảng 0,5 ha/hộ. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc cơ giới hóa và làm sản xuất lớn.

– Kết cấu hạ tầng nông thôn còn lạc hậu. Mặc dù phong trào xây dựng nông thôn mới đã được 5 năm, nhiều con đường trong các thôn bản đã khá tốt nhưng các đường vận tải, hệ thống trục chính vẫn còn thiếu.

– Mức độ đầu tư cho nông nghiệp thấp. Tuy gần đây, đã có một số doanh nghiệp lớn bắt đầu chuyển sang đầu tư cho nông nghiệp nhưng nhìn chung vẫn ít, chưa đáp ứng yêu cầu. Đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp không đáng kể. Nói chung đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp là rất thấp so với công sức đóng góp của ngành này cho xã hội.

Nông nghiệp Việt Nam với vị trí là cái gốc của đất nước, là cái lợi thế rõ ràng nhất. Bởi vậy, rất cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đây là con đường tất yếu đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, cải thiện đời sống dân cư. Song trên thế giới, không phải nước nào cũng đạt được thành công khi thực hiện nhiệm vụ này. Khoảng cách về trình độ phát triển của các nước có xu hướng gia tăng. Về nguyên tắc, để thu hẹp khoảng cách này lại đòi hỏi phải rút ngắn thời gian thực hiện các nội dung của quá trình công nghiệp hóa.

Ngày nay, khát vọng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa lại được khích lệ bằng một thực tế là thời gian thực hiện công nghiệp hóa của những nước đi sau thường ngắn hơn so với các nước đi trước. Nếu như, Hoa Kỳ và các nước Tây Âu mất khoảng 100 năm để hoàn thành công nghiệp hóa, thì Nhật Bản mất khoảng 50 năm, các nước công nghiệp mới chỉ cần 30 đến 35 năm. Vì vậy, với nước đi sau như chúng ta, nhiệm vụ đặt ra phải hoàn thành trong thời gian ngắn hơn, tức khoảng 20 – 25 năm.

Để thực hiện được mục tiêu này, trong thời gian tới, việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn phải chú ý đầy đủ cả 4 nội dung:

Thứ nhất, phải gắn với quá trình tăng năng suất của các ngành kinh tế nông thôn và năng suất lao động nông thôn.

Thứ hai, gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng gia tăng chất lượng tăng trưởng và tính bền vững.

Thứ ba, phải được thể hiện ở sự tăng lên của hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế ở nông thôn, trước hết và chủ yếu là trong nông nghiệp.

Thứ tư, phải gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ. Chiến lược phát triển công nghiệp và dịch vụ cần tính toán đến thế mạnh của nông nghiệp, phải phát triển những ngành công nghiệp chế biến nông sản, những cụm công nghiệp để thúc đẩy kinh tế nông thôn.

Phát Triển Nông Nghiệp Và Nông Thôn Bền Vững

Nông, lâm, ngư nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam, hiện sản xuất ra gần 1/4 GDP. Trong những năm 1990, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã có những bước phát triển, tiến bộ đáng kể. Sản xuất lương thực, đặc biệt là lúa, tâng lên liên tục cả về diện tích gieo trồng và nãng suất, đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Thâm canh trở thành xu hướng chủ đạo trong nền nông nghiệp với việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới về giống, quy trình canh tác và chế biến sản phẩm. Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có những chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá và định hướng theo thị trường. Tuy nhiên, còn không ít thách thức đối với sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, đó là:Ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, manh mún, không phù hợp với yêu cầu của việc sản xuất hàng hoá lớn, tập trung.Quá trình cơ giới hoá nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến còn diễn ra chậm chạp. Hầu hết các khâu sản xuất ở những vùng nông nghiệp đều làm thủ công, dẫn đến năng suất lao động nông nghiệp rất thấp.Công nghiệp tác động vào nông, lâm, ngư nghiệp còn yếu, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản.Thị trường nông sản không ổn định, giá cả thay đổi theo chiều hướng bất lợi đối với nông dân.Tinh trạng giảm sút đa dạng gen ở giống cây trồng, vật nuôi do trào lưu thay thế giống truyền thống bằng giống mới đang làm cho việc phòng chống sâu bệnh khó khăn hơn. Việc sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng một cách tùy tiện đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường sinh thái dẫn đến thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại cho sức khoẻ con người.Công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển mạnh ở nhiều vùng nông thôn, thu hút khoảng 2 triệu lao động đã tạo thêm công ăn việc làm và làm tăng thu nhập của dân cư. Song công nghệ sản xuất còn lạc hậu, sức cạnh tranh kém, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm là những nguyên nhân cản trở sự phát triển ổn định của khu vực này. Việc phát triển thiếu Quy hoạch và thiếu đầu tư thoả đáng cho bảo vệ tài nguyên và môi trường, các khu vực sản xuất nhỏ này đang gây ra ô nhiễm môi trường sinh sống tại các cộng đồng nông thôn, đặc biệt ở một số làng nghề.Tinh trạng bóc lột tài nguyên đất đai và trong lòng đất, rừng, động thực vật ở các vùng nông thôn cũng đang làm lãng phí nhiều nguồn tài nguyên quý không thể tái tạo được.Để phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững, chúng ta phải chú ý đến các hoạt động ưu tiên sau:a) Về luật pháp– Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách đồng bộ về phát triển nông nghiệp; hộ thống quản lý và bảo vệ tài nguyên đất đai, tài nguyên nước, các giống cây trồng, vật nuôi, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác sử dụng trong nông, lâm, ngư nghiệp; các phương pháp canh tác tiên tiến và vấn đề bảõ vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn.– Tăng cường sự phối hợp công tác giữa các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, môi trường và các cơ quan quản lý khác. Tiếp tục bồi dưỡng cán bộ quản lý ở Trung ương và địa phương nhằm nâng cao năng lực đội ngũ quản lý cho phát triển nông nghiệp bền vững.– Quy hoạch phát triển nông thôn, khuyến khích đô thị hóa nông thôn một cách hợp lý thông qua các chính sách tài chính; phát triển công nghệ và chính sách dân số, nhằm tạo sự phát triển bền vững ở cả nông thôn và đô thị, tạo lập mối quan hệ hợp lý về phân công lao động, trao đổi và thúc đẩy lãn nhau giữa nông thôn và đô thị, làm cho đời sống vật chất ở nông thôn ngày càng đầy đủ tiện nghi và đời sống văn hóa, tinh thần ngày càng văn minh, tiến bộ.b) Về kinh tế– Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh mún, phân tán, dồn điền đổi thửa để tạo điều kiện thích hợp cho canh tác theo những phương thức lớn hiện đại.– Xây dựng và thực hiện những chương trình nâng cao năng suất đất đai, sử dụng hợp lý nguồn nước ở các địa phương, áp dụng những hệ thống sản xuất kết hợp nông-lâm, nông – lâm – ngư nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng nhằm sử dụng tổng hợp và có hiệu quả các loại tài nguyên đất nước và khí hậu.– Mở rộng sản xuất và thị trường sản phẩm nông nghiệp sạch, chú trọng khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm nhằm tạo cho người tiêu dùng niềm tin vào mức độ vệ sinh, an toàn của nông sản, thực phẩm.– Phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm chãn nuôi, thuỷ sản, dầu ãn, đường, rau, hoa quả để tăng chủng loại, quy mô và hiệu quả sản xuất lương thực thực phẩm. Cải thiện chất lượng môi trường công nghiệp chế biến. Hoàn thiện các hệ thống kho lưu giữ, bảo quản hệ thống chế biến và phân phối lương thực ở mọi cấp, đặc biệt đối với việc dự trữ lương thực quốc gia.– Đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại kinh tế, giống cây trồng vật nuôi và sử dụng nguồn lao động nông thôn. Đa dạng hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh nhằm tạo thêm việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập, phân công lại lao động nông thôn, tạo điều kiện cho việc định cư ổn định giảm bớt sức ép di dân từ nông thôn ra thành thị.– Cúng cố và hoàn thiện hơn nữa hệ thống dịch vụ kỹ thuật hiện có đối với các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi và thuỷ sản. Thiết lập một hệ thống hướng dẫn sản xuất và tiêu thụ nông sản.– Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển các công trình thuỷ lợi nhằm tãng diện tích được tưới tiêu chủ động. Giải quyết vấn đề cung cấp nước sạch cho người dân và vật nuôi ở những vùng dân cư nghèo.– Phát triển các ngành nghề và doanh nghiệp phi nông nghiệp ở nông thôn phải đi đôi với việc xây dựng và mở rộng các khu công nghiệp tập trung, có đủ kết cấu hạ tầng bảo đảm hạn chế khả năng gây ô nhiễm. Nghiên cứu để hình thành mạng lưới các tổ chức làm công tác tư vấn, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống. Chủ động quy hoạch và xây dựng các cụm làng nghề, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung ở vùng nông thôn để phát triển kinh tế, đồng thời làm giảm ô nhiễm môi trường do các ngành nghể này gây ra.c) Về kỹ thuật và công nghệ– Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển những giống cây trồng và vật nuôi có nâng suất, chất lượng và sức chống chịu sâu bệnh cao, không thoái hoá, không làm tổn hại tới đa dạng sinh học. Thành lập các trung tâm sản xuất giống chất lượng cao, nhập khẩu có chọn lọc và thấm định kỹ những giống cây trồng, vật nuôi của nước ngoài.– Phát triển sản xuất phân bón hữu cơ, phân bón sinh học, phân bón phân giải chậm phục vụ cho việc phát triển nền nông nghiệp sinh thái.– Mở rộng việc áp dụng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, thực hiện phổ cập quy trình phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM).– Bảo tồn nguồn gen giống cây trồng, vật nuôi của địa phương.– Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến để bảo quản, chế biến nông, lâm, thủy sản.

Bản Sắc Dân Tộc Của Văn Hoá Việt Nam Với Sự Nghiệp Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá

Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Đó chính là mọi tiềm năng sáng tạo của từng con người cũng như của cả dân tộc Việt Nam. Tiềm năng sáng tạo đó được xây dựng dựa trên nền tảng của một nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế”.

Do đó, nghiên cứu bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam gắn với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vừa có ý nghĩa lâu dài, vừa mang tính thời sự cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.

1. Quan niệm về bản sắc dân tộc của văn hóa và bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam

Bản sắc dân tộc không chỉ bao gồm văn hóa mà là tập hợp những đặc trưng cho một quốc gia. Tuy nhiên, khi nói bản sắc của một dân tộc thì chủ yếu là nói bản sắc văn hóa của một dân tộc, hay bản sắc văn hóa của dân tộc chính là nói đến sắc thái đặc trưng của dân tộc. Như vậy, bản sắc văn hóa chính là sắc thái, là cái gốc của một nền văn hóa, những đặc trưng riêng không thể trộn lẫn trong cội nguồn văn hóa của mỗi dân tộc. Nó được lắng đọng, kết tinh, được quy định từ hoàn cảnh lịch sử, địa lý, trình độ nhận thức và thực tiễn, tâm lý…của mỗi dân tộc, tạo thành truyền thống và cơ sở tồn tại cho đời sống tinh thần dân tộc.

Như trên đã phân tích, có thể hiểu bản sắc dân tộc của văn hóa chính là cốt lõi, sắc thái, dấu ấn riêng và là linh hồn của một nền văn hóa. Theo nghĩa này, bản sắc dân tộc của văn hóa gắn liền với sự tồn tại của dân tộc. Bản sắc dân tộc của văn hóa còn thì dân tộc còn, mất bản sắc dân tộc của văn hóa thì mất dân tộc. Bản sắc dân tộc của văn hóa biểu hiện chủ yếu trong cốt cách tâm hồn của con người và các di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể), thể hiện trong mọi mặt đời sống, hoạt động và mối quan hệ xã hội của mỗi dân tộc.

Có thể nhận thấy bản sắc dân tộc của văn hóa có đặc điểm như sau: Thứ nhất, là một hệ thống giá trị văn hóa đã được hình thành và phát triển trong suốt lịch sử của mỗi dân tộc, mang đậm trí tuệ, phong cách văn hóa tạo thành sắc thái, dấu ấn, bản lĩnh riêng, thành cái cốt lõi, tinh túy, là linh hồn và truyền thống của một dân tộc, thể hiện trong hoạt động vật chất và tinh thần của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc; Thứ hai, nó luôn phát huy tính tích cực trong đời sống xã hội đương đại, và thể hiện không chỉ là những giá trị trong quá khứ mà còn là những giá trị hiện thực, hướng đến tương lai.

Đảng ta khẳng định: “Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cường, nhân dân ta đã xây dựng nên một nền văn hóa kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam”. Và “Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết; tính cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng – nước; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tế nhị trong cư xử, giản dị trong lối sống…. Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo”.

Mỗi dân tộc đều có điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội riêng tạo nên nền văn hóa mang bản sắc riêng của từng dân tộc. Có thể thấy, các giá trị bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam được tạo nên từ những điều cơ bản sau:

Thứ nhất, quốc gia dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm, gắn liền với nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với hình thức tổ chức cộng đồng làng, xã đã tạo nên một dân tộc định cư, gắn bó với quê hương, Tổ quốc. Cư dân Việt sớm hình thành về ý thức quốc gia dân tộc và tình cảm của mình đối với đất nước.

Thứ hai, nhìn một cách đại thể, xã hội Việt Nam chưa bao giờ có một phương thức sản xuất hoàn thiện, mà tồn tại một phương thức sản xuất mang tính phức tạp và khó phân kỳ lịch sử. Do đó, nó chi phối đến việc hình thành tập quán, văn hóa, tư tưởng và ghi đậm dấu ấn vào bản sắc văn hóa dân tộc.

Thứ ba, dân tộc ta từ khi hình thành quốc gia – dân tộc luôn nêu cao tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trải qua thời gian nó đã được hun đúc, kết tinh và tạo nên trong đời sống của người Việt Nam một bản sắc riêng in đậm dấu ấn với những giá trị tinh thần của dân tộc được tạo nên nhằm bảo vệ sự sống còn của dân tộc, bảo vệ độc lập tự chủ của quốc gia.

Thứ tư, vị trí địa chính trị – kinh tế hết sức thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế – xã hội và đặc biệt là giao lưu văn hóa. Dân tộc Việt Nam ngay từ sớm đã biết mở rộng, tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại. Xét đến cùng, yếu tố chính để quyết định nội dung và bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam chính là cuộc sinh tồn lịch sử của dân tộc Việt Nam.

2. Vai trò của bản sắc dân tộc và văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

Lịch sử phát triển công nghiệp hóa trên thế giới tính đến nay đã được hơn 200 năm, với nhiều mô hình khác nhau. Gắn với các mô hình công nghiệp hóa tùy theo góc độ nghiên cứu có rất nhiều quan niệm khác nhau về nó. Đối với các nước phát triển thì xem công nghiệp hóa là quá trình tiếp tục ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới vào các lĩnh vực của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển hơn. Đối với các nước đang phát triển thì hiểu công nghiệp hóa là quá trình sử dụng những thành tựu khoa học – công nghệ để thay đổi toàn bộ mọi mặt của đất nước, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Và đối với các nước XHCN ở thập niên 70, 80 của thế kỷ XX thì xem công nghiệp hóa là phát triển công nghiệp nặng.

Hội nghị lần thứ bảy BCH TƯ Đảng khóa VII đã xác định: “công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, có khả năng tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

Thuật ngữ công nghiệp hóa luôn gắn liền với hiện đại hóa, trở thành một quá trình thống nhất và toàn diện. Khái niệm hiện đại hóa đang sử dụng ở những góc độ khác nhau. Ở góc độ kỹ thuật, cụm từ “hiện đại hóa” được hiểu là hiện đại hóa công nghệ sản xuất, công cụ lao động…mang một ý nghĩa tiến bộ và phát triển, hay nói một cách khác là sự thay đổi và hoàn thiện của phương thức sản xuất. Khi xem xét ở góc độ xã hội, hiện đại hóa là một hình thức phát triển xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ truyền thống sang hiện đại. Có thể hiểu một cách chung nhất, hiện đại hóa là quá trình sử dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật tiên tiến của nhân loại để áp dụng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho xã hội phát triển hiện đại, văn minh và mục tiêu cao nhất là hiện đại hóa đời sống con người.

Như vậy, CNH, HĐH là hai quá trình nối tiếp và đan xen nhau, “CNH, HĐH trong thời đại ngày nay là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở trình độ khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến có nền kinh tế phát triển cao, xã hội được  tổ chức khoa học và hợp lý, mà còn ở đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con người, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc”.

Hội nghị lần thứ bảy BCH TƯ Đảng khóa VII chỉ rõ: “CNH, HĐH phải được tiến hành theo mô hình một nền kinh tế mở, cả trong nước và với nước ngoài” nhằm “đẩy tới một bước sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”.

Một mô hình CNH, HĐH mới về chất được áp dụng với những đặc điểm nổi bật sau: 1) đó là việc chuyển đổi cơ chế kinh tế tạo nên sự thay đổi phương thức tiến hành công nghiệp hóa với sự kết hợp của tổng thể các nguồn lực trong và ngoài nước; 2) công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại hóa những khâu quyết định; 3) CNH, HĐH thực hiện trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản; 4) CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo; 5) khoa học và công nghệ được xác định là nền tảng, là động lực của CNH, HĐH; 6) CNH, HĐH gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện một chính sách mở cửa, hướng ra thị trường thế giới, tạo thế cạnh tranh và hợp tác quốc tế trên phạm vi toàn cầu.

Xét về bản chất chính trị – kinh tế – xã hội, CNH, HĐH ở nước ta khác căn bản so với CNH, HĐH từng diễn ra ở các nước tư bản phát triển hoặc các nước công nghiệp mới. Bởi vì, công cuộc CNH, HĐH ở nước ta là để xây dựng CNXH, “CNH, HĐH theo định hướng XHCN”. Cho nên, mục tiêu trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài cần đạt tới trong tiến trình CNH, HĐH là vì “lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội”.

Giáo sư Hoàng Chí Bảo cho rằng: “CNH, HĐH thực chất là một cuộc vận động văn hóa lớn diễn ra trên tất cả các khu vực của sản xuất và trên toàn bộ đời sống của chúng ta ngày nay”. Lấy sức mạnh của bản sắc dân tộc, phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam làm động lực cho sự nghiệp CNH, HĐH. Như vậy, bản sắc dân tộc của văn hóa sẽ phải đứng trước những yêu cầu của thời đại, tiếp biến và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống để tạo nên sức mạnh nội sinh thúc đẩy CNH, HĐH. Đồng thời sự thành công của quá trình đó sẽ góp phần giữ gìn và nâng cao các giá trị bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.

Bài học kinh nghiệm của Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa và kinh nghiệm của các nước tiến hành CNH, HĐH trước đây cho thấy, các quốc gia muốn tiến đến một sự phát triển theo đúng nghĩa của nó phải biết dựa trên nền tảng văn hóa – bản sắc dân tộc của văn hóa. Từ nhận thức trên, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình CNH, HĐH đã xác định: “Phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường… phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên CNXH”. Như vậy, cùng với việc xác định con đường phát triển đất nước, tiến trình CNH, HĐH chắc chắn chúng ta phải xác định được nền tảng tinh thần vững chắc cho sự phát triển. Nền tảng vững chắc đó chính là một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. “nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể thương thân” đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động… Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái”.

Mặt khác, để có được sự thành công trong công cuộc CNH, HĐH không thể không khai thác có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên, sử dụng triệt để cơ sở vật chất, khoa học – kỹ thuật và tận dụng nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Song để phát triển bền vững, điều thiết yếu là phải phát huy tối đa nguồn lực lâu bền quan trọng nhất – nguồn lực con người Việt Nam. Hội nghị lần thứ năm BCH TƯ Đảng khóa VIII đã nhấn mạnh: “nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam”. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam sẽ là sức mạnh tinh thần vượt qua mọi thử thách trong quá trình CNH, HĐH. Chính sức mạnh tinh thần ấy sẽ điều chỉnh mọi mặt của xã hội và hướng đến sự phát triển bền vững của đất nước.

Cập nhật thông tin chi tiết về Vấn Đề Nông Dân, Nông Nghiệp, Nông Thôn Trong Sự Nghiệp Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Hiện Nay: Quan Điểm Và Những Định Hướng Chính Sách trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!