Bạn đang xem bài viết Vài Giả Thuyết Về Sự Sống được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Lời mở đầu
Tôi cũng coi những tư tưởng nầy là “lối sống” của mình vì chúng có ảnh hưởng đáng kể đến cách hành xử của tôi trong đời sống hàng ngày. Ở đây tôi không cố ý chỉ trích phê bình một chủ thuyết nào, và nhất là không có ý định khuyến dụ bất cứ ai.
Sinh lực (Life force)
Tất cả mọi vật đều có thể được coi là tập hợp của năng lượng và có thể được phân tích hay giải thích theo ý nghĩa của năng lượng.
Mỗi người chúng ta đều có một cơ thể vật chất và một cơ thể phi vật chất. Ý niệm về cơ thể phi vật chất nầy cũng tương tự, nhưng có thể không hoàn toàn giống, với ý niệm “linh hồn” thông thường trong dân gian. Cả hai cơ thể vật chất và phi vật chất nầy là sự biểu hiện của một “sinh lực” trong mỗi cá thể. Trong bài nầy, từ “sinh lực” nên được hiểu trong nghĩa là “lực mang lại và chứa đựng sự sống”. Sinh lực nầy hiện hữu trong mỗi người, riêng biệt và có tính cá thể. Sinh lực của mỗi người biến đổi không ngừng từ hình dạng, cường độ đến tính chất, nhưng không thể được tạo thành từ sự trống rỗng và không thể bị tiêu hủy hoàn toàn. Theo định luật bảo toàn năng lượng, “năng lượng chỉ có thể bị biến cải từ dạng nầy sang dạng khác chứ không bao giờ bị tiêu hủy”.
Sinh lực hiện diện trong tất cả sinh vật. Nói chung, sinh lực của một con người mạnh hơn sinh lực của một con thú, và sinh lực của một con thú mạnh hơn nhiều so với sinh lực của thực vật. Cơ thể phi vật chất trong một con người được hình thành bởi phần sinh lực lớn hơn nhiều so với phần sinh lực cơ thể vật chất. Có nghĩa là về phương diện năng lượng thì phần cơ thể phi vật chất của một người quan trọng gấp nhiều lần so với phần cơ thể vật chất. Phần cơ thể phi vật chất của thú vật cũng quan trọng hơn phần cơ thể vật chất, tuy nhiên tỉ lệ khác biệt giữa hai thành phần nầy không lớn bằng trường hợp trong con người. Hầu hết sinh lực của thực vật nằm trong phần cơ thể vật chất của chúng. Phần cơ thể phi vật chất của thực vật có thể được coi là không đáng kể.
Phần lượng sinh lực trong cơ thể phi vật chất của mỗi người đều khác nhau. Một người càng tiến bộ về phương diện tâm linh thì phần sinh lực trong cơ thể phi vật chất của người nầy càng lớn. Trong thú vật, phần sinh lực của cơ thể phi vật chất cũng khác nhau tùy theo loài thú. Đây là do sự khác nhau ở trình độ phát triển tiến hóa tâm linh nói chung của mỗi loài thú.
Vật vô sinh (thí dụ như đất đá) có những dạng năng lượng khác nhau (thí dụ như từ trường) với phẩm chất thấp kém hơn nhiều so với trong sinh vật nên không được coi là có sinh lực.
Sinh thể có thể được định nghĩa là mỗi đơn vị nguyên vẹn với đầy đủ cá tính của sự sống. Trong thế giới nầy, thí dụ như mỗi con người, mỗi con thú, mỗi cây cỏ là một sinh thể.
Sinh dạng (life form)
Tôi cho rằng sự sống hiện hữu trong nhiều dạng. Có bao nhiêu dạng khác ngoài cái dạng thể mà chúng ta cảm nhận được thì ta không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng có vô số dạng thể khác nhau của sự sống mà ở đây tôi xin gọi là “sinh dạng”. Những sinh dạng nầy, đối với loài người chúng ta, được chia làm hai nhóm: sinh dạng trong những thế giới vật chất và sinh dạng trong những thế giới phi vật chất.
Sinh dạng trong thế giới vật chất gồm có sự sống ở trên địa cầu cũng như tất cả các sự sống khác ở trên những thái dương hệ hay thiên hà khác trong vũ trụ. Những thế giới nầy là “thế giới vật chất” vì chúng ta có thể cảm nhận được chúng bằng ngũ quan. Sinh dạng trong thế giới vật chất chịu ảnh hưởng bởi những quy luật vật lý hoặc quen thuộc hoặc không quen thuộc với loài người. Cho đến nay chúng ta chưa có đủ bằng chứng chắc chắn về sự hiện hữu của những sự sống khác trong vũ trụ; tuy nhiên xác xuất nầy rất lớn. Những ai nhìn lên bầu trời đầy sao ban đêm và nghĩ rằng giữa tỉ tỉ thiên thể trong vũ trụ chỉ có một hạt bụi nhỏ bé gọi là địa cầu nầy mới có sự sống thì người ấy vừa ngây thơ vừa kiêu ngạo. Đó là chưa kể đến việc vũ trụ nầy có thể chỉ là một trong vô số những vũ trụ khác đang hiện hữu.
Dạng vật thể mà chúng ta cảm nhận được hàng ngày trong thế giới của chúng ta có thể được giải thích bằng những hạt cơ bản vô cùng bé mệnh danh là điện tử, hạt nhân hay các hạt hạ nguyên tử (subatomic). Tuy nhiên vật thể cũng hiện diện dưới nhiều dạng khác nữa. Những dạng vật thể khác nầy tạo thành những thế giới mà tôi xin gọi là thế giới phi vật chất. Các cấu trúc cơ bản của những loại vật thể nầy khác hẳn với loại vật thể trong thế giới chúng ta. Ở trạng thái thông thường các loại vật thể nầy và loại vật thể trong thế giới của chúng ta không cảm nhận sự hiện diện lẫn nhau được. Nói cách khác, trong điều kiện bình thường thì những thế giới phi vật chất nầy hoàn toàn không hiện hữu đối với chúng ta, và ngược lại.
Con người không thể dùng ngũ quan để cảm nhận những vật thể trong những thế giới phi vật chất nầy. Tuy vậy cần nhớ rằng con người cũng không thể cảm nhận được từ trường của trái đất, tia cực tím của mặt trời, vi khuẩn, vi sinh vật v.v. nhưng tất cả chúng ta đều công nhận rằng chúng hiện hữu. Khoa học kỹ thuật ngày nay đã sáng chế ra những dụng cụ để cho phép con người xác định và đo lường được những hiện tượng nầy. Vài trăm năm trước khi những dụng cụ nầy chưa được phát minh thì những hiện tượng nói trên vẫn đã hiện hữu bất kể con người biết đến chúng hay không.
Sự sống hiện diện trong những thế giới phi vật chất nầy cũng tương tự như sự sống hiện diện ở trong những thế giới vật chất. Ta hãy gọi những dạng thể khác nhau của sự sống trong những thế giới phi vật chất là “sinh dạng phi vật chất”, cũng như những dạng thể khác nhau của sự sống trong những thế giới vật chất là “sinh dạng vật chất”. Mỗi thế giới vật chất hay phi vật chất đều có thể có liên hệ bằng cách nầy hay cách khác với những thế giới vật chất hay phi vật chất khác.
Những sinh dạng trong không gian
Như đã nói ở trên, vô số những sinh dạng vật chất tương tự như sinh dạng trên địa cầu có thể hiện hữu trong hay ngoài thái dương hệ của chúng ta. Một trong những giả định về những sinh dạng trong không gian là những sinh thể được gọi là “người không gian” hay “người hành tinh” mà nhiều người tin rằng thỉnh thoảng đến thăm viếng địa cầu.
Có nhiều cách giải thích tại sao cho đến nay chúng ta vẫn chưa có bằng chứng vững chắc hay xác nhận được bằng khoa học về những sinh dạng trong không gian nầy.
Cách giải thích thứ nhất là lịch sử của nhân loại chỉ bao trùm một khoảng thời gian vài chục ngàn năm gần đây. Khoảng thời gian nầy chỉ là một cái chớp mắt so với các diễn biến khác trong vũ trụ. Ngay cả lịch sử chính thức của loài người cũng rất chủ quan và thiếu chính xác đến đỗi những nhà khảo cứu ngày nay chỉ có thể ước đoán một cách mơ hồ về nhiều sự kiện xảy ra trước công nguyên. Nhiều sự kiện quan trọng chắc chắn đã xảy ra mà không hề được ghi chép lại. Nếu lần cuối cùng mà những sinh dạng từ không gian đến thăm viếng địa cầu đã xảy ra khoảng hai mươi ngàn năm về trước thì sao? Như đã nói, hai mươi ngàn năm cũng chỉ là một khoảnh khắc rất ngắn trong vũ trụ. Loài người ở thời điểm đó chưa hề có khái niệm gì về “lịch sử” cả thì làm sao các cuộc thăm viếng nầy, nếu đã xảy ra, có thể được ghi nhận và thông tin lại cho thế hệ tương lai?
Cách giải thích thứ hai là khoa học kỹ thuật ngày nay của loài người có thể vẫn còn rất thô sơ và kém hiệu quả để phát hiện và xác định những chuyến thăm viếng địa cầu của người không gian. Điều có thể xảy ra là tuy vẫn đến thăm viếng thường xuyên nhưng vì lý do nào đó mà họ không muốn liên lạc trực tiếp hay ra mặt công khai với người địa cầu.
Một cách giải thích khác là ngay cả hiện nay, loài người cũng chưa thám hiểm, kiểm soát hay quan sát được hết tất cả nơi chốn trên trái đất nầy. Nếu những cuộc thăm viếng của người không gian chỉ xảy ra một cách lặng lẽ và ngắn ngủi trong những khu vực chưa biết đến nầy thì làm sao chúng ta có thể ghi nhận được?
Một điểm khả dĩ khác nữa là có thể hiện tượng người không gian đến trên địa cầu đã được xác định bởi một số tổ chức nào đó trên thế giới, tuy nhiên có thể là mọi dữ kiện đều được giữ kín vì lý do bí mật quân sự hay an ninh quốc phòng?
Những sinh dạng phi vật chất
Xác định sự hiện diện của những sinh dạng vật chất khác trong vũ trụ đã phức tạp, nhưng xác định sự hiện hữu của những thế giới phi vật chất còn khó khăn hơn nữa.
Một số tập hợp, thí dụ như nhóm “Kỷ nguyên mới” (New Age), gọi những thế giới nầy bằng những từ như “mặt phẳng” (plans) hay “kích thước” (dimensions) khác. Vài tôn giáo tin rằng thế giới vật chất của chúng ta nối liền đến hai thế giới phi vật chất mà họ gọi bằng một số tên tuy khác nhau nhưng cụ thể là “thiên đàng” và “địa ngục”.
Nếu đã chấp nhận khái niệm “thiên đàng, địa ngục” nầy rồi thì chúng ta chỉ cần bước thêm một bước ngắn nữa là sẽ đến với quan niệm là có vô số các thế giới phi vật chất khác, chúng cũng có liên hệ phần nào đến thế giới chúng ta. Như vậy thì cũng có thể là sự sống trong những thế giới nầy cũng có tương tác phần nào đến sự sống trên địa cầu? Phải chăng có nhiều sự sống (hay sinh dạng) từ nhiều thế giới khác nhau, chúng cũng chia sẻ một khoảng không gian và thời gian chung với nhau, hiện hữu chồng chất lên nhau, nhưng trong điều kiện bình thường thì những sinh dạng nầy không hề cảm nhận được nhau.
Nơi đây người ta dễ liên tưởng đến quan niệm về cái “chết”. Ta có thể xem cái chết là điểm chấm dứt của sự sống trong thế giới vật chất nầy. Nhiều người tin rằng khi chết thì phần cơ thể phi vật chất (thường được gọi là “linh hồn”) của cá thể sẽ hoặc tự nguyện hoặc bị bắt buộc thoát ra khỏi cái vỏ, tức là cái cơ thể vật chất của cá thể đó. Đồng ý là cho đến nay chưa hề có bằng chứng khoa học nào thừa nhận điều này, nhưng nếu chấp nhận nguyên lý bảo toàn năng lượng thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng sau khi cơ thể của một người mất sự sống và lần hồi tan rã đi thì cái thể tính đã tạo ra sự khác biệt giữa một người sống và một xác chết phải được biến đổi ra một cái gì khác. Tất cả những năng lượng trong tình cảm của một con người không thể chỉ tiêu tan mà không biến đổi ra thành một dạng năng lượng khác. Những thứ khác trong một con người như khả năng và mức độ cảm nhận, kiến thức, suy luận, thông minh, v.v. cũng có thể như vậy.
Có những tôn giáo quan niệm về tiền kiếp, hậu kiếp, sự tái sinh, sự sống trường cửu, v.v. Có thể là sau khi một cá nhân chết đi, cơ thể phi vật chất của người ấy vẫn còn giữ được tương đối nguyên vẹn trong khi biến đổi qua thành một hay nhiều những sinh dạng khác hiện hữu trong một hay nhiều những thế giới phi vật chất. Cái cơ thể phi vật chất nầy có thể vẫn chứa đựng một phần những cá tính đặc thù của cá nhân đó mặc dù nó đã chuyển hoán qua một hay nhiều dạng khác trong thế giới khác. Một cách nói khác là mỗi người có thể đều có một “linh hồn”, và linh hồn nầy có cùng một bản thể cá biệt trong đời sống nầy cũng như những đời sống khác. Dĩ nhiên liệu nó có nhận biết hoàn toàn được cái bản thể nầy hay không là một chuyện khác.
Những hiện tượng siêu nhiên
Tâm trí (the mind) của con người có thể là một trong những dụng cụ tinh vi nhất mà chúng ta có thể có. Ngay cả ngày nay, khoa học chỉ có thể hiểu được một phần rất nhỏ về khả năng của tâm trí. Một trong những điều mà có người tin là tâm trí có thể cho phép con người “liên lạc” được với những thế giới phi vật chất. Nó hơi giống như một loại radio, nếu vặn đúng băng tần thì sẽ cho phép chủ nhân nghe hay thấy những thứ mà trong điều kiện bình thường người nầy sẽ không bao giờ nghe thấy được. Ta có thể giải thích sự hiện tượng “gặp ma” bằng cách tương tự.
Tâm trí có thể được so sánh với một cánh “cổng” nối liền thế giới nầy với những thế giới phi vật chất. Cánh cổng nầy có thể mở ra được trong một số trường hợp nhất định.
Trường hợp thứ nhất là khi tâm thần, tình cảm bị chấn động dữ dội. Thí dụ như khi một cá nhân vừa mới mất người thân thường xúc động và thương tiếc mãnh liệt và điều này có thể sinh ra khả năng cảm nhận được linh hồn của người thân vừa chết. Hiện tượng nầy, nếu xảy ra, thường nằm ngoài chủ ý hay sự điều khiển của cá nhân.
Trường hợp thứ hai là bằng một sự cố gắng có chủ ý, như qua một quá trình tập trung tư tưởng cao độ của các thiền giả (trong một số phương pháp thiền) hay của đồng cốt. Đây là điều gây ra rất nhiều nghi vấn. Liệu những người nầy có thật sự liên lạc được với thế giới khác hay không; và nếu có thật thì chính họ có thể điều khiển được bao nhiêu phần trong những thứ mà họ có thể nghe hay thấy?
Có khi cánh cổng đó được mở ra bởi ngoại lực. Đây là khi có một số điều kiện thiên nhiên mạnh mẽ nào đó dự phần vào. Thí dụ như ở những địa điểm trên mặt đất mà địa từ trường (hay có thể những loại “trường năng lượng” khác) tập trung hay dao động một cách khác thường. Đây có thể là lý do mà ở một số địa điểm người ta thường có thể cảm nhận hay chứng kiến những hiện tượng “ma quỷ”, “vong hồn”, v.v. hiện ra. Những môi trường năng lượng đặc biệt nầy không cố định; cường độ, tính chất của chúng có thể thay đổi theo thời gian. Những loại trường năng lượng nầy cũng tác động lên mỗi người một cách khác nhau; vì thế có người có thể cảm nhận được những hiện tượng “ma quỷ” dễ dàng hơn những người khác cũng cùng đang hiện diện.
Có khi cánh cổng của một người có thể bị mở ra bởi một sinh dạng từ thế giới khác. Sinh thể từ một thế giới khác có thể vô tình hay cố ý mở khóa được cái cổng của một người và làm cho người nầy cảm nhận được sự hiện diện của nó. Một thí dụ trong trường hợp nầy có thể thường được gọi là “quỷ nhập”.
Như đã nói ở trên, sinh thể trong thế giới nầy, người và thú, thường không cảm nhận được sự hiện diện của những sinh thể trong những thế giới khác. Trong điều kiện bình thường, chúng không giao thoa, không gặp gỡ. Ta không rõ sinh thể, sinh dạng ở những thế giới khác hiểu biết bao nhiêu về sự hiện diện của chúng ta trong thế giới nầy. Tuy nhiên, không thể loại bỏ khả năng trong đó một số thế giới có thể rất tiến bộ so với những thế giới khác kể cả của chúng ta, và do đó có nhiều kiến thức rất sâu rộng hơn chúng ta về sự liên hệ giữa những thế giới với nhau.
Luật nhân quả hay Nghiệp lực (Karma)
Hãy thử liên tưởng đến qui luật “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Một sinh lực mang thiện tính có khuynh hướng thu hút cùng một thứ năng lượng cũng có thiện tính. Hạnh phúc, yêu thương, hòa đồng, v.v. là vài thí dụ của loại diễn biến thiện tính nầy. Ngược lại, một người gây ra nhiều diễn biến mang ác tính sẽ cho làm sinh lực của mình mang nhiều ác tính và từ đó sẽ thu hút nhiều diễn biến có ác tính xảy ra cho mình.
Bất cứ một biến cố xảy ra ở bất cứ thời điểm nào cũng đều có thể được coi là hậu quả của một hay nhiều diễn biến xảy ra ở một hay nhiều thời điểm khác. Nếu mở rộng lối lý luận vừa rồi thêm thì mỗi biến cố xảy ra ở bất cứ thời điểm nào cũng có ảnh hưởng đến một hay nhiều diễn biến xảy ra ở một hay nhiều thời điểm khác. Lý thuyết nầy chính là thuyết “Nhân quả” và là một nguyên lý nền tảng trong Phật giáo.
Xin lưu ý là trong những đoạn văn trên, tôi đã cố ý không dùng những từ như “quá khứ”, “hiện tại” hay “tương lai”. Trong thế giới của chúng ta, thời gian được coi là có một chiều và một hướng nhất định; có nghĩa là chúng ta chỉ thấy là thời gian luôn luôn đi tới theo đường thẳng. Đối với chúng ta, quá khứ xảy ra trước hiện tại và hiện tại xảy ra trước tương lai. Có thể là trong những thế giới khác, thời gian có nhiều chiều hướng hơn. Có nghĩa là thời gian không “chạy” theo một đường thẳng nữa mà có thể đi theo nhiều đường cong khác nhau. Diễn biến xảy ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai không nhất thiết xảy ra theo một thứ tự nào cả. Sự áp dụng của khái niệm nầy vào thế giới của loài người sẽ trở thành cực kỳ phức tạp và vượt xa hẳn khỏi tầm hiểu biết của phần lớn chúng ta.
Như vừa nói, khi một người làm bất cứ một điều gì ở một thời điểm thì điều đó sẽ có ảnh hưởng ít nhiều đến tương lai của người ấy. Điều gì xảy ra đến một người ngày hôm nay có thể được coi là bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp bởi một hay nhiều diễn biến liên can đến cũng người đó trong kiếp sống nầy hay kiếp sống khác, trong thế giới nầy hay trong thế giới khác. “Gieo hạt nào thì hái quả ấy”. Tuy nhiên, vấn đề không phải thô sơ như là khi bạn hãm hại một người hôm nay thì bạn sẽ bị người ấy, hay ai khác, hãm hại lại giống như vậy trong tương lai. Sự vận hành của những thiện tính hay ác tính trong hành động và ý nghĩ của chúng ta luôn luôn tuân theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nghĩa là một diễn biến ác tính chỉ có thể được hóa giải bởi những diễn biến thiện tính bằng hay lớn hơn, và ngược lại. Đây là một cách giải thích về khái niệm “âm đức” trong dân gian Việt Nam; “đức lành” tương ứng với năng lượng thiện tính gây ra hay tích lũy trong sinh lực của một người, “nghiệp dữ” tương ứng với năng lượng ác tính. Tuy vậy, chi tiết chính xác về phương cách và công thức để ứng dụng sự vận hành nầy có thể quá phức tạp cho tư duy con người chúng ta.
Vận mạng
Rất có thể là mỗi người chúng ta sinh vào cõi đời nầy với một số lượng “đức lành” hay “nghiệp dữ”. Những nghiệp lực (năng lượng lành hay dữ) nầy là kết quả của những diễn biến trong quá khứ ở những kiếp (hay thế giới) khác. Tương lai suốt cuộc đời của người nầy có thể được tiên đoán khá chính xác dựa lên những nghiệp lực nầy, nếu không có diễn biến nào khác xảy ra. Tuy nhiên, vì hầu như luôn luôn là sẽ có nhiều sự việc, hành động, ý nghĩ, quyết định, v.v. xảy ra trong cuộc đời mỗi người từ giây phút được sinh ra, tương lai của người nầy sẽ tiếp tục biến hóa và thay đổi không ngừng. Tương lai, hay vận mạng, tuy thay đổi vô tận nhưng luôn luôn chịu ảnh hưởng bởi ý nghĩ và hành động của người đó. Do đó, ta có thể nói rằng tương lai hay vận mạng của một người nằm trong tay của chính người đó.
Tuy vậy, một người không thể nào điều khiển hoàn toàn được vận mạng của mình. Những nghiệp lực lành hay dữ trong cuộc đời của một người cũng chịu ảnh hưởng bởi nghiệp lực của những sinh thể đã từng có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với người nầy ở kiếp nầy hay những kiếp khác. Khái niệm nầy thường được gọi là “cộng nghiệp”, để phân biệt với “biệt nghiệp” của mỗi cá nhân. Bởi vì cuộc đời của mỗi sinh thể luôn luôn đã, đang và sẽ dính dáng đến vô số cuộc đời của vô số những sinh thể khác, một người không thể nào hoàn toàn tách rời vận mạng của mình ra khỏi vận mạng của toàn khối của vô số những sinh dạng khác. Tuy vậy như đã nói ở trên, một người thường có thể quyết định một phần lớn vận mạng của mình.
Mỗi người chúng ta phải tự làm việc để tăng trưởng trên bậc thang tâm linh. Nói chung là không có ngoại lực gì, dù cao cả đến mấy, có thể thay đổi vận mạng toàn diện của một người. Nhiều tôn giáo truyền giảng rằng nếu người ta cầu nguyện và tôn thờ một đấng thiêng liêng hay vị thần thánh nào đó thì sẽ được cứu rỗi. Lối rao truyền nầy rất hấp dẫn đối với nhiều người vì theo đó thì cá nhân không còn cần phải gánh vác trách nhiệm đối với tâm linh mình nữa.
Đầu thai, tái sinh
Như đã nói ở trên, có hằng hà sa số sinh dạng trong hằng hà vô số thế giới, vật chất và phi vật chất. Mỗi sinh dạng có hằng hà sa số sinh thể (hay sinh lực cá nhân). Thí dụ, mỗi giống loại sinh vật trên địa cầu nầy có thể được coi là một sinh dạng, và mỗi cá thể, người ta hay thú vật, có thể được coi là một sinh thể (hay sinh lực riêng biệt).
Mỗi sinh dạng nầy (nghĩa là tất cả các sinh thể vật chất sống trên hành tinh nầy hay trên bất cứ tinh tú nào khác, cũng như tất cả sinh thể trong tất cả những thế giới phi vật chất) có thể được coi là có một trình độ phát triển khác nhau trong quá trình tiến hóa. Mỗi cá nhân của loài người có một trình độ tiến hóa tuy tương tự nhưng khác nhau ít nhiều so với những cá nhân khác. Cũng có trường hợp một cá nhân trong loài người có thể mang trình độ tiến hóa thấp hơn trình độ tiến hóa của một con vật nhất định.
Xin chú ý là từ “trình độ phát triển khác nhau trong quá trình tiến hóa” ở đây không những nói về lãnh vực vật chất mà quan trọng hơn là lãnh vực phi vật chất của một cá thể. Trong trường hợp của một con người, đây là sự tiến triển về phương diện tâm linh cũng như toàn bộ những năng lượng tích trữ trong sinh lực của họ. Vì vậy, từ “sự phát triển tâm linh” và từ “sự phát triển qua quá trình tiến hóa” ở đây có khi được dùng tương đương nhau.
Khi một người trên địa cầu vừa chết đi, tùy vào tình trạng tiến hóa tâm linh của họ ở thời điểm đó mà phần phi vật chất, hay “linh hồn”, của họ có thể được hoán đổi thành một trong nhóm loại những sinh dạng nào đó. Nhóm loại những sinh dạng nầy có trình độ tiến hóa tương đương với trình độ tiến hóa của người nầy trước khi họ chết. Chỉ có những người đã đạt được sự tiến hóa tâm linh cao mới có thể hoán chuyển thành những sinh dạng hay di nhập vào những thế giới có trình độ tiến hóa cao. Những người có trình độ tiến hóa thấp chỉ có thể hoán chuyển thành những sinh dạng thấp tương tự.
Một sinh thể tuy không thể nào hoán chuyển thành một sinh dạng tiến bộ hơn, có thể vì lý do gì đó, lựa chọn để hoán chuyển thành một sinh dạng hơi thấp hơn trình độ tiến hóa của mình. Có thể đây là cách giải thích tại sao một vài cá thể có vẻ được sinh ra với những đặc tính (vật chất cũng như tâm linh) ưu việt so với những cá thể cùng loại khác.
Tôi thiết nghĩ rằng sau khi chết, hầu hết linh hồn con người đang sở hữu một trình độ tiến hóa tương đương với trình độ của một con người bình thường sẽ có khuynh hướng lựa chọn được hoán chuyển trở lại thành loài người.
Trong khi xem luật Nhân quả là lực tác động chính trong quá trình nầy, Phật giáo cho rằng lý do để con người luôn muốn hoán chuyển trở lại thành sinh dạng cũ là vì lòng lưu luyến của họ đến những cám dỗ vật chất và tình cảm trong cái thế giới không hoàn hảo nầy. Sự phát triển tâm linh đưa đến giác ngộ có thể giải thoát một cá nhân ra khỏi cái vòng khổ lụy vô tận nầy. Một người đã giác ngộ là một người đã đạt được trình độ tiến hóa tâm linh cao và không còn mong muốn trở lại sinh dạng kém hoàn hảo nầy nữa.
Một nhận xét lý thú là trong truyền thống Á Đông, ý niệm rất phổ thông gọi là “tiền duyên” chẳng qua là một chuyển biến tình cảm của luật Nhân quả. Người ta tin rằng những người yêu nhau khi đã nhất tâm chung sống với nhau nhưng vì lý do gì đó mà không thực hiện được ước vọng trong kiếp sống nầy sẽ có thể tái sinh lại trong những kiếp sống trong tương lai để gặp gỡ lại và cố gắng thực hiện điều họ đã mơ ước.
Nguồn gốc của thần linh
Đại đa số người ta trong thế giới nầy sinh ra với một “tôn giáo”. Từ giây phút mới sinh ra, họ thường đã theo gia đình hay xã hội sống trong một tôn giáo nhất định. Nhiều người lớn lên, sống hết cuộc đời họ và sau cùng chết đi cũng với cái tôn giáo nầy. Nhiều người hết lòng bảo vệ tôn giáo và có khi sẵn sàng hy sinh mạng mình để chiến đấu cho nó nhưng có thể chưa hề tự hỏi là mình có thật sự hiểu biết về nó. Nhiều người tự cho mình theo quan niệm “bất khả tri” vì không muốn bị lôi kéo vào một thứ mà họ không hiểu rõ. Nhiều người tự mình họ là “vô thần” vì họ không thể chấp nhận cách trả lời quá đơn giản về nguồn gốc sự sống của nhiều giáo phái đang lan tràn trên thế giới.
Khác với loài vật, chỉ có con người mới có tôn giáo. Khi phải đối diện với những hiện tượng “siêu nhiên” đáng sợ không thể giải thích được, chỉ có loài người mới có tư duy sáng tạo ra những câu trả lời nhằm trấn an chính mình. Có thể con người cần thấy họ phải có một thủ lãnh để bảo vệ họ và để cho họ tuân phục. Đây là nguyên cớ và lý do hình thành vị thần linh đầu tiên và dần dần tôn giáo phát sinh. Rồi càng lúc càng nhiều thần linh và tôn giáo khác được phát minh ra thêm để cung ứng những giải đáp thỏa đáng hơn cho những câu hỏi càng ngày càng phức tạp khi con người càng lúc càng phát triển hơn.
Đến nay, chưa hề có một tôn giáo nào có thể đáp ứng được cho tất cả mọi người trên hành tinh nầy. Lý do chính là vì chưa hề có một giáo điều của bất cứ tôn giáo nào có thể được chấp nhận và minh chứng bằng phương cách khoa học.
Tiến hóa hay Sinh tạo?
Người theo thuyết Tiến hóa quan sát những sinh vật hiện tại trên địa cầu và cho rằng tập hợp vĩ đại của vô số những giống loài nầy hẳn phải là kết quả của một quá trình tuyển chọn và tiến hóa trong thiên nhiên. Người theo thuyết Sinh tạo tin rằng nếu sự sống của mọi vật kỳ diệu như thế nầy thì chúng chắc phải được sinh tạo ra bởi một siêu thể toàn trí.
Khoảng 30 năm về trước xuất hiện tác phẩm “Mã xa của Thượng đế” (Chariots of the Gods) của Erich Von Däniken. Tác giả nầy đưa ra giả thuyết rằng người không gian đã đến thăm viếng địa cầu trong quá khứ, và rất có thể là loài người chúng ta xuất xứ từ những người không gian nầy. Tác phẩm này chứa đầy những “bằng chứng khoa học” cùng với nhiều cách lý luận có vẻ khá đáng tin để hỗ trợ giả thuyết của tác giả. Sau đó Von Däniken còn viết thêm nhiều cuốn nữa. Nhiều “dữ kiện” và “bằng chứng khoa học” nữa được đưa ra. Tất cả đều có vẻ khá đáng tin và vững chắc. Sau đó lại xuất hiện tác phẩm “Quá khứ là từ Con người” (The Past is Human) của Peter White, người chống đối kịch liệt lại giả thuyết cho rằng nhân loại xuất xứ từ người không gian. Những tác phẩm loại này, cũng với đầy đủ những “bằng chứng khoa học” đáng tin không kém, đều lý luận và kết luận ngược hẳn lại chiều hướng của Von Däniken. Điều lý thú nhất mà ta nhận thấy là cả Von Däniken và những tác giả chống đối ông nhiều khi sử dụng cùng những dữ kiện và quan sát giống nhau nhưng lại đi đến những cách diễn giải hoàn toàn đối nghịch nhau.
Bài học mà ta gặt hái được từ kinh nghiệm trên là bất cứ một sự khảo sát nào cũng có thể được diễn giải, và hỗ trợ bởi một số những “bằng chứng khoa học”, theo phương hướng hoàn toàn khác nhau. Những cách diễn giải nầy tuy có thể thành tâm, nhưng chúng ta phải nhớ rằng con người lúc nào cũng có khuynh hướng chỉ có thể thấy được những gì mình muốn thấy.
Thuyết Tiến hóa có thể vẫn còn có nhiều lỗ hổng và hiện nay vẫn chưa được tất cả mọi người chấp nhận. Địa tầng học và tài liệu về vật hóa thạch ngày nay vẫn chưa cung cấp đầy đủ bằng cớ để chứng minh rõ ràng những gì Darwin giả định. Một số khoen xích vẫn còn đang thất lạc và có thể đây là nhược điểm lớn nhất của giả thuyết nầy. Tuy vậy, thuyết Sinh tạo đang ở một vị thế yếu kém hơn nhiều vì những người theo chủ thuyết nầy chỉ có thể đưa ra những câu trả lời quá đơn giản đến độ ngây ngô dựa trên những tiền đề chưa hề được minh chứng, được gọi là “đức tin”.
Kết luận
Tôi tự cho mình là một “Phật tử vô thần”. “Phật tử” vì cách suy nghĩ của tôi chịu nhiều ảnh hưởng bởi một vài trường phái trong Phật giáo, và “vô thần” vì tôi không tin ở một Thượng đế có nhân tính.
Tôi tin rằng tất cả mọi vật đều có liên hệ tương quan lẫn nhau. Tôi tin rằng không có gì có thể tồn tại hay hiện hữu mà không chịu ảnh hưởng hay liên hệ cách nầy hay cách khác với những sự vật khác. Mỗi diễn biến, mỗi vật thể đều ảnh hưởng đến sự hiện hữu và tiến hóa của các diễn biến và vật thể khác. Mối liên hệ tương quan nầy tuân theo những định luật vũ trụ, và chi tiết về đặc tính của những định luật nầy thật ra quá phức tạp để khả năng kiến thức hiện tại của loài người có thể hiểu được.
Tôi tin ở sự “luân hồi” trong vạn vật. Nghĩa là mỗi diễn biến, mỗi vật thể đều thành hình, phát triển, hoại diệt hoặc là thành một thể dạng khác (mà thể dạng mới nầy cũng phát triển, hoại diệt một cách tương tự), hoặc là thành tạo trở lại dưới cùng thể dạng cũ và bắt đầu lại lần nữa. Trong mỗi chu kỳ nầy, sự vật luôn luôn thay đổi không ngừng từ giây phút thành hình cho đến giây phút tan rã. Chúng ta có thể thấy điều nầy xảy ra trong sự sống của một con người từ sinh đến tử. Chúng ta có thể thấy được điều nầy ở vạn vật trên trái đất trong khoảng thời gian 24 giờ của một ngày. Chúng ta có thể thấy được điều nầy ở những nền văn minh, những đế quốc từ lúc lập thành cho đến khi sụp đổ. Tôi tin rằng ngay cả tình cảm và mối liên hệ giữa con người với nhau cũng tuân theo định luật nầy.
Tôi lớn lên trong một gia đình đạo Phật “bình thường”. Trong gia đình tôi, Phật Thích-ca được tôn thờ như là một vị Thượng đế có nhân tính, thấu hiểu mọi điều, bảo vệ, ban bố lợi lộc cho tín đồ thành tâm cúng bái, thắp nhang, tụng kinh. Đây là cách tôn thờ Phật Thích-ca phổ biến rất rộng rãi ở Châu Á xưa và nay. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy đây không gì khác hơn là một sự kết hợp giữa những ngộ nhận về lời dạy của Thích-ca Mâu-ni và những hình thái mê tín dị đoan. Tôi đã trải qua một thời gian dài trước khi tự giải thoát ra khỏi loại Phật giáo nầy. Đây là một quá trình diễn tiến chậm chạp qua nhiều giai đoạn. Tôi nghĩ tôi thật sự cắt đứt mình hẳn ra khỏi lối tín ngưỡng nầy khi tôi tình cờ gặp một tăng sĩ người Anh. Nguyên tắc tu hành của ông là “hãy tự kiểm nghiệm cho chính mình chớ đừng bao giờ tin lời của ai khác hết”. Từ đó tôi ứng dụng nguyên tắc nầy vào mọi phương diện sống của tôi. Cái sức mạnh trong niềm tin rằng vận mạng của mỗi người hầu hết nằm trong tay người đó đem đến nguồn giải thoát tâm linh lẫn mầm hy vọng đối trị được nỗi sợ hãi của sự chết.
Sự kiện tôi tin vào luật Nhân quả không làm cho tôi luôn luôn chọn con đường nhiều thiện tính nhất trong đời sống của mình. Tuy thế, mỗi khi tôi quyết định một việc gì thì tôi biết rằng chính tôi và chỉ có tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm tâm linh về quyết định đó. Niềm tin nầy an ủi tôi khi phải đương đầu với nghịch cảnh và đem đến sức mạnh khi tôi biết rằng vận mạng của tôi hầu hết tùy thuộc ở chính mình. Tôi không thể tin rằng một người dù đang ở trong một trạng thái tâm linh bần cùng cách mấy, nếu đem lòng yêu thương và tôn thờ một vị thần linh nào đó thì sẽ có thể được ban bố phước lành lập tức. Nếu thật sự là có một đấng Chí tôn muốn nhân loại cần phải “bán thân” trong phương diện tâm linh như thế, thì tôi thà xin làm một con thú hoang đứng tách rời ra càng xa khỏi đàn cừu của ông ta càng tốt.
Theo tôi, khăng khăng bảo thủ và nhất định không tìm hiểu về những quan điểm khác là dấu hiệu của sự ngạo mạn và ngu dốt. Tôi chủ trương cởi mở trong con đường tìm hiểu để đi đến một câu trả lời có thể chấp nhận được về ý nghĩa của sự sống. Tôn giáo như chúng ta biết chỉ là một cách giải thích gượng ép để cố gắng trả lời những câu hỏi hoàn toàn nằm ngoài tầm hiểu biết của nền văn minh con người. Nếu sự sống trên hành tinh nầy không gì khác hơn là một dĩa cấy vi khuẩn mà một vài siêu thể nào đó đang làm thí nghiệm thì sao? Nếu, bất kể các điều gì tôi vừa nói ở trên, sự sống của tất cả chúng ta chỉ là sự ngẫu nhiên trong vũ trụ và chúng ta chỉ được tạo thành một cách vô tình và rồi sẽ từ từ tiêu tan đi vĩnh viễn thì sao?
Cho đến ngày chúng ta biết rõ ràng về Sự thật, tôi nghĩ là một chút kính trọng và yêu thương lẫn nhau giữa mọi sinh vật, con người cũng như tất cả động vật thực vật khác, sẽ có nhiều ý nghĩa hơn bất cứ lễ nghi tôn giáo hay niềm tín ngưỡng nhiệt tình nào.
Talawas http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10645&rb=0306
Chú Thích:
Đây là một trong những bài tôi viết đầu tiên của tôi về tôn giáo tín ngưỡng (khoảng năm 2000). Một vài ý tưởng trong bài nầy có thể hơi khác một chút (tuy vẫn không mâu thuẩn) với cái nhìn hiện nay của tôi (2015)
Chuong3 Kiểm Định Giả Thuyết Thống Kê
Published on
Chuong3 KIỂM ĐỊNH GIẢ THUYẾT THỐNG KÊ
1. CHƯƠNG 3 KIỂM ĐỊNH GIẢ THIẾT THỐNG KÊ ThS HUỲNH TỐ UYÊN 1
2. I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI TOÁN KIỂM ĐỊNH 2 1. BÀI TOÁN KIỂM ĐỊNH ? Các đặc trưng của mẫu được dùng để đánh giá xem một giả thuyết nào đó của tổng thể là đúng hay sai. Việc tìm ra kết luận để bác bỏ hay chấp nhận một giả thuyết được gọi là kiểm định giả thuyết. Ví dụ 1. Một nhà sản xuất cho rằng khối lượng trung bình của 1 gói mì là 75 gam. để kiểm tra điều này đúng hay sai, chọn ngẫu nhiên một số gói mì để kiểm tra và tính toán.
4. 2. ĐẶT GIẢ THUYẾT 4 Giả sử tổng thể có đặc trưng θ chưa biết. Với giá trị cụ thể θ0 cho trước nào đó, ta cần kiểm định giả thuyết H0: θ=θ0 (kiểm định hai bên) hoặc H0: θ≤θ0 hay H0: θ≥θ0 (kiểm định một bên). Giả thuyết H1 là kết quả ngược lại của giả thuyết H0. Nếu H0 đúng thì H1 sai và ngược lại. H1 còn được gọi là giả thuyết đối.
6. 6 Cách tra bảng Laplace + Trư ng h p KĐ 1 bên: + Trư ng h p KĐ 2 bên: Tra bảng hàm số Laplace để tìm α 2 Z sao cho α α ϕ − = 2 1 2 Z Tra bảng hàm số Laplace để tìm αZ sao cho ( ) 1 2 Zαϕ α= −
8. 3. SAI LẦM LOẠI 1 VÀ SAI LẦM LOẠI 2 8 Vì chỉ dựa trên một mẫu để kết luận các giá trị của tổng thể nên ta có thể phạm sai lầm khi đưa ra kết luận về giả thuyết H0 Sai lầm loại 1: H0 đúng nhưng ta bác bỏ nó, xsuất α Sai lầm loại 2: H0 sai nhưng ta chấp nhận nó , xsuất β µ0 αααα H0 µ1 H1 µ1 H1 ββββ µ0 H0
9. 3. SAI LẦM LOẠI 1 VÀ SAI LẦM LOẠI 2 9 H0 đúng H0 sai Không bác bỏ H0 Quyết định đúng, xác suất 1-α Sai lầm loại 2, xác suất β Bác bỏ H0 Sai lầm loại 1, xác suất α Quyết định đúng, xác suất 1-β µ0 αααα µ1 µ0 ββββ µ1 Th c t K t lu n
10. 10 Ví dụ Xét các ví d sau: ví d nào là sai l m lo i 1, ví d nào là sai l m lo i 2 Ví d 1: Cho m t sinh viên gi i r t (m c dù SV này thi r t t t) Ví d 2: Cho m t h c sinh y u đ u (m c dù sv này thi ko t t) Ví d 3: Cho m t b nh nhân bi ung thư xu t vi n vì bác sĩ khám nh m h sơ nên tư ng đây là b nh nhân kh e m nh.
11. MỨC Ý NGHĨA 11 Trong một bài toán kiểm định, nếu khả năng phạm sai lầm loại một giảm thì khả năng phạm sai lầm loại hai lại tăng lên. Do đó người ta thường chọn α trong khoảng từ 1% đến 10%. αααα: mức ý nghĩa
13. TÓM LẠI 13 Quy tắc dùng P-value để bác bỏ hay không bác bỏ Ho P-value < αααα ⇒ Bác bỏ Ho P-value ≥≥≥≥ αααα ⇒ Chấp nhận Ho (chưa đủ cơ sở để bác bỏ Ho)
15. 15 CÁCH XÁC ĐỊNH P-VALUE 0 0,05α = 0,5 0,05 0,45− = 1,645 (1,645) 0,45ϕ⇔ = Nếu cho mức ý nghĩa là 5% ( ) 1 2 Zα ϕ α= − = Vậy 1,645Zα =
16. CÁCH XÁC ĐỊNH P-VALUE 16 (1,5) 0,4332ϕ = 0,5 0,4332 0.0668P value− = − = Zαααα =1,645 αααα = 0,05 Ztt = 1,5 P-value
17. CÁCH XÁC ĐỊNH P-VALUE 17 – Zα/2 Zα/2 αααα/2αααα/2 -Ztt Ztt P-value/2P-value/2 TRƯỜNG HỢP KĐ 2 PHÍA
18. CÁCH XÁC ĐỊNH P-VALUE 18 – 1,96 1,96 αααα/2 = 0,025αααα/2 =0,025 -1,5 1,5 P-value/2P-value/2 Ví dụ: (1,5) 0,4332ϕ = ( )0,5 0,4332 0.1336 2 P value− = − =
19. II. KIỂM ĐỊNH THAM SỐ Kiểm định tỉ lệ (1 tổng thể và 2 tổng thể) Kiểm định trung bình (1 tổng thể và 2 tổng thể) Kiểm định phương sai (1 tổng thể và 2 tổng thể)
23. 23 So sánh ࢆ và ܼഀ మ ሺ ࢎặࢉ ࢆ và ܼఈሻ để kết luận K t lu n: + z thu c mi n bác b thì bác b gi thi t ܪ và ch p nh n H1. + z thu c mi n ch p nh n thì ch p nh n GT ܪ và bác b H1. Khi nói “ch p nh n ” nghĩa là v i s li u c a m u ta chưa có đ cơ s đ bác b . Trong th c hành, t t hơn ta nên nói r ng: “chưa có cơ s đ bác b “.
24. 1.1 KIỂM ĐỊNH TỈ LỆ 1 TỔNG THỂ Ví dụ (Bài tập 5): Một nhà máy sản xuất sản phẩm với tỉ lệ sản phẩm loại một lúc đầu là 20%. Sau khi áp dụng phương pháp sản xuất mới, kiểm tra ngẫu nhiên 500 sản phẩm thấy có 150 sản phẩm loại một. Cho kết luận về tác dụng của phương pháp sản xuất mới với mức ý nghĩa 1%.
26. 1.2. KIỂM ĐỊNH SỰ KHÁC BIỆT TỈ LỆ 2 TỔNG THỂ 26 Tỉ lệ phần tử có tính chất A của 2 tổng thể là P1 , P2. Giả sử ta có 2 mẫu ngẫu nhiên gồm n1 , n2 phần tử và f1 , f2 là tỉ lệ các phần tử có tính chất A trong 2 mẫu. Ta cần kiểm định xem hai tỉ lệ này giống nhau/ khác nhau với mức ý nghĩa α
28. 1.2. KIỂM ĐỊNH SỰ KHÁC BIỆT TỈ LỆ 2 TỔNG THỂ 28 Ví dụ (Bài tập 6): Để so sánh tỉ lệ trẻ em béo phì ở 2 địa bàn A và B, người ta chọn ngẫu nhiên 200 em ở địa bàn A thấy có 20 em béo phì, ở địa bàn B chọn 220 em thấy có 5 em béo phì. Hãy kiểm định xem tỉ lệ trẻ em béo phì ở 2 địa bàn trên có giống nhau không với mức ý nghĩa α=1%
34. 2.2. KIỂM ĐỊNH SỰ KHÁC BIỆT TRUNG BÌNH 2 TỔNG THỂ 34 Đã biết phương sai σ1 2 ,σ2 2 n1 và n2 ≥ 30, Chưa biết phương sai σ1 2 ,σ2 2 Bác bỏ Ho khi …… ( )µ σ σ − − = + 1 2 2 2 1 2 1 2 o X X Z n n ( )µ− − = + 1 2 2 2 1 2 1 2 o X X Z S S n n
37. 37 2.2. KIỂM ĐỊNH SỰ KHÁC BIỆT TRUNG BÌNH 2 TỔNG THỂ Bài tập 3: Ban lãnh đạo một công ty cho rằng doanh số bán hàng tăng lên sau khi thực hiện các biện pháp khuyến mãi. Chọn ngẫu nhiên 13 tuần trước đợt khuyến mãi và 14 tuần sau đợt khuyến mãi. Doanh số trung bình và độ lệch mẫu hiệu chỉnh trước đợt khuyến mãi là 1234 và 324 triệu đồng. Còn sau đợt khuyến mãi, các con số này lần lượt là 1864 và 289 triệu đồng. Hãy kiểm định ý kiến trên với α = 0,05. Hướng dẫn: 2 mẫu độc lập; chưa biết phương sai tổng thể; n1,n2 < 30
40. 2.2. KIỂM ĐỊNH SỰ KHÁC BIỆT TRUNG BÌNH 2 TỔNG THỂ 40 Trường hợp 2: hai mẫu phụ thuộc ( ) 2 1 1 1 2 ; ; 1 n n i i i i i i i d d d d d X X d S n n = = − = − = = − ∑ ∑ 0 1 : : H H µ− = 0 d d T n S Bác bỏ Ho khi ….
41. 41 2.2. KIỂM ĐỊNH SỰ KHÁC BIỆT TRUNG BÌNH 2 TỔNG THỂ Bài tập 4: 5 nhân viên bán hàng được cho đi học lớp huấn luyện. Lớp huấn luyện có tác dụng không? Nhân viên Số lần bị khách hàng phàn nàn Trước khi học Sau khi học A 6 4 B 20 6 C 3 2 D 0 0 E 4 0
42. 3.1 KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG SAI 1 TỔNG THỂ 42 Tổng thể có phân phối chuẩn với phương sai σσσσ 2 chưa biết Dựa vào mẫu n quan sát, ta cần kiểm định phương sai tổng thể có bằng / lớn hơn/ nhỏ hơn một giá trị cho trước nào đó với mức ý nghĩa α
45. 3.1 KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG SAI 1 TỔNG THỂ 45 Bài tập 7: Một dây chuyền sản xuất chi tiết máy quy định phương sai đường kính của chi tiết máy sản xuất ra là σ2 = 36 Người ta tiến hành kiểm tra 25 chi tiết máy, thấy phương sai của đường kính là S2 = 35,266. Với mức ý nghĩa 5%, ta có thể kết luận như thế nào về dây chuyền sản xuất?
46. 3.2 KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG SAI 2 TỔNG THỂ 46 Ta có 2 tổng thể có phân phối chuẩn với phương sai σσσσ1 2 và σσσσ2 2 chưa biết Dựa vào hai mẫu được chọn ngẫu nhiên từ hai tổng thể, ta cần kiểm định xem phương sai hai tổng thể có bằng nhau hay không với mức ý nghĩa α
49. 3.2 KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG SAI 2 TỔNG THỂ 49 Bài tập 8: Để kiểm tra độ chính xác của 2 máy sản xuất linh kiện, người ta chọn ngẫu nhiên từ máy thứ nhất ra 15 sản phẩm, máy thứ 2 chọn ra 13 sản phẩm, phương sai đường kính sản phẩm tính được lần lượt là 17 và 26. Với mức ý nghĩa 5% , có thể kết luận hai máy có độ chính xác như nhau không?
50. BÀI TẬP TỔNG HỢP 50 Bài tập 8.1 Có ý kiến cho rằng chiều cao (cm) của nam thanh niên sống ở khu vực sống ở thành thị cao hơn chiều cao của nam thanh niên khu vực nông thôn, người ta tiến hành chọn ra 10 nam thanh niên sống ở khu vực thành thị và 12 nam thanh niên sống ở khu vực nông thôn để đo chiều cao và thu được kết quả sau: Thành thị: 168,171,165,169,168,173,165,162,167,169. Nông thôn: 162,168,174,164,165,166,160,163,165,167,167,163. a) Với xác suất là 95%, hãy đưa ra kết luận về nhận định trên, biết rằng chiều cao của nam thanh niên sống ở khu vực thành thị và sống ở nông thôn là BNN có PP chuẩn với độ lệch tiêu chuẩn lần lượt là 2,5 cm và 2,8 cm. b) Giả sử chúng ta chưa biết độ lệch tiêu chuẩn về chiều cao của nam thanh niên thì câu a) tính như thế nào? (329)
51. BÀI TẬP TỔNG HỢP 51 Bài tập 8.14 Để so sánh tỉ lệ trẻ em béo phì ở thành thị và vùng nông thôn người ta tiến hành chọn ngẫu nhiên 200 em ở thành thị thấy có 20 em béo phì và chọn 220 em ở nông thôn thấy có 5 em béo phì. Hãy KĐ giả thuyết H0 cho rằng tỷ lệ béo phì ở trẻ em thành thị và nông thôn là như nhau với mức ý nghĩa 1%
Biện Pháp Tu Từ: Lý Thuyết Và Một Vài Ví Dụ
Các biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ được hiểu là cách sử dụng ngôn ngữ theo một cách đặc biệt quan trọng ở một đơn vị ngôn ngữ (về từ, câu, văn bản) trong một ngữ cảnh nhất định nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt và tạo ấn tượng với những người người độc về một hình ảnh, một cảm xúc, một mẩu truyện trong tác phẩm.
Mục đích của biện pháp tu từ là gì? – So với việc sử dụng ngôn ngữ thông thường, sử dụng biện pháp tu từ giúp tạo nên những giá trị đặc biệt quan trọng trong biểu đạt và biểu cảm.
Các biện pháp tu từ trong văn bản
Bên cạnh việc nắm được khái niệm biện pháp tu từ là gì, bạn cũng cần được ghi nhớ về vai trò của biện pháp tu từ trong văn bản thẩm mỹ. Trong tiếng Việt, hình thức của biện pháp tu từ rất phong phú, đa dạng. Hầu hết trong các văn bản thẩm mỹ thường rất chú trọng sử dụng biện pháp tu từ để tăng tính thẩm mỹ cho tác phẩm.
Trong một đoạn văn, có thể sử dụng một hoặc nhiều biện pháp tu từ khác nhau tùy mục đích biểu đạt, biểu cảm của tác giả. Việc sử dụng biện pháp tu từ góp phần tạo nên dấu ấn member trong tác phẩm.
Một số biện pháp tu từ về từ
Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ gồm có biện pháp tu từ về từ và biện pháp tu từ về cấu trúc. Bạn không chỉ biết được biện pháp tu từ là gì mà cũng cần được lưu tâm tới những hình thức của tu từ. Biện pháp tu từ về từ rất phong phú, thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, gồm có:
Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ so sánh là gì? So sánh là biện pháp tu từ được sử dụng nhằm so sánh các sự vật, sự việc này với những sự vật, sự việc khác giống nhau trong một điểm nào đó với mục đích tăng sức gợi hình và gợi cảm khi diễn đạt. Các phép so sánh đều lấy cái cụ thể để so sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn. Việc này giúp mọi người hình dung được sự vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả.
Biện pháp so sánh còn hỗ trợ cho câu văn gợi trí tưởng tượng của ta bay bổng hơn. Mục đích của việc so sánh nhiều khi không phải là tìm sự giống nhau hay khác nhau. Mà để nhằm diễn tả hình ảnh một bộ phận hay đặc điểm nào đó của việc vật giúp người nghe, người đọc hiểu biết sự vật một cách cụ thể sinh động.
Trong cách nói thường ngày người Việt Nam thường dùng biện pháp so sánh để ví von: Đẹp như tiên giáng trần, hôi như cú, vui như tết, xấu như ma…Còn trong thẩm mỹ, biện pháp so sánh được sử dụng như biện pháp tu từ với thế mạnh đặc biệt quan trọng khi gợi hình, gợi cảm. Đôi khi là có những so sánh bất ngờ, thú vị, góp phần cụ thể hóa được những điều hết sức trừu tượng, khó cân đo, đong đếm.
Kết cấu của phép so sánh
Kết cấu của một phép so sánh gồm: vế được so sánh và vế để so sánh. Giữa hai vế so sánh thường có dấu câu hoặc từ so sánh. Một số từ so sánh là: như, tựa như, như thể, giống như, bao nhiêu…bấy nhiêu.
Tín hiệu nhận biết phép so sánh
Tín hiệu của phép so sánh: để phân biệt trong câu có sử dụng biện pháp so sánh hay là không, cần dựa vào các địa thế căn cứ:
Có chứa các từ so sánh như: như, giống như, như thể, bao nhiêu….bấy nhiêu, không bằng….
Nội dung: có 2 sự vật có điểm tương đồng được so sánh với nhau
Ví dụ về biện pháp so sánh
Trẻ em như búp trên cành
Các kiểu so sánh thường gặp
So sánh gồm có: so sánh ngang bằng và so sánh không ngang bằng
So sánh ngang bằng: So sánh ngang bằng còn gọi là so sánh tương đồng, thường được thể hiện qua các từ như thể, như, y như, tựa như, giống như hoặc cặp đại từ bao nhiêu…bấy nhiêu. Ví dụ: Môi đỏ như son, da trắng như tuyết, tóc đen như gỗ mun; Lông con mèo giống như một cục bông gòn trắng xóa.
So sánh không ngang bằng: So sánh không ngang bằng còn gọi là so sánh tương phản, thường sử dụng các từ như hơn, hơn là, kém, kém gì, không bằng, chẳng bằng… Ví dụ: “Những ngôi sao 5 cánh thức ngoài kia/Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con”.
Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ nhân hóa là gì? Đây là một trong các biện pháp tu từ ngữ âm với cách gọi, cách tả loài vật, cây cối, đồ vật … bằng những từ ngữ được dùng làm gọi hoặc tả con người như hành động, suy nghĩ, tính cách.
Tác dụng của biện pháp nhân hóa
Phân loại biện pháp nhân hóa
Dùng từ ngữ vốn gọi người để gọi vật (ví dụ: chị ong, chú gà trống, ông mặt trời,…)
Dùng từ ngữ vốn chỉ hoạt động, tính chất của con người để chỉ hoạt động, tính chất của vật. Ví dụ: “Bão bùng thân bọc lấy thân/ Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm” (Tre Việt Nam).
Trò chuyện, xưng hô với vật như so với người. Ví dụ: trâu ơi, chim ơi,….
Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ ẩn dụ là gì? Ẩn dụ là một biện pháp tu từ, Từ đó, gọi tên các sự vật, hoặc hiện tượng lạ này bằng tên sự vật, hiện tượng lạ khác khởi sắc tương đồng với nhau có tác dụng nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm. Này cũng là một trong những biện pháp tu từ lớp 6 thường gặp.
Ẩn dụ hình thức: là sự việc chuyển thay tên gọi giữa các sự vật hiện tượng lạ nào đó khởi sắc tương đồng với nhau về hình thức, ở hình thức này, người viết giấu đi một phần ý nghĩa
Ẩn dụ cách thức: là sự việc chuyển thay tên gọi giữa các sự vật hiện tượng lạ nào đó khởi sắc tương đồng với nhau về hình thức, thông qua hình thức này người nói, người viết có thể đưa được nhiều hàm ý vào trong câu
Ẩn dụ phẩm chất: là sự việc chuyển thay tên gọi giữa các sự vật hiện tượng lạ nào đó khởi sắc tương đồng với nhau về phẩm chất, tính chất
Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: là hình thức miêu tả tính chất, đặc điểm của sự vật được nhận biết bằng giác quan này nhưng lại được miêu tả bằng từ ngữ sử dụng cho giác quan khác . Ví dụ: Trời nắng giòn tan.
Ví dụ về biện pháp ẩn dụ
Những bông kim ngân như thắp lên niềm hi vọng về tương lai tươi sáng.
Hình ảnh miền Nam luôn trong trái tim của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ hoán dụ là gì? Hoán dụ là một trong các biện pháp tu từ dùng làm gọi tên sự vật, sự việc, hiện tượng lạ, khái niệm này bằng tên sự vật, sự việc, hiện tượng lạ, khái niệm khác; giữa chúng có quan hệ gần gũi với nhau, nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt.
Các kiểu hoán dụ được sử dụng phổ biến là:
Lấy 1 bộ phận để gọi toàn thể: Ví dụ: anh ấy là chân sút số một của đội bóng.
Dùng vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng: Ví dụ: Cả khán đài hò reo, cổ vũ cho đội tuyển Việt Nam – Trường hợp này “khán đài” mang nghĩa là những người dân ngồi trên khán đài
Dùng tín hiệu sự vật để gọi sự vật: Ví dụ: cô gái có mái tóc màu hạt dẻ đang đứng một mình dưới mưa.
Dùng những cái cụ thể để nói về cái trừu tượng.
Ví dụ về biện pháp hoán dụ
Cứ mỗi độ hè đến thì những màu áo xanh lại đến những miền khó khăn, xa xôi.
Cả phòng đang lắng nghe một cách chăm chú thầy giảng bài.
“Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho”. (Ca dao)
Là một trong các biện pháp tu từ sử dụng biện pháp lặp đi tái diễn nhiều lần một từ ngữ hoặc cả câu một cách có thẩm mỹ.
Tác dụng: sử dụng điệp ngữ vừa giúp nhấn mạnh vấn đề nhằm làm nổi bật ý. Vừa tạo nên âm hưởng và nhịp điệu cho câu văn, câu thơ, đoạn văn, hay đoạn thơ. Không chỉ có thế, còn vừa gợi cảm xúc mạnh trong thâm tâm người đọc.
Các hình thức của phép điệp ngữ
Điệp ngữ cách quãng: là việc tái diễn một cụm từ, mà Từ đó các từ, cụm từ này cách quãng với nhau, không có sự liên tiếp.
Điệp ngữ nối tiếp: là việc lặp đi tái diễn một từ, cụm từ có sự nối tiếp nhau
Điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng).
Ví dụ về biện pháp tu từ điệp ngữ
Biện pháp nói quá là một trong các biện pháp tu từ dùng cách nói phóng đại mức độ, tính chất, của việc vật hay hiện tượng lạ được miêu tả. Nói quá còn được gọi là khoa trương, phóng đại, phóng đại, ngoa ngữ.,…thường được sử dụng trong khẩu ngữ, thông tấn, văn chương.
Tác dụng: Biện pháp nói quá dùng làm nhấn mạnh vấn đề, gây ấn tượng hơn về điều định nói hay tăng sức biểu cảm cho việc diễn đạt. Biện pháp nói quá được sử dụng nhiều trong các PC như: khẩu ngữ, văn chương, thông tấn.
Ví dụ về biện pháp nói quá
Tác dụng của biện pháp nói quá
Sự kết hợp của nói quá với phóng đại nhằm mục tiêu làm tăng sức biểu cảm, sự sinh động, sự cụ thể hơn để đem lại hiệu quả lơn hơn cho lời nói, câu văn.
“Nửa đêm, giờ tí, canh ba Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi”
Biện pháp tu từ là gì? Biện pháp tu từ nói giảm nói tránh là gì? Nói giảm, nói tránh là một trong các biện pháp tu từ và ví dụ thường gặp trong đời sống. Nói giảm nói tránh là cách nói giảm nhẹ quy mô, tính chất, mức độ của việc vật, sự việc, hiện tượng lạ hoặc dùng cách diễn đạt khác với tên gọi vốn có của nó.
Ví dụ về phép nói giảm nói tránh
“Bác bỏ đã đi rồi sao Bác bỏ ơi” – Tố Hữu
Tác dụng của phép nói giảm nói tránh
Tạo nên một cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển. Nhằm tăng sức biểu cảm cho lời thơ, lời văn.
Giảm mức độ, tránh gây cảm giác đau buồn, ghê sợ hay nặng nề trong những trường hợp cần phải lảng tránh do nguyên nhân từ tình cảm.
Thể hiện thái độ nhã nhặn, lịch sự của người nói, sự quan tâm, tôn trọng của người nói so với người nghe. Và góp phần tạo cách nói năng đúng mực của người dân có giáo dục, có văn hoá.
Biện pháp tu từ là gì? Chơi chữ là gì? Đây là một trong các biện pháp tu từ được vận dụng linh hoạt các đặc điểm về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp của Tiếng Việt. Nhằm tạo ra những cách hiểu bất ngờ, thú vị cho tất cả những người đọc. Chơi chữ được sử dụng nhiều trong văn trào phúng, câu đối,..
Tác dụng: Biện pháp chơi chữ thường được dùng làm nhằm tạo sắc thái dí dỏm và hài hước làm cho việc diễn đạt trở nên hấp dẫn, thú vị. Biện pháp này thường được dùng làm châm biếm, đả kích hoặc đùa vui.
Ví dụ về biện pháp tu từ chơi chữ
Các hình thức chơi chữ thường gặp
Dùng các từ gần nghĩa, từ đồng nghĩa
Dùng từ trái nghĩa.
Dùng lối nói lái.
Dùng từ đồng âm.
Biện pháp kiệt kê trong khái niệm đấy là sự nối tiếp, sắp xếp của khá nhiều từ hoặc cụm từ cùng loại với nhau để diễn tả các khía cạnh, hay tư tưởng tình cảm một cách rõ ràng, đầy đủ và thâm thúy đến người đọc và người nghe.
Ví dụ về biện pháp liệt kê
Ví dụ về liệt kê theo từng cặp: Khu vườn nhà em trồng rất nhiều loại quả như xoài, ổi, hồng xiêm và bưởi.
Ví dụ về liệt kê tăng tiến: tổ ấm em gồm nhiều người như em, anh trai em, bố mẹ và ông bà.
Các kiểu liệt kê thường gặp
Theo kết cấu
Liệt kê theo từng cặp.
Liệt kê không theo từng cặp.
Theo ý nghĩa
Liệt kê tăng tiến.
Liệt kê không theo tăng tiến.
Phép tương phản trong khái niệm có nghĩa là tạo ra những cảnh tượng, những hành động hay những tính cách trái ngược nhau, từ đó nhằm làm nổi bật nội dung, tư tưởng của tác giả hay của chính tác phẩm.
Ví dụ như trong tác phẩm “Sống chết mặc bay”.
Sự tuyệt vọng khốn cùng của nhân dân trước sự thịnh nộ của thiên nhiên khi chống lại bão lũ.
Ai Là Tác Giả Truyền Thuyết Con Rồng Cháu Tiên?
Tìm hiểu nguồn gốc và thực hư như thế nào về truyền thuyết con Rồng cháu Tiên là chuyện thật khó làm. Để giải thích cho có lý lẽ về truyền thuyết con Rồng cháu Tiên, may ra chúng ta chỉ có thể nghiên cứu tra khảo những bộ sách sử cổ như Việt Sử Lược (1), Lĩnh Nam Chích Quái (2), và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (3), tra khảo những nguồn sử liệu viết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, vua Hùng Vương của các sử gia nước ngoài (Tàu, Pháp, Nhật, và Mỹ) (4). Sau đó phân tích, đối chiếu về ngày tháng của những sứ kiện lịch sử để giải thích về truyền thuyết con Rồng cháu Tiên.
Truyền thuyết con Rồng cháu Tiên xuất hiện từ khi nào trong lịch sử, ai là tác giả và với mục đích gì? Vì lý do gì lại có chuyện “chia tay”, 50 người con theo cha xuống biển và 50 người con theo mẹ lên núi?
Chúng ta là hậu duệ của con Rồng cháu Tiên, thử đi tìm hiểu và trả lời những câu hỏi trên.
Khái niệm về Rồng và Tiên của người xưa
Cụ Trần Trọng Kim đã dựa vào cuốn sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia Ngô Sĩ Liên, đời Hậu Lê viết lại huyền thoại con Rồng cháu Tiên như sau: Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào năm 2879 trước Tây lịch, lấy Long Nữ sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi vua, xưng là Lạc Long Quân, lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, sinh một lần được một trăm người con. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “ta là dòng dõi Long quân, nhà ngươi là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống biển Nam Hải”.
Ở thế kỷ 15, khi sử gia Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông có khái niệm gì về Rồng và Tiên?
Rồng có thể là con rồng giao long ở dưới nước thường gây sóng gió lật đổ thuyền bè. Theo tiền Hán Thư thì vua Hán Vũ Đế bắn được một con giao long ở sông Dương Tử có bốn chân và cổ có vẩy. Các nhà khảo cổ và khoa học cho rằng rồng ở dưới nước có nguồn gốc phát xuất từ con cá sấu, một loại bò sát sống lâu năm ở ven biển vùng Đông Nam Á. Chữ rồng của ta mượn chữ Long bên Tàu. Trên nhiều trống đồng thời văn hóa Đông Sơn có rất nhiều hình cá sấu. Vào năm 1958 ở Hòa Bình có một trống đồng trên mặt trống có hình 6 con cá sấu. Như vậy Lạc Long Quân là rồng dưới nước, vật tổ của dân Văn Lang là rồng từ con cá sấu, không phải rồng từ con rắn. Rồng từ con rắn ngược lại là giống rồng bên trời Tây gọi là dragon, biết bay phun lửa, và thường thấy xuất hiện ở trên trời.
Vì quan điểm rồng ở dưới nước, cho nên sử gia Ngô Sĩ Liên ghi lại Lạc Long Quân, dòng dõi Long vương mang 50 người con xuống biển Nam Hải.
Tiên là nhân vật thần kỳ bí hiểm. Theo Hán tự, tiên gồm có chữ Nhân và chữ Sơn, người Tàu xem tiên là người sống ở trên núi. Có lẽ tiên hạ giới lúc đầu ở trên núi cao, mà cao hơn nữa là trời, nên lúc đầu là tiên ở trên núi sau này thành tiên ở trên trời.
Theo truyền thuyết, Âu Cơ sau khi chia tay mang 50 người con lên núi, có lẽ vì vậy sử gia Ngô Sĩ Liên ghi Âu Cơ là dòng dõi thần tiên.
Truyền thuyết con Rồng cháu Tiên ra đời từ khi nào?
Bộ chính sử đầu tiên của đất nước viết về Lạc Long Quân và Âu Cơ là cuốn sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia Ngô Sĩ Liên, hoàn tất vào năm 1479, đời vua Lê Thánh Tông, dựa theo quyển Lĩnh Nam Chích Quái chép từ thời Hồng Bàng đến hết thời kỳ Bắc thuộc. Lĩnh Nam Chích Quái là tập truyện ghi chép lại những truyền thuyết và cổ tích nước Văn Lang bắt đầu từ chuyện Kinh Dương Vương, đến Lạc Long Quân và Âu Cơ, tiếp đó là truyện Phù Đổng Thiên Vương, Nhất Dạ Trạch, bánh chưng, dưa hấu, truyện núi Tản Viên: Sơn Tinh – Thủy Tinh v.v…
Theo Lĩnh Nam Chích Quái, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ trăm trứng sau nở ra thành 100 người con trai, 50 người con theo cha xuống biển và 50 người con theo mẹ lên núi. Người con đầu theo cha và sau đó trở thành vua Hùng Vương thứ nhất. Sách Lĩnh Nam Chích Quái xuất hiện vào cuối đời nhà Trần.
Hơn nữa, đọc những chuyện thời các vua Hùng chúng ta có thể biết ít nhiều về một nước Văn Lang khá thanh bình, dân sống an cư lạc nghiệp, vua tôi hòa thuận, mà sau này sử gia Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, người dân đều tự hào là con dân nước Văn Lang.
Như vậy, tại sao lại có câu chuyện chia tay, 50 người con theo cha xuống biển và 50 người con theo mẹ lên núi?
Trong Việt Nam Sử Lược, cụ Trần Trọng Kim viết: “người cháu Thục Vương tên là Phán đem quân sang đánh lấy nước Văn chúng tôi Hùng Vương thua chạy, nhảy xuống giếng tự tử. Năm giáp thìn (257 trước Tây lịch), Thục Phán dẹp yên mọi nơi, rồi xưng là An Dương Vương đổi quốc hiệu là Âu Lạc”.
Thục Phán An Dương Vương vua của dân Âu Việt trước kia thuộc vùng Ba Thục (vùng cao nguyên Vân Nam và Tứ Xuyên bên Tàu ngày nay), nhưng bị nhà Tần chiếm mất đất nên chạy về phía nam chiếm Văn Lang. Người Âu Việt thường sinh sống ở vùng cao nguyên bắc phần Việt Nam và cao nguyên Vân Nam, Tứ Xuyên bên Tàu, họ có huyền thoại là con cháu của bà Ngu Ky. Người Tàu phiên âm hai chữ Ngu Ky sang tiếng Hán, rồi sau này qua Hán Việt, trở thành Âu Cơ. Như vậy có phải là Âu Cơ trong huyền thoại của chúng ta?
Phải chăng An Dương Vương là tác giả của truyền thuyết con Rồng cháu Tiên?
An Dương Vương vừa chiếm nước Văn Lang, với hai sắc tộc Âu và Lạc sống chung đụng, không tránh khỏi va chạm trên cùng một nước Âu Lạc mới thành lập, thêm phải lo giặc bên ngoài, lo xây thành Cổ Loa để chống áp lực xâm lăng, nên ông phải nhanh chóng tìm cách ổn định việc thống nhất hai sắc tộc trong nước để có thì giờ đối phó với nhà Tần từ phương bắc.
Có lẽ nào đây là thời điểm ra đời của hai câu ca dao tối nghĩa trong nhân gian sau đây:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Để giải quyết vấn đề đụng chạm của hai sắc dân Âu và Lạc, An Dương Vương có lẽ là nhân vật lịch sử khả thi nhất đã dựng lên truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân với 100 người con. Ý nghĩa trong câu chuyện thật rỏ ràng: Âu Lạc là anh em một nhà cùng cha mẹ. Đã là anh em thì phải thương nhau chẳng khác gì Bầu và Bí. Tuy nhiên, để giải thích sự kiện phần lớn người Lạc ở vùng đồng bằng và đa số người Âu ở trên cao nguyên núi cao, An Dương Vương thêm vào truyền thuyết “chia tay” với 50 người con theo cha xuống biển và 50 người con theo mẹ lên núi. Âu Cơ trở thành tiên, vì tiên thường sống trên núi do đó 50 người con theo bà lên núi sau này là người Âu. Còn Lạc Long Quân biến thành dòng dỏi con Rồng cá sấu, 50 người con theo cha xuống biển là dân Lạc. Bây giờ thì phải “Bầu ơi thương lấy Bí cùng”, để đoàn kết chống giặc ngoại xâm.
Như đã nói trong phần mở đầu, tìm hiểu về truyền thuyết con Rồng cháu Tiên thật khó đủ điều. Sử liệu phía sử gia Việt quá ít nếu không nói là không có. Sử gia Việt ngày xưa phần lớn chỉ ghi chép lại, thêm bị chi phối dưới chế độ quân chủ toàn trị, không dám có ý tưởng riêng biệt. Sách viết về truyền thuyết con Rồng cháu Tiên của người nước ngoài, tuy không bị gò bó như các sử gia Việt nhưng nhiều khi thiên về sách sử Tàu nhiều hơn. Do đó việc so sánh phân tích đối chiếu giữa các nguồn sử liệu thêm rắc rối.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể đưa ra một giải thích sau đây về truyền thuyết con Rồng cháu Tiên, có tính cách gợi ý, hy vọng những người trẻ đam mê môn lịch sử có nhiều khả năng để nghiên cứu bổ túc thêm trong tương lai. Truyền thuyết con Rồng cháu Tiên có thể phát hiện vào thời kỳ An Dương Vương, năm 257 trước Tây lịch, để ổn định tình hình trong nước Âu Lạc và được sử gia Ngô Sĩ Liên đời vua Lê Thánh Tông chính thức ghi chép lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư sau hơn 1600 năm truyền khẩu trong dân gian.
1- Việt Sử Lược, Lĩnh Nam Chích Quái và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là ba nguồn sử liệu cổ đầu tiên ghi chép về Lạc Long Quân, Âu Cơ, và vua Hùng Vương. Những sử liệu sau này đều dựa theo ba tài liệu trên.
2- Việt Sử Lược cũng có tên là Đại Việt Sử Lược của một tác giả khuyết danh, ra đời vào khoảng thời nhà Trần (theo dịch giả Nguyễn Gia Tường, 1972, Đại Việt Sử Lược ra đời ở thế kỷ 14, từ 1377-1388). Bộ sử này và Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu bị thất lạc khi nhà Minh xâm chiếm nước ta, nhưng sau này được tìm thấy trong kho lưu trử nhà Thanh và đã được vua Càn Long cho in khắc lại. Trong Quyển I của Việt Sử Lược viết “…đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682) trước công nguyên ở bộ Gia Ninh (phần đất Mê Linh), có người lạ dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đống đô ở Văn Lang, đặc quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút …. Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương “.
3-Lĩnh Nam Chích Quái (những chuyện quái dị ở đất Lĩnh Nam) là tập truyện ghi chép lại những truyền thuyết và cổ tích nước Văn Lang bắt đầu từ chuyện Kinh Dương Vương, đến Lạc Long Quân và Âu Cơ, tiếp đó là truyện Phù Đổng Thiên Vương, Nhất Dạ Trạch, bánh chưng, dưa hấu, truyện núi Tản Viên: Sơn Tinh – Thủy Tinh”. Không có ngày tháng ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái. Tương truyền Trần Thế Pháp, một danh sĩ đời nhà Trần là tác giả bộ sách Lĩnh Nam Chích Quái. Sách có thể ra đời khoảng thế kỷ 14 hoặc đầu thế kỷ 15. Trích một đoạn về Lạc Long Quân “…Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử, phu phụ…” Viết về Âu Cơ và Lạc Long Quân “…Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm sinh ra một bọc trứng cho là điềm không may nên đem bỏ ra ngoài đồng nội, hơn bảy ngày trong bọc nở ra trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bà đem về nuôi nấng, không cho ăn cho bú mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng uy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường…”
4-Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên ra đời sau Việt Sử Lược và Lĩnh Nam Chích Quái. Khi soạn bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên không biết sách Việt Sử Lược viết về 18 đời Hùng Vương vì bị nhà Minh lấy mang về Tàu. Sử gia Ngô Sĩ Liên đọc sách Lĩnh Nam Chích Quái và đã thêm năm tháng về Lạc Long Quân và Âu Cơ trong chương Kỷ Hồng Bàng Thị cho phần Ngoại Kỷ của bộ sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ngô Sĩ Liên đã viết trong chương Kỷ Hồng Bàn Thị “…Trở lên là kỷ Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương Vương được phong năm Nhâm Tuất, cùng thời với Đế Nghi, truyền đến cuối đời vua Hùng Vương, ngang với đời Noãn Vương nhà Chu năm thứ 57, tức năm Quý Mão (258 trước Công Nguyên) thì hết. Tất cả là 2622 năm (2879 – 258 TCN). Sử gia Ngô Sĩ Liên căn cứ vào đâu để ghi 2879 TCN, năm Nhâm Tuất là năm Kinh Dương Vương lên ngôi làm vua nước Xích Quỷ?
Những tài liệu tham khảo sau đây viết về nguồn gốc Việt Nam, Lạc Long Quân và Âu Cơ, vua Hùng Vương để những người yêu thích sử nghiên cứu thêm:
Henri Maspero “Études d’histoire d’Annam”, Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient 16 (1916)
. Émile Gaspardon “Matériaux pour servir a l’histoire d’Annam”, Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient 29 (1929)
. Trần Quốc Vượng “Hùng Vương Dựng Nước”, Ủy bsn khoa học Hà Nội, 1973
. Hoàng Thị Châu “Nước Văn Lang qua tài liệu ngôn ngữ”, Nghiên Cứu Lịch Sử 1969.
. Hoàng Văn Chí “Duy Văn Sử Quan” , Tủ sách Cành Nam 1990
. Norman G. Owen “The Emergence of Modern Southeast Asia”, 2005 University of Hawaii Press
. Keith Weller Taylor “The Birth of Vietnam”, 1983 University of California Press
. Yamamoto Tatsuro “On The Việt Sử Lược and Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” 1949.
Cập nhật thông tin chi tiết về Vài Giả Thuyết Về Sự Sống trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!