Ý Thức Pháp Luật Là Gì Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật Với Việc Thực Hiện Pháp Luật

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HỒNG HUỆ

VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. Đào Trí Úc

HÀ NỘI – 2014

M,

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Các khuyến nghị khoa học được rút ra từ quá trình nghiên cứu đề tài, không có sự sao chép từ các công trình nghiên cứu khác. NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hồng Huệ

MỤC LỤC

Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục bảng biểu MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………………..1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ……………………………………………..13 1.1.

KHÁI NIỆM Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ CẤU TRÚC CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT ………………………………………………………………………..13

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của ý thức pháp luật ……………………………………….13

1.1.2.

Cấu trúc và hình thức của ý thức pháp luật ………………………………………….18

1.2.

KHÁI NIỆM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ………………………………………………………………21

1.2.1.

Khái niệm thực hiện pháp luật …………………………………………………………..21

1.2.2.

Các hình thức thực hiện pháp luật ………………………………………………………22

1.3.

NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI Ý THỨC PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA ………………………………………………………………………………………23

1.3.1.

Ảnh hƣởng của lệ làng truyền thống …………………………………………………..24

1.3.2.

Ảnh hƣởng của những yếu tố lịch sử ………………………………………………….30

1.3.3.

Ảnh hƣởng của chiến tranh ……………………………………………………………….38

1.3.4.

Ảnh hƣởng của cơ chế hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp ……………41

1.3.5.

Công cuộc đổi mới và sự thay đổi của ý thức pháp luật ………………………..44

1.4.

TÁC ĐỘNG CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA ……………………………………………………..47

Kết luận Chƣơng 1 ……………………………………………………………………………………….58

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA SỰ TÁC ĐỘNG Ý THỨC PHÁP LUẬT LÊN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT……………………59 2.1.

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG PHÁP LUẬT ………………………..59

2.2.

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TUÂN THEO PHÁP LUẬT …………………………64

2.3.

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH PHÁP LUẬT …………………………….68

2.4.

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ……………………………..75

Kết luận Chƣơng 2 ……………………………………………………………………………………….83 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ………………………………………………….84 3.1.

PHƢƠNG HƢỚNG NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY …………….84

3.2.

GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ………….87

3.2.1.

Giải pháp chung ………………………………………………………………………………87

3.2.2.

Các giải pháp cụ thể …………………………………………………………………………88

Kết luận Chƣơng 3 ……………………………………………………………………………………..101 KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………103 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………105

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

HĐND:

Hội đồng nhân dân

STT:

Số thứ tự

TBCN:

Tƣ bản chủ nghĩa

UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên bảng

Trang

Khảo sát tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân

2

Bảng 2.2:

Khảo sát tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ tài sản của nhà nƣớc, của cộng cộng

3

76

Khảo sát kiến thức pháp luật của đối tƣợng cán bộ, công chức

5

74

Khảo sát vai trò của kiến thức pháp luật của đối tƣợng cán bộ, công chức

4

73

77

Khảo sát trình độ pháp luật của đối tƣợng cán bộ, công chức

79

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều các yếu tố ảnh hƣởng tới quá trình thực hiện pháp luật, trong đó ý thức pháp luật là yếu tố rất quan trọng. Ý thức pháp luật đƣợc xem là yếu tố quan trọng, là tiền đề tƣ tƣởng trực tiếp cho việc thực hiện pháp luật, xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật; là cơ sở hình thành văn hoá pháp lý của các chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể có khả năng và kỹ năng sử dụng có hiệu quả cơ chế điều chỉnh pháp luật để bảo vệ lợi ích chính đáng cho bản thân mình, cho nhà nƣớc và cho xã hội, đồng thời có những xử sự đúng đắn, phù hợp với pháp luật. Ý thức pháp luật có ảnh hƣởng rất lớn tới việc thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp của chủ thể và góp phần nâng cao phẩm chất, nhân cách con ngƣời, từ đó hình thành trách nhiệm của mỗi ngƣời với bản thân, với gia đình và với xã hội. Tuy nhiên thực tế hiện nay cho thấy: trong xã hội ta nhà nƣớc là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân còn “pháp luật là thể chế hoá đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân…” nên cả nhà nƣớc và nhân dân cùng quan tâm tới việc thực hiện pháp luật nghiêm minh. Mặc dù vậy, thái độ bất tuân pháp luật đã trở thành thói quen, đã ăn sâu trong ý thức của một bộ phận ngƣời dân, do vậy trong họ luôn tiềm ẩn khuynh hƣớng tìm mọi cách để lẩn tránh luật pháp, tìm cách “lách luật”, tìm ra những kẽ hở, những hạn chế của pháp luật để hễ có cơ hội thì vụ lợi. Trong nhiều hoạt động nhà nƣớc ở nƣớc ta vẫn còn biểu hiện của tâm lý cửa quyền, quan liêu, hách dịch, sách nhiễu nhân dân. Tình trạng nhân nhƣợng, nể nang của một số cơ quan chức năng và cán bộ, công chức nhà nƣớc trong việc bảo vệ pháp luật, duy trì trật tự pháp luật chính là những yếu

1

tố góp phần tạo ra tâm lý chây ỳ, thách thức chính quyền, coi thƣờng pháp luật của một số kẻ bất tuân pháp luật. Đồng thời ngƣời dân do không hiểu biết đầy đủ về pháp luật đã dẫn đến tâm lý thiếu tự tin trong các hoạt động. Điều này, một mặt làm giảm khả năng của ngƣời dân trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm hại, mặt khác có thể góp phần làm tăng khả năng khiếu kiện bừa bãi, không đủ căn cứ, không đúng thủ tục… dẫn tới bất ổn định xã hội. Tình trạng kém hiểu biết về pháp luật cũng dễ tạo nên tâm lý thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí coi thƣờng pháp luật, dẫn đến ngƣời dân có những hành vi xử sự không đúng với quy định của pháp luật. Tình trạng này có nguyên nhân từ ý thức pháp luật thấp kém, pháp luật chƣa thực sự đi vào cuộc sống, chƣa trở thành cái không thể thiếu khi điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ý thức pháp luật của ngƣời dân còn nhiều hạn chế và bản thân hệ thống pháp luật chƣa theo kịp sự phát triển của xã hội, mặt bằng dân trí thấp, trình độ văn hóa pháp lý còn thấp kém. Do vậy, trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay vai trò của ý thức pháp luật có sự tác động vô cùng quan trọng đến việc thực hiện pháp luật. Bởi nếu ý thức pháp luật thấp thì khó có thể xây dựng và hoàn thiện đƣợc một hệ thống pháp luật khoa học, phù hợp, đồng thời với ý thức pháp luật thấp thì các chủ thể cũng khó có thể nhận thức, thực hiện và áp dụng pháp luật chính xác, có hiệu quả cao đƣợc. Để xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Vấn đề thực hiện pháp luật nghiêm minh là trách nhiệm không những chỉ ở phía Nhà nƣớc, mà còn ở cả phía nhân dân, trong đó ý thức pháp luật đóng vai trò quan trọng hàng đầu không thể thiếu. Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nƣớc và pháp luật.

2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Những nội dung liên quan đến lĩnh vực ý thức pháp luật, thời gian qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần đây ở những góc độ khác nhau, các tác giả đã cho ra mắt bạn đọc các công trình nghiên cứu của mình, dƣới các hình thức nhƣ đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách, các bài viết trên các tạp chí, các báo… Chẳng hạn, một số công trình sau đây: 2.1.1. Đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước – Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, chƣơng trình khoa học công nghệ cấp Nhà nƣớc KX-07, đề tài KX-07-17 (1995), do GS.TSKH Đào Trí Úc làm chủ nhiệm. – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, Đề tài khoa học cấp bộ năm 1995 của Bộ Tƣ pháp. 2.1.2. Luận án Tiến sĩ – Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ hành chính Nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, tác giả Lê Đình Khiên, năm 1996. – Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Đào Duy Tấn, năm 2000. – Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật của nhân dân đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, tác giả Hồ Việt Hiệp, năm 2000. – Logic khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, tác giả Nguyễn Thị Thúy Vân, năm 2001. 2.1.3. Sách, báo, tạp chí – Chính sách pháp luật và ý thức pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 4/1993, của tác giả Nguyễn Nhƣ Phát.

3

– Bàn về ý thức pháp luật. Tạp chí Luật học, số 1/2003, của TS. Hoàng Thị Kim Quế. – Vai trò của Ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật. Tạp chí Luật học, số 3/2011, của Ths. Nguyễn Văn Năm. – Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 8/ 2005, của Ths. Trần Thị Nguyệt. Công trình nghiên cứu này đã có những đóng góp nhất định, chủ yếu tập trung luận giải về bản chất và vai trò của ý thức pháp luật ở hai phƣơng diện: xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật. – Bài viết: Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở Việt Nam. Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp Luật, của GS.TSKH Đào Trí Úc… Bài viết này đã có những đóng góp đáng kể, chủ yếu bàn về các vấn đề sau: Bản chất, vị trí và vai trò của thực hiện pháp luật trong hệ thống pháp luật; các hình thức thực hiện pháp luật; cơ chế thực hiện pháp luật và những điều kiện bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật. Theo Ths.Trần Thị Nguyệt, ý thức pháp luật dù đƣợc thể hiện ở dạng thức nào, thang bậc nào,ở hệ tƣ tƣởng pháp luật hay tâm lý pháp luật thì cũng đều giữ vai trò là tiền đề trực tiếp cho hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật. Ý thức pháp luật cao cho phép đánh giá đúng đắn tầm quan trọng pháp lý của các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, bảo đảm cho hoạt động soạn thảo, thảo luận, thông qua các văn bản pháp luật có chất lƣợng cao. Xu hƣớng vận động và sự thể hiện vai trò của ý thức pháp luật ngày càng đa dạng, càng có thêm nhiều yếu tố mới cả trên hai phƣơng diện hệ tƣ tƣởng pháp luật và tâm lý pháp luật, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lƣợng và nội dung của văn bản pháp luật và đó cũng chính là một trong những biểu hiện của xã hội công dân trong điều kiện nhà nƣớc pháp quyền, tôn trọng, đề cao giá trị của dân chủ thực sự.

4

Trong qúa trình thực hiện pháp luật, ý thức pháp luật có một vai trò và ý nghĩa quan trọng. Nó thuộc nhân tố chủ quan, gắn liền với tƣ duy, tình cảm và hành vi của cá nhân. Quyết định chất lƣợng và hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật trên nhiều góc độ và ở nhiều phƣơng diện. Ý thức pháp luật tốt sẽ là tiền đề quan trọng bảo đảm thực hiện pháp luật tốt. Trong đó, mối quan hệ hữu cơ giữa tâm lý pháp luật và hệ tƣ tƣởng pháp luật cũng thể hiện vai trò thúc đẩy hoặc kìm hãm các hành vi tuân thủ, thi hành, vận dụng và áp dụng pháp luật. Theo tác giả, chúng ta phải coi giáo dục, hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho toàn xã hội là một quá trình liên tục, thƣờng xuyên, nhất quán chứ không phải là hoạt động mang tính phong trào. Bên cạnh đó còn phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhƣ mở rộng và bảo vệ dân chủ; công khai hóa các hoạt động lập pháp; chú ý hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát việc tuân thủ, chấp hành pháp luật ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tƣợng; tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận và tiếp cận đƣợc một cách dễ dàng. Hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật chính là các phƣơng thức chủ yếu nhất của cơ chế điều chỉnh pháp luật, mà ở đó ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong việc hình thành thái độ ứng xử, hình thành động cơ, mục đích bên trong của các hành vi pháp luật. Nó có khả năng biến cải và thôi thúc quá trình thực hiện hành vi xử sự của con ngƣời. Tổng thể những yếu tố đó trở thành cơ sở khoa học cho việc hình thành lối sống tuân thủ pháp luật ở nƣớc ta trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN hiện nay. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, bản chất của việc thực hiện pháp luật là sự chuyển hóa các yêu cầu chung đƣợc xác định trong các nguyên tắc và quy phạm pháp luật vào trong các hành vi cụ thể của các chủ thể. Nói thực hiện pháp luật là nói đến một kết quả tích cực của quá trình điều chỉnh pháp luật, mà điều chỉnh pháp luật thì hƣớng tới hai yêu cầu: thực hiện hành vi hợp pháp

5

hoặc không thực hiện hành vi trái pháp luật. Bên cạnh đó, quá trình và kết quả của việc thực hiện pháp luật là thƣớc đo hiệu quả điều chỉnh pháp luật. Với những yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của quá trình thực hiện pháp luật cũng nhƣ các yếu tố mang tính tác nhân của quá trình đó, có thể thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của thực hiện pháp luật trong hệ thống pháp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, thực hiện pháp luật là một phạm vi độc lập với những hình thức gắn với hoạt động của các chủ thể tƣơng ứng và theo đó là những nguyên tắc, những phạm vi thẩm quyền nội dung phƣơng pháp và trình tự, thủ tục thực hiện pháp luật tƣơng ứng và thích hợp. Thứ hai, thực hiện pháp luật là tổng thể những hoạt động và hành vi hết sức đa dạng ở những cấp độ khác nhau, từ hành vi của cá nhân công dân trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể pháp lý của mình, việc thực hiện các điều kiện tổ chức và hoạt động của một pháp nhân, thực hiện các thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan công quyền… cho đến hoạt động lập pháp của Quốc hội. Thực hiện pháp luật dù hiểu theo nghĩa là một quá trình hay theo nghĩa là kết quả của quá trình đó đều đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật. Nhƣ vậy, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật với tính cách là những tác nhân thúc đẩy hiệu quả thực hiện pháp luật cũng chịu sự tác động mà chính quá trình và kết quả của việc thực hiện pháp luật tạo ra. Theo tác giả Đào Trí Úc, việc sử dụng pháp luật thông qua việc sử dụng các thẩm quyền luật định cũng không thể là một sự tùy tiện mà ngƣợc lại cần phải đƣợc cân nhắc kỹ lƣỡng, thận trọng. Hoạt động áp dụng pháp luật cũng góp phần bổ sung pháp luật, làm phong phú các nguồn sáng kiến pháp luật, gắn bó chặt chẽ với nhu cầu giải thích pháp luật, có tiềm năng đối với việc bổ sung sửa đổi pháp luật hoặc ban hành pháp luật mới. Bên cạnh đó, tác giả cũng đƣa ra vấn đề cơ chế thực hiện pháp luật và những điều kiện bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật. Trong đó, thực hiện

6

pháp luật là hành vi và hoạt động của con ngƣời, dù họ là cá nhân công dân hay là công chức của bộ máy công quyền. Đối tƣợng của việc thực hiện pháp luật cũng không có gì khác ngoài con ngƣời. Nhận thức về pháp luật, mức độ chia sẻ những giá trị và đòi hỏi của các quy định pháp luật cần đƣợc thực hiện cũng là tiền đề quan trọng và có mối liên hệ mật thiết với thực hiện pháp luật. Nhƣ vậy, ý thức pháp luật có vai trò quan trọng và có mối liên hệ mật thiết với thực hiện pháp luật. Do đó, không thể bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật nếu không có những bảo đảm về ý thức và văn hóa pháp luật của cá nhân, của xã hội. Đồng thời, cơ chế thực hiện pháp luật vận hành thông qua các hình thức thực hiện pháp luật và đƣợc cụ thể bởi các hình thức đó. Để vận hành cơ chế thực hiện pháp luật trong các hình thức mà công dân là chủ thể thì các điều kiện cần thiết là thủ tục thực hiện pháp luật, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tƣ vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý – tức là toàn bộ những hoạt động hƣớng vào mục đích tiếp cận thông tin, tiếp cận pháp luật. Trong khi đó, đối với việc thi hành và áp dụng pháp luật của các thiết chế công quyền thì điều kiện đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật là kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng quyền con ngƣời, quyền công dân và ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức bộ máy công quyền. Có thể thấy rằng, bài viết đã có những đóng góp đáng kể trong việc thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở Việt Nam. 2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Ý thức pháp luật là vấn đề cơ bản của lý luận pháp luật, đã nhận đƣợc rất nhiều sự nghiên cứu ở những góc độ, bình diện khác nhau. Ở bình diện nghiên cứu của tác giả ngoài nƣớc, trong phạm vi khả năng, tác giả luận văn đã chọn 03 văn bản, công trình nghiên cứu cơ bản sau về chủ đề ý thức pháp luật.

7

– Tƣ tƣởng về ý thức pháp luật của phái Pháp gia (Trung Hoa cổ đại). Đây có thể coi là tƣ tƣởng sớm nhất đề cập tới nội dung của ý thức pháp luật trên thế giới nói chung và ở phƣơng Đông nói riêng (trên bình diện thời gian và sự ảnh hƣởng). Những ngƣời đề xuất và phát triển tƣ tƣởng này không phải là các nhà nghiên cứu luật học, mà là các tƣớng lĩnh, quan chức của nhà nƣớc phong kiến ở Trung Quốc, tiêu biểu là Quản Trọng, Thƣơng Ƣởng, Hàn Phi Tử, Lý Tƣ (thời chiến quốc), với tác phẩm tiêu biểu là Hàn Phi Tử (đã đƣợc dịch sang tiếng Việt). Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng về ý thức pháp luật (nghĩa chung nhất) trong tƣ tƣởng của phái Pháp gia là quan điểm pháp trị (dùng pháp luật để cai trị). Theo đó, pháp trị đòi hỏi phải rạch ròi về luật, lệnh, về hình, về chính. Luật phải minh bạch, phải hợp lý đối với đời sống nhân dân theo nguyên tắc: thiên thời, địa lợi, nhân hòa; muốn thi hành pháp luật thì phải chuẩn bị cho dân trƣớc pháp luật rồi mới áp dụng; pháp luật ban ra phải đƣợc cân nhắc kỹ, không đƣợc nay sửa mai đổi; việc xử án phải chí công vô tƣ, không khoan dung ngƣời mình yêu, không khắc nghiệt với ngƣời mình ghét. Quan điểm pháp trị của phái Pháp gia đối lập với quan điểm đức trị của phái Nho gia. Đây là hai quan điểm đối lập tồn tại dai dẳng trong xã hội phƣơng Đông. Hiện nay, quan điểm pháp trị vẫn chứa đựng những giá trị hợp lý cần đƣợc vận dụng, phát triển. – Nghiên cứu về ý thức pháp luật trong tác phẩm Triết học pháp luật của tác giả Raymond Wacks (Phạm Kiều Tùng dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2011). Tác phẩm thể hiện kết quả nghiên cứu về ý thức pháp luật ở góc độ nhận thức khoa học về pháp luật dƣới góc nhìn của triết học. Đây đƣợc xem là tác phẩm căn bản, nền tảng khi nghiên cứu luật học hiện đại (trên bình diện lý luận chung). Tác giả đã góp phần trả lời câu hỏi: “luật pháp là gì?” bằng luận giải về thuyết luật tự nhiên, thuyết thực chứng, thuyết phê phán. Tác phẩm

8

cũng trình bày rõ tƣ tƣởng của nhiều tác giả, cùng với những tác phẩm tiêu biểu của mình cho mỗi thuyết về pháp luật. Việc nghiên cứu pháp luật nói chung, nội dung ý thức pháp luật nói riêng không thể ở bên ngoài những lý thuyết nghiên cứu này. – Nghiên cứu về ý thức pháp luật của học giả Liên Xô qua tác phẩm Ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của tác giả E.A LuKaSeva (viết năm 1980, bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội Việt Nam năm 1997) (trên bình diện một hệ tƣ tƣởng cụ thể: hệ tƣ tƣởng Nga – Xô). Tác giả nghiên cứu ý thức pháp luật ở mức độ cụ thể, bao gồm các nội dung: 1, Khái niệm và bản chất ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN); 2, cơ cấu ý thức pháp luật XHCN; 3, ý thức pháp luật XHCN và việc làm luật; 4, ý thức pháp luật XHCN và việc thực hiện pháp luật; 5, giáo dục pháp luật và văn hóa pháp lý. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh Đảng cộng sản Liên Xô đẩy mạnh giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động, nên nó thể hiện rõ nét tƣ tƣởng chính trị pháp lý nổi trội giai đoạn này. Trên thực tế, khoa học pháp lý của Liên Xô đã có ảnh hƣởng sâu sắc tới khoa học pháp lý ở Việt Nam. Hiện nay, nghiên cứu cụ thể về ý thức pháp luật ở Việt Nam cũng theo các nội dung cơ bản nêu trên. Trên đây là những nguồn tài liệu vô cùng quý giá để tác giả tham khảo và hoàn thành luận văn của mình. Tuy nhiên, cho tới nay chƣa có một công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về vấn đề: ” vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật “. Đó chính là vấn đề tác giả quan tâm và giải quyết trong đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích – Làm rõ mối liên hệ giữa ý thức pháp luật và thực hiện pháp luật. Chỉ ra thực trạng chung của ý thức pháp luật ảnh hƣởng tới việc thực hiện pháp luật;

9

– Từ đó đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp giúp nâng cao ý thức pháp luật đáp ứng yêu cầu thực hiện pháp luật trong quá trình xây dựng Nhà Nƣớc Pháp Quyền ở nƣớc ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau đây: – Làm rõ mối liên hệ giữa ý thức pháp luật và thực hiện pháp luật. Từ đó chỉ ra thực trạng chung của vấn đề ý thức pháp luật ảnh hƣởng tới việc thực hiện pháp luật; – Đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp giúp nâng cao ý thức pháp luật cho công dân, đáp ứng yêu cầu thực hiện pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn đi sâu vào nghiên cứu vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Luận văn tập trung nghiên cứu các mối liên hệ đa chiều giữa ý thức pháp luật và thực hiện pháp luật; + Thực trạng chung của ý thức pháp luật và ảnh hƣởng đối với việc thực hiện pháp luật; + Các giải pháp giúp nâng cao ý thức pháp luật đáp ứng yêu cầu thực hiện pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay. 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu Để hoàn thành luận văn, tôi đã sử dụng nguồn tài liệu: Giáo trình lý luận

10

chung về Nhà nƣớc và pháp luật, các văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan; Các sách, báo, tạp chí viết về ý thức pháp luật và thực hiện pháp luật; Cuốn giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN. Đây là nguồn tƣ liệu cơ bản để thực hiện đề tài và những tƣ liệu đó đƣợc khai thác bằng nhiều nguồn khác nhau nhƣng chủ yếu là tại Thƣ viện Đại học Quốc Gia,… Ngoài ra luận văn còn sử dụng các công trình khoa học, các chuyên luận, chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài nói, bài viết của các GS,TS Luật học xung quanh vấn đề vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu truyền thống của nghiên cứu luật học bao gồm: Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic; ngoài ra trong một số trƣờng hợp luận văn còn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nhƣ thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, mô tả, … 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn – Việc thực hiện nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hƣởng tới ý thức pháp luật, tác động của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật ở nƣớc ta. – Khẳng định sự ảnh hƣởng của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật ở các hoạt động thi hành, tuân theo, sử dụng và áp dụng pháp luật. – Đề tài đƣa ra những phƣơng hƣớng và giải pháp giúp nâng cao ý thức pháp luật đáp ứng yêu cầu thực hiện pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nƣớc Pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay. – Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các học viên khác, ngoài ra còn phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn giáo dục pháp luật tại các trƣờng Trung cấp, Cao đẳng và Đại học.

11

7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng: – Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của ý thức pháp đối với thực hiện pháp luật. – Chương 2: Thực trạng về vai trò của sự tác động ý thức pháp luật lên thực hiện pháp luật. – Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp giúp nâng cao ý thức pháp luật đáp ứng yêu cầu thực hiện pháp luật trong quá trình xây dựng nhà nƣớc Pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay.

12

Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 1.1. KHÁI NIỆM Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ CẤU TRÚC CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ý thức pháp luật Ý thức pháp luật là một trong những bộ phận tạo thành nên đời sống pháp luật bên cạnh các lĩnh vực xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong xã hội hiện nay, ý thức pháp luật giữ vai trò hết sức quan trọng đối với việc hình thành nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của con ngƣời. Do vậy các hoạt động của con ngƣời đều phải dựa vào ý thức của mình. Các hành vi pháp luật, các mối quan hệ pháp luật của con ngƣời đều đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở tâm lý pháp luật, tƣ tƣởng pháp luật và quan điểm, quan niệm về pháp luật của con ngƣời thông qua các thời kỳ khác nhau. Vì vậy, việc thực hiện pháp luật của con ngƣời trong xã hội có liên quan chặt chẽ đến yếu tố tâm lý pháp luật và tƣ tƣởng pháp luật. Ý thức pháp luật là tổng thể những quan điểm, quan niệm về pháp luật, là tình cảm và tâm trạng của con ngƣời đối với pháp luật. Do vậy, ý thức pháp luật đƣợc hình thông qua những quan điểm, quan niệm của con ngƣời từ sự cần thiết phải có các quy tắc xử sự phù hợp. Ý thức pháp luật ra đời, tồn tại và phát triển về từ nhu cầu khách quan của đời sống xã hội, khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định (đó là giai đoạn bắt đầu có sự phân chia về giai cấp), đó là khi các phƣơng tiện điều chỉnh xã hội nhƣ: đạo đức, tôn giáo, tập quán, niềm tin… không còn phù hợp nữa, nó không còn đủ khả năng để quản lý xã hội có hiệu quả. Lúc này cần phải có một công cụ mới ra đời, đó là pháp luật, để thiết lập ra một trật tự xã

13

hội mới ổn định, kỷ cƣơng. Từ nhu cầu khách quan này của đời sống xã hội, con ngƣời đã nhận thức đƣợc xã hội (đã phản ánh đƣợc tồn tại xã hội) và đã tạo nên ở họ những tƣ tƣởng, quan điểm, quan niệm về sự cần thiết phải điều chỉnh các quan hệ trong xã hội bằng pháp luật, một phƣơng tiện điều chỉnh hữu hiệu nhất. Về mặt Triết học, ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội, nó thuộc thƣợng tầng kiến trúc xã hội, nó chịu sự quy định của cơ sở kinh tế. Tuy nhiên, ý thức pháp luật còn chịu sự ảnh hƣởng của các hình thái ý thức xã hội khác ở những mức độ khác nhau. Nhƣ vậy, ý thức pháp luật là sự phản ánh những điều kiện xã hội (vật chất, chính trị, lịch sử…), đó là những điều kiện cần phải đƣợc điều chỉnh bằng pháp luật, thông qua những quan điểm, quan niệm, tƣ tƣởng, học thuyết, tình cảm, tâm trạng và niềm tin pháp lý. Từ sự phân tích nhƣ trên, thì ý thức pháp luật có thể định nghĩa nhƣ sau: Ý thức pháp luật là tổng thể những tƣ tƣởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con ngƣời về pháp luật trên các phƣơng diện, tiêu chí cơ bản nhƣ: Về sự cần thiết (hay không cần thiết), về vai trò, chức năng của pháp luật, về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của các quy định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật cần phải có. Về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của các cá nhân, nhà nƣớc, các tổ chức xã hội[49, tr.430]. Là một hình thái của ý thức xã hội, ý thức pháp luật cũng có đầy đủ những đặc điểm của ý thức xã hội sau đây: *. Ý thức pháp luật chịu sự quyết định của tồn tại xã hội. Nhƣ vậy ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, nó chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Vào các thời kỳ khác nhau thì thái độ, nhận thức, tình cảm, quan niệm, quan điểm của con ngƣời về pháp luật là do những điều kiện khách quan của các thời kỳ đó quy định. Các Mác đã khẳng định: ” Không

14

Ý Thức Pháp Luật Là Gì? Thực Trạng Ý Thức Pháp Luật Của Người Dân Việt Nam?

Ý thức pháp luật là gì? Ý thức pháp luật của người dân Việt Nam- Thực trạng và giải pháp. Đánh gái, nhận xét ý thức pháp luật hiện nay tại nước ta thông qua tình huống cụ thể.

Như chúng ta đã biết, pháp luật đóng vai trò rất quan trọng nhằm đảm bảo thiết lập trật tự một xã hội an toàn văn minh và tốt đẹp, đảm bảo cho mọi hoạt động đời sống người dân. Để phát huy được hiệu quả của pháp luật thì ý thức pháp luật của người dân chính là nhân tố quan tọng hàng đầu. Hiện nay, việc người dân thể hiện ý thức pháp luật của mình co nhiều bước chuyển biến tích cực, đáp ứng nhu cầu của đời sống hiện nay, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những bất cập hạn chế qua những hành vi của người dân mà nhu cầu phải có những giải pháp cụ thể để có thể giải quyết được vấn đề này. Và sau đây, em xin được trình bày bài làm của mình về vấn đề ” ý thức pháp luật của người dân Việt Nam – thực trạng và giải pháp”

Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm hình thành trong xã hội thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật và sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp đối với các hành vi pháp lí thực tiễn.

Thứ nhất, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội quy định nhưng luôn có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại tồn tai xã hội.

Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở một số khía cạnh như:

– Ý thức pháp luật thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội

– Trong những điều kiện nhất định ý thức pháp luật đặc biệt là hệ tu tưởng pháp luật nhiều khi có sự phát triển hơn trước so với tồn tại xã hội.

– Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội có tính kế thừa ý thức pháp luật của thời đại trước đó. Tất nhiên những yếu tố được kế thừa có thể là sự tiến bộ hoặc không tiến bộ.

Ý thức pháp luật tác động trở lại với tồn tại xã hội. Nó có thể là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các sự vật hiện tượng.

Thứ hai, ý thức pháp luật mang tính giai cấp: mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật nhưng tồn tại một số hình thái ý thức pháp luật. Có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, có ý thức của giai cấp bị trị, ý thức páp luật của các tầng lớp trung gian. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của mình một cách tập trung thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí nhà nước.

Ý thức pháp luật gồm hai bộ phận là tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật:

Tâm lý pháp luật là tổng thể các trạng thái tâm lý của con người như tình cảm, tâm trạng thói quen, xúc cảm đối với pháp luật của từng người, từng nhóm người hoặc cả giai cấp dưới ảnh hưởng của pháp luật và sự tác động điều chỉnh của pháp luật.

Hệ tư tưởng pháp luật là hệ thống những tư tưởng, những quan điểm, những học thuyết pháp lí của một giai cấp đã được các nhà tư tưởng đại diện cho giai cấp đó hệ thống hóa, khái quát nâng lên thành lí luận.

4. Thực trạng thức pháp luật của người dân hiện nay

Ưu điểm: Những năm gần đây, công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chú trọng nhiều hơn. Những hoạt động của các cấp các ngành trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân, hầu hết người dân đã nắm rõ được tầm quan trong của pháp luật trong đời sống từ đó mà nhìn nhận đúng và tự giác hơn trong việc chấp hành pháp luật mà nhà nước đề ra.

Hiện nay trong các hoạt động của pháp luật, ý thức của người dân Việt Nam đã nâng lên. Sự hiểu biết về pháp luật của nhân dân đã biểu hiện rõ nét, nhân dân ý thức được trách nhiệm, quyền hạn của mình đối với nhà nước thông qua pháp luật do đó họ tích cực tham gia vào các hoạt động quản lí nhà nước, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước để thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình.

Trong những năm qua, người dân đã tích cực tham gia đóng góp các ý kiến cho các văn bản pháp luật, những ý kiến đó được đánh giá cao và có tính thực tiễn. Có những ý kiến cũng đã được các cơ quan có thẩm quyền ghi nhận để xem xét, nghiên cứu và bổ sung thêm. Như vậy, do nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong các vấn đề quan trọng của đất nước cho nên người dân ngày càng quan tâm đến pháp luật; tự giác học hỏi và nghiên cứu nhằm hoàn hiện nhận thức đúng đắn nhất đưa ra những quan điêm sáng suốt và có giá trị.

Trong hoạt động thực hiện và tổ chức thực hiện pháp luật hiện nay cũng có nhiều bước chuyển biến tích cực, người dân Việt Nam đã chủ động tích cực, đã tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức, số cán bộ vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ đã giảm, thực trạng tham nhũng, sách nhiễu trong công việc đang được đẩy lùi, các cán bộ công chức đã ngày càng chứng tỏ sự minh bạch công khai trong công việc của mình.

Ý thức trong thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân cũng được cải thiện rõ rệt. Người dân đã ngày càng nêu cao tinh thần ” sống và làm việc theo pháp Hiến pháp và pháp luật”. Người dân trở nên có nhận thức tốt về các vấn đề của đời sống xã hội coi trọng tính mạng, nhân phẩm và tài sản của nhau. Nhân dân đã nghiêm chỉnh, tự giác trong việc chấp hành pháp luật. Các tranh chấp trong xã hội nay đã giảm bớt đi sự căng thẳng vì mọi người có ý thức điều hòa những mâu thuẫn không đáng có.

Bên cạnh đó, ý thức bảo vệ pháp luật hiện nay cũng đã được quan tâm. Xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta nhiều tấm gương về người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật, họ đã nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, trợ thành những tấm gương sáng trong việc giúp cho các cơ quan chức năng thi hành công vụ, trong việc bắt giữ tội phạm, tố giác những hành vi của những người người thực hiện hành vi trái pháp luật. Như vậy có thể nói rằng đã có nhiều bước chuyển biến đáng mừng trong tư tưởng tình cảm của người dân đối với việc chấp hành pháp luật.

Hạn chế: Bên cạnh những mặt tích cực về ý thức pháp luật của người dân hiện nay thì vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của toàn xã hội. Có thể nhận thấy những sự hạn chế như sau:

Hiện nay, ý thức pháp luật của một bộ phận người dân vẫn còn thấp. Họ chưa tôn trọng pháp luật, thái độ thờ ơ và lẩn tránh các quy định của pháp luật vẫn còn xảy ra nhiều, sự tùy tiện trong việc chấp hành kỉ luật lao động, sinh hoạt và làm việc. Nguyên nhân của vấn đề trên chính là do nhân dân Việt Nam vẫn còn chiếm tỉ lệ lớn trong các ngành nông nghiệp, quanh năm chú trọng đến sản xuất, chăn nuôi, người dân sống và thực hiện trách nhiệm của mình bằng các phong tục, tập quán từ lâu đời do đó ý thức vẫn còn thấp trong hiểu biết và chấp hành pháp luật

Những cuộc chiến tranh liên miên, khốc liệt trong lịch sử Việt Nam đã làm ý thức ý bị gắn kết, người dân dẫu rằng thể hiện ý thức, trách nhiệm của mình tuy nhên vẫn dẫn đến thói quen là cấp trên thì ra lệnh, thiếu dân chủ, cấp dưới thì đợi mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên nên người dân thiếu sự chủ động và sáng tạo. Có đôi khi, ý thức của cá nhân còn bị hòa nhập vào ý thức tập thể, cộng đồng nên người dân không bộc lộ được rõ ràng nhân cách, lối sống của mình.

Ý thức pháp luật trong mỗi người dân vẫn còn chậm được nâng cao do những thói quen truyền thống. Những thói quen như ” bất tuân pháp luật”, nhiêu người cố tìm mọi cách để lách luật, tìm ra những kẽ hở và hạn chế của pháp luật để thực hiện hành vi vi phạm nhằm đạt được mục đích.

“Lách luật” xảy ra rất nhiều trong hoạt động giao thông hiện nay, có thể thấy rõ tình trạng một số người dân tham gia giao thông trên đường bằng xe máy chỉ chấp hành việc đội mũ bảo hiểm khi nhìn thấy cảnh sát giao thông hoặc khi nhìn thấy cảnh sát giao thông từ xa sẽ đi vào đường tránh khác để không bị bắt khi biết mình đã vi phạm.

Tình trạng phổ biến của người dân hiện nay là chưa có thói quen giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn bằng con đương tư pháp, tâm lí e ngại ra tòa, thái độ thiếu thiện cảm, bất cần với người đại diện chính quyền vẫn thường xuyên xảy ra. Dẫn đến các mâu thuẫn trong đời sống của người dân không những không được gải quyết mà ngày càng nghiêm trọng hơn.

Một tực tế đáng buồn hiện nay là tình trạng người dân thờ ơ, vô trách nhiệm với những hành vi trái pháp luật. Cụ thể trong đời sống hiện nay những vụ đua xe hay những vụ đánh đập tấn công của những đối tượng trong cuộc , người dân nhìn thấy thay vì ngăn cản, tố giác thì họ lại đứng cổ vũ, hô hào hay đứng xem với một thái độ bình thản. Điều này cũng đã chứng tỏ phần nào thực trạng ý thức pháp luật của người dân hiện nay.

Đến nay, trình độ dân trí của người dân vẫn còn thấp, sự chênh lệch giữa các vùng miền, ở một số nơi thì người dân đã có kiến thức về pháp luật nhưng một số nơi thì pháp luật còn là một điều gì đó xa vời, không gắn với thực tiễn cuộc sống, họ thờ ờ trước pháp luật và vì lợi ích trước mắt của cá nhân mà có nhiều hành động trái với pháp luật ảnh hưởng tới hoạt động của con người.

Thái độ coi thường pháp luật trong nhân dân ngày càng phản ánh rõ nét dẫn đến những hành vi trái với quy định của pháp luật. Hiện nay diễn biến về tội phạm hình sự ngày càng gia tăng, nhiều vụ án giết người cướp tài sản do người dân gây ra với mức độ nghiêm trọng thường xuyên xảy ra.

Tệ nạn ma túy, mại dâm, bài bạc diễn ra khắp mọi nơi. Theo chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình cho biết trong năm 2013 đã giải quyết 271.100 vụ trong tổng số 365.650 vụ án đã thụ lí, tăng trên 30.000 vụ so với năm 2013 (báo dân trí). Hiện nay, nhiều hinh thức vi phạm pháp luật mới xuất hiện như thời gian gần đây, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã xảy ra tình trạng đánh bài qua internet, từ địa điểm Hà Nội đã bao trùm ra toàn quốc và xuyên quốc gia gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng.

Đặc biệt đáng lưu ý là ý thức pháp luật của tầng lớp thanh thiếu niên luôn chiếm tỉ lệ lớn. Theo số liệu thống kê trong báo tiền phong onlie, số đối tượng vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên luôn chiếm trên 70% tổng số mà không ít là học sinh, sinh viên.tình trạng thanh niên giết người cướp tài sản, sử dụng các chất kinh thích như ma túy đang trở thành vấn nạn trong đời sống hiện nay.

Trong những năm gần đây, một vấn đề bất cập đáng lưu ý là ý thức pháp luật của một bộ phận cán bộ, công nhân viên chức ngày càng giảm sút, thực trạng biến chất thoái hóa trong khi thực hiện công vụ ở đội ngũ cán bộ công chức vẫn còn tại, để lại cho người dân nhiều bức xúc về thái độ ứng xử của các cán bộ công chức coi người dân là kẻ dưới, người dân chịu sự ban ơn nên họ đã hạch sách, nhũng nhiễu và vòi vĩnh để vụ lợi, đặc biệt tệ nạn tham ô, tham nhũng trong một bộ phận cán bộ công chức vẫn tiếp tục diễn ra với mức độ nghiêm trọng.

Theo báo pháp luật ra ngày 16 -11- 2013 được biết: ngày 18/11, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên án vụ tham ô và cố ý làm trái tại công ty cho thuê Tài chính II. Hai bị cáo tham ô là Vũ Quốc Hảo – nguyên tổng giám đốc công ty cho thuê Tài Chính II và bị cáo Đặng Văn Hai – nguyên chủ tích HĐTV công ty TNHH xây dựng Quang Vinh đã chiếm đoạt được hơn hàng trăm tỉ đồng bằng việc hưởng lợi từ những hợp đồng kinh tế đã kí.

Ý thức của người dân ở vùng sâu vùng xa vùng dân tộc thiểu số còn thực sự thấp. Tình hình tội phạm ở khu vực này ngày càng diễn bến phức tạp, xuất hiện nhiều dưới dạng xuyên quốc gia mà người dân cũng bị lôi vào vòng xoáy ở đó. Những vụ án xảy ra vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi là hiện tượng buôn bán ma túy, gỗ lậu. Một vụ án xuyên biên giới được biết đến gần đây là đầu tháng 3/ 2013, Bộ chỉ huy biên phòng tỉnh Điện Biên và lực lượng an ninh nước bạn Lào đã chặt đứt một trong những mắt xích quan trọng trong đường dây vận chuyển ma túy xuyên quốc gia do một số đối tượng người Việt Nam và Lào cầm đầu, thu giữ được lượng lớn bánh hêroin tang vật.

Như vậy có thể thấy rằng, trong đời sống hiện nay, ý thức pháp luật đã được người dân quan tâm và nghiêm chỉnh chấp hành tuy nhiên sự tồn tại của những mặt tiêu cực nêu trên đã gây không ít những khó khăn cho việc đưa pháp luật thực sự đi vào đời sống. Để nâng cao hơn nữa ý thức pháp luật của người dân thì các cơ quan có chức năng thẩm quyền cần co những giải pháp cụ thể để giải quyết những mặt tiêu cực nêu trên

5. Giải pháp khắc phục, nâng cao ý thức pháp luật

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật

Bảo đảm tính hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống pháp luật để đáp ứng tối đa nhu cầu điều chỉnh pháp luật ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.

Ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành trong những trường hợp cần thiết để kịp thời thực hiện các văn bản pháp luật khi nhưng văn bản này có hiệu lực.

Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật quốc gia trong cả hệ thống cũng như trong từng bộ phận hợp thành của hệ thống ở các cấp độ khác nhau. Hạn chế sự trùng lặp chồng chéo của các quy phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ thống pháp luật.

Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho công dân

Cần chú ý đến khả năng nhận thức, lĩnh hội những kiến thức, hiểu biết về pháp luật của các tầng lớp dân cư, các loại đối tượng từ đó lựa chọn những phương pháp tuyên truyền giáo dục phù hợp.

Kích thích và phát triển tính tích cực pháp lí của công dân, hình thành thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi sai lệch vi phạm pháp luật.

Mở rộng công khai dân chủ các hoạt động của bộ máy nhà nước, thu hút nhân dân tham gia đông đảo vào các dự án xây dựng luật.

Đưa giảng dạy pháp luật vào các trường THPT trên cả nước với nội dung phù hợp

Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật

Thường xuyên rà soát, tổng kết và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội

Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật để kịp thời phát hiện và khắc phục những khiếm khuyết, yếu kém của hoạt động này, xử lí những chủ thể cố ý áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp với mục đích đặt ra.

Tăng cường tính gương mẫu của Đảng viên và tổ chức của Đảng trong việc thi hành pháp luật để mọi tầng lớp quần chúng noi theo.

Một số biện pháp khác

Ngoài ra, cần phải nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát và xử lí nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật đồng thời phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác phổ biến tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho tầng lớp nhân dân.

Như vậy, có thể thấy thực trạng về ý thức pháp luật của người dân hiện nay đang là vấn đề quan trọng và cơ bản nhất, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật trong đời sống. Hiện nay, vấn đề ý thức pháp luật của người dân vẫn còn nhiều điểm hạn chế vì vậy cần phải sớm thực hiện những biện pháp cụ thể để nâng cao ý thức của người dân.

Khái Niệm Ý Thức Pháp Luật Và Quan Hệ Giữa Ý Thức Pháp Luật Và Pháp Luật

Từ định nghĩa trên có thể thấy rằng về mặt nội dung ý thức pháp luật được cấu thành từ hai bộ phận: tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.

Nếu bạn đang gặp khó khăn trong quá trình làm luận văn, tiểu luận về ngành Luật hãy tham khảo dịch vụ viết thuê luận văn cao học ngành Luật của chúng tôi để được hỗ trợ tốt nhất.

Tư tưởng pháp luật

Tư tưởng pháp luật là tổng thể những tư tưởng, quan điểm, phạm trù, khái niệm, học thuyết về pháp luật, tức là mọi vấn đề lý luận về pháp luật, về thượng tầng kiến trúc pháp lý của xã hội.

Tâm lý pháp luật

Tâm lý pháp thuật được thể hiện qua thái độ, tình cảm, tâm trạng, xúc cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, được hình thành một cách tự phát thông qua giao tiếp và dưới tác động của các hiện tượng pháp lý, là phản ứng trực tiếp và ở cấp độ đầu tiên, phản ứng một cách tự nhiên của con người đối với các hiện tượng đó.

Tư tưởng pháp luật

Tư tưởng pháp luật là bộ phận tiên tiến của ý thức pháp luật, có thể vượt lên trước, định hướng cho sự phát triển của pháp luật. Còn tâm lý pháp luật là bộ phận bảo thủ, bền vững hơn, biến đổi chậm chạp vì gắn bó chặt chẽ với thói quen, truyền thống, tập quán xã hội. Nhưng hai bộ phận cũng có quan hệ biện chứng, phụ thuộc vào nhau hoặc là tiền đề của nhau.

– Ngoài ra, theo chủ thể của ý thức pháp luật ta thấy ý thức pháp luật được cấu thành từ ba bộ phận: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội.

Ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội có cơ sở là ý thức pháp luật cá nhân, nhưng không nên hiểu một cách máy móc rằng hai dạng ý thức pháp luật nói trên là tổng thể nhãng ý thức pháp luật cá nhân.

Ý thức pháp luật nhóm là ý thức pháp luật của đại đa số cá nhân của nhóm, có những đặc trưng đại diện cho nhóm, ví dụ ý thức pháp luật của nông dân, công nhân, trí thức, của học sinh phổ thông, sinh viên…

Còn ý thức pháp luật xã hội được hiểu là ý thức pháp luật của giai cấp và những tầng lớp nắm quyền lãnh đạo xã hội, đại diện cho cả xã hội, ví dụ: ý thức pháp luật tư sản, ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa…Trọng một xã hội đương nhiên có thể xó những ý thức pháp luật nhóm có nội dung khác nhau. Ví dụ: ý thức pháp luật của giai cấp vô sản khác với ý thức pháp luật của giai cấp tư sản. Mặt khác, ý thức pháp luật xã hội không phải lúc nào cũng đồng nhất với ý thức pháp luật của giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội đó, ví dụ, trong xã hội tư sản thì ý thức pháp luật của giai cấp vô sản mới là ý thức pháp luật tiên tiến chứ không phải là ý thức pháp luật của giai cấp tư sản.

– Theo tính chất và mức độ nhận thức ta có thể chia ý thức pháp luật thành hai bộ phận: ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật mang tính lý luận… Bộ phận thứ nhất là bao gồm ý thức pháp luật của những người không có trình độ khoa học pháp lý, bộ phận thứ hai là ý thức pháp luật của những luật gia, những nhà làm luật…

2. Quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật

Mối quan hệ này thể hiện qua ba kênh chủ yếu sau:

Ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp cho hoạt động xây dựng pháp luật

Nếu những người có nhiệm vụ trực tiếp sọan thảo và ban hành pháp luật và công dân – những người được hỏi ý kiến hoặc được tham gia hoạt động xây dựng pháp luật, đều có tư tưởng pháp luật đúng đắn thì đương nhiên sẽ ban hành được pháp luật tốt; hoặc ngược lại.

Ý thức pháp luật là cơ sở cho sự thực hiện pháp luật

Hai là, ý thức pháp luật là cơ sở cho sự thực hiện pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật. Bởi vì, mọi chủ thể, nếu có tư tưởng pháp luật tiên tiến và thái độ, tình cảm (tâm lý) đúng đối với pháp luật, sẽ tự giác và biết chấp hành tốt pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền biết áp dụng các quy định của pháp luật vào các trường hợp cụ thể phù hợp với yêu cầu của pháp chế, phát huy hết hiệu quả của quy phạm đó. Nếu ngược lại thì chúng ta sẽ thấy tình trạng vi phạm pháp luật gia tăng, kỷ cương và pháp chế bị buông lỏng, pháp luật trở nên vô hiệu.

Pháp luật cũng tác động ngược trở lại tới ý thức pháp luật.

Ba là, pháp luật cũng tác động ngược trở lại tới ý thức pháp luật. Bản thân pháp luật được xây dựng tốt sẽ chứa đựng trong đó những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc pháp lý tiên tiến của ý thức pháp luật tiên tiến trong xã hội, những giá trị xã hội cao quý như chủ nghĩa nhân đạo, lẽ công bằng, tự do, bác ái và từ đó, với tư cách là công cụ quản lý có tính bắt buộc chung, nó lan truyền rộng rãi thông qua không chỉ sự tuyên truyền, giải thích pháp luật mà cả hoạt động áp dụng, thực hiện đúng đắn pháp luật, là phương tiện truyền bá hiệu quả ý thức pháp luật xã hội tiên tiến tới từng cá nhân, nâng tầm ý thức pháp luật cá nhân lên ngang tầm ý thức pháp luật xã hội.

+ Khái niệm, đặc điểm và phân loại của văn bản quy phạm pháp luật

+ Trình bày những nội dung cơ bản của chế định chế độ chính trị

Vai Trò Và Các Hình Thức Cơ Bản Của Pháp Luật

Nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước.

Với bản chất những đặc điểm đặc thù của mình, pháp luật có nhiều vai trò trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội, trong đó có những vai trò cơ bản là:

Thứ nhất, Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước

Một trong những nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Trong khoa học có những ý kiến nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của quyền lực nhà nước, coi đó là cái phát sinh cái thứ nhất, còn pháp luật chỉ là cái phái sinh (cái thứ hai); hoặc coi pháp luật đứng trên nhà nước, nhà nước phải tuyệt đối phục tùng pháp luật… là chưa có cơ sở xác đáng, bởi vì:

– Thứ nhất, đúng là pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng pháp luật không phải chỉ là kết quả của tư duy chủ quan một cách đơn thuần, mà nó còn xuất phát từ những nhu cầu khách quan của xã hội. Pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu như nó phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội.

– Thứ hai, pháp luật cũng còn cần có quyền lực nhà nước bảo đảm mới có thể phát huy tác dụng trong thực tế đời sống. Vì vậy nói pháp luật đứng trên nhà nước là không thực tiễn.

– Thứ ba, nhu cầu về pháp luật còn là nhu cầu tự thân của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp hao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan nhà nước).

Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, khi chưa có một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy sẽ sinh ra cồng kềnh và kém hiệu quả.

Tương tự như trên, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán bộ làm việc trong từng cơ quan cụ thể của bộ máy nhà nước. Nhờ có pháp luật, các hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm… của đội ngũ viên chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ.

Thứ hai, Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội

Nhà nước là đại diện chính thức của toàn thể xã hội, vì vậy, nhà nước có chức năng (nhiệm vụ) quản lý toàn xã hội. Để quản lý toàn xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cờ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân.

Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá… Toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của nhà nước nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực.

Đã tính chất phức tạp và phạm vi rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm vĩ mô và mang tính chất hành chính – kinh tế. Quá trình quản lý kinh tế không thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật.

Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản pháp luật kinh tế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn (điều kiện và trình độ phát triển của kinh tế xã hội) và kịp thời trong mỗi thời kỳ cụ thể, nhà nước mới có thể phát huy được hiệu lực của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội.

Thứ ba, Pháp luật góp phần tạo dưng những quan hệ mới

Bên cạnh chức năng phản ánh, pháp luật còn có tính tiên phong, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội.

Có thể nói, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng (lập) ra những quán hệ mới. Trên cơ sở xác định thực trạng xã hội với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình, tồn tại và tái diễn thường xuyên Ơ những thời điểm cụ thể trong xã hội, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và phù hợp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực tiễn thường diễn ra với những thay đổi thường xuyên. Tuy nhiên, về căn bản những thay đổi đó vẫn diễn ra theo những quy luật nhất định mà con người có thể nhận thức được.

Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có thể dự kiến được những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Từ đó pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và thử nghiệm …

Tuy vậy, pháp luật bao giờ cũng có sự ổn định tương đối. Sự hình thành mới hoặc thay đổi thường chỉ diễn ra với từng bộ phận của hệ thống pháp luật, ít có những đột biến toàn phần trong một thời gian ngắn. Tính định hướng của pháp luật cũng theo quy luật đó. Hệ thống quy phạm định hướng chỉ là một bộ phận nhất định của hệ thống pháp luật thực định của mỗi quốc gia.

Sự kết hợp hài hòa giữa tính cụ thể của pháp luật với tính tiên phong (định hướng) của nó có một ý nghĩa rất quan trọng là tạo ra được sự ổn định và phát triển, kế thừa và đổi mới thường xuyên, làm cho pháp luật năng động, phù hợp hơn, tiến bộ hơn.

Thứ tư, Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia

Có một thực tế là, một thể chế chính trị có thể thay đổi, nghĩa là quyền lực của một bộ máy nhà nước trong một thời kỳ lịch sử nhất định có thể thay đổi, nhưng nhân dân và quyền lực nhân dân vẫn tồn tại và phát triển. Những quan hệ đa chiều trong xã hội vẫn phát triển và đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm sự ổn định trật tự. Vì vậy, quyền lực nhân dân là vấn đề căn bản; trật tự xã hội là đòi hỏi khách quan và những nhu cầu về pháp luật là luôn luôn có.

Pháp luật và nhà nước luôn có quan hệ mật thiết với nhau “như hình với bóng”. Nhưng đó là nói ở góc độ chung. Khi tiếp cận ở góc độ cụ thể, pháp luật có những nét riêng căn bản. Đó là khi pháp luật phản ánh đúng những lợi ích của dân tộc, của nhân dân thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải tôn trọng. Nếu đi ngược lại điều đó là ngược với lợi ích của dân tộc, của nhân dân và sẽ bị nhân dân phản đối, không tôn trọng, không chấp hành. Xét ở góc độ này, pháp luật luôn có vai trò giữ gìn sự ổn định và trật tự xã hội. Sự ổn định của mỗi quốc gia là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng các mối bang giao với các thuốc khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính chất của các quan hệ đó ngày càng đa diện (nhiều mặt). Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các mối quan hệ bang giao đó là pháp luật (pháp luật quốc tế và pháp luật nội quốc) Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển mới:

Cũng cần nhấn mạnh rằng, muốn có môi trường xã hội ổn định để mở mang các mối bang giao và hợp tác thì không thể chỉ chú ý “một mảng” của hệ thống pháp luật của một quốc gia, mà phải chú ý tới sự đồng bộ của cả hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Bởi vì, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là một chỉnh thể, mỗi bộ phận (mỗi mảng) trong hệ thống pháp luật đó không thể tồn tại và phát triển biệt lập, cục bộ được mà luôn có quan hệ và tác động qua lại với các bộ phận khác.

Như vậy, muốn thực hiện tết sự quản lý nhà nước, đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của pháp luật , phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung với tình hình quốc tế và khu vực.

Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.

Học thuyết Mác-Lênin về các hình thái kinh tế xã hội là cơ sở để phân định kiểu pháp luật. Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế xã hội trong xã hội có giai cấp sẽ quyết định những dấu hiệu cơ bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó, trong lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật:

Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là những kiểu pháp luật bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên, mặc dù mỗi kiểu có bản chất và có cách thể hiện riêng của mình nhưng chúng đều có một đặc điểm chung là thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột trong xã hội, củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm về mặt pháp lý sự áp bức bóc lột giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.

Khác với các kiểu pháp luật trên, pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chiếm tuyệt đại đa số dân cư trong xã hội. Mục đích của pháp luật xã hội chủ nghĩa là thủ tiêu mọi hình thức áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều bình đẳng và tự do.

Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu. Cơ sở khách quan của sự thay thế đó là sự vận động của quy luật kinh tế: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế các kiểu pháp luật gắn liền với sự thay thế của các hình thái kinh tế xã hội tương ứng. Cách mạng là con đường dẫn đến những thay thế đó. Các cuộc cách mạng xã hội khác nhau diễn ra trong lịch sử đã đem lại kết quả: Pháp luật phong kiến thay thế pháp luật chủ nô, pháp luật tư sản thay thế pháp luật phong kiến, pháp luật xã hội chủ nghĩa thay thế pháp luật tư sản. Trong tương lai pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong và sau đó sẽ không còn kiểu pháp luật nào thay thế nữa. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, pháp luật xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng hoàn thiện để phát huy cao độ vai trò là một công cụ sắc bén bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

3. Các hình thức pháp luật

Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp luật. Trong lịch sử đã có ba hình thức pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản pháp luật.

Là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong các nhà nước chủ bờ và nhà nước phong kiến. Trong nhà nước tư sản, hình thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất là ở các nước có chế độ quân chủ.

Vì tập quán hình thành một cách tự phát, ít biến đổi và có tính cục bộ, cho nên hình thức tập quán pháp về nguyên tắc không phù hợp với bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, cũng có một số tập quán thể hiện truyền thống và đạo đức dân tộc, có tác dụng tốt trong việc hình thành tính cách con người mới xã hội chủ nghĩa và làm phong phú đời sống văn hóa nhân dân. Vì vậy, các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn thừa nhận một số tập quán tiến bộ tuy nhiên ở mức độ hạn chế.

Là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương tự. Hình thức này đã được sử dụng trong các nhà nước chủ nô, được sử dụng rộng rãi trong các nhà nước phong kiến và hiện nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ (đặc biệt là trong dân luật).

Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà xuất hiện từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình thức này dễ tạo ra sự tùy tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật và phải phân định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ (nhất là thời kỳ sau cách mạng), do hệ thống pháp luật chưa được xây dựng hoàn chỉnh, trước yêu cầu của cách mạng cần phải giải quyết ngay một số vụ việc, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn sử dụng hình thức này. Nhưng đó là sự vận dụng linh hoạt dựa trên cơ sở của luật và đường lối chính sách của Đảng. Khi hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh thì hình thức này không còn tồn tại trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Văn bản quy phạm pháp luật

Là hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó quy định những quy tắc xử sự chung (quy phạm đối với mọi người) được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Có nhiều loại văn bản pháp luật. Ơ mỗi nước, trong những điều kiện cụ thể có những quy định riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lý của các loại văn bản pháp luật. Nhưng nhìn chung, các văn bản pháp luật đều được ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể (các quy phạm pháp luật).

Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, các văn bản pháp luật còn chưa hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao. Nhiều đạo luật chỉ là sự ghi chép lại một cách có hệ thống các án lệ và các tập quán đã được thừa nhận. Pháp luật tư sản đã có nhiều hình thức văn bản phong phú và được xây dựng với kỹ thuật cao. Đặc biệt ở giai đoạn đầu, sau khi cách mạng tư sản thành công, nguyên tắc pháp chế được đề cao đã làm cho pháp luật tư sản có hệ thống văn bản tương đối thống nhất dựa trên cơ sở của luật. Nhưng với bản chất của nó cho nên sau thắng lợi hoàn toàn đối với chế độ phong kiến, giai cấp tư sản tự mình phá vỡ nguyên tắc pháp chế do mình đề ra bằng nhiều cách như hạ thấp vai trò của nghị viện, mở rộng quyền của tổng thống và chính phủ, sử dụng rộng hình thức tập quán pháp và tiền lệ pháp. Bằng cách đó, giai cấp tư sản đã phá vỡ tính thống nhất theo nguyên tắc pháp chế của các văn bản pháp luật; kỹ thuật xây dựng văn bản cao được sử dụng để che đậy bản chất của pháp luật tư sản.

Pháp luật xã hội chủ nghĩa có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và luật. Hệ thống các văn bản pháp luật xã hội chủ nghĩa ngày càng được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ với kỹ thuật cao phản ánh đúng bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Tổ bộ môn Luật Dân sự – Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp

Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường, Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng đài 19006198.