Ý Nghĩa Pháp Lý Là Gì / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Định Nghĩa Legal Opinion / Ý Kiến Pháp Lý Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

Ý kiến bằng văn bản của một luật sư nói rằng việc phát hành trái phiếu dự kiến thì phù hợp với luật chứng khoán áp dụng. Trong việc chào bán trái phiếu đô thị, ý kiến này cũng phát biểu rằng người phát hành có quyền pháp lý trong việc phát hành những chứng khoán dự kiến để bán, và cũng phát biểu trái phiếu có được miễn thuế địa phương và thuế tiểu bang hay không. Nhà phát hành phải nhận báo cáo này trước khi kỳ phát hành mới có thể được tính phí phát hành. Những nhà phát hành trái phiếu đô thị thường in ý kiến pháp lý vào phía sau mỗi chứng chỉ.

Phật Pháp Là Gì? Ý Nghĩa Của Pháp Trong Phật Giáo

Pháp (tiếng Phạn: Dharma – Pali: dhamma) là một từ mà những người theo đạo Phật thường xuyên sử dụng. Nó đề cập đến viên ngọc quý thứ hai trong Tam Bảo – Phật, Pháp, Tăng đoàn. Từ này thường được định nghĩa là “những lời dạy của Đức Phật”, tuy nhiên, Pháp thực sự không chỉ là một thuật ngữ để nói về các giáo lý nhà Phật.

Phật Pháp là gì?

Theo nghĩa thông thường, “Phật Pháp” (tiếng Phạn: Buddha Dharma – Pali: Buddha Dhamma) được hiểu là những lời giáo huấn của Phật (Phật giáo) được kết tập bởi các học trò của Ngài từ hơn 2500 năm trước. Một hệ thống triết lý sống dựa trên nền tảng trí tuệ và từ bi nhằm đưa con người hướng đến hạnh phúc bền vững và thoát khỏi khổ đau.

Đức Phật ra đời cách đây hơn 2500 năm tại vườn Lâm-tỳ-ni ở Ấn Độ cổ đại (Nepal ngày nay), là Hoàng tử của tộc Shakya và được gọi là Siddhartha Gautama (Tất Đạt Đa Cồ Đàm). Cha của ông, vua Tịnh Phạn mong muốn Siddartha trở thành vua và hưởng cuộc sống sung sướng trong hoàng cung.

Tuy nhiên, là một nhà hiền triết, ông suy nghiệm về cái chết, bệnh tật, phiền não khổ đau của dân chúng bên ngoài thành và có thể cả chính bản thân ông.

Ông đã quyết tâm đi tìm lời giải cho câu hỏi luôn thôi thúc trong đầu. Làm thế nào để thoát khỏi đau khổ, bệnh tật và cái chết! Sau 6 năm khổ hạnh và nhận ra đây là con đường sai lầm. Thái tử Tất Đạt Đa bắt đầu bình tĩnh và ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề để tìm ra giải pháp cho vấn đề của ông, và cũng là của tất cả mọi người.

Trong thời gian này, Tất Đạt Đa nhận ra bản chất của vạn vật, bản chất của sự tồn tại, làm thế nào để ra đời và làm thế nào để ngừng tái sinh. Kể từ đó ông được gọi là Phật Thích Ca. Đức Phật nói rằng mỗi người đều có thể tự mình nhận ra tất cả những điều mà Ngài đã nhận ra.

Ngài đề nghị mọi người tự tìm hiểu dựa trên những lời dạy của Ngài – rằng đây là cách duy nhất để tỉnh thức, bằng cách tự mình nhìn thấy sự thật. Ngài đã truyền dạy phương pháp của những gì mà Ngài đã thực hiện để mọi người có thể theo bước chân của Ngài và hiểu được bản chất thật của thế giới.

Kể từ đó, những lời dạy của Đức Phật được xem là Phật Pháp, một hệ thống thực hành có thể dẫn con người đến sự giác ngộ – nhận ra bản chất của vạn vật. Phật pháp giúp con người thoát khỏi đau khổ, sống hạnh phúc thông qua các thực hành tích cực và ngăn chặn vòng sinh tử luân hồi. Khi không còn tái sinh, do đó tránh được tuổi già, bệnh tật và cái chết.

Tóm lại, Phật Pháp có nghĩa là chân lý, sự thật hay quy luật tự nhiên, bản chất nguyên thủy của thế giới này. Nó hoạt động theo cách của riêng nó dù có hay không một vị Phật truyền dạy.

Tại sao gọi là “Phật Pháp”? Bởi vì những sự thật này được Đức Phật Thích Ca truyền dạy cho đời sau, khi Ngài giác ngộ và nhận ra chân lý. Lưu ý là Đức Phật NHẬN RA chứ không phải TẠO RA. Đó là lý do mà Ngài nói “49 năm qua Ta chưa hề nói một câu nào”. Bởi vì khi đạt Niết bàn thì “cái tôi” không còn nữa, chỉ có sự hợp nhất, không còn chủ thể và đối tượng.

Theo một góc nhìn khác, Từ “Phật” (Buddha) cũng đại diện cho chân lý, sự thật hay bản chất nguyên thủy của tất cả các sự vật hiện tượng trên cõi đời.

Pháp là gì?

Từ Pháp có nguồn gốc từ các tôn giáo cổ xưa của Ấn Độ và được tìm thấy trong các giáo lý của đạo Hindu và Jain, cũng như Phật giáo.

Ý nghĩa ban đầu của nó giống như “quy luật tự nhiên”. Từ gốc của nó là Dham, có nghĩa là “để duy trì” hoặc “để hỗ trợ.” Theo nghĩa rộng lớn này, Pháp là “cái gì đó” để duy trì trật tự tự nhiên của vũ trụ. Ý nghĩa này cũng là một phần của sự hiểu biết Phật giáo.

Pháp là tất cả mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta, cho dù chúng ta có thích hay không, cho dù chúng ta có mong muốn hay không, dù chúng ta có mong đợi điều đó hay không. Đột nhiên mắc bệnh, sự đổ vỡ của một mối quan hệ hay cái chết bất ngờ…là tất cả các biểu hiện của Pháp theo nghĩa này.

Một điều cần ghi nhớ là trong suốt thời cổ đại, từ kỷ nguyên Vệ Đà vài nghìn năm TCN, Pháp đã được coi như một luật phổ quát không thay đổi, tương tự như luật trọng lực, toán học hay động lực học chất lỏng. Vì trọng lực được coi là một luật phổ quát bất kể nó được gọi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Pháp cũng được coi là một luật phổ quát bất kể nó được gọi là gì trong các tôn giáo khác nhau.

Những văn bản đầu tiên về Pháp (từ kinh Vệ Đà) ngụ ý rằng, chỉ có những người hiền triết mới có thể trải nghiệm nó, và cần phải truyền lại cho tín đồ thông qua các thần chú và các hành vi khác. Sau đó, những văn bản được biết đến như Kinh Pháp (dharma sutra) đã đưa ra một khái niệm khác về Pháp: Chúng ngụ ý rằng Pháp là việc thực hiện các nghĩa vụ theo luật pháp Vệ Đà, và vai trò của một người trong xã hội Vệ Đà.

Thật không may, các văn bản sau này đã không giải thích rõ ràng về Pháp. Chúng không đưa ra một ý nghĩa thống nhất. Hơn nữa, chúng cũng không thực hiện các bước thiết thực cho các tín đồ về cách thức thực hiện Pháp cho mình.

Ý nghĩa “Pháp” trong Phật giáo Nguyên Thủy

Trong các bản văn của Phật giáo Nguyên Thủy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhận ra rằng, Pháp luôn luôn hiện diện dù có hay không có một vị Phật truyền dạy hay một Tăng đoàn để thực hành nó. Pháp theo nghĩa này là nền tảng của thực tại – bản chất nguyên sơ của cuộc sống và thế giới.

Mục đích của tất cả các Phật tử là khám phá ra “bản chất thật” này, như nó thật sự là – không chỉ để thoáng qua nó, mà còn có thể nghỉ ngơi, xác định với nó, và quên đi bất kỳ “cái tôi” nào khác mà chúng ta có thể tưởng tượng.

Với nhận thức như vậy, chúng ta thấy rằng, chúng ta không tách biệt với mọi thứ khác, không có sinh – không có diệt, không có khởi đầu – không có kết thúc…Chúng ta là một phần của Pháp, chúng ta yêu thương mọi thứ là chúng ta yêu thương chúng ta, chúng ta làm hại mọi thứ là chúng ta đang hại chính mình. Chúng ta cần một tình yêu phổ quát.

Nhà sư và học giả Nguyên Thủy Walpola Rahula đã viết:

Không có thuật ngữ nào trong Phật giáo rộng hơn Pháp. Nó không chỉ bao gồm những thứ hay các trạng thái có điều kiện mà còn là Niết bàn, tuyệt đối không có điều kiện. Không có gì trong vũ trụ hay bên ngoài, tốt hay xấu, có điều kiện hoặc không có điều kiện, tương đối hoặc tuyệt đối, nằm ngoài thuật ngữ này.

Pháp là bản chất tự nhiên của vạn vật – sự thật về những gì Đức Phật dạy. Trong Phật giáo Nguyên Thủy, như trong đoạn trích dẫn ở trên, đôi khi nó được sử dụng để chỉ tất cả các yếu tố của sự tồn tại.

Tỳ kheo Thanissaro viết rằng: “Phật Pháp, ở mức độ bên ngoài đề cập đến con đường tu tập mà Đức Phật đã dạy cho những người theo Ngài.”

Phật Pháp có 3 tầng lớp ý nghĩa: Những lời dạy của Đức Phật, việc thực hành giáo lý của Ngài, và đạt đến sự giác ngộ. Vì vậy, Pháp không chỉ là giáo lý mà đó còn là việc giảng dạy cộng với thực hành và sự khai sáng.

Nhà sư Buddhadasa Bhikkhu vào lúc cuối đời đã dạy rằng: Từ Pháp (dhamma) có 4 nghĩa: Giáo pháp kết hợp thế giới hiện tượng như nó là; các quy luật tự nhiên; các nhiệm vụ được thực hiện theo quy luật tự nhiên; và kết quả của việc thực hiện các nghĩa vụ đó. Điều này phù hợp với ý nghĩa của Pháp trong Vệ Đà.

Buddhadasa cũng nói về 6 đặc tính của Pháp:

Thứ nhất, nó đã được Đức Phật giảng dạy một cách toàn diện.

Thứ hai, tất cả chúng ta đều có thể nhận ra Pháp thông qua nỗ lực của mình.

Thứ ba, nó là vô tận và hiện diện ngay lập tức trong mọi thời điểm.

Thứ tư, nó có tính mở để kiểm tra và không phải được chấp nhận dựa trên đức tin.

Thứ năm, nó cho phép chúng ta nhập Niết bàn.

Và thứ sáu, nó chỉ được biết đến thông qua cái nhìn sâu sắc của mỗi cá nhân.

Ý nghĩa “Pháp” trong Phật giáo Đại Thừa

Đạo Phật Đại Thừa thường dùng từ Pháp để chỉ cả giáo lý của Đức Phật và việc thực hiện chứng ngộ, sử dụng kết hợp cả hai ý nghĩa cùng một lúc.

Để nói về sự hiểu biết của một người nào đó về Phật Pháp, không phải là đánh giá về việc người đó có thể thuộc lòng các giáo lý Phật giáo hay không, mà là về trạng thái chứng ngộ của họ.

Các học giả Đại Thừa thời kỳ đầu đã phát triển phép ẩn dụ về “Ba Lần Chuyển Bánh Xe Pháp” để đề cập đến ba khám phá của giáo lý.

Theo phép ẩn dụ này, sự biến đổi đầu tiên xảy ra khi Đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên là Tứ diệu đế. Biến đổi thứ hai đề cập đến sự hoàn hảo của trí tuệ, hay Tánh không (sunyata). Thứ ba đề cập đến sự phát triển của học thuyết Phật tính như là sự thống nhất cơ bản của sự tồn tại, lan tràn khắp nơi.

Các kinh điển Đại Thừa đôi khi dùng từ Pháp có ý nghĩa như “sự biểu hiện của thực tại.” Một bản dịch theo nghĩa đen của Tâm Kinh có chứa dòng “Ôi, Sariputra, tất cả Pháp đều trống rỗng” (iha Sariputra Sarva Dharma sunyata). Về cơ bản, điều này nói rằng tất cả các hiện tượng (Pháp) đều trống rỗng (sunyata) về bản chất.

Bạn cũng có thể bắt gặp cách sử dụng này trong kinh Pháp Hoa.

Tôi thấy Bồ tát, Người đã nhận thức được tính chất thiết yếu của tất cả các Pháp đều không có tính nhị nguyên, giống như không gian trống rỗng.

Ở đây, “tất cả các Pháp” có nghĩa là một cái gì đó giống như “tất cả hiện tượng trên toàn vũ trụ”.

Pháp thân là gì?

Cả Nguyên Thủy và Đại Thừa đều nói về “Pháp thân” (dhammakaya hoặc dharmakaya). Đây cũng được gọi là “cơ thể thật sự”.

Rất đơn giản, trong Phật giáo Nguyên Thủy, một vị Phật ( một bậc giác ngộ) được hiểu là hiện thân sống động của Pháp. Điều này không có nghĩa là thân thể vật chất của Ðức Phật (thân-tâm) cũng giống như Pháp. Đó là một chút gần gũi để nói rằng Pháp trở nên rõ ràng hoặc hữu hình trong cơ thể một vị Phật.

Trong Phật giáo Đại Thừa, Pháp thân là một trong ba loại thân của vị Phật ( Tam thân – Trikaya). Pháp thân là sự hiệp nhất của tất cả sự vật hiện tượng, hữu hình hay vô hình, ngoài sự tồn tại hay không tồn tại.

Tóm lại, từ Pháp gần như không thể định nghĩa được. Nhưng trong phạm vi có thể được định nghĩa, chúng ta có thể gọi Pháp là một thuật ngữ để chỉ bản chất thiết yếu của thực tại, cũng như những lời dạy và thực hành cho phép nhận ra bản chất thiết yếu đó.

Nguồn: chúng tôi – chúng tôi Ảnh: chúng tôi

Cơ Sở Pháp Lý Là Gì? Nâng Cao Hiểu Biết Về Các Định Nghĩa Pháp Lý

1. Cùng tìm hiểu lý luận cơ sở pháp lý là gì?

1.1. Khái niệm cơ sở pháp lý

Cơ sở pháp lý là gì?

“Cơ sở” được giải nghĩa là cái làm nền tảng, trong quan hệ với những cái xây dựng trên đó mà tồn tại, phát triển. Còn “pháp lý” là một thuật ngữ dùng trong văn bản pháp luật dùng để chỉ hoặc mô tả một cách khái quát nhất, cô đọng nhất các hiện tượng, nội dung, trạng thái pháp lý. Tính pháp lý nằm trong pháp luật chính nằm ở những định nghĩa, khái niệm về các sự vật, hiện tượng trong hệ quy chiếu pháp luật để giải thích các quy định của pháp luật.

Từ đó có thể hiểu cơ sở pháp lý chính là nền tảng từ các định nghĩa trong pháp luật để xây dựng nên những quy định trong tổ chức, trong các mối quan hệ hay trong bất cứ một hoạt động nào nhằm đảm bảo thống nhất một quy tắc chung mà tất cả mọi người cần phải thực hiện nếu không sẽ không được tiến hành xử lý bất cứ một yêu cầu nào hoặc nếu vi phạm có thể sẽ bị xử phạt theo pháp luật.

1.2. Cơ sở pháp lý của luật dân sự

Trước tiên nói đến vai trò của luật dân sự góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ trên thị trường trên nguyên tắc hợp đồng nhằm hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan nhà nước vào cơ sở hình thành các mối quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Trong Bộ luật dân sự có nhiều quy định tương thích với thông lệ quốc tế góp phần thúc đẩy giao lưu quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước trên Thế giới thực hiện thắng lợi chính sách hội nhập quốc tế.

– Đối với cá nhân từng công dân được tôn trọng, bảo vệ quyền con người, thực hiện quyền công dân. Bên cạnh đó các quyền nhân thân khác về dân sự đều được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật

– Đối với pháp nhân, Bộ luật này có quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập pháp nhân trừ trường hợp luật có quy định khác. Pháp nhân được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền trừ trường hợp pháp luật có quy định pháp nhân không phải đăng ký và việc đăng ký phải được công khai.

– Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, dự thảo Bộ luật quy định những nội dung cơ bản về địa vị pháp lý, đại diện, tài sản chung, trách nhiệm dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác,….

1.3. Cơ sở pháp lý của dự án là gì?

Cơ sở pháp lý của dự án là những quyết định, văn bản của pháp luật ban hành về đầu tư, xây dựng các dự án kinh tế, khu đô thị,… xuất hiện trong Bộ Đầu tư. Theo đó mọi dự án trước khi được tiến hành xây dựng phải có quy định trong quá trình xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý có sẵn. Mục đích của việc hình thành những quy định này trên cơ sở pháp lý của dự án nhằm đảm trong quá trình xây dựng tránh xảy ra tranh chấp, hạn chế tối đa rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Và nếu không có quy định chung thì mọi vấn đề đều khó được giải quyết, hậu quả dẫn đến có thể làm thiệt hại tài sản, nhân công lên tới hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng.

Cơ sở pháp lý của dự án góp phần xây dựng thành công mọi dự án trong đó chủ yếu là các dự án lớn cấp quốc gia chẳng hạn một số quy định dự án tại Cát Bà – hải Phòng được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý của dự án như:

– Quy định số 865/QĐ-UB ngày 23/04/2003 của UBND Thành phố Hải Phòng về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết Khu đô thị du lịch Cái Giá, thị trấn Cát Bà.

– Quy định đầu tư dự án Khu đô thị mới Cái Giá tại thị trấn Cát Bà, Huyện Cát Hải, Thành phố Hải Phòng tại Văn bản số 394/CP-CN của Chính Phủ ngày 25/03/2004

– Phê duyệt điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 khu đô thị du lịch Cái Giá, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, TP Hải Phòng theo Quyết định số 1512/QĐ-UBND ngày 10/09/2010 của UBND TP Hải Phòng

Việc làm Hoạch định – Dự án

2. chúng tôi lý giải giá trị pháp lý là gì?

Giá trị pháp ly là hiệu lực pháp lý

Văn bản quy phạm pháp luật trước khi được ban hành phải được xác minh kiểm chứng phù hợp với Hiến pháp, đảm bảo tính thống nhất, tuân thủ thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. Điều này giải thích cho việc nếu có nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau quy định cho cùng một vấn đề thì văn bản nào có thứ bậc cao hơn được áp dụng.

Giá trị pháp lý của một văn bản được xây dựng trên cơ sở pháp lý có hiệu lực về không gian trên phạm vi lãnh thổ cả nước đối với công dân mang quốc tịch Việt Nam sống tại nước ngoài và thời gian cho đến khi văn bản pháp luật được sửa đổi bổ sung nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế, dòng lịch sử. Còn thời điểm mà văn bản pháp luật đó có giá trí pháp lý tùy thuộc vào người ra quy định có thể là kể từ khi ban hành, thời gian ghi trên giấy hoặc dựa trên mốc thời gian chung theo quy định của pháp luật.

Việc làm Công chức – Viên chức

Cơ chế pháp lý là cơ chế tổ chức hoạt động của một hệ thống tổ chức, thiết chế chính trị, kinh tế xã hội được đảm bảo bằng pháp luật giúp giám sát hoạt động tư pháp, là phương thức tổ chức và phương thức vận hành của hệ thống các cơ quan, tổ chức và công dân theo những nguyên tắc, quy định của pháp luật và những phương tiện pháp lý khác.

Thông qua cơ chế pháp lý tác động đến các chủ thể của hoạt động thực hiện quyền tư pháp làm cho các hoạt động tư pháp theo đúng pháp luật, ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực và các tiêu cực khác, nâng cao trách nhiệm pháp lý của các cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ công chức tư pháp trong việc bảo vệ công lý.

Vấn đề pháp lý

Vụ án ở đây được đề cập tới là một vụ án giết người mà ở đó vấn đề pháp lý chính là tìm ra hung thủ và xử lý theo đúng quy định của pháp luật dựa trên bằng chứng thu thập được nhằm đảm bảo tính chính xác.

Kiến thức về pháp luật là bao la, rộng lớn áp dụng cho nhiều lĩnh vực vì vậy không thể tóm gọn chỉ trong một bài viết ngắn về cơ sở pháp lý là gì và cũng không thể tìm hiểu hết chỉ trong ngày một ngày hai. Hiểu biết về pháp luật là điều cần thiết tuy nhiên cần có thời gian để tiếp xúc dần dần. Bạn không sợ phạm luật nếu có nhận thức về mặt trái mặt phải của mọi vấn đề trong xã hội. hi vọng bạn sẽ là công dân tốt với hành vi đẹp góp phần tô điểm cho xã hội Việt Nam thêm văn minh giàu mạnh.

Nguyên Lý Về Sự Phát Triển Và Ý Nghĩa Phương Pháp Luận

Hiểu một cách chung nhất, “nguyên lý” là những tư tưởng ban đầu, xuất phát, có vai trò định hướng, chỉ đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp theo.

– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

– Ta cần phân biệt khái niệm ” vận động” và khái niệm ” phát triển “:

+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát triển.

+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn liền với sự ra đời của cái mới này.

Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng như chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động.

– Quan điểm biện chứng thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của quá trình phát triển. Sự phát triển có thể diễn ra theo con đường quanh co, phức tạp, trong đó không loại trừ bước thụt lùi tương đối.

– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.

Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.

Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.

– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.

Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.

Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…) mà không có sự biến đổi về chất.

Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.

Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.

Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.

Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.

Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.

Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.

Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…

Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng lớn của con người.

Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.

III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển

Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:

– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.

– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.

Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.

– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.

Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.

Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.

Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.

Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.

– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.