Bìa cuốn Từ điển tiếng Việt (tái bản năm 2010)
Thông tin sách Tác giảViện Ngôn ngữ học
Quốc giaViệt Nam
Ngôn ngữTiếng Việt
Thể loạiTừ điển
Nhà xuất bảnNhà xuất bản Từ điển Bách khoa
Từ điển tiếng Việt – còn được gọi là Từ điển Hoàng Phê – là một công trình khoa học do tập thể các nhà khoa học thuộc Viện Ngôn ngữ học – cơ quan nghiên cứu ngôn ngữ học hàng đầu của Việt Nam biên soạn dưới sự chủ biên của Hoàng Phê. Công trình đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005.
Công trình Từ điển Tiếng Việt được bắt đầu thực hiện từ năm 1963, thu thập 3 triệu phiếu tư liệu, 100.000 phiếu biên soạn để lựa chọn khoảng 40.000 mục từ, hoàn thành và xuất bản lần đầu vào năm 1988.
Từ điển tiếng Việt được khởi thảo Đề cương biên soạn ngay sau khi Viện Ngôn ngữ học được thành lập vào năm 1968. Trên cơ sở gần ba triệu phiếu ngữ cảnh được trích từ các nguồn tài liệu sách báo khác nhau, trong đó có kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam, các tác phẩm văn chương, các công trình viết về các lĩnh vực khoa học, cuốn từ điển lần đầu tiên được ra mắt độc giả vào năm 1988. Tác phẩm có sự đóng góp về trí tuệ và công sức lao động của rất nhiều nhà văn hoá, nhà khoa học nổi tiếng khác ở Việt Nam khi thảo luận đề cương hoặc trực tiếp tham gia biên soạn, đặc biệt là các thuật ngữ.
Công trình khoa học từ điển giải nghĩa tiếng Việt được biên soạn và cách thức tổ chức làm việc quy mô rất công phu, từ ngữ được giải thích chính xác, trình bày khoa học, hợp lý. Dựa khối lượng ngữ liệu đồ sộ và hệ thống lý luận từ điển học đúc kết được qua nhiều năm nghiên cứu, kết hợp hài hòa giữa tính hàn lâm và đại chúng trong một công trình, nhóm biên soạn đã xử lý từ đồng âm, đa nghĩa hợp lý, đầy đủ và chính xác, đưa ra nhiều thí dụ phong phú, đa dạng, chuẩn mực và mang tính điển hình rất cao.
“
“Quyển từ điển đã được biên soạn trên cơ sở gần ba triệu phiếu tư liệu của Viện Ngôn ngữ học. Về thực chất nó là quyển từ điển đã được xuất bản tập I (A-C) trước đây dưới tên gọi Từ điển tiếng Việt phổ thông (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975), nhưng có phần nào đơn giản hơn, đặc biệt về mặt các thí dụ (không có thí dụ trích dẫn nguyên văn ở các tác phẩm văn học, những thí dụ loại này thật ra chỉ thích hợp với loại từ điển cỡ lớn nhiều tập). Mặt khác nó cố gắng phản ánh đầy đủ hơn tình hình phát triển của tiếng Việt hiện đại với một số biến đổi đã hoặc đang diễn ra trong chuẩn từ vựng và chuẩn chính tả”. – Trích Lời nói đầu (bản in lần thứ nhất).
“
“
“Hiện nay chưa có chuẩn chính tả thống nhất đối với nhiều từ mượn gần đây của tiếng nước ngoài, phần lớn là thuật ngữ khoa học-kỹ thuật. Đối với những từ ngữ có dạng chính tả bằng chữ cái Latin có tính quốc tế, có hai chủ trương: 1. viết “nguyên dạng”; 2. viết phiên âm bằng vần của quốc ngữ.
Chúng tôi nghĩ rằng cách viết nguyên dạng đối với từ ngữ có tính quốc tế là hợp lý, đáp ứng yêu cầu giao lưu văn hoá với các nước ngày càng mở rộng, dễ có chính tả thống nhất và tạo ra được sự thống nhất với quốc tế. Thực tế là mấy năm gần đây, lối viết gọi là nguyên dạng tên riêng nước ngoài và từ ngữ có tính quốc tế có xu hướng ngày càng phổ biến. Một số từ ngữ có tính quốc tế dùng gần đây trong tiếng Việt được viết hoàn toàn nguyên dạng: festival, stress, video, telex, FOB,… Tuy vậy cách viết phiên âm vẫn đang là phổ biến.Từ điển cần phản ánh trạng thái của ngôn ngữ ở vào một thời gian nhất định; nhưng không chỉ phản ánh cái tĩnh, mà điều không kém phần quan trọng là phản ánh cả cái động, cái xu thế phát triển”. – Trích Lời nói đầu (bản in lần thứ hai).
“
Công trình được xuất bản lần đầu năm 1988, được sửa chữa, bổ sung, tái bản nhiều lần. Nó đã được đông đảo độc giả Việt Nam hoan nghênh ngay từ lần ra mắt đầu tiên. Rất nhiều ý kiến, bài viết đã dành cho cuốn từ điển này những lời ngợi ca, đánh giá cao. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đã là nguồn tra cứu, trích dẫn đáng tin cậy của hầu hết các bài viết, sách chuyên khảo, đặc biệt là các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khoá luận tốt nghiệp khi phân tích ý nghĩa của các đơn vị từ ngữ tiếng Việt, là cẩm nang tra cứu không thể thiếu của tất cả những người cầm bút, dù đó là nhà văn, nhà thơ, hay nhà báo, v.v… kể cả các nhà giáo giảng dạy tiếng Việt.
Từ điển tiếng Việt dày 1.208 trang, khổ 16 x 24 cm – Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1988, được tái bản nhiều lần, thu thập và giải thích khoảng 36.000 từ ngữ thường dùng trong đời sống và thường gặp trên sách báo, các từ ngữ phương ngữ phổ biến, các thuật ngữ khoa học – kỹ thuật thông dụng.
Công trình được chỉnh lý hai lần:
Lần thứ nhất, năm 1992: sửa 2.770 định nghĩa, bổ sung 2.090 mục từ, sửa chữa hoặc thay thế 3.510 thí dụ;
Lần thứ hai, năm 2000: sửa 2.903 định nghĩa, bổ sung 1.670 từ hoặc nghĩa mới, loại bỏ 41 từ hoặc nghĩa cũ, thay hoặc sửa chữa 387 thí dụ.
Tổng cộng số từ được thu thập, giải nghĩa là 39.924 mục. Có bổ sung sáu bản phụ lục: các dân tộc ở Việt Nam; các tỉnh, thành, huyện, thị trong nước; tên viết tắt của các tổ chức quốc tế; đơn vị tiền tệ các nước và đơn vị đo lường quốc tế.
Công trình Từ điển tiếng Việt giữ kỷ lục về số lần tái bản và số lượng phát hành, từ năm 1998 đến 2005 bộ từ điển này đã tái bản đến lần thứ 10, với số bản in kỷ lục: 150.000 bản.
Lần tái bản gần đây nhất của Từ điển tiếng Việt là vào năm 2010 do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa ấn hành.
“
“Quyển Từ điển tiếng Việt này là quyển từ điển đầu tiên ở nước ta do một tập thể cán bộ ngôn ngữ học biên soạn trên cơ sở tư liệu tương đối đầy đủ. Nó có tác dụng thiết thực đối với việc chuẩn hoá và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đây là quyển sách cần thiết cho những người muốn tìm hiểu, học tập, trau dồi tiếng Việt.”
“
Công trình này đã được trao tặng Giải thưởng nhà nước về Khoa học công nghệ năm 2005.
Gần đây, một số các nhà xuất bản tại Việt Nam đã cho in một số cuốn từ điển tiếng Việt kém chất lượng với hàng loạt các lỗi định nghĩa từ thiếu chính xác, thậm chí sai nghiêm trọng của một số tác giả như Vũ Chất, Bùi Minh Quốc, Hùng Thắng, Thanh Hương, Bằng Cẩm, Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Thanh… Chẳng hạn, cuốn từ điển của Bùi Quang Tịnh và Bùi Thị Tuyết Thanh do Nhà xuất bản Thanh Niên in năm 2000 ở trang 987 định nghĩa “Tâm lý học” là: “ngành y học nghiên cứu các chứng bệnh của tim”. Cuốn Từ điển tiếng Việt của Vũ Chất (Nhà xuất bản Thanh niên – 2001) định nghĩa: “Khai quật” là “đào mồ lên” (nhầm với từ “quật mồ”, “quật mả”), “đề án” là “nghị án đưa ra để bàn cãi”.
Điều đáng nói là hầu hết các cuốn sách đó đều mạo danh cơ quan biên soạn là “Ngôn ngữ học Việt Nam”. Thậm chí, nhiều cuốn từ điển khác như: “Từ điển tiếng Việt” của Mạnh Tường do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2009, cuốn “Từ điển tiếng Việt” của “Nhiều tác giả” do Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2008 v.v… còn đề tên cơ quan biên soạn là “Viện Ngôn ngữ” ở phía dưới dòng chữ khó hiểu: “Khoa học – Xã hội – Nhân văn”. Điều này đã làm tổn hại đến uy tín khoa học của Viện Ngôn ngữ học, cơ quan chịu trách nhiệm biên soạn cuốn “Từ điển tiếng Việt” cũng như bản thân công trình Từ điển tiếng Việt của Viện.