Thuật Ngữ Kinh Tế Chính Trị / Top 16 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 10/2023 # Top Trend | 2atlantic.edu.vn

Kinh Tế Chính Trị Mac

Published on

Trong một thế giới phẳng và sự toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như ngày hôm nay. Đòi hỏi mỗi cá nhân phải nhận thức được những quy luật của nền kinh tế thị trường, quy luật của cạnh tranh, cung – cầu… và để có sự hiểu biết cơ bản về kinh tế – chính trị cho mọi người dù là là sinh viên, người đi làm, nhà kinh doanh… chúng tôi xin được giới thiệu cuốn giáo trình Kinh tế chính trị Mac – Lenin.

1. HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG SÁCH HƯỚNG DẪN HỌC TẬP KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN (Dùng cho sinh viên hệ đào tạo đại học từ xa) Lưu hành nội bộ HÀ NỘI – 2006 ===== =====

2. HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG – – – – – – – – – – – – – – SÁCH HƯỚNG DẪN HỌC TẬP KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN Biên soạn : CN. NGUYỄN QUANG HẠNH TS. NGUYỄN VĂN LỊCH Hiệu đính: ThS. VŨ THỊ ĐẢM Lưu hành nội bộ HÀ NỘI – 2006

4. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 3 CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU SINH VIÊN CẦN NẮM VỮNG – Nắm được khái niệm về kinh tế chính trị nói chung và kinh tế chính trị Mác-Lênin nói riêng. Vị trí của kinh tế chính trị Mác-Lênin và vai trò của kinh tế chính trị Mác-Lênin trong hệ thống các học thuyết kinh tế của xã hội. – Nắm được đối tượng, phương pháp và chức năng của kinh tế chính trị Mác-Lênin nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu sau này (nghiên cứu các nội dung của học thuyết kinh tế chính trị Mác-Lênin) – Thấy được ý nghĩa và sự cần thiết nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin. NỘI DUNG 1.1. ĐỐI TƯỢNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN 1.1.1. Khái niệm kinh tế chính trị 1.1.1.1. Sự ra đời của thuật ngữ “Kinh tế chính trị học”: – Đầu tiên là thuật ngữ “Kinh tế học” do Aritxtôt (nhà triết học cổ Hy Lạp) đưa ra cách đây vào khoảng 2300 năm, đây là thời kỳ bắt đầu xuất hiện các tư tưởng kinh tế. – Theo Aritxtôt: Kinh tế là mức sống, là tiết kiệm, là thu nhập, sinh hoạt vật chất, là các ngành sản xuất vật chất. Là người đầu tiên phân tích về giá trị trao đổi, giá trị và vạch ra quan hệ hàng tiền. Mác cho rằng ông đã tiếp cận đến học thuyết Giá trị-Lao động. – Đầu thế kỷ 17 (năm 1615) một học giả người Pháp có tên là A.Mông Crê-chiên (A.Montchrétien) lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Kinh tế chính trị học” (trong tác phẩm “Chuyên luận về kinh tế chính trị học”). Theo ông, kinh tế chính trị học là khoa học nghiên cứu những quy tắc thực tiễn cho hoạt động kinh tế. Là một đại biểu của chủ nghĩa trọng thương nên ông chỉ giới hạn việc phân tích quá trình lưu thông, thương mại ( sự hạn chế trong phạm vi nghiên cứu) Kinh tế chính trị học được xem như là khoa học về kinh tế nhà nước, nghiên cứu vai trò nhà nước trong đời sống kinh tế. Kinh tế chính trị học chỉ trở thành một khoa học thực sự bởi các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển và được Mác-Enghen phát triển bổ sung hoàn thiện, sau này Lê-nin tiếp tục phát triển trong điều kiện lịch sử mới (bước vào đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn độc quyền và đặc biệt sự thành công của cách mạng tháng mười Nga.

5. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 4 1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế chính trị học: + Có nhiều định nghĩa về kinh tế chính trị học. Ví dụ: Phái cổ điển: Kinh tế chính trị học là môn khoa học về sự làm giàu hoặc kinh tế chính trị học là môn khoa học về của cải, thương nghiệp mà nhiệm vụ của nó là bán nhiều, mua ít. Ngày nay, nhiều nhà kinh tế học định nghĩa: Kinh tế chính trị học là môn khoa học phân tích những sự vận động trong toàn bộ nền kinh tế như xu hướng, giá cả, sản lượng, thất nghiệp,… Từ đó giúp Chính phủ đề ra những chính sách để có thể tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Hoặc, Kinh tế chính trị là môn khoa học nghiên cứu những vấn đề con người và xã hội, lựa chọn thế nào để sử dụng tài nguyên sản xuất ra nhiều hàng hoá,… Chúng ta có nhận xét là các định nghĩa đều có những yếu tố hợp lý, kinh tế chính trị bao gồm tất cả các yếu tố trên nhưng mỗi định nghĩa đều thiếu tính khái quát. + Quan điểm Mác- xít: – Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội nằm trong khoa học kinh tế. – Kinh tế chính trị học nghiên cứu về kinh tế để rút ra các kết luận về kinh tế và từ đó rút ra các kết luận về chính trị. – Các khoa học kinh tế khác cũng nghiên cứu nền kinh tế xã hội nhưng gạt bỏ mặt chính trị, bản chất của các quan hệ kinh tế mà chỉ đi sâu phân tích những biểu hiện kinh tế thuần tuý, tách rời kinh tế khỏi chính trị do đó không nắm được bản chất các hoạt động kinh tế. – Kinh tế chính trị học là môn khoa học có tính lịch sử. Theo Enghen: “Kinh tế chính trị học theo nghĩa rộng nhất là khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người…” Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị học nghiên cứu một phương thức sản xuất cụ thể và tìm ra quy luật vận động của riêng nó. Tóm lại, kinh tế chính trị là môn khoa học xã hội nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung của đời sống xã hội tức là các quan hệ kinh tế trong những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. 1.1.2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin 1.1.2.1. Sự ra đời: – Kinh tế chính trị Mác-Lênin do C.Mác (1818-1883) và Ph. Ăng-ghen (1820-1895) sáng lập, sau đó được V.I.Lê-nin (1870-1924) phát triển trong điều kiện lịch sử mới. Điều kiện lịch sử mới đó là chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đặc biệt sự thành công của cách mạng tháng mười Nga năm 1917. – Kinh tế chính trị Mác-Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-Lênin là triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. – Kinh tế chính trị Mác-Lênin là sự kế thừa và phát triển kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Để thấy được điều đó ta tìm hiểu qua về sự phát triển của kinh tế chính trị: + Sơ lược sự phát triển của kinh tế chính trị học:

6. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 5 Học thuyết kinh tế chính trị học đầu tiên là chủ nghĩa trọng thương, rất coi trọng thương nghiệp, cho rằng giá trị được tạo ra từ lưu thông và tiền là nguồn gốc của mọi sự giàu có của các quốc gia vì vậy phải tích luỹ tiền. Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển, quan điểm trọng thương bộc lộ hạn chế thì các học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời thay thế. Đó là chủ nghĩa trọng nông Pháp và kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, đã chuyển phạm vi nghiên cứu của kinh tế chính trị sang lĩnh vực sản xuất, đi tìm nguồn gốc của giá trị, của cải và sự giàu có từ trong quá trình lao động sản xuất. Đặc biệt kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh đã đưa kinh tế chính trị trở thành một khoa học thực sự với hệ thống các lý thuyết về giá trị-lao động, tiền tệ, tư bản, tái sản xuất,… được coi là một trong những tiền đề lý luận hình thành chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và kinh tế chính trị Mác-Lênin nói riêng. Cuối thế kỷ 18 sang đầu thể kỷ 19, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh đã bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn, hạn chế. Nhiều vấn đề kinh tế nảy sinh mà các tư tưởng cổ điển không thể lý giải được. Một loạt các học thuyết kinh tế ra đời mong muốn thay thế cho những tư tưởng cổ điển như: các học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển, kinh tế chính trị tiểu tư sản, kinh tế chính trị của những người xã hội chủ nghĩa không tưởng, kinh tế chính trị Mác-Lênin,…Trong đó chỉ có kinh tế chính trị Mác-Lênin là vượt qua được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử học thuyết kinh tế chính trị. Hiện nay, các lý thuyết kinh tế hiện đại có xu hướng tách kinh tế khỏi chính trị, chỉ nghiên cứu kinh tế đơn thuần mà bỏ qua mặt bản chất của các quan hệ kinh tế, các hiện tượng kinh tế. + Kinh tế chính trị Mác-Lênin nói riêng cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung ra đời từ những năm 40 của thế kỷ 19, được Lê-nin tiếp tục bổ sung phát triển trong những năm đầu thế kỷ 20 đã trở thành đỉnh cao trong lịch sử các học thuyết kinh tế chính trị. 1.1.2.2. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin: * Các nhận thức khác nhau về đối tượng của kinh tế chính trị: – Chủ nghĩa trọng thương: đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực lưu thông, chủ yếu là ngoại thương. – Chủ nghĩa trọng nông: đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. – Kinh tế chính trị tư sản cổ điển: Nghiên cứu nền sản xuất, những quy luật kinh tế song cho rằng chủ nghĩa tư bản là tuyệt đối, vĩnh viễn, không nhìn thấy toàn bộ quy luật vận động và phát triển xã hội. – Kinh tế học hiện đại: Nghiên cứu kinh tế thuần tuý, tách kinh tế khỏi chính trị, che đậy quan hệ sản xuất và mâu thuẫn giai cấp. * Đối tượng của kinh tế chính trị Mác-Lênin: – Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin (Quan điểm duy vật lịch sử): Một là, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, do đó muốn tìm bản chất, quy luật của xã hội phải xuất phát từ sản xuất vật chất. Nói cách khác phải nghiên cứu nền sản xuất xã hội. Hai là, nền sản xuất xã hội nói chung có hai mặt:

7. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 6 – Thứ nhất là lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố của quá trình sản xuất là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là mặt kỹ thuật sản xuất, sự sản xuất. – Thứ hai là quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, là mặt xã hội của sản xuất. Theo Lê-nin: Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ xã hội giữa người với người trong quá trình sản xuất, nghiên cứu chế độ xã hội của sản xuất. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất tác phẩm Tư bản, Mác đã xác định đối tượng nghiên cứu là “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy”, “mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại”. – Kết luận: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin là quan hệ sản xuất, vạch ra bản chất quy luật vận động của quan hệ sản xuất, hay phát hiện ra các quy luật kinh tế, tính quy luật kinh tế và sự tác động của chúng trong nền kinh tế. Kinh tế chính trị Mác-Lênin nghiên cứu quan hệ sản trong mối quan hệ biện chứng với lực lượng sản xuất. (Lực lượng sản xuất không phải là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị nhưng vẫn phải nghiên cứu trong chừng mực nhất định để phục vụ cho nghiên cứu quan hệ sản xuất) Kinh tế chính trị Mác-Lênin nghiên cứu quan hệ sản xuất với ý nghĩa là cơ sở hạ tầng trong mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng. (Nghiên cứu mối quan hệ kinh tế và chính trị, kinh tế và văn hoá) Kinh tế chính trị Mác-Lênin nghiên cứu các quan hệ sản xuất không chỉ dừng ở hiện tượng, bên ngoài mà đi sâu vào bản chất, vạch ra quy luật vận động và phát triển của các quan hệ sản xuất hay các quy luật kinh tế Tóm lại kinh tế chính trị Mác-Lênin nghiên cứu một cách toàn diện, tổng hợp về quan hệ sản xuất, quy luật kinh tế của một hay những hình thái kinh tế xã hội. 1.1.2.3. Nội dung cơ bản của kinh tế chính trị Mác-Lênin: – Thời kỳ Mác và Ăng- ghen: Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra các quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản. Cụ thể: + Trực tiếp phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở kế thừa và phát triển, khắc phục những hạn chế của các lý thuyết kinh tế tư sản cổ điển, đặc biệt từ lý luận giá trị đã phát triển để xây dựng lý luận giá trị thặng dư. Từ đó vạch ra bản chất của chế độ tư bản, vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản, sự thay thế tất yếu nó bằng xã hội mới. + Đưa ra những dự báo về nội dung kinh tế của xã hội tương lai. – Thời kỳ Lê-nin: Từ cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, Lê-nin đã tiếp tục phát triển và bảo vệ học thuyết Mác trong điều kiện lịch sử mới. Cụ thể:

8. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 7 + Tư tưởng của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. + Tư tưởng của Lê-nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và kế hoạch, biện pháp, nguyên tắc xây dựng nền kinh tế đó. 1.1.2.4. Ý nghĩa: – Kinh tế chính trị Mác-Lênin đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của kinh tế chính trị học, đưa kinh tế chính trị vượt qua những hạn chế của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển, giải quyết một cách triệt để những vấn đề mà khoa học kinh tế trước Mác không thể vượt qua được trên lập trường của giai cấp công nhân. Với sự ra đời của học thuyết kinh tế Mác, lịch sử học thuyết kinh tế chính trị được chia thành hai thời kỳ lớn: trước Mác và sau Mác. – Là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới. Từ đó buộc chủ nghĩa tư bản ngày càng phải điều chỉnh theo hướng tiến bộ hơn, dân chủ hơn. – Việt nam: “Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta” (Văn kiện Đại hội Đảng IX). Chú ý, trong điều kiện hiện nay học thuyết kinh tế Mác-Lênin vẫn giữ nguyên giá trị bởi vì: + Chủ nghĩa tư bản ngày nay mặc dù có nhiều thay đổi nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, không thay đổi về bản chất nên vẫn vận động theo những quy luật mà Mác-Lênin phát hiện. Vì vậy kinh tế chính trị Mác-Lênin vẫn là cơ sở lý luận để xem xét lại sự vận động của chủ nghĩa tư bản hiện nay. + Sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự chuyển biến sang nền kinh tế tri thức với khoa học và tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp hàng đầu cũng nằm trong những tiên đoán của Mác. Những tư tưởng của Mác-Lênin về CNXH,CNCS, nhất là những vẩn đề kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Lê-nin đưa ra trong Chính sách kinh tế mới (NEP) đang được nhiều nước vận dụng trong đó có Việt nam. + Sự đánh giá của nhiều giáo sư hàng đầu thế giới về học thuyết kinh tế Mác trong thế kỷ 21: Xtêphan Macglin (Giáo sư kinh tế, đại học Ha vớt, Mỹ): Những quan điểm của C.Mác vẫn có sức mạnh hết sức to lớn và trong thế kỷ tới nó vẫn giữ được sức mạnh đó. Jacques Desrida (Giáo sư triết học, Pháp): Cần phải trở về với Mác, không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có di sản của Mác. 1.2. PHƯƠNG PHÁP CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN 1.2.1. Phương pháp biện chứng duy vật: Là phương pháp cơ bản của kinh tế chính trị Mác-Lênin, phương pháp biện chứng duy vật đòi hỏi khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế phải đặt trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động phát triển không ngừng, trong đó sự tích luỹ những biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự

9. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 8 biến đổi về chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. 1.2.2. Phương pháp lôgic kết hợp chặt chẽ với phương pháp lịch sử, các phương pháp khoa học chung: Kinh tế chính trị không trình bày đơn thuần tiến trình lịch sử, mô tả đơn thuần các sự kiện lịch sử mà căn cứ vào tiến trình lịch sử phát triển của các quan hệ sản xuất, dùng phương pháp tư duy và lý luận lôgic để vạch ra những quy luật kinh tế chi phối sự vận động của mỗi phương thức sản xuất. Kinh tế chính trị cũng sử dụng các phương pháp khoa học chung như: quan sát thống kê, phân tích và tổng hợp, diễn dịch quy nạp, mô hình hoá, thử nghiệm,… 1.2.3. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học: Khái niệm: trừu tượng hoá khoa học là sự gạt bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu những cái ngẫu nhiên, tạm thời, cá biệt hoặc tạm gác lại những nhân tố nào đó để tách ra những cái bền vững, ổn định, điển hình, nhờ đó mà nắm được bản chất của sự vật hiện tượng (đối tượng) và dần dần khái quát thành phạm trù, quy luật biểu hiện bản chất ấy. Các điều kiện đảm bảo trừu tượng hoá khoa học: Phải chú ý tới tổng thể, không phải chú ý tới các sự kiện riêng biệt bởi vì đời sống kinh tế xã hội rất phong phú đa dạng, phức tạp và nhiều mâu thuẫn. Nếu từ một sự vật hiện tượng riêng lẻ có thể dẫn đến những kết luận trái ngược nhau. Cần biết vạch ra cái điển hình từ tổng thể các hiện tượng. Trừu tượng hoá phải đảm bảo làm bộc lộ rõ bản chất mà không mất đi nội dung hiện thực của các quan hệ được nghiên cứu. Tức là cần loại bỏ, gạt bớt cái gì và không được loại bỏ cái gì? Hoàn thiện quá trình đi từ cụ thể đến trừu tượng và ngược lại. Thống nhất giữa cái chung- cái riêng và cái đơn nhất. Đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lôgic và lịch sử, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá là thực tiễn xã hội. Phương pháp này là phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị. Theo Mác: “Phân tích những hình thái kinh tế người ta không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản ứng hoá học được. Sức trừu tượng hoá phải thay thế cho cả hai cái đó.” Ví dụ: Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản có thể bỏ qua sản xuất hàng hoá nhỏ còn tồn tại bởi vì cái phổ biến, đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản là nền sản xuất hàng hoá lớn. Mặc dù tư bản thương nghiệp có trước nhưng Mác đã bắt đầu từ tư bản công nghiệp chứ không phải từ tư bản thương nghiệp. Khi nghiên cứu về tái sản xuất tư bản xã hội, Mác đã đưa ra một loạt giả định như: xã hội chỉ có hai giai cấp, hàng hoá luôn được mua bán đúng giá trị, giá trị hàng hoá không thay đổi, tỷ

10. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 9 suất giá trị thặng dư không thay đổi, cấu tạo hữu cơ tư bản (c/v) không đổi, không xét đến ngoại thương. Trong thực tế xã hội rất phức tạp song việc giả định loại một số hiện tượng, quá trình ra khỏi điều kiện tái sản xuất không làm ảnh hưởng đến việc rút ra bản chất của tái sản xuất tư bản xã hội, còn nếu đưa vào chỉ làm phức tạp thêm trong việc nghiên cứu. Sự trừu tượng hoá giúp cho bản chất bộc lộ rõ hơn, dễ thấy hơn. 1.3. CHỨC NĂNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NGHIÊN CỨU KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN 1.3.1. Chức năng của kinh tế chính trị Mác-Lênin 1.3.1.1. Chức năng nhận thức Kinh tế chính trị Mác-Lênin nghiên cứu và giải thích các quá trình và hiện tượng trong đời sống kinh tế xã hội nhằm phát hiện bản chất, quy luật chi phối sự vận động của các quá trình, hiện tượng kinh tế khách quan giúp con người vận dụng vào các hoạt động kinh tế để đạt hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở phân tích quá trình, hiện tượng,dự báo,… 1.3.1.2. Chức năng tư tưởng Trong xã hội có giai cấp, các tư tưởng kinh tế phải phục vụ mục đích của giai cấp nhất định. Thực tế, chưa bao giờ có tư tưởng kinh tế phi giai cấp, mọi học thuyết kinh tế đều nhằm phê phán hay biện hộ cho một chế độ xã hội nhất định. Kinh tế chính trị Mác-Lênin góp phần xây dựng thế giới quan cách mạng, niềm tin vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, phê phán chủ nghĩa tư bản là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới. 1.3.1.3. Chức năng thực tiễn Nhận thức để cải tạo thế giới, phục vụ cho thực tiễn, nâng cao hoạt động thực tiễn (mọi môn khoa học đều có chức năng này). Kinh tế chính trị không chỉ dừng lại ở tiếp cận các sự kiện mà phải thâm nhập vào bản thân đời sống kinh tế xã hội, chỉ ra các phương pháp vận dụng lý thuyết kinh tế vào đời sống thực tế. 1.3.1.4. Chức năng phương pháp luận Kinh tế chính trị Mác-Lênin đã hình thành là nền tảng lý luận, cơ sở phương pháp luận cho tổng thể các môn khoa học kinh tế khác và các ngành chức năng như: lao động, tài chính, thống kê,… 1.3.2. Sự cần thiết phải nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin: Do các chức năng nêu trên mà thấy được sự cần thiết phải nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin. Nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin cho chúng ta cơ sở lý luận chung để giải quyết mọi vấn đề cụ thể của kinh tế, cơ sở lý luận của quản lý kinh tế, trang bị kiến thức cơ bản cho sản xuất kinh doanh. Trong tình hình đổi mới hiện nay, nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin giúp chúng ta nhận thức đúng, giải thích đúng tình hình kinh tế hiện nay, nâng cao trình độ hiểu biết về đường

12. Chương 1: Đối tượng, chức năng và phương pháp của môn kinh tế chính trị Mác-Lênin 11 Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất tác phẩm Tư bản, Mác đã xác định đối tượng nghiên cứu là “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy”, “mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại”. Theo Lê-nin: Kinh tế chính trị học “tuyệt nhiên không nghiên cứu “sự sản xuất”, mà nghiên cứu những quan hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất, nghiên cứu chế độ xã hội của sản xuất”. Kinh tế chính trị là một khoa học nghiên cứu những quan hệ sản xuất của con người trong mối liên hệ qua lại với lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng. Nó đi sâu vạch rõ bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế để rút ra quy luật chi phối sản xuất, phân phối, trao đối, tiêu dùng, tức là rút ra các quy luật kinh tế của sự vận động xã hội. Có thể nói ngắn gọn đối tượng của kinh tế chính trị là nghiên cứu một cách toàn diện, tổng hợp về các quan hệ sản xuất. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Vai trò ý nghĩa của học thuyết kinh tế chính trị Mác-Lênin đối với xã hội? 2. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin là gì? 3. Thế nào là trừu tượng hoá khoa học? Cho ví dụ. 4. Sự cần thiêt phải học tập kinh tế chính trị Mác-Lênin. Nền sản xuất xã hội (Phương thức SX) Lực lượng sản xuất (gồm các yếu tố của quá trình SX) Là mối quan hệ con người với tự nhiên. À Quan hệ sản xuất(gồm Qh sở hữu,quản lý, phân phối) Là mối quan hệ con người với con người. À

13. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 12 CHƯƠNG II: TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU SINH VIÊN CẦN NẮM VỮNG Sinh viên nắm được những vấn đề cơ bản về tái sản xuất xã hội (khái niệm, nội dung, hiệu quả, các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội). – Tăng trưởng, phát triển kinh tế có ý nghĩa như thế nào đối với các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. – Để tăng trưởng, phát triển kinh tế cần tập trung tới những yếu tố nào? – Mối quan hệ tác động qua lại giữa tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế. NỘI DUNG 2.1. TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI 2.1.1. Những khái niệm cơ bản về tái sản xuất xã hội 2.1.1.1. Sản xuất và tái sản xuất: Sản xuất là quá trình tạo ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu con người, xã hội – Sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, quyết đinh sự tồn tạị và phát triển của xã hội. – Là hoạt động trung tâm, cơ bản nhất của xã hội. – Các yếu tố của quá trình sản xuất (tư liệu lao động, đối tượng lao động và người lao động) Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng. – Tái sản xuất là tất yếu vì xã hội không ngừng tiêu dùng, do đó không thể ngừng sản xuất – Có nhiều kiểu phân loại tái sản xuất theo nhiều góc độ khác nhau: Nếu xem xét tái sản xuất theo phạm vi có tái sản xuất cá biệt và tái sản xuất xã hội. Tái sản xuất diễn ra trong từng doanh nghiệp gọi là tái sản xuất cá biệt..Tổng thể những tái sản xuất cá biệt trong mối liên hệ với nhau gọi là tái sản xuất xã hội. Xét về quy mô của tái sản xuất, người ta chia nó thành hai mức độ là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. 2.1.1.2. Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng: * Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại và phục hồi với quy mô như cũ

14. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 13 – Các yếu tố của quá trình sản xuất không thay đổi (chu kỳ sau so với chu kỳ trước) – Kết quả sản xuất không đổi: Số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm không thay đổi. Tái sản xuất giản đơn là đặc trưng chủ yếu của nền sản xuất nhỏ, năng suất lao động rất thấp,chưa có sản phẩm thặng dư hoặc nếu có ít sản phẩm thặng dư thì cũng chỉ sử dụng cho tiêu dùng cá nhân chứ chưa dùng để mở rộng sản xuất. * Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại và phục hồi với quy mô lớn hơn trước. – Các yếu tố của quá trình sản xuất có sự thay đổi theo hướng tăng thêm về số lượng và chất lượng – Kết quả sản xuất tạo ra số lượng, chất lượng sản phẩm tăng thêm. Tái sản xuất mở rộng là đặc trưng chủ yếu của nền sản xuất lớn năng suất lao động xã hội cao, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư, đó là nguồn trực tiếp của tái sản xuất mở rộng. Quá trình chuyển tái sản xuất giản đơn sang tái sản xuất mở rộng là một yêu cầu khách quan của cuộc sống, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội cả vất chất và tinh thần. * Mô hình của tái sản xuất mở rộng: + Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng: Đó là việc mở rộng quy mô sản xuất chủ yếu bằng cách tăng thêm các yếu tối đầu vào (vốn, tài nguyên, sức lao động…). Do đó, sản phẩm làm ra tăng lên. Còn năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất không thay đổi. + Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu: Đó là việc mở rộng quy mô sản xuất làm cho sản phảm tăng lên chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất. Còn các yếu tố đầu vào của sản xuất căn bản không thay đổi. Điều kiện chủ yếu để thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học- công nghệ tiên tiến. * Ưu thế và hạn chế của hai mô hình tái sản xuất. + Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng ưu thế là khai thác được nhiều các yếu tố đầu vào của sản xuất (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, sức lao động…) nhưng hạn chế là làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên nhanh chóng bị cạn kiện và thường gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn. + Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu sẽ hạn chế được các nhược điểm trên vì việc sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vừa hạn chế ô nhiễm môi trường vừa giảm được các chi phí vật chất trong một đơn vị sản phẩm làm ra. Thông thường khi mới chuyển từ tái sản xuất giản đơn sang tái sản xuất mở rộng thì đó là tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng, rồi mới dần dần chuyển sang tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Nhưng trong những điều kiện có thể, cần thực hiện kết hợp cả hai mô hình tái sản xuất nói trên.

15. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 14 2.1.2. Các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội Quá trình tái sản xuất xã hội là sự thống nhất và tác động lẫn nhau của các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng( tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho cá nhân), trong đó mỗi khâu có một vị trí nhất định. * Sản xuất: Là khâu mở đầu, trực tiếp tạo ra sản phẩm, giữ vai trò quyết định đối với các khâu khác (Người ta chỉ có thể phân phối, trao đổi và tiêu dùng những cái do sản xuất tạo ra. Chính quy mô cơ cấu cũng như chất lượng và tính chất của sản phẩm do sản xuất tạo ra quyết định đến quy mô và cơ cấu tiêu dùng, quyết định chất lượng và phương thức tiêu dùng.) * Tiêu dùng: Là khâu cuối cùng, là điểm kết thúc của một quá trình tái sản xuất. Tiêu dùng là mục đích của sản xuất, tạo ra nhu cầu cho sản xuất tiêu dùng là “đơn đặt hàng” của xã hội đối với sản xuất. Tiêu dùng xác định khối lượng, cơ cấu, chất lượng, hình thức sản phẩm. Vì vậy tiêu dùng có tác động mạnh mẽ đối với sản xuất. Sự tác động này có thể theo hai hướng: thúc đẩy mở rộng sản xuất nếu sản phẩm tiêu thụ được và ngược lại sản xuất suy giảm khi sản phẩm khó tiêu thụ. * Phân phối và trao đổi: Phân phối và trao đổi vừa là khâu trung gian, là cầu nối sản xuất với tiêu dùng, vừa có tính độc lập tương đối với sản xuất và tiêu dùng, vừa có tính độc lập tương đối với nhau. + Phân phối bao gồm: – Phân phối các yếu tố sản xuất cho các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất khác nhau để tạo ra các sản phẩm khác nhau. – Phân phối cho tiêu dùng dưới hình thức các nguồn thu nhập của các tầng lớp dân cư. Tính chất và nguyên tắc của quan hệ phân phối và bản thân quy luật phân phối đều do tính chất của nền sản xuất và quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Song, phân phối cũng tác động trở lại nó thúc sản xuất và tiêu dùng phát triển nếu quan hệ phân phối tiến bộ, hoặc ngược lại. + Trao đổi được thực hiện trong sản xuất và trong lĩnh vực lưu thông. Trao đổi là sự tiếp tục của khâu phân phối, là sự phân phối lại cái đã được phân phối, làm cho sự phân phối được cụ thể hoá, thích hợp với mọi nhu cầu của các tầng lớp dân cư và trong các ngành sản xuất. Trao đổi do sản xuất quyết định, nhưng trao đổi cũng có tính độc lập tương đối của nó, cũng tác động trở lại đối với sản xuất và tiêu dùng. Tóm lại, quá trình tái sản xuất bao gồm các khâu sản xuất- phân phối- trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội có quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó sản xuất là gốc, có vai trò quyết định; tiêu dùng là mục đích, là động lực của sản xuất; còn phân phối và trao đổi là những khâu trung gian nối sản xuất với tiêu dùng, có tác động đến cả sản xuất và tiêu dùng.

16. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 15 2.1.3. Nội dung chủ yếu của tái sản xuất xã hội Bất cứ xã hội nào, quá trình tái sản xuất cũng bao gồm những nội dung chủ yếu là tái sản xuất của cải vật chất, tái sản xuất sức lao động, tái sản xuất quan hệ sản xuất và tái sản xuất môi trường sinh thái. 2.1.3.1. Tái sản xuất của cải vật chất. Của cải vật chất (bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng) sẽ bị tiêu dùng trong quá trình sản xuất và sinh hoạt xã hội do đó cần phải tái sản xuất ra chúng… Vậy tái sản xuất của cải vật chất là tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu tiêu dùng. Trong tái sản xuất của cải vật chất thì tái sản xuất ra tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tái sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, nhưng tái sản xuất ra tư liệu tiêu dùng lại có ý nghĩa quyết định để tái sản xuất sức lao động của con người đó là yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất của xã hội. Kết quả của tái sản xuất của cải vất chất là tổng sản phẩm xã hội.. Tổng sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm do lao động trong các ngành sản xuất vật chất tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường được tính là một năm (đó là khi ngành phi sản xuất vật chất chưa phát triển). Tổng sản phẩm xã hội được xét cả về mặt hiện vật và giá trị. + Về hiện vật, nó bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. + Về giá trị, nó bao gồm giá trị của bộ phận tư liệu sản xuất bị tiêu dùng trong sản xuất và bộ phận giá trị mới, gồm có giá trị của toàn bộ sức lao động xã hội, ngang với tổng sổ tiền công trả cho người lao động sản xuất trực tiếp và giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dự tạo ra. Hiện nay, do các ngành sản xuất phi vật thể (dịch vụ) phát triển và ở nhiều nước nó tạo ra nguồn thu nhập ngày càng lớn so với các ngành sản xuất khác…, Liên hợp quốc dùng hai chỉ tiêu là: tổng sản phẩm quốc dân (GNP=Gross National Product) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP= Gross Domestic Product) để tính tổng sản phẩm xã hội ( GDP, GNP sẽ được nghiên cứu kỹ ở phần tăng trưởng kinh tế) Quy mô và tốc độ tăng trưởng của cải vật chất phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả sử dụng các nguồn lực: như khối lượng lao động và năng suất lao động mà thực chất là tiết kiệm lao động quá khứ và lao động sống trong một đơn vị sản phẩm, trong đó tăng năng suất lao động là vô hạn. 2.1.3.2. Tái sản xuất sức lao động Cùng với quá trình tái sản xuất của cải vật chất, sức lao động xã hội cũng không ngừng được tái tạo. trong tất các hình thái kinh tế- xã hội. Tái sản xuất sức lao là quá trình bổ sung sức lao động cả về số lượng và chất lượng cho quá trình tái sản xuất. * Tái sản xuất sức lao động về mặt số lượng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố:

17. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 16 + Quy luận nhân khẩu, tốc độ tăng nhân khẩu tỷ lệ thuận với số cung về sức lao động của quá trình tái sản xuất xã hội. + Xu hướng thay đổi công nghệ, cơ cấu, số lượng và tính chất của lao động (thủ công, cơ khí, tự động hoá). Sự thay đổi công nghệ luôn tỷ lệ nghịch với cung về số lượng sức lao động. + Năng lực tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất của mỗi quốc gia ở từng thời kỳ. Năng lực tích lũy tăng, nghĩa là đầu tư thêm vốn để mở rộng sản xuất dẫn đến hai xu hướng về cầu số lượng sức lao động. Mở rộng sản xuất nhưng không đổi mới công nghệ thì cầu về số lượng sức lao động tăng , nhưng mở rộng sản xuất đi kèm với đổi mới công nghệ theo xu hướng hiện đại thì cầu về số lượng sức lao đông có xu thế giảm * Tái sản xuất mở rộng sức lao động về mặt chất lượng thể hiện ở sự tăng lên về thể lực và trí lực của người lao động qua các chu kỳ sản xuất. Nhân tố ảnh hưởng tới tái sản xuất sức lao động về chất lượng + Mục đích của nền sản xuất của mỗi xã hội (xây dựng một nền sản xuất hiện đại tiên tiến hay sản xuất nhỏ lạc hậu). + Chế độ phân phối sản phẩm và vị trí của người lao động đối với lợi ích kinh tế, đó là điều kiện, là yêu cầu để nâng cao thể lực và trí lực của người lao động. + Tiến bộ của khoa học- công nghệ yếu tố này buộc người lao động phải được tăng cường về chất lượng mới đáp ứng được cho quá trình sản xuất. + Chính sách giáo dục- đào tạo của mỗi quốc gia sẽ thể hiện việc đầu tư đào tạo người lao động theo hướng coi trọng đào tạo nguồn nhân lực cho quá trình tái sản xuất hay không 2.1.3.3. Tái sản xuất quan hệ sản xuất Nền sản xuất xã hội chỉ có thể diễn ra trong những quan hệ sản xuất nhất định. Quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất và sức lao động gắn liền với tái sản xuất quan hệ sản xuất. Quá trình tái sản xuất của cải vật chất (tái sản xuất tư liệu sản xuất, và tư liệu tiêu dùng) cùng với tái sản xuất sức lao động như vậy đã là tái sản xuất lực lượng sản xuất. Sau mỗi chu kỳ sản xuất quan hệ giữa người với người về sở hữu tư liệu sản xuất, về quản lý và phân phối sản phẩm được củng cố, phát triển và hoàn thiện hơn, làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo điều kiện để nền sản xuất xã hội ổn định và phát triển. 2.1.3.4. Tái sản xuất môi trường sinh thái Sản xuất của cải vật chất là quá trình con người tác động vào tự nhiên, khai thác các vật thể của tự nhiên, đáp ứng nhu cầu cho cá nhân và xã hội. Dẫn đến kết quả: * Tài nguyên thiên nhiên có nguy cơ cạn kiệt (đất đai canh tác bị bạc màu, tài nguyên rừng, khoáng sản, biển không khôi phục kịp với tốc độ khai thác, các nguồn nước ngầm bị cạn kiệt…) * Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp làm cho môi trường thiên nhiên bị ô nhiễm (đất, nước, không khí).

18. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 17 Vì vậy, tái sản xuất môi trường sinh thái là điều kiện tất yếu của mọi quốc gia và cả loài người đang quan tâm nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững phải được thể hiện trong chính sách đầu tư và pháp luật của mỗi quốc gia. 2.1.4. Hiệu quả của tái sản xuất xã hội Khái niệm: Hiệu quả của tái sản xuất xã hội(hay hiệu quả của nền sản xuất xã hội) là mối quan hệ giữa kết quả sản xuất mà xã hội thu được với chi phí sản xuất bỏ ra. Hiệu quả của tái sản xuất xã hội là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự tiến bộ kinh tế- xã hội, có ý nghĩa quan trọng của nền sản xuất xã hội của mọi thời đại. Hiệu quả của tái sản xuất xã hội được xem xét trên hai mặt: * Mặt kinh tế – kỹ thuật (gọi là hiệu quả kinh tế) hiệu quả của tái sản xuất xã hội có thể tính bằng hiệu quả tương đối hoặc hiệu quả tuyệt đối. Hiệu quả tương đối của tái sản xuất xã hội là tỷ số tính theo phần trăm giữa kết quả sản xuất mà xã hội nhận được với toàn bộ lao động xã hội đã bỏ ra (gồm chi phí lao động quá khứ và lao động sống) Trong đó: H là hiệu quả tương đối của tái sản xuất xã hội K là kết quả sản xuất xã hội (Tổng SFXH, GDP, GNP,…) C là chi phí lao động xã hội Hiệu quả tuyệt đối của tái sản xuất xã hội là hiệu quả giữa kết quả sản xuất xã hội và chi phí lao động xã hội: H = K – C Ngoài ra trong thực tế người ta còn dùng nhiều chỉ tiêu khác nhau để tính hiệu quả kinh tế của tái sản xuất xã hội từng phần như: hiệu quả sử dụng tài sản cố định, hiểu quả sử dụng vật tư, hiệu quả sử dụng lao động sống. * Mặt xã hội, (gọi là hiệu quả xã hội) là hiệu quả của tái sản xuất được nhấn mạnh về mặt xã hội, biểu hiện sự tiến bộ xã hội như giảm phân hoá giàu nghèo và sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, đời sống của xã hội được cải thiện, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng ít, dân trí ngày càng cao, phục vụ y tế tốt tuổi thọ tăng… Mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội được kết hợp trong quá trình tái sản xuất gọi là hiệu quả kinh tế – xã hội. Kết hợp hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội là đặc trưng của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nó biểu hiện ở sự kết hợp chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát %100×= C K H

19. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 18 triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội trong từng bước đi và trong suốt quá trình phát triển của đất nước. 2.1.5. Xã hội hoá sản xuất Sản xuất bao giờ cũng mạng tính xã hội. Tính xã hội của sản xuất phát triển từ thấp đến cao gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng không phải bất cứ nền sản xuất nào cũng mang tính chất xã hội hóa * Xã hội hóa sản xuất là gì? Phân biệt tính xã hội của sản xuất với xã hội hoá sản xuất. + Tính xã hội của sản xuất, biểu hiện trong các hoạt động kinh tế giữa các cá nhân, các chủ thể kinh tế diễn ra đơn thuần theo phép số cộng chứ chưa quan hệ phụ thuộc hữu cơ với nhau. + Xã hội hoá sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá trìmh kinh tế – xã hội. (Nó ra đời và phát triển dựa trên trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, và phân công, hợp tác lao động phát triển. Phân công lao động làm cho mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các khu vực ngày càng chặt chẽ; sản xuất tập trung với những quy mô hợp lý, sản phẩm làm ra là kết quả của nhiều người, nhiều đơn vị, thậm chí của nhiều nước,v.v… Sự phát triển của lực lượng sản xuất thúc đẩy sự phân công và hợp tác lao động phát triển, phá vỡ tính chất khép kín, biệt lập của các chủ thể kinh tế, của các vùng, các địa phương và của các quốc gia thu hút chúng vào quá trình kinh tế thống nhất, làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau cả “đầu vào” và “đầu ra” của quá trình sản xuất ngày càng phát triển và chặt chẽ – tức xã hội hoá sản xuất phát triển cả chiều rộng và chiều sâu). * Về nội dung, xã hội hoá sản xuất thể hiện trên ba mặt: + Xã hội hoá sản xuất về kinh tế – kỹ thuật (xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất) + Xã hội hoá sản xuất về kinh tế – tổ chức (tổ chức, quản lý nền sản xuất xã hội cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở tùng thời kỳ) + Xã hội hoá sản xuất về kinh tế – xã hội (xác lập quan hệ sản xuất trong đó quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu) Xã hội hoá sản xuất được tiến hành đồng bộ trên cả ba mặt nói trên và có sự phù hợp giữa ba mặt đó là xã hội hoá sản xuất thực tế. Nếu chỉ dừng lại ở xã hội hoá sản xuất về tư liệu sản xuất, không quan tâm đến xã hội hoá các mặt khác của quan hệ sản xuất thì đó là xã hội hóa sản xuất hình thức. Tiêu chuẩn quan trọng nhất để xem xét trình độ xã hội hoá sản xuất là ở năng suất lao động và hiệu quả của nền sản xuất xã hội. 2.2. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ TIẾN BỘ XÃ HỘI 2.2.1. Tăng trưởng kinh tế 2.2.1.1. Khái niệm và vai trò của tăng trưởng kinh tế * Khái niệm tăng trưởng kinh tế

20. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 19 Tăng trưởng kinh tế, dưới dạng khái quát, là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời gian nhất định (thường tính cho một năm). GDP và GNP là cách tính của Liên hợp quốc. Cách tính này dùng để đánh giá kết quả kinh tế tổng hợp. – GNP là tổng giá trị tính bằng tiền của những hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản xuất trong nước hay nước ngoài). – GDP là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của mình (dù nó thuộc người trong nước hay người nước ngoài) So sánh GNP với GDP thì ta có: GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài. (thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài bằng thu nhập của người trong nước làm việc ở nước ngoài chuyển về nước trừ đi thu nhập của người nước ngoài làm việc tại nước đó chuyển ra khỏi nước ) Về mặt cơ cấu thì GNP và GDP giống nhau, đều là tổng giá trị cả khu vực sản xuất vật thể và phi sản xuất vật thể cộng lại. Nhưng chúng khác nhau ở chỗ trong GNP có cả phần giá trị trong nước và phần giá trị đầu tư ở nước ngoài đem lại, còn GDP chỉ tính phần giá trị trong nước. + Chỉ tiêu chính biểu hiện mức tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ tăng GNP hoặc GDP của thời kỳ sau so với thời kỳ trước theo công thức: hoặc Trong đó: GNP0 và GDP0 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội thời kỳ trước. GNP1 và GDP1 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội thời kỳ sau. Do có sự biến động của giá cả (lạm phát) nên ngưòi ta phân định ra GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế.. GNP và GDP danh nghĩa là tính theo giá hiện hành của thời điểm tính. GNP và GDP thực tế là tính theo giá cố định của một năm được chọn làm gốc. Vì vậy, có tăng trưởng kinh tế danh nghĩa và tăng trưởng kinh tế thực tế * Vai trò của tăng trưởng kinh tế Tăng trưỏng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia (%)100 0 01 × − GNP GNPGNP (%)100 0 01 × − GDP GDPGDP

21. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 20 + Tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất đầu tiên để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu.. Tăng trưởng kinh tế sẽ làm cho tiềm lực kinh tế của nhà nước tăng do đó mà chính sách giải quyết các vấn đề xã hội – trong đó có đói nghèo – được chú trọng hơn. Đồng thời tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng, đói nghèo sẽ bị đẩy lùi. + Tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng, phúc lợi xã hội tăng đó là điều kiện để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư như tăng tuổi thọ, giảm suy dinh dưỡng, giảm bệnh tật, phát triển giáo dục, văn hoá, thể thao, v.v.. + Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện tạo việc làm, giảm thất nghiệp (có điều kiện mở rộng sản xuất, tăng các ngành dịch vụ – thu hút lực lượng lao động) + Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để củng cố an ninh quốc phòng củng cố chế độ chính trị , tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội. + Việt Nam (nước chậm phát triển) tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển. Tuy nhiên thành quả của tăng trưởng kinh tế phải sử dụng công bằng, hợp lý mới có những tác dụng đó. Tăng trưởng kinh tế có vai trò quan trọng, song không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội như mong muốn. Nếu tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn nền kinh tế đến “trạng thái quá nóng”, lạm phát sẽ xảy ra, làm cho kinh tế xã hội thiếu bền vững. Tăng trưởng kinh tế quá thấp sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Do vậy, cần tăng trưởng kinh tế hợp lý, tăng trưởng hợp lý sẽ đảm bảo cho nền kinh tế ở trạng thái tăng trưởng bền vững. * Tăng trưởng kinh tế bền vững: Là sự tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong thời gian tương đối dài (khoảng 20 đến 30 năm, mức tăng bình quân từ 9% đến 10 % một năm) gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái và tiến bộ xã hội. 2.2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố, song chủ yếu gồm các nhân tố cơ bản là: * Nhân tố vốn + Vốn là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích luỹ lại và tài nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản được khai thác và sử dụng + Vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế Đó là yếu tố đầu vào của sản xuất, có vai trò rất quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Nếu mọi điều kiện không thay đổi thì đầu vào tăng tất kết quả sẽ tăng. Khi xem xét nhân tố vốn ảnh tới tăng trưởng kinh tế phải xem xét hiệu suất sử dụng vốn, cụ thể là tỷ lệ tăng đầu tư trên tỷ lệ tăng GDP phải thấp – được gọi là chỉ số ICOR (Investment Capital Output Ration ). Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng của GDP. Những nền kinh tế

22. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 21 thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với các chỉ số ICOR thấp, thường là tăng đầu tư 3% để tăng 1% GDP. * Nhân tố con người + Con người để tăng trưởng kinh tế phải là những người có sức khoẻ, có trí tuệ, có kỹ năng cao, có ý chí và nhiệt tình lao động và được tổ chức hợp lý. + Vai trò của nhân tố con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững bởi vì: – Tài năng, trí tuệ của con người là vô tận. Đây là yếu tố quyết định trong nền kinh tế tri thức. Còn vốn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn. – Con người sáng tạo ra kỹ thuật, công nghệ và sử dụng kỹ thuật, công nghệ, vốn để sản xuất. Nếu không có con người, các yếu tố này không tự phát sinh tác dụng. Muốn phát huy nhân tố con người phải có hệ thống giáo dục – đào tạo và y tế tốt. Đó cũng chính là sự đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. * Kỹ thuật và công nghệ Vai trò của kỹ thuật,công nghệ: Kỹ thuật tiên tiến và công nghệ mới, nhất là công nghệ cao là động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Đây là nhân tố cho phép tăng trưởng kinh tế và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Kỹ thuật và công nghệ tiên tiến tạo ra năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, lao động thặng dư lớn, tạo ra nguồn tích luỹ lớn từ nội bộ nền kinh tế nhanh và bền vững. * Cơ cấu kinh tế + Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống kinh tế quốc dân có vai trò quan trọng để tăng trưởng kinh tế. + Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. + Vai trò của cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại sẽ cho phép khai thác được thế mạnh của các thành phần, các vùng, các ngành nhờ đó mà phát huy được lợi thế và sức mạnh tổng hợp để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững * Thể chế chính trị và quản lý nhà nước Thể chế chính trị ổn định tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thể chế chính trị tiến bộ có khả năng hướng sự tăng trưởng kinh tế vào con đường đúng khắc phục được những khuyết tật của tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá (gây ô nhiễm môi trường, phân hoá giàu nghèo sâu sắc, sự phát triển chênh lệch quá lớn giữa các khu vực) Quản lý của nhà nước có hiệu quả sẽ đề ra được các chính sách hợp lý sử dụng và phát triển có hiệu quả các nhân tố vốn, con người, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng tích luỹ, tiết kiệm và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài (vốn, công nghệ…) để tăng trưởng kinh tế có hiệu quả.

23. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 22 2.2.2. Phát triển kinh tế 2.2.2.1. Khái niệm và sự biểu hiện của phát triển kinh tế *. Khái niệm: Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với sự hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống. *. Biểu hiện của phát triển kinh tế: Một là, sự tăng lên của GNP, GDP hoặc GNP và GDP tính theo đầu người, tức là sự tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số. Hai là, sự thay đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng của ngành dịch vụ và công nghiệp trong GDP tăng lên còn tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống, nhưng giá trị tuyệt đối của các ngành đều tăng lên. Ba là, chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư tăng, biểu hiện: + GDP, hoặc GNP trên đầu người tăng (nhờ phân phối hợp lý kết quả tăng trưởng, ổn định lạm phát, ngăn ngừa khủng hoảng) + Chất lượng sản phẩm cao để phù hợp với nhu cầu xã hội, nhu cầu con người ngày càng cao. + Giữ gìn môi trường trong sạch 2.2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế Phát triển kinh tế biểu hiện rõ rệt nhất ở sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mọi nhân tố tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời là nhân tố phát triển kinh tế. Nhưng phát triển kinh tế có nội dung rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Do đó ngoài các nhân tố tăng trưởng kinh tế, còn các yếu tố khác tác động đến sự phát triển kinh tế. Dưới dạng khái quát, sự phát triển kinh tế chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: * Các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất gồm: + Tư liệu sản xuất (Tư liệu lao động – máy móc, khoa học công nghệ; Đối tượng lao động – điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ) + Con người Các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất tạo thành các yếu tố đầu vào của sản xuất. Số lượng và chất lượng của yếu tố đầu vào quyết định đến số lượng, chất lượng của hàng hoá và dịch vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của các quốc gia. Công nghệ tiên tiến, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao, nếu được vận dụng phù hợp, sẽ sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào, tăng năng suất lao động, tạo ra hàng hoá có chất lượng cao và bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.Tuy nhiên nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất vẫn là con người dù khoa học- công nghệ có hiện đại đến đâu. Vì con người vừa tạo ra công nghệ mới vừa sử dụng công nghệ để tạo ra của cải vật chất. Do vậy đầu tư vào các lĩnh vực để phát huy nhân tố con người chính là đầu tư vào phát triển kinh tế.

24. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 23 * Những yếu tố thuộc về quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm ) + Quan hệ sản xuất ảnh hưởng đến phát triển kinh tế theo hai hướng: Một là, thúc đẩy phát triển kinh tế khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hai là, kìm hãm sự phát triển kinh tế nếu quan hệ sản xuất không có sự phù hợp. + Biểu hiện của quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: – Có chế độ và các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất phù hợp. – Các hình thức tổ chức quản lý kinh tế năng động, hiệu quả. – Các hình thức phân phối thu nhập công bằng, hợp lý, kích thích tính tích cực sáng tạo của người lao động… làm cho các nguồn lực của nền kinh tế được khai thác, sử dụng có hiệu quả, thì quan hệ sản xuất ấy thúc đẩy kinh tế phát triển * Những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng (chính trị, pháp luật, thể chế, tư tưởng, đạo đức…) Đặc điểm của sự tác động của kiến trúc thượng tầng: + Một là, các yếu tố khác nhau của kiến trúc thượng tầng có sự tác động khác nhau đến sự phát triển kinh tế, các yếu tố như chính trị, pháp luật, thể chế…tác động trực tiếp và mạnh mẽ hơn các yếu tố như tư tưởng, đạo đức. + Hai là, tác động của kiến trúc thượng tầng đến sự phát triển kinh tế diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy sự phát kinh tế nếu nó phù hợp hoặc kìm hãm sự phát triển nếu nó không phù hợp với hạ tầng cơ sở và những yêu cầu khách quan của cuộc sống. Ví dụ: những chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế nếu phù hợp sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. 2.2.3. Quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội 2.2.3.1. Tiến bộ xã hội * Tiến bộ xã hội là sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các quan hệ xã hội công bằng và dân chủ. * Những tiêu chí của sự tiến bộ xã hội: + Sự công bằng xã hội, mức sống của con người tăng, sự phân hoá giàu nghèo và sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng thấp, thất nghiệp ít hoặc không có, các loại phúc lợi xã hội, dân trí, v.v… tăng lên + Tiến bộ xã hội được thể hiện tập trung ở sự phát triển nhân tố con người. Liên hợp quốc dùng khái niệm chỉ số về phát triển con người (HDI -Human Development Index) làm tiêu chí đánh giá sự tiến bộ và phát triển của mỗi quốc gia. Chỉ số HDI được xây dựng với ba chỉ tiêu cơ bản là: – Tuổi thọ bình quân (số năm sống bình quân của mỗi người dân ở mỗi quốc gia từ khi sinh ra đến lúc chết).

25. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 24 – Thành tựu giáo dục (trình độ học vấn của người dân và số năm đi học bình quân của mỗi người dân tính từ tuổi đi học) – mặt bằng dân trí. – Mức thu nhập bình quân đầu người (GDP/người/năm) HDI là chỉ tiêu tổng hợp quan trọng đánh giá tiến bộ xã hội. 2.2.3.2. Quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội Phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. * Phát triển kinh tế là cơ sở vật chất cho tiến bộ xã hội. + Phát triển kinh tế tạo điều kiện tăng chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư (điều kiện ăn ở tốt hơn , đầu tư cho y tế, tăng, mở rộng các phúc lợi xã hội). + Phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất để giải quyết vấn đề đói nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội khác có hiệu quả hơn. + Phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất để đầu tư cho giáo dục đào tạo, nâng cao được dân trí * Tiến bộ xã hội lại thúc đẩy sự phát triển kinh tế hơn nữa. + Tiến bộ xã hội xác định các nhu cầu mới của đời sống xã hội, đòi hỏi nền kinh tế phải đáp ứng ( thúc đẩy kinh tế phát triển ) + Tiến bộ xã hội thể hiện ở mức sống của con người tăng lên, trình độ học vấn, dân trí tăng , công bằng xã hội tốt hơn…làm cho xã hội ổn định, khả năng lao động sáng tạo và nhiệt tình lao động của con người tốt hơn, thúc đẩy kinh tế phát triển hơn. Quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội suy đến cùng thực chất là quan hệ biện chứng giữa sự phát triển lực lượng sản xuất với sự phát triển quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Nói cách khác, đó là sự phát triển của hình thái kinh tế- xã hội. TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG 1. Tái sản xuất xã hội a. Một số khái niệm cần nắm vững: – Sản xuất: Là quá trình tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của con người, xã hội. – Khái niệm chung về tái sản xuất: Là quá trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng. – Tái sản xuất cá biệt: Là tái sản xuất diễn ra trong từng doanh nghiệp. – Tái sản xuất xã hội: Là tổng thể những tái sản xuất cá biệt trong mối liên hệ hữu cơ với nhau. – Tái sản xuất giản đơn: Là quá trình sản xuất được lặp lại và phục hồi với quy mô không đổi. – Tái sản xuất mở rộng: Là quá trình sản xuất được lặp lại và phục hồi với qui mô lớn hơn trước. Bao gồm: Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu.

26. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 25 Thực hiện tái sản xuất mở rộng phải theo cả hai khuynh hướng (chiều rộng, chiều sâu) trong đó tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, thể hiện trình độ cao hơn. b. Các khâu của quá trình tái sản xuất: Gồm 4 khâu: Sản xuất – phân phối- trao đổi- tiêu dùng. Mỗi khâu có vị trí khác nhau trong quá trình tái sản xuất đồng thời có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau.Trong đó: Sản xuất là điểm xuất phát trực tiếp tạo ra sản phẩm và có vai trò quyết định các khâu tiếp theo. Tiêu dùng là khâu cuối cùng là điểm kết thúc của quá trình tái sản xuất, tiêu dùng tạo ra nhu cầu và là mục đích của sản xuất. Phân phối và trao đổi là khâu trung gian, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất và tiêu dùng. c. Nội dung cơ bản của tái sản xuất xã hội * Tái sản xuất của cải vật chất Tái sản xuất của cải vật chất là tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong đó tái sản xuất tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tái sản xuất tư liệu tiêu dùng. Tái sản xuất tư liệu tiêu dùng có ý nghĩa quyết định tái sản xuất sức lao động – là bộ phận quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất). * Tái sản xuất sức lao động Tái sản xuất sức lao động phải được thực hiện cả về số lượng và chất lượng: + Số lượng là bổ sung sức lao động cho quá trình tái sản xuất. + Chất lượng là sự tăng lên về thể lực và trí lực qua các chu kỳ sản xuất. * Tái sản xuất quan hệ sản xuất Vì sao phải tái sản xuất quan hệ sản xuất? Đáp ứng yêu cầu của quy luật: quan hệ sản xuất phải phù hợp tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất (Tái sản xuất của cải vật chất và tái sản xuất sức lao động tức đã tái sản xuất LLSX vậy nên phải có QHSX thích ứng). Nội dung của tái sản xuất QHSX (quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối). * Tái sản xuất môi trường sinh thái + Vì sao phải tái sản xuất môi trường? Do tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm. + Nội dung của tái sản xuất môi trường: khôi phục nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường. d. Hiệu quả của tái sản xuất xã hội: Hiệu quả tái sản xuất xã hội: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự tiến bộ kinh tế xã hội. Hiệu quả kinh tế xã hội phải được thể hiện trên cả mặt kinh tế và xã hội.

27. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 26 + Mặt kinh tế: phản ánh quan hệ giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra bằng các chỉ tiêu số lượng. + Mặt xã hội: phản ánh tiến bộ xã hội, những biến đổi về xã hội. e. Xã hội hóa sản xuất Xã hội hóa sản xuất không đồng nhất với tính xã hội của sản xuất: Xã hội hóa sản xuất thể hiện tính liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá trình kinh tế xã hội, cácchủ thể kinh tế quan hệ chặt chẽ chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau còn tính xã hội của sản xuất – các quan hệ không phụ thuộc, chi phối nhau. Xã hội hóa sản xuất phải được thể hiện đồng bộ trên ba mặt: + Mặt kinh tế – kỹ thuật + Mặt kinh tế – tổ chức + Mặt kinh tế – xã hội 2. Tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội a. Tăng trưởng kinh tế + Tăng trưởng kinh tế có vai trò to lớn trong nhiều mặt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) + Muốn tăng trưởng kinh tế cần chú ý tới các nhân tố: Nhân tố vốn, nhân tố con người, kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý của nhà nước. b. Phát triển kinh tế: + Tăng trưởng kinh tế đi kèm với sự hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống, đó là phát triển kinh tế. + Phát triển kinh tế được biểu hiện trên ba mặt: Thu nhập thực tế của mội người dân tăng; thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại; chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện. + Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế- ba nhóm yếu tố sau: Những yếu tố thuộc lực lượng sản xuất, những yếu tố thuộc quan hệ sản xuất, những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng. c. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội + Sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các quan hệ xã hội, công bằng, dân chủ đó là tiến bộ xã hội + Biểu hiện của tiến bộ xã hội: Xã hội công bằng, mức sống tăng, dân trí cao. Nhân tố con người phát triển. + Tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế có mối quan hệ tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau: – Phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất cho xã hội tiến bộ. – Tiến bộ xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghiên cứu mối quan hệ này giúp chúng ta thấy được cơ sở và sự cần thiết phải tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.

28. Chương 2: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 27 CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Tái sản xuất là gì? Phân tích nội dung chủ yếu của tái sản xuất xã hội. 2. Tái sản xuất sức lao động thực trạng và giải pháp đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay? 3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng, phát triển kinh tế có ý nghĩa như thế nào đối với Việt Nam? 4. Thế nào là phát triển kinh tế? Nó biểu hiện ở những tiêu chí nào? Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế. 5. Trình bày mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội.

29. Chương 3: Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa 28 CHƯƠNG III: SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU SINH VIÊN CẦN NẮM VỮNG Sinh viên nắm được những vấn đề cơ bản của sản xuất hàng hóa: + Điều kiện ra đời và tồn tại, ưu thế của sản xuất hàng hóa so với kinh tế tự nhiên. + Các thuộc tính của hàng hoá, đặc biệt phạm trù giá trị hàng hoá. + Phương tiện môi giới trong trao đổi hàng hóa (tiền tệ -bản chất và chức năng). Các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa vận động và tác động như thế nào đến nền kinh tế? NỘI DUNG 3.1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, TỒN TẠI VÀ ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA 3.1.1. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá 3.1.1.1. Khái niệm sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán. Đó là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán. Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức nền kinh tế xã hội trong đó phổ biến và chủ yếu là sản xuất hàng hoá. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. 3.1.1.2. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá * Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Vì có sự phân công lao động xã hội nên mỗi người, nhóm người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm khác nhau dẫn đến kết quả: – Một là: Năng suất lao động tăng (do độ thuần thục của tay nghề, cải tiến máy móc, công cụ sản xuất) dẫn đến sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều, trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến. – Hai là: Sản phẩm tạo ra chỉ một vài thứ nhất định, những nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó, họ phải cần đến sản phẩm của nhau, trao đổi với nhau.

30. Chương 3: Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa 29 Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá, làm xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm. Tuy nhiên, nếu chỉ có phân công lao động xã hội thôi thì chưa đủ. Để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại còn phải có một điều kiện nữa. * Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất; tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định, do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Điều kiện này quyết định tính chất của sự trao đổi là trao đổi mua bán hàng hoá. (Sự tách biệt này trước hết do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định). Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hoá. Từ hai điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá ta thấy: phân công lao động xã hội, sản phẩm của người lao động sản xuất hàng hoá mang tính chất lao động xã hội vì sản phẩm của họ là để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhưng sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của họ lại mạng tính chất là lao động tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế nào lại là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Lao động tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với lao động xã hội. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá là mâu thuẫn giữa lao đông tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa. 3.1.2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá 3.1.2.1. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa * Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích để trao đổi chứ không phải để tiêu dùng cho người sản xuất ra nó, khác với sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội bộ của từng gia đình, từng đơn vị sản xuất. * Sản xuất hàng hóa có đặc trưng là cạnh tranh gay gắt. 3.1.2.2. Ưu thế của sản xuất hàng hóa: * Thúc đẩy sản xuất phát triển Mục đích của sản xuất hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thỏa mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Do vậy nhu cầu của thị trường càng lớn càng tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. * Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán do đó có sự cạnh tranh gay gắt. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động trong sản xuất kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ nhiều hàng hóa và thu lợi nhuận ngày càng nhiều. Vì lẽ đó mà cạnh tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. * Làm cho đời sồng vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao:

31. Chương 3: Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa 30 Do nhu cầu về mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và mua nguyên vật liệu cho sản xuất mà nền sản xuất hàng hóa làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển, từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. 3.1.2.3. Hạn chế của sản xuất hàng hoá: Mục đích của sản xuất hàng hóa là sản xuất để bán, người sản xuất quan tâm tới giá trị chứ không phải giá trị sử dụng, vì vậy có hiện tượng làm hàng giả, trốn thuế, phân hoá giàu- nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh thái, xã hội,v.v… 3.2. HÀNG HÓA 3.2.1. Hàng hoá và hai thuộc tính của nó 3.2.1.1. Hàng hóa là gì? * Khái niệm: Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. * Các dạng biểu hiện của hàng hóa: + Dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm… + Dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ… 3.2.1.2. Thuộc tính của hàng hóa: * Giá trị sử dụng của hàng hoá + Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người (khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, xã hội). Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng. Ví dụ, công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn… + Giá trị sử dụng của hàng hoá là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hoá học) của thực thể hàng hoá quyết định, do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Ví dụ: thuộc tính tự nhiên của nước là chất lỏng không màu, không mùi, không vị do vậy mà nó có thể dùng trong sinh hoạt, trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. + Giá trị sử dụng của hàng hoá được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học-kỹ thuật và của lực lượng sản xuất vì vậy khi xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao. + Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng cho xã hội,cho người khác chứ không phải cho người sản xuất trực tiếp ra nó. Giá trị sử dụng đến tay người tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hoá phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì hàng hoá của họ mới bán được.

32. Chương 3: Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa 31 + Trong nền sản xuất hàng hóa giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, người ta không trao đổi những vật phẩm không có giá trị sử dụng. * Giá trị của hàng hoá Để hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. + Giá trị trao đổi: là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Thí dụ: 1m vải = 5 kg thóc (tức 1 mét vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc) Tại sao vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, và hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định (1/5)? Vì giữa chúng có một cơ sở chung, cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng của vải là để mặc,giá trị sử dụng của thóc là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hoá cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hoá ấy. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hoá là cơ sở chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá. + Giá trị của hàng hoá: Là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị trao đổi mà chúng ta đề cập ở trên, chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, còn giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá, khi nào còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì những người sản xuất còn quan tâm tới giá trị. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử. * Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá: Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. + Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hoá. Ngược lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng không có giá trị sử dụng (tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở thành hàng hoá. + Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hoá thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất (vải mặc, sắt thép, lúa gạo…) Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá (vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó).

33. Chương 3: Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa 32 Thứ hai: Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian. – Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước. – Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ cũng phải chú đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. 3.2.2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá Hàng hoá có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó mà là do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt: Vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng). C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó. 3.2.2.1. Lao động cụ thể * Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. * Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động, kết quả lao động riêng. Những cái riêng đó là cơ sở để phân biệt các loại hàng hóa khác nhau (ví dụ lao động của người thợ may, thợ mộc, thợ nề là những loại lao động cụ thể khác nhau nó tạo ra giá trị sử dụng khác nhau của hàng hóa). Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. 3.2.2.2. Lao động trừu tượng * Là sự tiêu hao sức lao động (sức bắp thịt thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung. Các hình thức lao động cụ thể rất nhiều, rất khác nhau nhưng đều có một cái chung là sự tiêu hao sức lực của con người bao gồm cả thể lực và trí lực. * Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa tạo ra giá trị của hàng hóa. Vậy có thể nói giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hoá. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa. Tính chất tư nhân của lao động của người sản xuất hàng hóa biểu hiện: Mỗi người sản xuất hàng hóa sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là là quyền của họ vì vậy lao động đó mang tính chất tư nhân, lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. Tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa biểu hiện: Lao động của người sản xuất hàng hóa là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao

Kinh Tế Chính Trị (Political Economy) Là Gì? Các Cách Tiếp Cận Kinh Tế Chính Trị

Khái niệm

Kinh tế chính trị trong tiếng Anh là Political Economy.

Kinh tế chính trị là một nhánh liên ngành của khoa học xã hội tập trung vào mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân, chính phủ và chính sách công.

Các nhà kinh tế chính trị nghiên cứu cách các lí thuyết kinh tế như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản hoạt động trong thế giới thực. Về cơ bản, bất kì lí thuyết kinh tế nào cũng là một phương pháp được áp dụng để phân phối lượng tài nguyên hữu hạn theo cách có lợi cho số lượng cá nhân lớn nhất.

Theo nghĩa rộng hơn, kinh tế chính trị đã từng là thuật ngữ phổ biến được sử dụng cho kinh tế học hiện nay. Ngày nay, thuật ngữ kinh tế chính trị vẫn được sử dụng rộng rãi để mô tả bất kì chính sách nào của chính phủ có tác động tới nền kinh tế.

Các cách tiếp cận kinh tế chính trị

1. Nghiên cứu liên ngành

Cách tiếp cận liên ngành dựa trên xã hội học, kinh tế và khoa học chính trị để xác định cách thức chính phủ, hệ thống kinh tế và môi trường chính trị ảnh hưởng và tác động lẫn nhau.

Theo cách tiếp cận này, kinh tế chính trị quan tâm đến ba yếu tố phụ: mô hình kinh tế của các quá trình chính trị và sự liên kết giữa các yếu tố khác nhau, kinh tế chính trị quốc tế và tác động của các mối quan hệ quốc tế, vai trò của chính phủ trong phân bổ nguồn lực cho từng loại hệ thống kinh tế.

2. Kinh tế chính trị mới

Kinh tế chính trị mới không coi một hệ tư tưởng chính trị là một khuôn khổ phải được phân tích. Thay vào đó, kinh tế chính trị được nghiên cứu như là một tập hợp các hành động và niềm tin và tìm cách đưa ra các giả định rõ ràng mà tạo ra các cuộc tranh luận chính trị về sở thích xã hội.

Cách tiếp cận này kết hợp lí tưởng của các nhà kinh tế chính trị cổ điển và những tiến bộ trong phân tích ở lĩnh vực kinh tế và chính trị. Nó bác bỏ những ý tưởng cũ về các cơ quan, cấu trúc, lợi ích vật chất, nhà nước và thị trường.

3. Kinh tế chính trị quốc tế

Kinh tế chính trị quốc tế còn được gọi là kinh tế chính trị toàn cầu, là phương pháp phân tích mối liên kết giữa kinh tế và quan hệ quốc tế. Vì phương pháp này bắt nguồn từ cách tiếp cận liên ngành, nó được rút ra từ nhiều lĩnh vực học thuật bao gồm khoa học chính trị, kinh tế, xã hội học, nghiên cứu văn hóa và lịch sử.

Kinh tế chính trị quốc tế quan tâm chính đến cách các lực lượng chính trị như quốc gia, cá nhân và các tổ chức định hình cho các hệ thống thông qua sự tương tác kinh tế toàn cầu như thế nào và các hành động đó ảnh hưởng đến cấu trúc và kết quả chính trị ra sao.

(Theo investopedia)

Hằng Hà

Kinh Tế Chính Trị Quốc Tế Là Gì?

Định nghĩa một cách đơn giản, Kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu những vấn đề quốc tế không thể giải quyết được chỉ bằng những phân tích kinh tế, chính trị hoặc xã hội học đơn thuần. Kinh tế chính trị quốc tế là môn khoa học tập trung nghiên cứu những quan hệ phụ thuộc phức tạp chi phối các vấn đề quốc tế nổi bật nhất trong thế giới của chúng ta ngày nay.

Do những vấn đề quốc tế đương đại quan trọng không thể giải quyết được nếu chỉ dựa trên quan điểm của một môn khoa học độc lập hay bằng sự phân tích những chủ thể và hành động diễn ra ở một cấp độ cụ thể như cấp độ cá nhân, nhà nước hay hệ thống quốc tế; nên nhu cầu nghiên cứu Kinh tế chính trị quốc tế đang ngày càng tăng. Lĩnh vực nghiên cứu này giúp tháo bỏ những rào chắn chia cắt và cô lập những phương pháp phân tích truyền thống, áp dụng phương pháp nghiên cứu các vấn đề và sự kiện một cách toàn diện.

Trong chương này, mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc về nhân quyền sẽ được đề cập đến như là trường hợp nghiên cứu điển hình trong kinh tế chính trị quốc tế. Trường hợp nghiên cứu này sẽ mô tả mâu thuẫn cơ bản giữa mối tương tác năng động của hai mặt của đời sống mà chúng ta gọi là “xã hội và cá thể”, “chính trị và kinh tế”, hay “nhà nước và thị trường”, những giá trị của cuộc sống và những cách mà những giá trị và lợi ích đó ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa quốc gia và chính trị.

Kinh tế chính trị quốc tế vừa là quá khứ vừa là tương lai của khoa học xã hội. Là quá khứ bởi lẽ kinh tế chính trị quốc tế chính là sự quay lại nghiên cứu nguồn gốc của khoa học xã hội, trước khi hành vi xã hội của loài người bị phân tán thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập như kinh tế học, khoa học chính trị, xã hội học, lịch sử và triết học. Là tương lai bởi lẽ trong thế giới phức tạp ngày nay, các vấn đề xã hội quan trọng nhất trở thành vấn đề mang tính chất quốc tế hoặc đa quốc gia mà chỉ có thể được hiểu rõ nhất thông qua việc nghiên cứu tổng hợp dựa trên nhiều công cụ hoặc quan điểm, chứ không thể chỉ dựa vào một công cụ hay quan điểm duy nhất.

Trong thế giới học thuật phức tạp với nhiều môn học và sự tương tác giữa các môn học, Kinh tế chính trị quốc tế có thể được hiểu theo những quan điểm trước đây của Susan Strange như là:

…một phạm vi rộng mở và bao la, là nơi mà bất kỳ người nào quan tâm tới hành vi con người trong xã hội có thể tự do nghiên cứu. Không có hàng rào cũng như biên giới nào giam hãm những nhà sử học trong lĩnh vực lịch sử, những nhà kinh tế trong lĩnh vực kinh tế. Các nhà khoa học chính trị không có quyền đặc biệt nào để chỉ viết về chính trị, cũng như những nhà xã hội học chỉ viết về những mối quan hệ xã hội.[1]

Rowland Maddock định nghĩa kinh tế chính trị quốc tế theo một cách khác:

… kinh tế chính trị quốc tế không phải là một môn học đặc biệt và bị gò bó trong khuôn khổ của môn học với phương pháp luận đã được định sẵn. Thay vào đó kinh tế chính trị quốc tế là một tập hợp các vấn đề cần phải nghiên cứu và có xu hướng bị bỏ quên bởi những môn học đã tồn tại từ lâu sử dụng những công cụ có sẵn.[2]

Kinh tế chính trị quốc tế không thể thay thế cho những môn khoa học xã hội độc lập khác. Môn học này sẽ gắn kết các môn học đó vào một lĩnh vực rộng mở không rào cản bó buộc, nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của xã hội đầy phức tạp của chúng ta. Kinh tế chính trị quốc tế sẽ giúp chúng ta hiểu được thế giới của những ảnh hưởng lẫn nhau giữa con người với con người một cách toàn diện. Đây có thể là một tham vọng nhưng là cần thiết cho xã hội của chúng ta hôm nay và cho tương lai của những nhà lãnh đạo trong quá trình giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội.

Tại sao chúng ta phải nghiên cứu môn kinh tế chính trị quốc tế? Có ba lý do chính sau: đây là môn học thú vị, quan trọng và hữu ích.

Thứ nhất, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học thú vị. Samuel Johnson lập luận rằng “một người chán ghét kinh tế chính trị quốc tế thì có nghĩa là anh ta chán ghét cuộc sống”. Kinh tế chính trị quốc tế là toàn bộ cuộc sống. Nhiều hành động và sự tương tác lẫn nhau đã gắn kết loài người trên toàn cầu. Nghiên cứu môn học này là cơ hội để tìm hiểu những vấn đề thú vị nhất trên thế giới.

Thứ hai, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học quan trọng. Kinh tế chính trị quốc tế mở ra những trang đầu tiên của mỗi ngày bởi lẽ những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế ảnh hưởng đến tất cả chúng ta như là công dân của thế giới, là cư dân của các quốc gia dân tộc cụ thể, và là người tham gia hàng ngày vào hệ thống thị trường toàn cầu. Những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và điều quan trọng là chúng ta cần hiểu rõ những sự kiện đó để biết được chúng ta phải gắn kết và có thể gây ảnh hưởng đến các vấn đề toàn cầu như thế nào.

Thứ ba, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học hữu ích. Những người chủ các đơn vị tổ chức tư nhân hay nhà nước đều đang tìm kiếm những người lao động có khả năng suy nghĩ rộng và tư duy phê phán, là người hiểu rõ những hệ thống phức tạp và luôn vận động, những người coi trọng sự ảnh hưởng của các điều kiện xã hội và những giá trị thay thế. Nói tóm lại, các ông chủ cần những người hiểu được bối cảnh quốc tế của hoạt động hàng ngày của loài người. Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội giải quyết trực tiếp nhất những nhu cầu đó.[3]

Kinh tế chính trị quốc tế trên lý thuyết và trên thực tế

Kinh tế chính trị quốc tế là gì? Tại sao cần phải nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế? Và nên nghiên cứu môn này như thế nào?

Cuối cùng, từ ” kinh tế” ( economy) hay ” kinh tế học” ( economics) đề cập đến việc phân bố các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng khác nhau và giữa các cá nhân thông qua quy trình thị trường phi tập trung. Khi phân tích dưới góc độ chính trị hay kinh tế người ta thường xem xét cùng một câu hỏi, tuy nhiên phân tích dưới góc độ kinh tế thường ít tập trung vào những vấn đề quyền lực nhà nước và lợi ích quốc gia mà chú trọng nhiều đến những vấn đề doanh thu, lợi nhuận và lợi ích cá nhân. Kinh tế chính trị kết hợp cả hai cách này để có thể nắm bắt được bản chất cơ bản của xã hội một cách đầy đủ hơn.

“Quốc tế”, “chính trị” và “kinh tế” không tác động lẫn nhau trong một môi trường chân không. Môi trường văn hoá và xã hội phải được xem xét cùng với những giá trị của các chủ thể khác nhau. Những quá trình phát triển lịch sử của các vấn đề quan trọng cũng không thể bị bỏ qua. Vì thế, kinh tế chính trị quốc tế nhằm làm sang tỏ sự tương tác phức tạp của những con người thực trong thế giới thực với những thái độ, tình cảm và lòng tin của họ. Ở một góc độ nào đó, nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế là nghiên cứu cuộc sống hiện đại.

Mỹ – Trung đạt được thoả thuận thương mại nhưng xung đột về vấn đề nhân quyền

Tại Washington, sau một ngày đàm phán liên tục, Tổng thống Clinton và chủ tịch Giang Trạch Dân cuối cùng đã thoả thuận được một số hiệp định thương mại quan trọng nhưng dường như lại làm rộng thêm khoảng cách giữa hai cường quốc về vấn đề nhân quyền.

Trung Quốc đồng ý mua máy bay dân sự của Mỹ trị giá 3 tỷ đô la Mỹ và chấp nhận mở đường cho các công ty Mỹ tham gia cạnh tranh bán lò phản ứng hạt nhân cho Trung Quốc.

Qua những cuộc gặp gỡ cấp cao, ông Giang nổi lên như là một nhân vật lớn trên thế giới, chỉ huy một trong những đội quân mạnh nhất và một trong những nền kinh tế mạnh nhất và phát triển nhanh nhất trên thế giới. Ông Giang làm chủ sân khấu cùng với tổng thống Clinton một cách bình đẳng, trong khi vẫn đang phải chịu đựng những lời chỉ trích nhức nhối về vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc. Nhưng ông Giang vẫn nhận được sự kính trọng miễn cưỡng của Washington vì những áp lực mà ông này gây ra cho Washington [4].

John M.BroderTạp chí New York Times, 30/10/1997

Vấn đề thương mại và mậu dịch trong quan hệ hai nước khá phức tạp nhưng rất quan trọng. Tổng thống Bill Clinton phải chọn giữa hai lợi ích quốc gia trái ngược nhau. Lợi ích kinh tế của cả Trung Quốc và Mỹ sẽ được đảm bảo bằng việc cho phép hàng hoá Trung Quốc thâm nhập thị trường Mỹ, một hình thức tương tự như quy chế tối huệ quốc (MFN), mặc dù đôi khi ở Mỹ nó được gọi bằng cái tên “Quan hệ thương mại bình thường” (NTR)[5]. Tuy nhiên Trung Quốc đã từng vi phạm nhân quyền theo chuẩn mực của văn hoá phương Tây. Kể từ cao trào của Chiến tranh lạnh năm 1962, chính sách của Mỹ không dành quy chế tối huệ quốc cho những nước vi phạm các chuẩn mực về nhân quyền của Mỹ.[6]

Vì vậy vấn đề là liệu chính sách đối nội của Trung Quốc về nhân quyền có phải là nhân tố trong chính sách kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc hay không. Sự căng thẳng giữa lợi ích kinh tế của Mỹ và các nguyên tắc đạo đức của nước này đã gây nên mâu thuẫn giữa hai cường quốc – vấn đề mà tổng thống Mỹ Clinton và Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân đã nhiều lần tìm cách giải quyết thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp.

Để giải quyết vấn đề này, tổng thống Clinton và chủ tịch Giang đương nhiên trở thành chủ thể của kinh tế chính trị quốc tế. Họ phải đối mặt với vấn đề kinh tế quốc tế (thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ) nhưng cũng có dính líu tới chính trị quốc tế và chính trị nội bộ dựa trên những khác biệt văn hoá xã hội cơ bản giữa truyền thống nhân quyền ở Mỹ và Trung Quốc. Vấn đề chính trị của họ ở đây chính là làm thế nào để dung hoà lợi ích chung của hai bên giữa thương mại và quan điểm văn hoá nhân quyền đối lập nhau dù cho luật của Mỹ quy định hai vấn đề này phải gắn chặt với nhau. Tổng thống Clinton thừa nhận những tiến bộ của Trung Quốc trong một số lĩnh vực quan tâm, đó là điều kiện đạt được để có thể tuyên bố một số thỏa thuận kinh doanh giữa hai nước mà lâu nay chưa giải quyết được.

Khi xác định chính sách đối với Trung Quốc, tổng thống Clinton phải tính đến nhiều hình thức ảnh hưởng lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ, cũng như những ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Clinton cần xem xét những quan điểm khác nhau về những hành động đó và những cách thức khác nhau sẽ ảnh hưởng đến người dân, hai dân tộc và hệ thống quốc tế; coi trọng những nhân tố lịch sử và sự khác biệt văn hoá sâu sắc.

Nhưng cuối cùng, tổng thống Clinton cũng phải chọn giải pháp nới rộng đặc quyền thương mại MFN cho Trung Quốc nhằm thoả mãn một vài lợi ích kinh tế và chính trị, mặc dù Trung Quốc rõ ràng không đạt được tiến bộ nào trong vấn đề nhân quyền. Đây chỉ là một quyết định tạm thời cho vấn đề này, mỗi năm sẽ phải xem xét lại theo luật liên bang hiện hành. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa một bên là lợi ích kinh tế (tự do thương mại) và một bên là lợi ích quốc gia rộng hơn (cam kết lịch sử đối với quyền cá nhân con người) vẫn là vấn đề cơ bản. Khi một vấn đề quốc tế trở nên phức tạp và quan trọng mà không thể được xem như là một vấn đề đơn giản thuộc về kinh tế học, chính trị học, triết học hay xã hội học, khi đó vấn đề đó sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị quốc tế.

Kinh tế chính trị quốc tế giờ đây đang trở thành vấn đề thời sự. Chúng ta sống trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng, những vấn đề quan tâm hàng ngày đang trở thành những vấn đề toàn cầu. Khi sự phụ thuộc lẫn nhau tăng lên, những vấn đề kinh tế cũng trở thành những vấn đề chính trị và ngược lại.

Cách tiếp cận của kinh tế chính trị quốc tế đến khoa học xã hội là tổng hợp các phương pháp và quan điểm của kinh tế học, khoa học chính trị và xã hội học trên cơ sở hiểu rõ lịch sử, triết học cũng như đánh giá được tầm quan trọng của văn hoá. Sử dụng phương pháp tổng hợp này rất cần thiết, một phần do hiện nay các môn khoa học độc lập đang có xu hướng chỉ tập trung vào những yếu tố cụ thể của những vấn đề phức tạp, phần khác do những vấn đề trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau, các vấn đề có xu hướng vượt quá ranh giới tri thức của môn khoa học cụ thể.

Khi nghiên cứu sự phân công lao động, các học giả chỉ tập trung vào một giới hạn hẹp các phương pháp và những vấn đề. Điều này cho phép có sự chuyên biệt hoá tri thức, tuy nhiên lại dẫn đến sự mù quáng do chỉ dựa vào một mặt của một vấn đề đa hướng. Kinh tế chính trị quốc tế áp dụng những phương pháp và kiến thức của các môn khoa học độc lập và tập hợp lại thành một cách phân tích tổng hợp.

Kinh tế học vi mô: Một nhà kinh tế học vi mô sẽ nhìn vào chính sách thương mại ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của cá nhân người tiêu dùng, các nhà sản xuất và các nhà đầu tư; và những quyết định của họ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các thị trường khác nhau. Nhà kinh tế học vi mô có thể chỉ chú ý đến cá nhân nào thắng cuộc hay thua cuộc từ việc Mỹ cho Trung Quốc hưởng quy chế MFN, và cố gắng tính toán lợi nhuận thu được từ việc được hưởng quy chế đó sẽ làm tăng hiệu năng sản xuất và thương mại.

Kinh tế học vĩ mô: Một nhà kinh tế học vĩ mô sẽ xem xét ảnh hưởng tổng thể về mặt kinh tế của MFN đối với nước mình và các nước đối tác thương mại khác của mình. Nhà kinh tế học vĩ mô sẽ dự báo ảnh hưởng của chính sách MFN đến cán cân thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ; đến sản xuất, doanh thu, tỉ lệ tăng trưởng ở hai nước; cũng như những thay đổi trong thương mại với Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến các nước khác như Nhật Bản, Thái Lan.

Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ sẽ tính đến yếu tố chính trị nội bộ ảnh hưởng như thế nào đến chính trị quốc tế và ngược lại. Họ có thể xem xét việc các nhóm lợi ích như công đoàn, hiệp hội ngân hàng và tập đoàn đa quốc gia bị ảnh hưởng bởi quy chế MFN như thế nào, và sau đó cố gắng nghiên cứu các nhóm này sẽ tìm cách gây ảnh hưởng chính trị đối với tổng thống và quốc hội ra sao.

Quan hệ quốc tế: Các nhà khoa học chính trị lại thường nghiên cứu chính trị học diễn ra trên ba cấp độ: cấp độ cá nhân, cấp độ nhà nước và cấp độ hệ thống quốc tế. Các nhà khoa học chính trị chuyên về quan hệ quốc tế sẽ tập trung vào nhà nước quốc gia và bản chất của mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với điều kiện có tính đến bản chất của hệ thống quốc tế. Trong quan hệ quốc tế chúng ta có thể xem xét quy chế MFN ảnh hưởng như thế nào đến an ninh của Mỹ và Trung Quốc. Ví dụ Mỹ có thể tìm cách nâng cao an ninh quốc gia của mình bằng cách khuyến khích đẩy mạnh phong trào dân chủ ở Trung Quốc, điều này đòi hỏi chính phủ Trung Quốc phải tự do hoá các chính sách nhân quyền. Nền dân chủ ở Trung Quốc được cho rằng sẽ ít đe doạ đến lợi ích quốc gia của Mỹ hơn là một chính phủ Trung Quốc độc tài.

Tổ chức quốc tế: Các nhà khoa học nghiên cứu về các tổ chức quốc tế có thể sẽ chú ý đến mối tương tác kinh tế và chính trị trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra trong một môi trường phức tạp có nhiều chủ thể. Có những tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng tham gia vào vấn đề này cũng như một loạt các tổ chức phi chính phủ (NGOs) gây ảnh hưởng đến chính phủ hai nước và áp đặt những điều kiện cho cuộc đàm phán của hai bên.

Xã hội học: Một nhà xã hội học có thể sẽ quan tâm tới mối quan hệ giữa các tầng lớp xã hội tham gia như thế nào vào cuộc xung đột này. Liệu sự phát triển thương mại với Trung Quốc có vì lợi ích của tầng lớp lao động – giai cấp vô sản – ở Mỹ hay không? Hay điều đó sẽ chỉ đem lại lợi ích cho tầng lớp tư sản? Những vấn đề như chủng tộc, sắc tộc và giới có được tính đến trong vấn đề này hay không?

Nhân học: Một nhà nhân học sẽ tập trung vào những khác biệt văn hoá giữa Mỹ và Trung Quốc, văn hoá sẽ có vai trò như thế nào trong cuộc xung đột này. Mỹ xác định vấn đề nhân quyền như là quyền của các cá nhân trong khi Trung Quốc lại xem nhân quyền là quyền của cả nhóm hay của xã hội. Các nhà nhân học có thể cho rằng vấn đề này là sự xung đột văn hoá, hay giá trị văn hoá, chứ không phải là giữa các quốc gia hay giữa các nền kinh tế. Họ cũng xem yếu tố văn hoá có thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một giải pháp kinh tế hay chính trị nào.

Lịch sử: Nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc có thể chỉ ra rằng chính phủ đế quốc phương tây đã có một lịch sử lâu dài muốn gây ảnh hưởng đến chính sách của Trung Quốc – nói chung là không phải vì chính lợi ích của Trung Quốc. Sự phản ứng cứng rắn của Trung Quốc đối với chính sách MFN của Mỹ bắt nguồn từ những kinh nghiệm đau thương trong lịch sử. Mặt khác, nhà lịch sử ngoại giao của Mỹ có thể yêu cầu chúng ta phải nhìn lại chức năng chính của chính sách nhân quyền MFN – đó là để buộc chính phủ cộng sản Xô Viết hạn chế sự đàn áp đối với những người Do thái Xô Viết – và thành công tương đối của chính sách này có thể có đóng góp gì đối với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô.

Vì vậy, nguồn gốc kiến thức của kinh tế chính trị quốc tế là sự xóa bỏ những biên giới áp đặt nhưng mang tính truyền thống về tìm hiểu kiến thức và phân tích chính sách. Vì vậy kinh tế chính trị quốc tế vừa mới vừa cũ. Đây là môn khoa học mới do sử dụng phương pháp phân tích đa cấp liên ngành mà chỉ gần đây mới được kết hợp với những cấu trúc thể chế để cho phép và khuyến khích một cách có hệ thống những hành động này, dưới dạng các khóa học, các chuyên ngành và các chương trình đào tạo đại học trong kinh tế chính trị quốc tế.

Tuy nhiên, đây lại là môn học cũ bởi lẽ vào Thế kỷ 19-20, hiện tượng phổ biến trong giới học thuật là sự phân chia các môn khoa học xã hội thành những môn độc lập. Trước thời gian đó, việc chia nhỏ kiến thức thành những môn nghiên cứu chi tiết được xem là không cần thiết hoặc là không khôn ngoan. Sự nghiên cứu bao quát những vấn đề xã hội được đặt dưới một cái tên chung là kinh tế chính trị. Kinh tế chính trị quốc tế ngày nay là sự tiếp nối học thuật của phương pháp nghiên cứu không có giới hạn bắt đầu từ kinh tế chính trị hơn hai thế kỷ qua.

Mua bán thông tin đa chiều

Trong cuốn sách nổi tiếng của mình về toàn cầu hóa “Chiếc Lexus và cây ô liu” Thomas L.Friedman giải thích nhu cầu của công việc buộc ông phải bắt đầu suy nghĩ về thế giới theo một cách rộng và thống nhất như thế nào. Cách mô tả của Friedman trong cuốn sách đó chính là cách suy nghĩ theo lối của kinh tế chính trị quốc tế, tuy nhiên tác giả đã không bao giờ gọi như vậy.[9]

Friedman đã sớm thành thạo trong công việc gọi là “mua bán thông tin”. Trong thế giới tài chính, mua bán (arbitrage) là một hành động mua một hàng hóa nào đó ở một thị trường này và bán lại ở thị trường khác – lợi nhuận thu được từ việc tranh thủ những chênh lệch giá cả ở những thị trường khác nhau. Mua bán thông tin theo như cách Friedman thực hiện là khả năng kiếm lợi từ việc sử dụng những khái niệm và học thuyết từ một lĩnh vực học thuật (chẳng hạn lịch sử) để giải thích những lực lượng hoặc sự kiện trong lĩnh khác (như chính trị học hay kinh tế học)[10].

Theo như cách Friedman giải thích, mua bán thông tin là:

… giống như đeo một cặp kính mới và bỗng nhiên nhìn thế giới qua lăng kính bốn chiều. Tôi đã nhận ra những bài phóng sự mà trước đây chưa bao giờ tôi xem chúng như là những bài phóng sự. Tôi đã thấy bàn tay vô hình và những còng xích đã kìm hãm những nhà lãnh đạo và các dân tộc làm những việc mà trước đây tôi chưa bao giờ hình dung ra được[11].

Đây chính là một sự hổ thẹn mà Friedman đã tiên phong gắn cho một cái tên khá nặng nề – mua bán thông tin đa chiều – cho lối suy nghĩ rất thú vị và hữu ích bởi vì một thuật ngữ đã từng tồn tại và nắm bắt chính xác bản chất của điều ông đang làm: kinh tế chính trị quốc tế.

Kinh tế chính trị quốc tế không phải cặp kính 4 chiều của Friedman cho ta thấy rõ những mối liên kết bất ngờ nhưng cũng làm sáng tỏ hơn những mối quan hệ vốn dĩ rất mù mờ. Giống như bất kỳ một cặp kính mắt mới nào, phải mất một thời gian bạn mới quen được với kinh tế chính trị quốc tế, nhưng một khi bạn đã hài lòng với môn này, bạn sẽ không bao giờ lại có thể nhìn thấy thế giới theo cách cũ được nữa.

Những yếu tố cơ bản của Kinh tế chính trị quốc tế

Kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu các vấn đề theo phương pháp tiếp cận đa cấp liên ngành như vừa phân tích ở trên. Định nghĩa như vậy chưa thực sự rõ ràng chính xác. Susan Strange, người đầu tiên nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế hiện đại tại trường Kinh tế Chính trị Luân Đôn, đã định nghĩa về Kinh tế chính trị quốc tế rõ ràng hơn:

… kinh tế chính trị quốc tế xem xét các dàn xếp kinh tế, chính trị và xã hội ảnh hưởng đến hệ thống sản xuất, trao đổi và phân phối toàn cầu và tập hợp các giá trị phản ánh trong đó. Những dàn xếp đó không phải được quy định một cách rõ ràng cũng như không phải là kết quả ngẫu nhiên của cơ hội ẩn, mà là kết quả của những quyết định của con người được đưa ra trong bối cảnh các định chế do con người quy định và các bộ luật lệ tự ban hành.[12]

Những yếu tố trong nghiên cứu Kinh tế chính trị quốc tế chính là những yếu tố của cuộc sống, các định chế chính trị, kinh tế và xã hội tạo nên điều kiện sống cho chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu. Có những người giàu có hơn người khác hoặc cũng có những quốc gia mạnh hơn quốc gia khác. Những điều kiện này một phần là kết quả của các cấu trúc hoặc dàn xếp toàn cầu trong việc sản xuất, trao đổi và phân phối các nguồn lực kinh tế, chính trị và xã hội. Những cấu trúc kinh tế chính trị quốc tế hình thành một khuôn khổ hữu ích nghiên cứu các vấn đề kinh tế chính trị quốc tế.

Nhiều nghiên cứu của kinh tế chính trị quốc tế tập trung vào sự tác động lẫn nhau của hai định chế xã hội rất quan trọng đó là nhà nước và thị trường; bản chất mối tương tác của các định chế này trong hệ thống quốc tế (“luật chơi quốc tế”). Robert Gilpin đã định nghĩa kinh tế chính trị là “lĩnh vực nghiên cứu” phân tích các vấn đề nổi lên từ sự tồn tại song song và mối tương tác năng động giữa “nhà nước” và “thị trường” trong thế giới hiện đại”[13].

Nhà nước là nơi tập hợp các hành động và quyết định tập thể. Nhà nước thường ngụ ý đến những định chế chính trị của quốc gia dân tộc đương đại, một khu vực địa lý với hệ thống chính phủ tự trị và tương đối cố kết trải dài trên toàn khu vực đó. Quốc gia dân tộc là một thực thể hợp pháp có lãnh thổ và dân cư riêng, với một chính phủ có khả năng thực hiện chủ quyền.Ví dụ như Pháp có lãnh thổ của Pháp, người dân Pháp và chính phủ Pháp, và các chính sách của Pháp, phụ thuộc vào bối cảnh. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nhìn nhận nhà nước một cách rộng hơn, theo nghĩa đây là một phạm trù của những hành vi chính trị và tập thể diễn ra ở nhiều cấp độ. Liên minh châu Âu (EU) không phải là một quốc gia dân tộc, đó là một tổ chức các quốc gia dân tộc. Nhưng ở một mức độ nào đó, EU lại đưa ra những lựa chọn và chính sách ảnh hưởng đến toàn bộ nhóm các dân tộc và công dân của họ, thể hiện quyền sở hữu của một nhà nước.

Thị trường là nơi tập hợp các hành động và quyết định cá nhân. Thị trường có nghĩa là các định chế kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại. Thị trường là một phạm vi hành động của con người bị thống trị bởi những lợi ích cá nhân và bị quy định bởi sức mạnh cạnh tranh. Mặc dù một thị trường đôi khi là vị trí địa lý (chẳng hạn như Thị trường chứng khoán New York hay thị trường Pike Place ở Seatle), nhưng thông thường đó là quyền lực. Nghĩa là quyền lực của thị trường đã tạo động lực và điều kiện cho hành vi của cá nhân con người. Các cá nhân bị chỉ huy bởi động lực của lợi ích cá nhân để sản xuất và cung cấp các hàng hóa dịch vụ khan hiếm hoặc để tìm kiếm những sản phẩm mua bán hoặc những công việc lương cao. Họ bị điều khiển bởi sức mạnh cạnh tranh của thị trường nên phải sản xuất những sản phẩm tốt hơn, rẻ hơn và hấp dẫn hơn.

Mặc dù nhà nước và thị trường là những hệ thống tổ chức xã hội phức tạp, nhưng định nghĩa kinh tế chính trị như vậy sẽ dễ hiểu hơn. Xã hội chứa đựng cả những nhân tố nhà nước và thị trường phản ánh lịch sử, văn hóa và những giá trị của hệ thống xã hội.

Sự tồn tại song song của nhà nước (chính trị học) và thị trường (kinh tế học) tạo nên những mâu thuẫn cơ bản, hình thành nên đặc trưng của kinh tế chính trị. Nhà nước và thị trường không phải lúc nào cũng xung đột lẫn nhau, nhưng chúng thường chồng chéo lên nhau ở một mức độ thể hiện rõ sự xung đột đó. Những mâu thuẫn này là do những lợi ích và giá trị khác nhau có thể được giải quyết theo những cách khác nhau ở những thời điểm khác nhau, nhưng những mâu thuẫn cơ bản vẫn còn tồn tại và xuyên suốt lịch sử loài người. Sự tương tác giữa nhà nước và thị trường rất năng động, có nghĩa là sự tương tác đó thay đổi theo thời gian. Cụ thể là nhà nước tác động đến thị trường và ngược lại thị trường cũng ảnh hưởng đến nhà nước, thường xuyên thay đổi mô hình lợi ích và giá trị mà các nhà kinh tế chính trị phải nghiên cứu.

[7] Broder, “.S. and China”

Giáo Trình Kinh Tế Chính Trị Mác

Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.

Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:

Thứ nhất: Phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.

Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.

Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.

Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.

Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.

Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau.

Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hóa.

Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa Đặc trưng của sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.

Trong lịch sử loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự cung, tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong thời kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong kiến… Ngược lại, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.

Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội.

Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội. Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.

Ưu thế của sản xuất hàng hóa

So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn:

Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.

Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất… thúc đẩy sản xuất phát triển.

Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh… buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.

Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như phân hóa giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh thái, xã hội, v.v..

Quy luật giá trị Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa.

Nội dung của quy luật giá trị là:

Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.

Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.

Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Ở đây, giá trị như cái trục của giá cả.

Tác động của quy luật giá trị

Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:

– Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:

+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.

+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.

Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.

Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.

– Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.

Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm… nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.

Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.

– Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.

Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.

Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.

Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Quy luật cạnh tranh

Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.

Nội dung của quy luật cạnh tranh là:

Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dùng là một tất yếu khách quan, là yêu cầu thường xuyên đối với những người sản xuất hàng hóa.

Quy luật cạnh tranh xuất phát từ bản chất của nền sản xuấthàng hóa, của quy luật giá trị.

Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải thường xuyên năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao tay nghề, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế…Thực tế cho thấy, ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ, bảo thủ, kém phát triển.

Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây tổn hại đến lợi ích của tập thể, xã hội, cộng đồng như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp bản quyền, tung tin phá hoại uy tín đối thủ, hoặc cạnh tranh làm tăng sự phân hóa giàu nghèo hoặc tổn hại đối với môi trường sinh thái v.v..

Quy luật cung cầu

Cầu được hiểu là nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội về một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, cầu về một loại hàng hoá hay dịch vụ là lượng hàng hoá hay dịch vụ đó mà người mua dự kiến mua trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian nhất định.

Cung về một loại hàng hóa hay dịch vụ là tổng số hàng hóa hay dịch vụ đó mà các chủ thể kinh tế đưa ra bán trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm cả hàng hóa bán được và chưa bán được.

Cung do sản xuất quyết định, nhưng cung không phải lúc nào cũng đồng nhất với khối lượng sản xuất. Ví dụ: những sản phẩm sản xuất để tự tiêu thụ, hoặc không có khả năng đưa tới thị trường, thì không nằm trong cung. Lượng cung phụ thuộc chủ yếu vào khả năng sản xuất; số lượng, chất lượng các yếu tố sản xuất được đưa vào sử dụng; chi phí sản xuất; giá cả hàng hóa, dịch vụ; trong đó giá cả là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Giữa cung, cầu và giá cả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:

– Giá cả = giá trị thì trạng thái cung cầu ở thế cân bằng.

– Giá cả < giá trị trị thì cung ở xu thế giảm, cầu ở xu thế tăng.

– Cung < cầu thì giá cả có xu thế tăng.

– Cung = cầu thì giá cả ổn định tương đối.

Đó là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế hàng hóa. Cơ chế đó chính là quy luật cung cầu.

Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát

Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định. Quy luật này được thể hiện như sau:

Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá trong một thời kỳ nhất định được xác định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu thông của đồng tiền.

Trong đó:

– Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn vị tiền tệ.

-Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào lưu thông của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả của tất cả các loại hàng hóa lưu thông.

Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định, cho nên khi ứng dụng công thức này cần lưu ý một số điểm sau:

– Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu thông trong thời kỳ đó như: Hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán hoặc để bán trong thời kỳ sau; hàng hóa bán (mua) chịu đến thời kỳ sau mới cần thanh toán bằng tiền; hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác; hàng hóa được mua (bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ, chuyển khoản,…

– Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông lượng tiền dùng để ứng trước, để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau và lượng tiền mua (bán) hàng hoá chịu đã đến kỳ thanh toán.

Khi vàng và bạc được dùng làm tiền thì số lượng tiền vàng hay bạc làm phương tiện lưu thông được hình thành một cách tự phát. Bởi vì, tiền vàng hay tiền bạc (hoặc các của cải bằng vàng, bạc) thực hiện được chức năng là phương tiện cất trữ. Nếu như số lượng tiền vàng hay tiền bạc lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa thì việc tích trữ tiền tăng lên và ngược lại. Chẳng hạn, khi sản xuất giảm sút, số lượng hàng hóa đem ra lưu thông ít đi, do đó số lượng tiền đang trong lưu thông trở nên lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông, khi đó việc tích trữ tiền sẽ tăng lên.

Khi phát hành tiền giấy thì tình hình sẽ khác. Tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị, thay thế tiền vàng hay bạc trong chức năng làm phương tiện lưu thông, bản thân tiền giấy không có giá trị thực.

Trong chế độ tiền giấy bản vị vàng, một đồng tiền giấy chỉ là ký hiệu của một lượng vàng nhất định dự trữ trong quỹ dự trữ của nhà nước hoặc ngân hàng. Về nguyên tắc, bất kỳ lúc nào đồng tiền giấy cũng được đổi sang lượng vàng mà nó ấn định. Trong trường hợp này lượng tiền cần thiết cho lưu thông cũng tự điều tiết giống như trong chế độ tiền vàng. Tuy nhiên, thực tế không diễn ra đúng như vậy, nhìn chung lượng vàng dự trữ không đủ bảo đảm cho lượng tiền giấy đã được phát hành, khi đó lạm phát xảy ra. Hơn nữa, do chế độ bảo đảm bằng vàng đã không được thực hiện nghiêm túc, cuối cùng đã bị bãi bỏ, chuyển sang chế độ tiền giấy do nhà nước ấn định giá trị phát hành ban đầu không có vàng đứng đằng sau bảo đảm. Khi đó, đồng tiền được tung vào lưu thông và giá trị của nó thường xuyên bị biến đổi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau trong nền kinh tế, đặc biệt là yếu tố phát hành tiền: lượng tiền phát hành không phù hợp với lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Đồng thời, lượng tiền cần thiết cho lưu thông cũng thường xuyên biến đổi do giá trị của một đơn vị tiền tệ thường xuyên thay đổi.

Khi lượng tiền giấy phát hành ra cao hơn lượng tiền cần thiết cho lưu thông gọi là lạm phát; ngược lại, nếu lượng tiền giấy phát hành ra thấp hơn lượng tiền cần thiết cho lưu thông gọi là giảm phát.

Lạm phát bao giờ cũng đi đôi với việc giá cả của hầu hết hàng hóa đồng loạt tăng lên làm cho giá trị của mỗi đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm. Sở dĩ như vậy vì khi lượng tiền được phát hành vượt quá mức cần thiết làm xuất hiện tình trạng ứ đọng tiền tệ; người giữ tiền sẵn sàng cho vay tiền với lãi suất thấp hơn, sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn hơn để mua một đơn vị hàng hóa, làm cho hàng hóa bị khan hiếm, giá cả leo thang… Có thể nói, bề nổi của lạm phát luôn là tình trạng mức giá chung tăng lên, giá trị của đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm. Chính vì vậy, để đo lường mức lạm phát, người ta dùng chỉ số giá cả. Có hai loại chỉ số giá cả được sử dụng phổ biến trong thống kê kinh tế là chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng.

Căn cứ vào mức giá tăng lên người ta chia lạm phát ra thành lạm phát vừa phải (chỉ số giá cả tăng lên dưới 10% một năm), lạm phát phi mã (từ 10% một năm trở lên) và siêu lạm phát (chỉ số giá cả tăng lên hàng trăm, hàng nghìn phần trăm một năm hoặc hơn nữa).

Lạm phát nhẹ, vừa phải là biểu hiện sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế, kích thích sản xuất phát triển, kích thích xuất khẩu…Tuy nhiên, lạm phát phi mã, đặc biệt là siêu lạm phát, có sức tàn phá ghê gớm đối với nền kinh tế; nó dẫn tới sự phân phối lại các nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư: người nắm giữ hàng hóa, người đi vay được lợi; người có thu nhập và nắm giữ tài sản bằng tiền, người cho vay bị thiệt (do sức mua của đồng tiền giảm sút); khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản xuất kinh doanh, các hoạt động kinh tế bị méo mó, biến dạng, tâm lý người dân hoang mang…Siêu lạm phát gắn liền với khủng hoảng kinh tế – xã hội. Do đó, việc chống lạm phát cao là một trong những mục tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới.

Ngày nay, lý thuyết kinh tế học hiện đại còn phân biệt các loại lạm phát khác nhau như: lạm phát do cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, do mở rộng tín dụng quá mức… Dù cách phân loại có như thế nào đi chăng nữa thì nguyên nhân dẫn đến lạm phát vẫn là do sự mất cân đối giữa hàng và tiền do số lượng tiền giấy vượt quá mức cần thiết cho lưu thông.

Thị trường và chức năng của thị trường

Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra sự trao đổi và mua bán hàng hóa. Ví dụ: chợ, cửa hàng, sở giao dịch …

Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng thể tất cả các mối quan hệ cạnh tranh, cung – cầu, giá cả, giá trị… mà trong đó giá cả và sản lượng hàng hóa tiêu thụ được xác định.

Có thể phân loại thị trường theo nhiều cách khác nhau:

– Theo đối tượng giao dịch, mua bán cụ thể, có thị trường từng loại hàng hóa và dịch vụ như thị trường lúa gạo, thị trường dầu mỏ, thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán…

– Theo ý nghĩa và vai trò của các đối tượng mua bán, giao dịch, có thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường tư liệu sản xuất, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học – công nghệ, thị trường tư liệu tiêu dùng…

– Theo tính chất và cơ chế vận hành, có thị trường tự do, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (thị trường độc quyền mang tính cạnh tranh, thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền), thị trường tự do với sự điều tiết của chính phủ, thị trường độc quyền thuần tuý…

Theo quy mô và phạm vi của các quan hệ kinh tế, có thị trường địa phương, thị trường khu vực, thị trường trong nước, thị trường nước ngoài,…

Thị trường phát triển cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Đầu tiên trong sản xuất hàng hóa là thị trường sản phẩm, thị trường các tư liệu tiêu dùng, sau đó là thị trường tư liệu sản xuất, từ thị trường tư liệu sản xuất đến thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Đồng thời, khi quy mô các quan hệ kinh tế được mở rộng, thì thị trường cũng phát triển: từ thị trường địa phương, thị trường khu vực tới thị trường cả nước, sau đó là thị trường quốc tế; từ thị trường cạnh tranh không hoàn hảo tới thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh mang tính độc quyền, độc quyền mang tính cạnh tranh; từ thị trường không có sự điều tiết, tự do vô chính phủ, đến thị trường có sự điều tiết của nhà nước…

Mặc dù có nhiều loại, nhưng nhìn chung mọi thị trường đều có ba chức năng chủ yếu sau:

– Chức năng thừa nhận công dụng xã hội của hàng hóa (giá trị sử dụng xã hội) và lao động đã chi phí để sản xuất ra nó, thông qua việc hàng hóa có bán được hay không, và bán với giá như thế nào. Nếu hàng hóa bán được và bán với giá cả bằng giá trị, có nghĩa là xã hội không chỉ thừa nhận công dụng của nó, mà còn thừa nhận mức hao phí lao động để sản xuất ra nó là phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, và giá trị hàng hóa được thực hiện. Ngược lại, nếu hàng hóa không bán được, có nghĩa là, hoặc do công dụng của hàng hóa không được thừa nhận (có thể do chất lượng kém hoặc quy cách, mẫu mã không phù hợp…), hoặc do chi phí sản xuất cao hơn mức trung bình của xã hội (quá đắt) nên xã hội không chấp nhận. Nếu hàng hóa bán được, nhưng với giá cả thấp hơn giá trị, có nghĩa là xã hội chỉ thừa nhận công dụng của nó và một phần chi phí sản xuất ra nó.

– Chức năng cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng thông qua những biến động của nhu cầu xã hội về số lượng, chất lượng, chủng loại, cơ cấu các loại hàng hóa, giá cả, tình hình cung – cầu về các loại hàng hóa…

– Chức năng kích thích hoặc hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Trên cơ sở những thông tin thu được từ thị trường, người sản xuất và người tiêu dùng sẽ buộc phải có những ứng xử, điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với sự biến đổi của thị trường, nhờ đó sản xuất và tiêu dùng được kích thích hoặc hạn chế. Ví dụ, khi giá cả hàng hóa nào đó tăng lên, người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, còn người tiêu dùng sẽ hạn chế nhu cầu và ngược lại…

Giá cả thị trường

Cơ sở của giá cả là giá trị, nhưng trên thị trường không phải lúc nào giá cả cũng phù hợp với giá trị mà nó thường biến động, lên xuống xoay quanh giá trị do nhiều nhân tố ảnh hưởng, trong đó, cạnh tranh, cung – cầu và sức mua của đồng tiền là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp. Trên cơ sở đó, hình thành nên giá cả thị trường. Hay nói cách khác, giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hóa trên thị trường, hoặc là giá cả hàng hóa được thoả thuận giữa người mua và người bán trên thị trường. Đối với người kinh doanh, đó là giá kinh doanh, giá này phải bù đắp được các chi phí và có lãi cần thiết thì họ mới có thể tồn tại và phát triển.

Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì giá cả là một công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện việc quản lý, kích thích, điều tiết các hoạt động kinh tế theo những định hướng, mục tiêu nhất định như nhằm duy trì những cân đối của nền kinh tế, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân…

Nhà nước quản lý giá không phải bằng cách định giá trực tiếp (trừ mặt hàng nhà nước độc quyền), mà quản lý một cách gián tiếp chẳng hạn thông qua các công cụ kinh tế và pháp luật để tác động vào tổng cung và tổng cầu, tăng cường lực lượng dự trữ quốc gia nhằm bình ổn giá cả thị trường, đổi mới cơ chế dự trữ lưu thông…

Kinh Tế Chính Trị Là Gì? Các Phương Pháp Tiếp Cận Nghiên Cứu Kinh Tế Chính Trị

Học thuật

Kinh tế chính trị là gì?

Kinh tế chính trị (political economy): Cho đến mãi gần đây, kinh tế chính trị là cái tên chung để chỉ kinh tế học, vì các nhà  kinh tế không phải chỉ quan tâm đến các vấn đề kinh tế thuần túy, mà còn chú ý tới tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, hiện nay các nhà kinh tế chủ yếu quan tâm tới các vấn đề kinh tế và tự giới hạn mình vào những vấn đề lý thuyết kinh tế thuần túy. Vì vậy, từ kinh tế học được sử dụng nhiều hơn để chỉ các lý thuyết kinh tế hiện đại, còn từ kinh tế chính trị chủ yếu được dùng để chỉ các nghiên cứu cổ điển.

Các phương pháp tiếp cận kinh tế chính trị

Phương pháp lấy quyền lực là trung tâm: Đây là phương pháp tiếp cận của kinh tế chính trị cổ điển. Do coi quyền lực là vấn đề trung tâm của chính trị, nên họ cho rằng kinh tế chính trị nghiên cứu cách thức đạt được quyền lực trong nền kinh tế.

Phương pháp lấy xã hội làm trung tâm: Đây là cách tiếp cận của kinh tế chính trị Marx-Lenin và của chủ nghĩa công lợi. Các trường phái này xuất phát từ lợi ích xã hội để nghĩ về nhà nước.

Phương pháp lấy nhà nước làm trung tâm: Trường phái kinh tế chính trị tân cổ điển và kinh tế chính trị Keynes xuất phát từ cách xác định chính trị là khoa học về nhà nước, còn kinh tế hàm ý thị trường. Vì thế, họ cho rằng môn khoa học này nghiên cứu cân bằng quyền lực giữa thị trường và nhà nước. Nhà nước tìm cách kiểm soát nền kinh tế để đạt được những mục đích của mình.

Phương pháp lấy “chính nghĩa” làm trung tâm: Đây là cách tiếp cận của kinh tế chính trị hiện đại. Kinh tế chính trị hiện đại xuất phát từ quan điểm rằng có một hệ thống “quyền” gắn liền với thị trường, mà quan trọng nhất là quyền sở hữu. Chính trị có thể xác định và tác động tới các quyền đó. Vì thế, nhiệm vụ của kinh tế chính trị là nghiên cứu cách thức chính trị tác động tới các hệ thống quyền lợi đó. Kinh tế chính trị hiện đại có thể phân thành ba trường phái nhỏ hơn đó là : chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa khế ước hiện đại và chủ nghĩa Hegel.