Thuật Ngữ Kênh Là Gì / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Kênh Gt Là Gì Và Nghệ Thuật Quản Trị Kênh Phân Phối Truyền Thống

Việc làm Quản trị kinh doanh

1. Bạn đã thực sự hiểu kênh GT là gì

Khác xa với những trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị xa hoa tập trung trong những đô thị lớn thì Những “đứa con” của GT được biết đến đa dạng đủ bởi loại hình ở mọi địa điểm từ nông thôn đến thành thị. Đó là những quán hàng tạp hóa nơi bạn vẫn dừng lại để mua đồ gia dụng, những cửa hàng bán buôn ở trung tâm thị trấn hay những cửa hàng phân phối văn phòng phẩm cạnh trường học mà mỗi lần “quên một cái” bạn lại “chạy ra chạy vào”. Kênh GT khác với mô hình MT ( Thương mại hiện đại) ở đặc điểm là giải quyết nhu cầu nhanh của khách hàng trong một thời điểm với số lượng không quá nhiều sản phẩm, không cầu kỳ trong quá trình giao và nhận sản phẩm lúc thanh toán hay các khâu giao chuyển hàng hóa giữa nhà sản xuất và nhà phân phối.

Thường thì, hai bên sẽ trực tiếp làm việc với nhau để thống nhất về giá cả, hình thức vận chuyển. Vì phải trải qua nhiều khâu, cấp bậc rồi mới đến tay người tiêu dùng, các đại lý F1( Đại lý cấp 1) sẽ được mua sản phẩm với giá cả thấp nhất, tiết kiệm chi phí nhiều nhất. Đó là lý do vì sao khi mua hàng tại các cửa hàng buôn ( cơ sở giá bán với giá sỉ) giá cả của sản phẩm sẽ tốt hơn nhiều so với trường hợp khi mua trong siêu thị hay showroom.

Kênh GT là hình thức phân phối lâu đời nhất, xuất phát từ thời điểm con người bắt đầu diễn ra ý định trao đổi ngang giá. Do đó độ phủ sóng của các hình thức này trong người dùng cực kỳ phổ biến và phù hợp với đa dạng với đối tượng.

Trong thời đại công nghệ cao và xu hướng đô thị hóa ồ ạt, các trung tâm thương mại và hệ thống siêu thị theo yêu cầu và mức sống ngày càng tăng cao của con người, mô hình MT được các các Marketer và nhân viên kinh doanh tại các đô thị lớn thổi phồng về hiệu quả. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận được những nguồn lợi khủng mà mô hình thương mại hiện đại mang lại bởi đặc thù mang lại đa dạng sự lựa chọn cho người dùng bằng mô hình tập trung hàng hóa. MT cũng mang lại nhuận khủng cho những nhà dấn thân vào kênh này vì thu về lợi nhuận nhanh. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ vốn để tập trung vào những dự án siêu thị hay đầu tư vào những trung tâm thương mại ngay từ đầu.

Hơn nữa, mô hình phân phối MT còn thịnh hành bởi sàn thương mại điện tử – mô hình còn khá mới mẻ tại nhiều quốc gia và bắt buộc chi thêm nhiều chi phí cho chiến dịch Marketing của doanh nghiệp. Chính những điều này đã tạo ra không ít những ngần ngại cho những người yêu thích công việc kinh doanh nhưng không đủ vốn và độ “chịu chơi”.

Việc làm quản trị kinh doanh tại Hà Nội

Mặt khác, độ tập trung tại một khu vực nhất định của mô hình hiện đại gây không ít khó khăn cho nhu cầu mua bán “ngay và luôn” của khách hàng. Sự bất tiện này là nguyên nhân đầu tiên để kênh GT dù vẫn mang danh là mô hình “cổ hủ” trong thị trường vẫn vươn lên đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế lẫn giải quyết các nhu cầu về dịch vụ người dùng trong xã hội hiện đại.

2. Tìm hiểu sự khác của kênh GT với loại hình thương mại hiện đại?

Trong khi nếu lựa chọn kênh MT, các chuỗi siêu thị lớn hay các trung tâm thương mại sẽ tích hợp với nhiều bộ phận từ bên phận để mang sản phẩm trực tiếp về tay người tiêu dùng, đồng thời đầu tư mạnh về không gian như showroom, siêu thị nhằm đẩy mạnh quá trình trải nghiệm.

Đây cũng là lựa chọn tốt để những thương hiệu mới có điều kiện được trình diện khán giả với số lượng sản phẩm lớn. Thế nhưng điều này, cũng không đồng nghĩa là hạn chế đi độ phủ sóng của của những cơ sở do loại hình GT sở hữu. Thực tế, GT là mô hình lâu đời được sử dụng quen thuộc bởi nhiều đối tượng không giới hạn không gian.

Đối với những đại lý lớn đã có thương hiệu, sẽ không tốn tiền để bỏ ra nhằm mục đích PR đội nổi của đại lý đó mà các nhà sản xuất, đặc biệt những nhà sản xuất mới còn phải trực tiếp tìm đến đẩy nhanh được thương hiệu. Lý do đơn giản là vì: Mức giá ở đây rẻ hơn và phù hợp cho cả những người tiêu dùng có nhu cầu tiêu thụ lớn lẫn những đại lý cấp 2, cấp 3 lấy hàng và tiếp tục mô hình kinh doanh.

Tuy nhiên, ở mô hình này tồn tại khuyết điểm mà những chủ kinh doanh hiện đại cần lưu ý.

Thứ nhất, đó là khả năng tạo ra khoảng trống về giá cả trên thị trường lớn, nhà sản xuất khó có thể kiểm soát được chiết khấu và giá cả trên thị trường. Thực tế người tiêu dùng dễ nhận thấy là sự xung đột giá cả ở nhiều địa điểm bán hàng dù là một sản phẩm. Để có thể kiểm soát được được tất cả các tầng lớp, bắt buộc cần đến một đại lý quản lý nhiều. Bên cạnh đó, các chương trình khuyến mãi cho người khuyến mãi khó để kiểm soát.

3. Kênh phân phối GT bao gồm những hình thức nào?

3.1. Kênh phân phối GT cấp 1

Trong mô hình phân phối truyền thống đây được xem là hình thức bán hàng đơn giản nhất. Trong kênh này chỉ có 3 thành phần: nhà sản xuất, nhà bán lẻ và người tiêu dùng. Nhưng đây cũng là hệ thống mà hàng hóa được vận chuyển nhanh nhất từ vì chỉ thông qua con đường trực tiếp từ nhà sản xuất tới tay của người tiêu dùng, chi phí cũng rẻ nhất.

Kênh phân phối này áp dụng đối với các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu như: dầu gội, bánh kẹo, các mặt hàng về nông sản…phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, ăn uống, mặc hằng ngày. Một yêu cầu để kênh này phát triển nhất đó là số lượng nhà phân phối phải nhiều, phủ sóng trên tất cả các địa bàn trên cả nước.

Bên cạnh kênh phân phối cấp 1, kênh phân phối truyền thống vẫn còn một hình thức đáng chú ý khác trong kênh GT, đó là kênh phân phối cấp 2 chỉ giai đoạn trung gian là nhà bán sỉ và nhà bán lẻ. Dĩ nhiên, nhà sản xuất có thể tận dụng lợi thế là sự ảnh hưởng của các nhà bán sỉ uy tín để phát triển thương hiệu của mình nhanh hơn, những nhà bán lẻ nhỏ. Những nhà bán sỉ này đóng vai trò tương tự những “những siêu thị” trong mô hình phân phối MT, do đó giữa nhà sản xuất và các bên cần có chính sách khác nhau giữa các vị khách của mình để đảm bảo các bên không bị “xung đột” bởi các chế độ giá cả và lợi nhuận. Đối với kênh này, các chuyên gia khuyên rằng nên áp dụng cho các mặt hàng sản phẩm là hàng thời trang, các thiết bị điện tử thông thường…

3.3. Các kênh phân phối cấp 3

Đây là kênh thường là nơi ưu tiên tụ tập mua của người tiêu dùng. Các kênh trung gian này thêm một bộ phận nữa là nhà đại lý. Họ là đại diện cho những thương hiệu công ty, sản phẩm của những thương hiệu chính hãng. Đây cũng là địa điểm mà các nhà phân phối nhỏ lẻ nên lấy hàng ở đây để đảm bảo uy tín với một số lượng lớn.

4. Tìm việc làm trong phân phối GT và MT cùng chúng tôi

Các kênh phân phối dù hiện đại hay truyền thống phát triển chính là minh chứng cho sự lớn mạnh của ngành kinh doanh và tạo ra vô số những cơ hội việc làm cho ngành kinh doanh lẫn tiếp thị lẫn Logistic ( Vận chuyển, giao nhận).

Đây là 3 trong nhiều vị trí then chốt để đảm bảo rằng, sản phẩm từ nhà sản phẩm được cập bến người tiêu dùng nhanh và hiệu quả nhất. Hiện nay, với sự bùng nổ của ngành sản xuất, các doanh nghiệp khát nhân lực có trình độ với số lượng lớn song không phải tín đồ kinh doanh hay Marketing có thể tìm cho mình một kênh tìm kiếm việc làm phù hợp cho mình giữa biển việc làm bị Internet làm bão hòa.

Hi vọng rằng những thông tin trên về kênh GT là gì, đặc điểm của kênh MT sẽ của chúng tôi sẽ thật sự hữu ích với bạn.

Thuật Ngữ Ota Là Gì?

Trong ngành khách sạn nói riêng và du lịch nói chung, OTA viết tắt của Online Travel Agent là một thuật ngữ khá phổ biến. Vậy bạn có biết OTA là gì? OTA dùng để làm gì? Tại sao lại cần OTA?

Thuật ngữ OTA là gì?

OTA viết tắt của Online Travel Agent là một thuật ngữ được dịch sang tiếng Việt là đại lý du lịch trực tuyến, bán các sản phẩm dịch vụ du lịch đơn lẻ hoặc các gói dịch vụ như: phòng khách sạn, tour du lịch, vé máy bay, vé xe … cho các đơn vị cung cấp dịch vụ. Các giao dịch mua bán, được đặt qua các đại lý (qua các website, ứng dụng trung gian) và hình thức thanh toán có thể là thanh toán qua cho đơn vị trung gian hoặc trực tiếp nhà cung cấp dịch vụ khi sử dụng dịch vụ.

Nhà cung cấp dịch vụ phải trả phần hoa hồng cho đơn vị trung gian khi khách hàng đặt dịch vụ qua đặt qua các đại lý (qua các website, ứng dụng trung gian). Thông thường khi khách hàng mua gói dịch vụ như cả khách sạn và vé máy bay sẽ rẻ hơn nếu mua lẻ khách sạn + mua lẻ vé máy bay trên cùng một trang web hoặc ứng dụng trung gian (đại lý).

Mô hình OTA đã rất phát triển trên thế giới với những tên tuổi lớn như: chúng tôi chúng tôi , AirBNB, Traveloka,… Ở Việt Nam, các trang như: chudu24, mytour, chúng tôi chúng tôi Abay.vn… chính là các mô hình OTA tại Việt Nam.

Tại sao lại sử dụng OTA?

Theo thống kê đến năm 2016 trên thế giới có khoảng 3.5 tỷ người dùng internet. Theo số liệu báo cáo từ tổ chức We Are Social, tính đến tháng 01 năm 2018, dân số Việt Nam có 96.02 triệu người với tỉ lệ đô thị hóa là 35%. Báo cáo này cũng cho biết, tổng số người dùng Internet ở quốc gia hình chữ S vào tháng 01/2018 là 64 triệu người.

Việc triển khai 3G, 4G và các thiết bị di động ngày càng rẻ và được phổ cập giúp số lượng người tiếp cận và sử dụng internet ngày càng gia tăng. Và việc tìm kiếm thông tin trên internet là xu hướng tất yếu được hầu hết mọi người sử dụng internet quan tâm.

Tham gia vào các kênh OTA sẽ giúp gia tăng đáng kể cơ hội tiếp cận khách hàng trên khắp thế giới, không phân biệt khoảng cách. Mặc dù mỗi doanh nghiệp đều website riêng nhưng các doanh nghiệp như khách sạn vẫn cần hợp tác với các OTA. Bởi các đại lý du lịch trực tuyến là một kênh marketing hiệu quả cho khách sạn. Sự hiện diện tên khách sạn trên nhiều website như vậy sẽ tạo được ấn tượng về mặt thương hiệu và người dùng cũng sẽ dễ dàng đặt phòng hơn. Khách sạn cũng không bỏ ra nhiều chi phí để marketing online vì các OTA sẽ thực hiện việc này.

Những ưu điểm khi sử dụng kênh bán dịch vụ trực tuyến OTA

– Các trang quản trị OTA thường có phần thống kê khách truy cập giúp nhà quản lý có thể theo dõi, thống kê khách và đưa ra các chiến lược giá phù hợp hay từng thị trường mục tiêu.

Hạn chế khi sử dụng kênh bán dịch vụ trực tuyến OTA

– Người đăng ký, sử dụng phải biết hoặc đã được đào tạo thì mới có thể đăng ký, sử dụng được. – Người bán phải trả phần hoa hồng cho đối tác làm giảm doanh thu/lợi nhuận, tăng thêm chi phí của doanh nghiệp.

Kênh Otc Là Gì? Làm Thế Nào Để Quản Lý Tốt Kênh Otc?

Hiện nay các “Ông lớn” trong ngành Dược Phẩm đã và đang đầu tư vào việc chuyển đổi hệ thống kênh ETC sang kênh OTC. Theo khảo sát của Vietnam Report doanh nghiệp Dược Việt trong năm 2018 thì có 67% doanh nghiệp phát triển, mở rộng kênh OTC. Đây là một tín hiệu tích cực cho thấy các doanh nghiệp đang dần quan tâm nhiều hơn tới 50.000 nhà thuốc bán lẻ ngoài thị trường (nắm giữ tới 95% thị phần)

OTC à từ viết tắt của cụm từ Over The Counter trong ngành Dược thì đây có nghĩa là các loại thuốc có thể bán mà không cần kê đơn, chỉ cần hướng dẫn sử dụng thuốc của các dược sĩ ngay tại điểm bán. OTC cũng chính là một kênh bán lẻ của các nhà thuốc, quầy thuốc. Kênh OTC khác với kênh ETC – Kênh ETC (Ethical drugs) trong y học có nghĩa là các loại thuốc bán theo đơn bác sĩ, ngoài ra trong ngành dược kênh ETC còn có nghĩa là kênh đấu thầu tại sở và bệnh viện.

Tại sao các Doanh Nghiệp đang chuyển đổi từ kênh ETC sang OTC?

Lý do đầu tiên đó chính là vị thế cạnh tranh: từ sau năm 2013, quy định mới về chọn thuốc trúng thầu tại các bệnh viện lại ưu tiên thuốc “giá thấp”. Việc phát triển kênh OTC nhằm củng cố vị thế, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường trở thành ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp. Theo thống kê, năm 2016 tỷ trọng doanh thu của kênh OTC và ETC sấp sỉ là 80% và 20%. Đây là các con số dẫn đến sự chuyển đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây.

Lý do thứ ba lợi ích vượt trội của kênh OTC so với kênh ETC:

– Thu hồi vốn: kênh OTC sẽ rút ngắn được vòng quay tiền mặt còn kênh ETC thu hồi vốn khá chậm.

– Thị trường: đối với kênh OTC công ty hoàn toàn làm chủ việc phát triển thị trường, tăng mức độ ảnh hưởng trực tiếp của công ty tới các nhà thuốc, giảm tầm ảnh hưởng của các đại lý cấp I. Còn kênh ETC bị ảnh hưởng mạnh bởi đại lý cấp I

– Doanh Thu: kênh OTC giảm sự phụ thuộc doanh thu vào các điểm bán buôn, kênh ETC lại phụ thuộc nhiều vào các điểm bán.

Lý do cuối cùng: thói quen của người tiêu dùng Việt Nam, họ phụ thuộc nhiều vào các điểm bán hàng gần nhà, nhanh chóng và tiện lợi là điều mà người tiêu dùng đang muốn hướng đến thay vì họ phải chờ đợi thật lâu tại bệnh viện, thì các nhà thuốc là lựa chọn tốt nhất thời điểm bấy giờ.

Khó khăn và thách thức của kênh bán hàng OTC

Khó khăn đầu tiên mà các doanh nghiệp Dược gặp phải khi triển khai kênh bán hàng OTC chính là chi phí quản lý và chi phí bán hàng. Để bán hàng trực tiếp tới từng nhà thuốc yêu cầu một lực lượng Trình dược viên tiếp thị lớn. Điều này đặt ra hai khó khăn doanh nghiệp phải đối mặt, một là chi phí cho hoạt động của nhân viên bán hàng và giám sát viên, hai là quản lý đội ngũ này sao cho hoạt động hiệu quả. Đành rằng các doanh nghiệp có thể dùng phần giá trị đáng ra phải chiết khấu cho các cấp trung gian để bù đắp vào chi phí bán hàng, nhưng nếu không quản lý tốt đội ngũ nhân viên thị trường này, mọi nỗ lực của doanh nghiệp đều có thể trở thành con số 0.

Nhận thức được điều này, các doanh nghiệp bắt đầu rục rịch thuê giám sát viên và đưa ra rất nhiều các quy chế, quy định nhằm thắt chặt hơn việc quản lý. Nhưng đơn giản như vậy đã không tạo nên một thị trường nhiễu nhương, hỗn loạn và đầy cạnh tranh như ngày nay. Tình trạng Trình dược viên gian lận trong quá trình làm việc, gộp đơn, chia đơn, ăn chặn khuyến mại khiến cho việc chuyển đổi từ ETC sang kênh OTC không khác nào “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự can thiệp sâu vào quá trình quản lý nhân viên.

Phương án khắc phục nhanh nhất các doanh nghiệp Dược có thể áp dụng

Đối mặt với thách thức mới này, các doanh nghiệp Dược nên cân nhắc phương án áp dụng các giải pháp công nghệ trong quản lý kênh phân phối, giám sát Trình dược viên. Đây không chỉ là xu hướng chung của thị trường Dược phẩm mà còn là xu hướng tất yếu của toàn bộ thị trường phân phối.

Giảm thiểu quy trình bán hàng và quản lý thủ công

Nâng cao năng lực và hiệu quả của đội ngũ bán hàng

Tự động hóa quy trình bán hàng ngoài thị trường bằng đặt đơn hàng trên di động tại điểm bán

Kiểm soát tồn kho, phân tích độ phủ và hiệu quả trưng bày

Từ đó thâu tóm và theo dõi mọi hoạt động bán hàng tại các kênh phân phối, gia tăng hiệu suất kinh doanh và lợi nhuận.

Như vậy, phần mềm 3S ERP .iPHARMA vừa hay là công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển kênh OTC. Giám sát Trình dược viên được cho là vấn đề khó khăn nhất khi sử dụng kênh OTC thì nay được giải quyết trọn vẹn trong một giải pháp.

Thuật Ngữ Từ Hán Việt Là Gì

1. Quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán:

Các nhà nghiên cứu tiếng Việt ngày nay ai cũng nhắc đến những từ Việt gốc Hán, nhưng những định nghĩa và giới thuyết về lớp từ này vẫn chưa phải đã hoàn toàn được thống nhất. Lúc đầu nhiều người cho rằng từ Việt gốc Hán chỉ bao gồm các từ Hán-Việt.

Một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận là giữa người Việt và người Hán đã có sự tiếp xúc về văn hóa và ngôn ngữ từ lâu đời, từ khoảng hai ngàn năm trước.Do đó, nhìn chung, từ Việt gốc Hán là một hiện tượng đa dạng và phức tạp. Có thể phân các giai đoạn tiếp nhận ấy ra làm hai thời kì lớn:

a/- Giai đoạn trước đời Ðường:

Ngay từ đầu công nguyên, từ khi có sự đô hộ phương bắc, tiếng Hán đã được sử dụng ở Giao Châu với tư cách một sinh ngữ. Người Hán muốn đồng hóa tiếng nói của dân tộc Việt, nhưng tiếng Việt đã có một cơ sở vững vàng từ trước, đến giai đoạn này nó vẫn tiếp tục được kế thừa và tồn tại. Vì vậy, tuy trải qua hàng ngàn năm, người Việt chỉ tiếp nhận lẻ tẻ một số từ Hán thường dùng để lấp đầy vào chỗ thiếu hụt trong tiếng Việt như: buồng, buồn, muộn, mây, muỗi, đục, đuốc…Những từ được tiếp nhận giai đoạn này được gọi là những từ tiền Hán- Việt hay từ Hán cổ.

b/-Giai đoạn từ đời Ðường trở về sau:

Vào khoảng đời Ðường, người Hán đã mở nhiều trường học ở Giao Châu, các thư tịch Hán thuộc đủ các loại được truyền bá rộng rãi. Trước đó, một số thiền sư ấn Ðộ và người Hán cũng truyền giáo ở Giao Châu, một số kinh phật đã được dịch sang chữ Hán cũng được truyền sang Giao Châu.Qua thư tịch, lớp từ văn hóa biểu thị những khái niệm trưù tượng của các phái Nho, Phật, Lão trong tiếng Hán đã được được người Việt vay mượn có tính chất đồng loạt, hệ thống kèm theo sự cải biến về mặt ngữ âm và ý nghĩa để lấp đầy vào khoảng thiếu hụt trong ngôn ngữ của mình.Những từ tiếp nhận ở giai đoạn này được gọi là từ Hán-Việt .

Sau khi âm Hán-Việt đã được hình thành, trong tiếng Việt vẫn diễn ra sự biến đổi ngữ âm. Những biến đổi này có thể tác động vào một bộ phận từ Hán-Việt, nhất là những từ thuộc phạm vi sinh hoạt hằng ngày, làm cho những từ này mang những nét mới về ngữ âm, ngữ nghĩa, phong cách, khác với những từ Hán-Việt trước đây. Những từ này được gọi là từ Hán-Việt Việt hoá.

Như vậy kết hợp tiêu chí thời gian hình thành với tiêu chí hình thức ngữ âm và phong cách có thể phân những từ gốc Hán ra làm ba loại: Từ tiền Hán-Việt, từ Hán-Việt, từ Hán-Việt Việt hóa.

3.2.Tình hình vay mượn từ tiền Hán-Việt.

Từ tiền Hán-Việt là những từ gốc Hán được dân tộc ta tiếp nhận từ trước đời Ðường.

Từ đời Hán cho đến đời Ðường, tiếng Hán đã trải qua hai giai đoạn lớn (Thời kì âm Hán thượng cổ và thời kì âm Hán trung cổ), do đó ngữ âm của tiếng Hán biến đổi và phát triển khá nhiều. Sự biến đổi này có tác động lớn lao đến hệ thống ngữ âm từ gốc Hán trong tiếng Việt, bởi vì những từ Hán – Việt cổ đọc theo âm Hán Thượng cổ, những từ Hán – Việt lại dựa vào âm Hán trung cổ. Dựa vào thành quả nghiên cứu về âm Hán Thượng cổ, đối chiếu với những từ gốc Hán ở Việt Nam, những người có vốn Hán ngữ có thể xác định được những từ nào thuộc về lớp từ Hán-Việt cổ.

Về mặt ngữ âm, có thể hình dung lại quá trình biến đổi từ âm Hán Thượng cổ sang âm Hán-Việt cổ như sau: Trước thế kỉ thứ X trong hệ thống âm đầu tiếng Việt còn chưa có âm hữu thanh, vì vậy âm Hán-Việt cổ lúc đầu cũng mang âm đầu vô thanh, về sau chúng mới hữu thanh hóa. Như vậy những từ có âm đầu hữu thanh trong tiếng Việt ở thời kì ban đầu này chính là những từ gốc Hán.

Xét về mặt nội dung và phong cách, các từ Hán-Việt cổ do du nhập vào tiếng Việt từ rất sớm, tuyệt đại là những từ đơn âm tiết có đầy đủ hai mặt hình ảnh âm thanh và ý nghĩa, nên đã được Việt hoá rất sâu, có khả năng vận hành độc lập trong tiếng Việt và có một vị trí không khác gì những từ gốc Môn-Khme và gốc Tày-Thái trong tiếng Việt, vì vậy cho nên trong thực tế lâu nay nó vẫn được coi là những từ Việt. Theo quan điểm đồng đại, dựa vào chức năng và giá trị sử dụng, nhiều tác giả xem chúng là từ thuần Việt.

3.3. Từ Hán-Việt.

Từ Hán-Việt là những từ gốc Hán đời Ðường-Tống được biến đổi theo quy luật ngữ âm tiếng Việt. Do thông qua con đường sách vở là chủ yếu, những từ Hán-Việt được hình thành một cách có hệ thống, biểu đạt những khái niệm cần thiết cho việc giao tế lúc đó, nhất là trong ngôn ngữ viết. Xét về mặt nội dung, có thể thấy từ Hán Việt được sử dụng để biểu đạt những khái niệm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, kinh tế, khoa học, tôn giáo, v.v… Ví dụ:

– Chính trị: hoàng thượng, thượng, thượng đế, chế độ, chiếm đoạt, xung đột, chính thống, triều đình, …

– Văn hóa: khoa cử, văn chương, giảng giải, hiền triết,…

– Giáo dục: tú tài, cử nhăn, tiến sĩ, trạng nguyên, thám hoa,…

– Tôn giáo: Phật, nát bàn, hòa thượng, giáng thế, thiên đường,…

– Quân sự: chiến trường, giáp trận, xung đột, chỉ huy, ác chiến,.

– Tư pháp: Nguyên cáo, bị cáo, xử lí, tố cáo, án sát, ân xá,…

– Y học: thương tích, thương hàn, chướng khí, tiêm nhiễm,…

– Kinh tế: thương mại, thương khách, công nghiệp, thương nghiệp,…

Về mặt ngữ âm, có thể miêu tả quá trình hình thành ra âm Hán-Việt thành mấy điểm sau:

Về mặt phụ âm đầu: Trong tiếng Hán Trung cổ ở các thế kỉ VIII, IX có tất cả 41 âm đầu, trong đó có nhiều âm hữu thanh và âm tắc-xát, trong khi đó ở tiếng Việt thế kỉ X chỉ có 20 âm đầu, lại không có âm hữu thanh và âm tắc-xát, do đó, ở bước đầu tiên, các âm hữu thanh trong tiếng Hán phải chuyển thành âm vô thanh trong Hán-Việt và các âm đầu tắc-xát Hán phải chuyển thành tắc hay xát trong Hán-Việt. Kết quả là 41 âm đầu trong tiếng Hán Trung cổ nhập lại thành 20 âm đầu trong cách đọc Hán-Việt buổi đầu. Ðể bù lại và giữ thế cân bằng sẽ có sự bổ sung về thanh điệu. Các âm đầu vô thanh Hán sang vô thanh Hán-Việt sẽ có các thanh điệu bổng. Các âm đầu hữu thanh Hán sang vô thanh Hán-Việt sẽ có các thanh điệu trầm. Ngoài ra, trong nội bộ tiếng Việt cũng diễn ra sự biến đổi ngữ âm. Một số âm đầu vô thanh lại hữu thanh hóa, một số âm đầu khác được xát hóa hoặc tắc hóa: p > b; t > đ; s > t ; kj.>gi. Cuối cùng là ta có diện mạo hệ thống âm đầu từ Hán-Việt như ngày nay.

Về phần vần, cũng có những biến đổi đều đặn từ âm Hán Trung cổ sang âm Hán-Việt.

Chọn hệ thống ngữ âm Hán -Việt làm trung điểm để khảo sát hệ thống ngữ âm của những từ vay mượn gốc Hán ở các thời kì, có thể thấy đặc điểm ngữ âm của những từ vay mượn ở hai thời kì này như sau:

THV HV THV HV

Thông qua cứ liệu thống kê trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm ngữ âm của hai thời kì này:

-Có sự đối lập giữa âm hữu thanh và âm vô thanh giữa hai thời kì. Cụ thể:

+ Sự dối lập giữà / b / và / f /

Thí dụ: buồng – phòng; buông – phóng; bùa – phù.

+Sự đối lập giữa / m / và / v /.

Thí dụ: mùa -vụ; múa- vũ; muộn- vãn.

+Sự đối lập giữa / d/ và / tr /.

Thí dụ: đục -trọc , đuổi -truy ; đúng -trúng.

+Sự đối lập giữa / ia / và / i /.

Thí dụ: bia- bi ; lìa- li ; bìa- bì.

+ Sự đối lập giữa / ô / và / a / khi không đứng sau / / i / ngắn.

Thí dụ : nôm, nồm – nam, nộp- nạp, hộp – hạp.

+ Sự đối lập của /ă/ ngắn và /i/ khi đứng trước /ng/ và /k/ .

Thí dụ: tanh- tinh ; sanh – sinh.

+ Sự đối lập giữa / e / và / a / hay / ie /.

Thí dụ: kén- kiển ; quen- quán ; khoe- khoa ; phen- phiên; sen -liên.

+ Sự đối lập giữa / o / và / wo /.

Thí dụ: hòn- hoàn.

+ Sự đối lập giữa / ua / và / u /.

Thí dụ: chúa – chủ ; múa- vũ .

+ Sự đối lập giữa / ưa / và / ư /.

Thí dụ: lừa – lư ; chứa – trữ ; tựa – tự.

+ Sự đối lập giữa / ơ / , / ai / , / ơi / , / âi / và / i /.

Thí dụ: cờ- kì; thơ- thi ; mày- mi ; dời -di; vây – vi.

Vay mượn là một hiện tượng tất yếu trong quá trình giao lưu văn hóa, kinh tế giữa các dân tộc. Có một điều đáng nói là thái độ tích cực, chủ động của người Việt trong quá trình tiếp thu những từ ngữ của tiếng nước ngoài. Những từ ngữ gốc Hán khi đi vào tiếng Việt chẳng những biến đổi it nhiều về hình thức ngữ âm như vừa nêu mà còn có những cải biến về mặt ý nghĩa. ý nghĩa có thể được biến đổi theo nhiều hướng.

– Mở rộng ý nghĩa của từ Hán. Thí dụ:

Từ khám trong tiếng Hán có một nghĩa xem xét, khi đi vào tiếng Việt nó thêm nhiều nghĩa mới như xét, lục, khám, soát.

Từ thủ trong tiếng Hán có 2 nghĩa: 1/. Phần trên cơ thể của người (thủ cấp). 2/. Ðứng trước hết (thủ khoa, thủ lĩnh). Sang tiếng Việt, ngoài hai nghĩa trên, phát sinh thêm một nghĩa mới là phần trên của cơ thể gia súc ( thủ lợn, thủ bò).

– Thu hẹp nghĩa của từ Hán. Việc thu hẹp nghĩa có thể diễn ra dưới nhiều hình thức.

a). Giảm bớt các nghĩa được sử dụng trong tiếng Hán. Thí dụ:

Trong tiếng Hán từ nhất có mười hai nghĩa, khi đi vào tiếng Việt nó chỉ được sử dụng có hai nghĩa : số thứ tự và đều hay cùng.

Từ phong trào trong tiếng Hán có ba nghĩa: 1- Hướng gió và cữ thủy triều. 2- Gió lốc, gió xoáy giữa biển khơi.3- Sự việc diễn ra sôi nổi trong một thời kì nhất định. Khi đi vào tiếng Việt , chỉ có nghĩa 3- được giữ lại.

b). Chỉ bảo lưu nghĩa của một trong hai thành tố của từ được sử dụng trong tiếng Hán. Thí dụ:

Ðột ngột trong tiếng Hán có nghĩa là cao chót vót, cao ngất một mình, trong đó đột có nghĩa là bất chợt, ngột có nghĩa là cao mà phẳng. Trong tiếng Việt, chỉ có nghĩa của đột được giữ lại để chỉ sự bất ngờ, không có dấu hiệu gì báo trước.

c). Chỉ sử dụng nghĩa của tiếng Hán theo nghĩa hẹp. Thí dụ:

Tiêu hóa trong tiếng Hán có nghĩa là tiêu tan vật chất hóa ra chất khác. Thí dụ như chất đặc nấu chảy ra chất lỏng…Nói chung, có thể dùng cho mọi quá trình biến đổi của vật chất. Trong tiếng Việt, tiêu hóa chỉ được sử dụng để chỉ quá trình biến thức ăn thành chất nuôi dưỡng cơ thể của người và động vật.

– Chuyển sang nghĩa hoàn toàn mới. Thí dụ:

Từ ngoại ô trong tiếng Hán có nghĩa là cái bờ thành nhỏ đắp bằng đất để ngăn trộm cướp. Trong tiếng Việt ngoại ô chỉ khu vực bên ngoài thành phố.

Phương phi trong tiếng Hán có nghĩa là hoa cỏ thơm tho; trong tiếng Việt có nghĩa là béo tốt.

Khôi ngô trong tiếng Hán có nghĩa là cao to; trong tiếngViệt có nghĩa là mặt mũi sáng sủa, dễ coi.

Bồi hồi trong tiếng Hán có nghĩa là đi đi lại lại; trong tiếng Việt có nghĩa là trạng thái tâm lí bồn chồn, xúc động.

Kĩ lưỡng trong tiếng Hán có nghĩa là khéo léo, trong tiếng Việt có nghĩa là cẩn thận.

Ðáo để trong tiếng Hán có nghĩa là đến đáy, trong tiếng Việt có nghĩa là quá quắt trong đối xử, không chịu ở thế kém đối với bất cứ ai.

– Thay đổi sắc thái biểu cảm. Thí dụ:

Trong tiếng Hán , từ thủ đoạn có nghĩa là tài lược, mưu cơ. Trong tiếng Việt thủ đoạn mang nghĩa xấu, tương đương với cách thức lừa bịp. Phụ nữ, nhi đồng trong tiếng Hán mang sắc thái trung tính, sang tiếng Việt nó diễn đạt khái niệm mang sắc thái dương tính .

Sự thay đổi sắc thái biểu cảm có thể gắn liền với sự thay đổi các nét nghĩa trong ý nghĩa biểu niệm. Thí dụ:

Tiểu tâm trong tiếng Hán có nghĩa là cẩn thận, chú ý ( sắc thái dương tính). Trong tiếng Việt có nghĩa là lòng dạ nhỏ mọn, hẹp hòi (sắc thái âm tính).

Lợi dụng trong tiếng Hán có nghĩa là đồ vật tiện dùng hay sử dụng đồ vật sao cho có lợi (trung tính). Trong tiếng Việt có nghĩa là dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để mưu cầu quyền lợi riêng không chính đáng ( sắc thái âm tính)

Về mặt phong cách, từ tiền Hán-Việt do được du nhập sớm nên hầu hết có nội dung biểu đạt những khái niệm cụ thể và được Việt hoá rất sâu ( như: buồng, bình, đục, đuốc mây, mùa, mù, đúng,…). Từ Hán-Việt do được du nhập muộn hơn, khi tiếng Việt đã có những từ biểu thị các sự vật cụ thể thuộc nền văn minh vật chất, cho nên phần lớn chúng được sử dụng để biểu thị những khái niệm trừu tượng thuộc lớp từ văn hóa và được Việt hóa chưa sâu. Trong tiếng Việt chúng mất khả năng sử dụng độc lập, chỉ được sử dụng với tư cách như những yếu tố cấu tạo từ. So sánh từ cỏ và thảo, miệng và khẩu, mặt và nhan…có thể thấy rõ điều đó. Do đó, để hiểu được từ Hán-Việt , người Việt thường đặt nó vào trong các chùm quan hệ. Thí dụ:

Thảo > thảo mộc, thu thảo, thảo đường, thảo khấu, thảo dã,…

Hòa > hòa hiếu, hòa bình, bất hòa, hòa hoãn, hiền hoà,…

Về mặt cấu tạo, từ đa tiết Hán-Việt do phần lớn là mượn từ tiếng Hán nên được cấu tạo theo ngữ pháp Hán. Trong các kết cấu chính phụ, yếu tố phụ bao giờ cũng được đặt trước. Thí dụ:

+ Ðịnh tố + danh từ. Thí dụ : chính phủ, thủ pháp, thiên tử. thủy điện, ngoại quốc, độc giả, …

+ Bổ tố + động từ. Thí dụ: cưỡng đoạt, độc lập, độc tấu, bi quan, ngoại lai, lạm dụng, kí sinh,…

Một số lớn từ Hán-Việt cũng được cấu tạo theo kết cấu đẳng lập.Thí dụ:

+Danh từ +danh từ. Thí dụ: mô phạm, quy củ, nhân dân, phụ nữ, thư tịch, quốc gia,…

+Tính từ +tính từ. Thí dụ: hạnh phúc, phú quý, khổ sở, cơ hàn, phong phú, trang nghiêm thích hợp,…

+Ðộng từ +động từ . Thí dụ: tiếp nhận, tàn sát, chiến đấu, thương vong, đả phá, giáo dưỡng,…

Có điều cần chú ý là những từ Hán-Việt kiểu này ít có thể đảo vị trí giữa các yếu tố như những từ thuần Việt .

Ngoài ra trên cơ sở những yếu tố Hán-Việt này, hàng loạt những từ mới sau đó đã được tạo ra. Người Việt có thể kết hợp yếu tố Hán-Việt với yếu tố thuần Việt để tạo ra từ mới. Thí dụ: binh lính, cướp đoạt, đói khổ, súng trường, kẻ địch, tàu hoả,…

3.4. Từ Hán Việt hóa.

Từ Hán Việt Việt hóa là những từ được hình thành trên cơ sở sự biến đổi về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và phong cách của những từ Hán-Việt. So với những từ Hán-Việt, những từ Hán Việt Việt hóa mang ý nghĩa cụ thể hơn. So sánh: can và gan, đình và dừng , hoạvà vẽ.

Có thể nhận thấy sự biến đổi ngữ âm từ âm Hán-Việt sang âm Hán-Việt Việt hoá như sau:

Biến đổi k > g

Biến đổi đ > d.

Biến đổi b > v.

Biến đổi h, w > v .

Biến đổi s > th .

– Về phần vần.

Những nguyên âm hẹp có khuynh hướng chuyển sang các nguyên âm rộng. Cụ thể, âm /i/ > /e/ , /iê/ > /ê/ , /ê/ > /e/ ,…

Chú ý: Từ Hán-Việt cổ và từ Hán Việt Việt hóa được hình thành từ hai điểm xuất phát khác nhau và ở vào hai thời điểm khác nhau nên không thể có hiện tượng một từ Hán vừa có âm Hán-Việt cổ, lại vừa có âm Hán-Việt Việt hóa. Như vậy là ở Việt Nam, chỉ xảy ra hiện tượng song tồn giữa a/. Từ Hán-Việt cổ và từ Hán-Việt. b/. Từ Hán-Việt và Hán-Việt Việt hóa.

Các từ Hán-Việt cổ và từ Hán Việt Việt hóa có đặc điểm chung là đã được Việt hóa hoàn toàn về các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và phong cách, giống với từ gốc bản địa, chúng có thể hoạt động độc lập trong việc cấu tạo từ và câu. Chính vì vậy có tác giả xếp chúng vào cùng một loại từ gốc Hán không đọc theo âm Hán-Việt hay từ thuần Việt.

Tóm lại, những từ gốc Hán trong tiếng Việt chiếm số lượng rất lớn và giữ vai trò quan trọng trong việc biểu đạt tư tưởng, tình cảm của người Việt. Tuy nhiên cần chú ý sử dụng đúng chỗ, đúng lúc mới có thể phát huy được tác dụng to lớn của chúng.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn