Thuật Ngữ Ict Chỉ Nội Dung Nào / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Ict Là Gì? Vai Trò Và Ý Nghĩa Của Thuật Ngữ Ict

1. ICT là gì?

ICT là viết tắt của cụm từ tiếng Anh Information and Communication Technology, từ này dùng để chỉ ngành công nghệ thông tin và truyền thông. Nó bao gồm các phương tiện kỹ thuật dùng để xử lí thông tin và hỗ trợ liên lạc cả về đường truyền mạng và sự kết nối với các phần mềm. Bên cạnh đó, ICT còn là thuật ngữ để nói về các phương tiện được sử dụng để xử lý thông tin, chia sẻ âm thanh và hình ảnh như điện thoại, phương tiện truyền thông, xử lý âm thanh, truyền tải mạng và chức năng giám sát.

Công nghệ thông tin và truyền thông đang trở thành một trong những ngành rất hot hiện nay. Mọi người vẫn thường quen thuộc với cụm từ IT (Information Technology-Công nghệ thông tin) hơn là ICT. Tuy nhiên, IT chỉ là một nhánh trong ICT mà thôi.

2. Vai trò của ICT trong đời sống xã hội

ICT đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các quốc gia. ICT đồng thời cũng làm thay đổi cách thức giao tiếp giữa các cá nhân và tổ chức với nhau. Ví dụ các cá nhân có thể liên lạc với nhau thông qua các phần mềm kết nối Internet thay vì các cuộc gặp trực tiếp. Các cuộc họp có thể diễn ra từ xa, nhiều thành viên ở các quốc gia khác nhau đều có thể dễ dàng tham gia cuộc họp chứ không nhất thiết phải tập trung ở một địa điểm cụ thể.

ICT cũng làm đang dần làm thay đổi cuộc sống sinh hoạt của con người. Các thiết bị thông minh, robot đang giúp con người thực hiện nhiều công việc một cách tiện lợi, dễ dàng. Ví dụ một con robot thông minh có thể giúp bạn làm hết tất cả công việc nhà, từ việc dọn dẹp nhà cửa, đến việc rửa bát, giặt quần áo,…

Con người ngày càng trở nên “nhàn hạ” nhờ những thiết bị thông minh này.

ICT (Công nghệ thông tin và truyền thông) cũng có đóng góp lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế, tăng năng suất và hiệu quả làm việc, từ đó cải thiện doanh thu và lợi nhuận.

Tuy nhiên, ICT cũng có những hạn chế nhất định, như là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, các quốc gia dẫn đến sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn. Những nước càng phát triển thì sự đầu tư về công nghệ thông tin và truyền thông càng nhiều, từ đó dẫn đến nền kinh tế càng phát triển, đất nước đó sẽ ngày càng giàu có hơn. Những nước kém phát triển, không có điều kiện để đầu tư về ICT thì lại càng nghèo bởi không có sự hỗ trợ của công nghệ trong phát triển kinh tế.

3. Vai trò của ICT đối với doanh nghiệp

Doanh nghiệp ngày càng coi trọng những đóng góp to lớn mà ngành ICT mang lại. Ứng dụng sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông vào hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều khoản chi phí, thời gian, công sức. Máy móc, thiết bị hiện đại giúp con người làm việc nhanh chóng hơn, độ chính xác cao hơn. Mọi quy trình sản xuất trong doanh nghiệp đều được tự động hóa, tiết kiệm được sức người và giảm chi phí nhân công cho doanh nghiệp.

Máy móc, thiết bị hiện đại cũng giúp doanh nghiệp kiểm soát và lưu trữ dữ liệu một cách khoa học. Nhờ vào công nghệ hiện đại mà doanh nghiệp có thể sản xuất được nhiều sản phẩm mới, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và bao bì đóng gói đẹp mắt của người tiêu dùng.

4. Mặt tiêu cực của ICT

Sự phát triển của ICT đã tạo nên sự thay đổi lớn trong cuộc sống của con người. Bên cạnh những lợi ích mà nó mang lại thì sự phát triển của ICT cũng có những mặt hạn chế nhất định.

Nhiều thành phần trong xã hội với ý đồ xấu đã lợi dụng sự phát triển này để thực hiện những phương thức phạm tội mới như hacker, xâm nhập máy tính, thiết bị cá nhân để lấy thông tin người dùng, thực hiện những vụ trộm tài sản từ những thông tin cá nhân đó.

Sự phát triển của ICT cũng khiến con người trở nên lười biếng và phụ thuộc hơn. Con người ngày càng ỷ lại vào các thiết bị hiện đại như robot giúp làm việc nhà. Mỗi ngày chúng ta thường dành rất nhiều thời gian cho mạng xã hội như Facebook, Youtube cho những việc vô bổ mà không tận dụng khoảng thời gian đó cho gia đình, bạn bè hay nỗ lực thực hiện mục tiêu ý nghĩa hơn trong cuộc sống.

Nhìn chung, cái gì cũng sẽ có hai mặt của nó. Con người cần phải tỉnh táo để sử dụng ICT một cách hiệu quả, không nên quá lạm dụng để rồi làm mất đi những giá trị chân quý hơn.

5. ICT Index là gì?

ICT Index hay còn gọi là chỉ số ICT, là thước đo mức độ phát triển về công nghệ thông tin và truyền thông trong các lĩnh vực ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, chỉ số ICT Index được chia làm các cấp độ:

ICT Index của Tỉnh – Thành: Chỉ số về độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT của Tỉnh – Thành. (Bao gồm 2 nhóm chỉ số: hạ tầng và ứng dụng)

ICT Index của Bộ – Ngành: Chỉ số về độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT của Bộ-Ngành. (Bao gồm 2 nhóm chỉ số: hạ tầng và ứng dụng)

ICT Index của Doanh nghiệp: Chỉ số về năng lực sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực CNTT-TT của Doanh nghiệp. (Bao gồm 2 nhóm chỉ số: kết quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh)

Nội Dung Cơ Bản Môn Kỹ Thuật Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật

36209

1.1 Văn bản quy phạm pháp luật 1.2 Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật

II. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT

2. Khái niệm hoạt động xây dựng văn bản pháp luật 3 Đối tượng nghiên cứu của môn học

1. Tính chất của hoạt động xây dựng văn bản pháp luật 2. Ý nghĩa của hoạt động xây dựng văn bản pháp luật

I. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG VĂN BẢN NHÀ NƯỚC

1. Thẩm quyền ban hành văn bản van bản quy phạm pháp luật

1.1.Văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ở Trung ương ban hành:

1.1.1. Văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành

1.1.2. Văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành

1.1.3. Văn bản quy phạm pháp luật do Chủ tịch nước ban hành

1.1.4. Văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành

+ Nghị định của Chính phủ + Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

1.1.5. Văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành 1.1.6. Văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao ban hành

+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao + Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao

1.1.7. Văn bản quy phạm pháp luật do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành 1.1.8. Văn bản quy phạm pháp luật do Tổng kiểm toán nhà nước ban hành 1.1.9. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch

1.2. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND).

+ Nghị quyết của HĐND các cấp + Quyết định, chỉ thị của UBND các cấp

II. VĂN BẢN HÀNH CHÍNH III. VĂN BẢN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

2. Đổi mới quy định pháp luật về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật

CHƯƠNG 3. THỂ THỨC CHUNG VÀ KỸ THUẬT TRÌNH BÀY VĂN BẢN NHÀ NƯỚC

Quốc hiệu

Tên cơ quan, tổ chức, chức danh ban hành văn bản

Số và ký hiệu của văn bản

Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành văn bản

Tên loại và trích yếu nội dung của văn bản nhà nước

Nội dung văn bản

Dấu của cơ quan, tổ chức

Nơi nhận

I. NGÔN NGỮ TRONG VĂN BẢN PHÁP LUẬT

CHƯƠNG 4. NGÔN NGỮ TRONG VĂN BẢN PHÁP LUẬT. XÂY DỰNG VÀ TRÌNH BÀY QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1. Khái niệm, đặc điểm của ngôn ngữ trong văn bản pháp luật.

1.1 Khái niệm. 1.2 Đặc điểm

1.2.1.Tính chính xác 1.2.2. Tính dễ hiểu 1.2.3. Tính khách quan. 1.2.4 Tính văn minh, lịch sự 1.2.5 Tính khuôn mẫu

2. Ngữ pháp trong văn bản pháp luật

2.1 Cách sử dụng từ ngữ

2.1.1 Lựa chọn và sử dụng từ đúng ngữ nghĩa. 2.1.2 Sử dụng từ đúng văn phong pháp lý. 2.1.3. Sử dụng từ đúng chính tả tiếng Việt.

II. XÂY DỰNG VÀ TRÌNH BÀY QPPL

2.2 Câu và dấu câu trong văn bản pháp luật

1. Định nghĩa QPPL, các yếu tố cấu thành

1.1 Định nghĩa 1.2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật

2. Phương pháp trình bày QPPL trong văn bản

– Phương pháp trình bày trực tiếp – Phương pháp trình bày viện dẫn – Phương pháp kết hợp nhiều QPPL trong một điều luật – Phương pháp trình bày so le

3. Cách diễn đạt QPPL trong văn bản:

4. Bố cục trình bày dự thảo văn bản

I. QUY TRÌNH CHUNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

CHƯƠNG 5. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

II. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở TW

1. Khái niệm quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL. 2. Đặc điểm quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL. 3. Nguyên tắc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

III. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QPPL CỦA HĐND CÁC CẤP

1. Quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL của Quốc hội, UBTVQH 2. Quy trình xây dựng văn bản QPPL của Chủ tịch 3. Quy trình xây dựng VBQPPL của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. 4. Quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL của TANDTC, VKSNDTC 5. Quy trình xây dựng Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước

IV. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VĂN BẢN QPPL CỦA UBND CÁC CẤP (TRÌNH BÀY CỤ THỂ)

1. Xây dựng và ban hành Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh 2. Xây dựng và ban hành Nghị quyết của HĐND cấp 3. Xây dựng và ban hành Nghị quyết của HĐND cấp xã

1. Xây dựng và ban hành Quyết định, chỉ thị của UBND cấp tỉnh 2. Xây dựng và ban hành Quyết định, Chỉ thị của UBND cấp huyện 3. Xây dựng và ban hành Quyết định, Chỉ thị của UBND các cấp Xã 4. Xây dựng và ban hành VBQPPL của UBND các cấp trong trường hợp đột xuất, khẩn cấp

I. KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

CHƯƠNG 6. KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

II. XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1.Khái niệm 2.Đặc điểm 3.Mục đích và ý nghĩa của hoạt động kiểm tra 4.Nguyên tắc kiểm tra 5.Phương thức kiểm tra 6.Nội dung kiểm tra 7.Thẩm quyền kiểm tra văn bản 8. Thủ tục kiểm tra văn bản 9. Quyền và nghĩa vụ của cơ quan, người có văn bản được kiểm tra

1.Khái niệm 2.Nguyên tắc xử lý 3. Hình thức xử lý 4.Các hình thức xử lý văn bản trái pháp luật. 5. Xử lý văn bản không phù hợp với pháp luật hiện hành. 6.Thẩm quyền xử lý 7.Các biện pháp xử lý đối với cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản trái pháp luật

I. HIỆU LỰC CỦA VĂN BẢN QPPL

CHƯƠNG 7. HIỆU LỰC VÀ NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1. Hiệu lực theo thời gian

1.1 Thời điểm phát sinh hiệu lực

1.1.1 Đối với văn bản của cơ quan Nhà nước ở Trung ương 1.1.2 Văn bản của cơ quan nhà nước ở địa phương

1.2 Thời điểm kết thúc hiệu lực

1.3. Hiệu lực trở về trước

2. Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng.

2.1 Hiệu lực về không gian của văn bản quy phạm pháp luật 2.2 Hiệu lực về đối tượng thi hành

II. NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG VĂN BẢN QPPL

3. Trường hợp ngưng hiệu lực của văn bản. 4. Những trường hợp văn bản hết hiệu lực.

1. Những nguyên tắc chung 2. Nguyên tắc áp dụng văn bản QPPL của chính quyền địa phương trong trường hợp điều chỉnh địa giới hành chính

I. SOẠN THẢO NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP

CHƯƠNG 8. SOẠN THẢO MỘT SỐ VĂN BẢN NHÀ NƯỚC

II. SOẠN THẢO QUYẾT ĐỊNH

1. Tư cách sử dụng văn bản nghị quyết của HDND 2. Thể thức nghị quyết 3. Bố cục nội dung của nghị quyết 4. Phương pháp trình bày và mẫu nghị quyết

III. SOẠN THẢO CHỈ THỊ

1. Về tư cách sử dụng quyết định 2. Thể thức văn bản quyết định 3. Bố cục nội dung quyết định 4. Phương pháp trình bày quyết định và mẫu quyết định

IV. SOẠN THẢO CÔNG VĂN HÀNH CHÍNH

1. Về tư cách sử dụng 2. Thể thức chỉ thị 3. Bố cục nội dung của chỉ thị 4. Phương pháp trình bày chỉ thị và mẫu chỉ thị

1. Thể thức công văn hành chính 2. Bố cục nội dung của công văn hành chính

2.1. Soạn thảo công văn mời họp, mời dự hội thảo, hội nghị 2.2. Soạn thảo công văn hỏi 2.3. Soạn thảo công văn trả lời (công văn phúc đáp) 2.4. Soạn thảo công văn đề nghị 2.5. Soạn thảo công văn đôn đốc, nhắc nhở

IV. SOẠN THẢO BÁO CÁO

3. Phương pháp trình bày và mẫu công văn hành chính

V. CÁCH VIẾT BIÊN BẢN HỘI NGHỊ

1. Thể thức của báo cáo 2. Về công tác chuẩn bị viết báo cáo 3. Bố cục nội dung của báo cáo 4. Phương pháp trình bày báo cáo và mẫu báo cáo

VI. CÁCH VIẾT TỜ TRÌNH

1.Thể thức biên bản 2. Cách ghi nội dung biên bản Hội nghị. 3. Phương pháp trình bày và mẫu biên bản

1.Thể thức của tờ trình 2.Nội dung chính của tờ trình

I. Phần lý thuyết cần nắm vững

Trong tập này chúng ta chỉ tìm tìm hiểu sơ lược một số nội dung thường rơi vào đề kiểm tra

1. Trình bày tiêu chuẩn, yêu cầu để cho Văn bản pháp luật có chất lượng!

2. Các dạng văn bản áp dung pháp luật và văn bản hành chính khiếm khuyết

II. Phần soạn thảo văn bản (bao gồm soạn thảo quyết định và chỉ thị)

3. Phân biệt VB quy phạm PL và VB áp dụng PL

1. Trình bày tiêu chuẩn, yêu cầu để cho Văn bản pháp luật có chất lượng!

Khái niệm: Văn bản pháp luật là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo hình thức và thủ tục luật định,có nội dung chứa đựng ý chí của chủ thể ban hành luôn mang tính bắt buộc và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của nhà nước. Yêu cầu:

1.1 – Tiêu chuẩn về chính trị (đảm bảo tính khả thi)

Văn bản pháp luật phải có nội dung phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng.

+ Văn bản pháp luật là phương tiện công cụ hữu hiệu nhất của Đảng, Nhà nước thực hiện chức năng quản lí xã hội của mình, cũng đồng thời là phương tiện truyền tải đường lối,chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống thông qua cơ quan hành pháp. Nhà nước quản lí xã hội trên cơ sở đường lối chủ trương của Đảng nên cần phải có nội dung phù hợp với đường lối,chủ trương của Đảng như vậy mới đảm bảo được yếu tố chính trị. Đối với văn bản quy phạm pháp luật : sự nhất quán trong việc đưa ra các QĐ phù hợp với đường lối phát triển đất nước của Đảng, thể chế hóa đường lối, chủ trương đó thành QĐ chung thống nhất trên phạm vi toàn quốc hoặc địa phương. Đối với Văn bản áp dụng pháp luật: VB đó phải kịp thời tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong từng thời kì,giai đoạn cách mạng cụ thể của cơ quan nhà nước.

+ Văn bản pháp luật nếu như không đáp ứng đầy đủ về mặt chính trị sẽ phải bị hủy bỏ.

Ví dụ: Năm 2009 , UBND TP Hà Nội QĐ về việc quản lí, vận chuyển, giết mổ gia cầm: cấm vận chuyển gia súc, gia cầm vào nội thành, đô thị,cấm vận chuyển bằng ôtô, xe máy và phương tiện thô sơ khác. Quyết định 51/2009 này không đảm bảo tính hợp pháp, hợp hiến, hợp lí nên bị bãi bỏ.

1.2 – Tiêu chuẩn pháp lý ( nhằm đảm bảo tính hợp pháp của Văn bản pháp luật)

+ Ban hành đúng thẩm quyền về hình thức Không phải chủ thể nào cũng có quyền ban hành Văn bản pháp luật. Các loại VB phong phú về mặt hình thức. Mỗi chủ thể theo QĐ của Quốc hội chỉ có thẩm quyền ban hành một số văn bản để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Ví dụ: pháp lệnh do UBTVQH ban hành, nhiệm vụ giải thích pl QĐ,chỉ thị, thông tư, do Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành được qui định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND,UBND…..

+ Văn bản pháp luật ban hành phải đúng thủ tục.

+ Văn bản pháp luật ban hành phải đúng thể thức, trình tự, thủ tục (tên gọi và thể thức)

1. Quốc hiệu 2. Cơ quan ban hành 3. Địa danh và thời gian ban hành 4. Tên gọi 5. Trích yếu 6. Dấu trong Văn bản pháp luật(đóng dấu) 7. Nơi nhận 8. Ký

1.3 – Tiêu chuẩn về khoa học

Nội dung phải phù hợp với thực tiễn, thực trạng kinh tế xã hội; phong tục, tập quán,truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đảm bảo về mặt kĩ thuật pháp lý (kỹ năng chuyên môn); ngôn ngữ; lôgic; tính khoa học;…

2. Các dạng văn bản áp dung pháp luật và văn bản hành chính khiếm khuyết

Thứ nhất, văn bản áp dụng pháp luật, văn bản hành chính thông dụng không đáp ứng yêu cầu về chính trị:

Văn bản áp dụng pháp luật, văn bản hành chính thông dụng được ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm khuyết và buộc cơ quan có thẩm quyền tiến hành xử lý. Bên cạnh đó, văn bản có nội dung không phù hợp với ý chí của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.

Thứ hai, văn bản áp dụng pháp luật, văn bản hành chính thông dụng không đáp ứng yêu cầu về pháp lí.

Đối với văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng không đáp ứng yêu cầu về pháp lý được biểu hiện như sau: văn bản vi phạm thẩm quyền ban hành, văn bản có nội dung trái với QĐ của pháp luật, văn bản có sự vi phạm các QĐ về thể thức và thủ tục ban hành.

Một là văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng vi phạm thẩm quyền ban hành

Văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng vi phạm thẩm quyền bao gồm vi phạm thẩm quyền về hình thức và vi phạm thẩm quyền về nội dung

Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về hình thức là văn bản có tên gọi không đúng theo QĐ của pháp luật hiện hành.

Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về hình thức thường được biểu hiện thông qua các hoạt động như: Cơ quan ban hành văn bản sử dụng hình thức văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền sử dụng của chủ thể khác, ví dụ: Hội đồng nhân dân ban hành quyết định; Sử dụng không đúng vai trò của văn bản đối với công việc được giải quyết, ví dụ sử dụng công văn, thông báo để đặt ra các quy phạm pháp luật;

Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về nội dung là văn bản mà chủ thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền của mình theo QĐ của pháp luật.

Hai là văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng có nội dung trái với QĐ của pháp luật.

Văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng là văn bản có nội dung trái với những quy phạm hoặc những mệnh lệnh không đúng với pháp luật hiện hành.

Biểủ hiện: Không viện dẫn hoặc viện dẫn không đúng những văn bản làm cơ sở pháp lí của văn bản đó; Nội dung của văn bản áp dụng pháp luật, văn bản hành chính thông dụng trái với QĐ của văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính có các QĐ mang tính quy phạm trái với các quy phạm pháp luật hiện hành; Các mệnh lệnh trong văn bản hành chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật mà nó tổ chức thực hiện.

Ba là văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng có sự vi phạm các QĐ các QĐ về thể thức và thủ tục ban hành.

Văn bản pháp luật có thể thức không đúng QĐ của pháp luật biểu hiện ở việc thiếu những đề mục cần thiết hoặc các đề mục được trình bày không đúng theo QĐ của pháp luật. Ví dụ: Văn bản áp dụng pháp luật không có trích yếu.

Văn bản pháp luật có thể có sự vi phạm về thủ tục. Ví dụ chủ thể ban hành văn bản không thực hiện những thủ tục được coi là cơ sở để xác định tính hợp pháp cho văn bản áp dụng pháp luật. Ví dụ: Không lập biên bản trước khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Thứ 3, Văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng không đáp ứng yêu cầu về khoa học.

Một là văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội. Đó là những văn bản pháp luật trong đó có các QĐ cao hơn hoặc thấp hơn thực trạng kinh tế – xã hội, phản ánh không chính xác, không kịp thời hiện thực xã hội nên những văn bản này thường không có tính khả thi. Bên cạnh đó, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp cũng là một dạng khiếm khuyết của văn bản pháp luật cần được chủ thể có thẩm quyền xem xét trong quá trình tiến hành xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.

Hai là văn bản Áp dụng pháp luật, văn bản Hành chính thông dụng khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí

Khái niệm

Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật

– Theo Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 QĐ: “văn bản quy phạm pháp luật là VB do Cq NN ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thq, hình thức, trình tự, thủ tục được QĐ trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được NN bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các Qhe xh”.

Thẩm quyền

– VB áp dụng PL là VB do chủ thể có thq ban hành, theo hình thức và thủ tục PL QĐ, có Nd chứa đựng các mệnh lệnh nhằm GQ những công việc xác định, với những đối tượng cụ thể và được thực hiện một lần trong thực tế.

– Chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật được QĐ tại Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 .

Nội dung

– Chủ thể có thẩm quyền ban hành VB áp dụng nhiều hơn chủ thể có thq ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm các Cq NN; Thủ trưởng các Cq NN; CB, CC khi thi hành công vụ; cá nhân (người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển rời sân bay, bến cảng).

– Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật là chứa đựng quy tắc xử sự chung, đặt ra hành vi ứng xử mang tính khuôn mẫu.

Hình thức

– Nội dung của VB áp dụng PL là mệnh lệnh cụ thể, dựa trên cơ sở các QPPL để đặt ra các mệnh lệnh áp dụng GQ công việc phát sinh.

– VB QP PL: Luật, văn bản dưới luật.

Về đối tượng thi hành

– VB AD PL: Bản án, quyết định…

– Với văn bản quy phạm pháp luật, đối tượng thi hành luôn luôn chung chung, trừu tượng (người nào, mọi người, tổ chức nào, …)

– Với VB áp dụng PL đối tượng thi hành luôn cụ thể, xác định (có các dấu hiệu nhân thân nếu là cá nhân, tên gọi, địa chỉ nếu là tổ chức).

II. SOẠN THẢO

Khuyến cáo sử dụng bằng máy tính hoặc bản in nếu muốn xem hình thức chuẩn của bản thảo

QUYẾT ĐỊNH Về việc bổ nhiệm Phó Giám đốc Sở Tư pháp CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH

1. Bổ nhiệm ông Nguyễn Văn A, sinh ngày … tháng… năm…, hiện là Trưởng phòng Tổ chức cán bộ giữ chức vụ Phó Giám đốc Sở Tư pháp trong thời hạn 5 năm.

QUYẾT ĐỊNH:

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ; Căn cứ Luật Cán bộ công chức năm 2008; Căn cứ Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, ngày 15/3/2010 của Chính phủ, QĐ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Xét đề nghị của Giám đốc Sở Nội vụ,

Điều 1. Bổ nhiệm ông Nguyễn Văn A, sinh ngày … tháng… năm…, hiện là Trưởng phòng Tổ chức cán bộ giữ chức vụ Phó Giám đốc Sở Tư pháp trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày … tháng … năm…

Điều 2. Ông Nguyễn Văn A có trách nhiệm bàn giao công việc đang đảm nhiệm và tiếp nhận công việc mới chậm nhất đến ngày…tháng….năm……..

Điều 3. Ông Nguyễn Văn A được hưởng phụ cấp chức vụ bằng 0,7 mức lương tối thiểu và các khoản phụ cấp khác (nếu có) theo QĐ của pháp luật hiện hành.

Điều 5. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

QUYẾT ĐỊNH Về việc điều động công chức GIÁM ĐỐC SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

. Điều động ông Nguyễn Văn K, sinh ngày … tháng… năm…, hiện là chuyên viên Phòng Trung học phổ thông sang công tác tại Phòng Giáo dục thường xuyên của Sở GD DT tinh Nghệ An

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ Quyết định số…/…/QĐ-UBND, ngày… tháng… năm…của UBND Tỉnh Nghệ An QĐ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo; Căn cứ Luật Cán bộ công chức năm 2008; Căn cứ Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, ngày 15/3/2010 của Chính phủ, QĐ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức Xét đề nghị của Trưởng Phòng Tổ chức cán bộ,

Điều 1. Điều động ông Nguyễn Văn K, sinh ngày … tháng… năm…, hiện là chuyên viên Phòng Trung học phổ thông sang công tác tại Phòng Giáo dục thường xuyên của Sở, kể từ ngày … tháng … năm…

Điều 2. Ông Nguyễn Văn K có trách nhiệm bàn giao công việc đang đảm nhiệm và nhận nhiệm vụ mới chậm nhất đến ngày…tháng….năm……..

NGHỊ QUYẾT Về việc bầu các thành viên UBND Nhiệm kì 2010 – 2015 HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH

3. Bầu các thành viên Ủy ban nhân dân thành phố K, Tỉnh H nhiệm kỳ 2011 – 2016

Khoá… Kỳ họp thứ… từ ngày…tháng … năm …đến ngày…tháng … năm…

QUYẾT NGHỊ:

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ; Căn cứ Nghị định 107/2004/NĐ – CP, ngày 01 tháng 4 năm 2004 của Chính Phủ về việc QĐ số lượng Phó Chủ tịch và cơ cấu thành viên ủy ban nhân dân các cấp; Theo Biên bản kiểm phiếu bầu các thành viên UBND thành phố Vinh, nhiệm kì 2011-2016,

Điều 1. Bầu các ông, bà có tên sau đây là thành viên UBND thành phố Vinh, nhiệm kì 2011-2016:

1. Ông Nguyễn Phú A.

2. Ông Hoàng Văn B

3. Bà Trần Thị C 4. Bà Lê Thị D

Điều 2. Thường trực HĐND, Chánh văn phòng HĐND, Trưởng Ban pháp chế và các ông, bà có tên tại điều 1 chịu trách nhiệm thi hành nghị quyết này.

Điều 3. Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân Thành phố Vinh, khóa…, kì họp thứ … thông qua ngày …tháng… năm ….

CHỈ THỊ Về việc tăng cường công tác đảm bảo an toàn giao thông

4. Chỉ đạo công tác tăng cường đảm bảo an toàn giao thông

Để tiếp tục duy trì và phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế và để nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của các quận, huyện, thị xã, các phường, xã, thị trấn, các sở, ban, ngành Thành phố trong công tác trật tự an toàn giao thông; Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố yêu cầu:

1. Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã: Theo chức năng, nhiệm vụ được giao phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố về quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn; Chỉ đạo tăng cường công tác đảm bảo trật tự, tăng cường kiểm tra, kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm

4. Giám đốc Sở Giao thông Vận tải: Chỉ đạo tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc thi công đào hè, đường, tránh tình trạng cấp phép đào hè đường tràn lan; giám sát đảm bảo thực hiện đúng QĐ và hoàn trả đảm bảo chất lượng, kịp thời, không ảnh hưởng đến trật tự giao thông. Chỉ đạo các đơn vị duy tu, duy trì giao thông chủ động kiểm tra, sửa chữa những đoạn đường, tuyển đường có mặt đường, hố ga bị hỏng, “ổ gà”, các điểm thường xuyên bị úng ngập cục bộ, xử lý “điểm đen”…, đảm bảo an toàn giao thông.

Trong quá trình thực hiện,nếu có khó khăn , vướng mắc phải báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền để kịp thời giải quyết.

– TTTU, TT HĐND TP; – Các Sở, ban, ngành TP; – UBND các quận, huyện, thị xã; – Lưu: VP

(Chữ ký, đóng dấu)

.

CHỈ THỊ Về việc phòng và chống tệ nạn xã hội trên địa bàn Thành phố T

5. Chỉ thị quy phạm pháp luật của UBND thành phố T về việc phòng và chống tệ nạn xã hội trên địa bàn.

Trong những năm qua,với nỗ lực của các cấp,các ngành cùng với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể hoạt động văn hóa trên địa bàn TP đã có những bước phát triển khá tốt,góp phần đáp ứng nhu cầu nâng cao đời sống văn hóa của các tầng lớp nhân dân TP. Tuy nhiên, gần đây một số hiện tượng không lành mạnh trong các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa xã hội đã gây tác hại xấu trong xã hội,bị dư luận xã hội lên án gay gắt. Có những tổ chức,cá nhân lợi ndungj hoạt động dịch vụ văn hóa- xã hội đẻ dung túng, chứa chấp,tiếp tay cho các loại tệ nạn xã hội nhằm thu lợi bất chính. Một số hoạt động văn hóa bị bị lợi dụng biến thành các hoạt động phản văn hóa,tiêu cực, ma túy, mại dâm,cờ bạc,…diễn ra dưới nhiều hình thức trong các vũ trường , quán bar, điểm karaoke, nhà hàng, khách sạn,…

1. Thủ trưởng các sở ngành thành phố và Chủ tịch UBND các quận, huyện thực hiện những công việc sau: – Tăng cường việc cấp mới giấy phép hành nghề và đăng kí kinh doanh hoạt động karoke, vũ trường, CLB khiêu vũ, masage , quán bar, … trên địa bàn thành phố cho đén khi có chỉ đạo mới của UBND TP. – Đối với những cơ sở, dịch vụ hiện có phải cam kết thực hiện đúng qui định của Nhà nước, tăng cường kiểm tra thường xuyên và xử lí nghiêm đối với các trường hợp vi phạm theo qui định của pháp luật.

2. Công an TP,Sở kế hoạch và đầu tư, Sở văn hóa thông tin, Sở Lao động thương binh và xã hội, Sở Thương mại, Sở Du lịch,Sở y tế phối hợp với UBND các quận huyện tập trung triển khai việc kiểm tra, xử lí nghiêm đối với các tổ chức,cá nhân vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh,dịch vụ nói trên.

3. Chủ tịch UBND và Trưởng công an quận huyện,phường,thị xã, thị trấn cần có kế hoạch và biện pháp cụ thể thực hiện yêu cầu,nắm chắc tình hình,quản lí chặt chẽ địa bàn dân cư và phải chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên về những hoạt động tiêu cực, tệ nạn xã hội xảy ra trên địa bàn mình phụ trách.

4. Các ngành,các cấp có kế hoạch đồng bộ và biện pháp hóa cụ thể để đẩy mạnh phòng,chống các tệ nạn xã hội,trước mắt thực hiện ngay các biện pháp cấp bách để ngăn chặn tệ nạn ma túy,mại dâm thực hiện tốt chương trình mục tiêu 3 giảm năm 2011 của UBND TP.

5. Giao Sở Văn hóa- thông tin chủ trì phối hợp với Sở Tư pháp, ,Sở kế hoạch và đầu tư, Sở văn hóa thông tin,Sở Lao động thương binh và xã hội,Sở Thương mại,Công an TP thực hiện ngay việc rà soát lại các QĐ hiện hành và đề xuất các QĐ tạm thời trong việc quản lí hoạt động của các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa xã hội, vũ trường, điểm karaoke, quán bar, …. trình UBND TP xem xét ban hành.

6. Đề nghị Ủy ban mặt trận tổ quốc và các Đoàn thể Tp tiếp tục đẩy mạnh phong trào phòng chống tệ nạn xã hội, vận động phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng khu phố văn hóa, đời sống văn hóa.

7. Yêu cầu thủ trưởng các Sở, ngành, ban Tp ; UBND các quận, huyện, thị xã, có trách nhiệm tổ chức thi hành Chỉ thị này.

Trong quá trình thực hiên,nếu có vướng mắc, khó khăn gì yêu cầu các đơn vị báo cáo về văn phòng UBND để kịp thời giải quyết. Chỉ thị này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày, kể từ ngày ký ban hành.

CHỈ THỊ Về việc tăng cường chỉ đạo chương trình xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

6. Chỉ thị tăng cường chỉ đạo chưuong trình xóa đói giam nghèo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Trong những năm qua,dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy chính quyền, sự hỗ trợ của đoàn thể, phong trào xóa đói giảm nghèo và việc triển khai chương trình 135 và Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của chính phủ có chỉ ra một số mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, trên địa bàn tỉnh phát động sâu rộng đã giúp được nhiều hộ vượt qua đói nghèo, một số vươn lên khá giả. Tuy nhiên, đến Nghệ An trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều hộ đói nghèo tập trung chủ yếu ở nông thôn và miền núi. Sự phân hóa giàu nghèo tăng lên. Ngoài nguyên nhân khách quan do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiếu đất canh tác, còn nhiều nguyên nhân chủ quan: công tác thực hiện không hiệu quả, ý thức người dân kém,… Để thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo, chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu các Sở, ban, ngành, cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh, Chủ tịch UBND huyện tập trung chỉ đạo thực hiện tốt một số công việc sau:

1. Phát huy sâu rộng phong trào tiết kiệm để tập trung nguồn lực cho công tác xóa đói giảm nghèo. Nhưng tiết kiệm không đồng nghĩa giảm chi phí, cần thiết xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết bị, máy móc phục vụ cho nền kinh tế.

2. Khai hoang, phục hóa thêm quỹ đất. Thực hiện thâm canh, tăng vụ tạo hiệu quả, nâng cao năng suất trong nông nghiệp, đổi mới cơ cấu cây trồng phù hợp với từng loại đất, từng mùa vụ. Sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng theo công nghiệp, giao thông, đô thị phải trên cơ sở giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân. Việc giao đất trồng rừng, bảo vệ rừng bảo đảm cho người dân sống được bằng nghề rừng.

4. Tổ chức giúp đỡ và vận động các hộ nông dân nghèo đến vùng kinh tế mới tránh tập trung hộ nghèo trên địa bàn. Hoặc hỗ trợ vay vốn mua sắm tư liệu sản xuất, hỗ trợ đào tạo nhiều ngành nghề nhằm giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập.

5. Mở rộng hình thức tín dụng cho hộ nghèo vay với cơ chế phối hợp … huy động nguồn vốn ít tổ chức xã hội tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế.

6. Từng bước thực hiện chính sách miễn giảm học phí và cấp học bổng cho con em các hộ nghèo, nhất là con em đồng bào thiểu số, đào tạo nghề miễn phí. Thực hiện chính sách miễn giảm học phí chữa bệnh cho hộ nghèo, từng bước mở rộng hình thức cấp miến phí thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo .

7. Yêu cầu các sở ,ban, ngành trong tỉnh, Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn có trách nhiệm tính toán định kì kết quả xóa đói giảm nghèo để kịp thời kiến nghị sửa đổi cơ chế,chính sách cho phù hợp, có trách nhiệm phối hợp với ban lãnh đạo các cấp thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo và trực tiếp chỉ đạo công tác này. Nếu có khó khăn, vướng mắc gì phải báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền để kịp thời giải quyết.

8. Chỉ thị này có hiệu lực kể từ ngày kí.

CHỈ THỊ Về việc triển khai công tác bảo vệ môi trường năm 2009 trên địa bàn TP

7. Chỉ thị về công tác bảo vệ môi trường

Căn cứ Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Trong năm qua, công tác bảo vệ môi trường ở TP có nhiều tiến bộ. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục về môi trường được chú ý hơn.

Nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường đã được nâng lên. Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được tăng cường; môi trường ở đô thị, nông thôn, khu vực sản xuất, chế biến và dịch vụ ngày càng được cải thiện; công tác bảo vệ, phát triển và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên được chỉ đạo cụ thể. Tuy nhiên, môi trường trên địa bàn TP gần đây bị suy thoái do tác động tiêu cực của con người diễn ra ngày càng rõ rệt. Đó là tình trạng xả rác thải bừa bãi, nước thải trong các khu dân cư, khí thải, dầu nhớt chưa đúng nơi QĐ; việc lạm dụng phân bón, hoá chất gây ô nhiễm môi trường vẫn còn xảy ra khá phổ biến, nhưng chậm khắc phục, làm ảnh hưởng đến môi trường, cảnh quan và sức khoẻ của người dân. Tình trạng khai thác rừng, tài nguyên nước, khoáng sản trái phép vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Nguồn lực đầu tư của Nhà nước, của các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư cho bảo vệ môi trường còn rất hạn chế. Điều kiện đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, cung cấp nước sạch ở đô thị, nông thôn còn thấp.

Để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện, Uỷ ban nhân dân (UBND) TP HCM Chỉ thị:

1. Thủ trưởng các phòng, ban, ngành, trường học và Chủ tịch UBND các quận,huyện,phường trên địa bàn TP tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Kế hoạch của Tỉnh uỷ tới cán bộ, công chức, viên chức, học sinh và nhân dân thuộc lĩnh vực, địa bàn quản lý, nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường.

2. Giao Phòng Tài nguyên và Môi trường triển khai các nhiệm vụ sau: – Tham mưu UBND huyện ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các QĐ, chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường; – Chủ trì phối hợp Phòng Tư pháp tham mưu UBND TP kế hoạch tập huấn Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đến các ban, ngành, đoàn thể, trạm, trại, UBND các quận,huyện,phường trên địa bàn TP;

3. Phòng Nội vụ có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND các quận,huyện,phường tham mưu cho UBND TP tăng cường nhân lực bộ máy quản lý nhà nước về môi trường cấp quận,huyện và cấp phường để đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ quản lý Nhà nước về môi trường.

4. Phòng Tài chính kế hoạch chủ trì phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường; UBND các quận,huyện,phường trong việc bảo đảm nguồn ngân sách tài chính theo QĐ của TP, quận,huyện chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường trên địa bàn TP.

5. Phòng Văn hoá thông tin, Phòng Tư pháp tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ được giao, phối hợp với Đài Truyền thanh – Truyền hình huyện tổ chức thường xuyên các nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường.

6. Thanh tra huyện, đội Cảnh sát môi trường huyện phối hợp với phòng Tài nguyên và Môi trường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về môi trường theo QĐ của pháp luật;

7. Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo, hiệu trưởng các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông quán triệt sâu rộng trong toàn thể giáo viên, học sinh phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường tại trường học, đường phố và nơi công cộng.

8. Đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc VIỆT NAM TP và các tổ chức chính trị – xã hội trong TP tổ chức tuyên truyền, vận động các thành viên của tổ chức và nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, giám sát việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường.

9. Uỷ ban nhân dân các quận,huyện,phường có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý. Tổ chức hướng dẫn mỗi gia đình, cá nhân có trách nhiệm thực hiện việc bảo vệ môi trường khu dân cư, nơi công cộng như sau:

– Không vứt rác bừa bãi. Phải thu gom, chuyển chất thải sinh hoạt đúng nơi QĐ;

– Không được phát tán khí thải, gây tiếng ồn vượt qua tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, sinh hoạt của cộng đồng dân cư xung quanh;

– Không đổ nước thải ra đường, các nơi công cộng. Mỗi gia đình phải thu gom nước thải vào hệ thống bể tự hoại, hầm chứa hoặc cho vào hệ thống thoát nước công cộng;

– Sử dụng hố xí hợp vệ sinh; – Trồng cây xanh góp phần giảm ô nhiễm môi trường, tạo cảnh quan;

– Tự giác chấp hành các QĐ về bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương, xây dựng gia đình văn hoá; – Đóng góp đầy đủ lệ phí thu dọn vệ sinh;

– Vận động mọi người cùng tham gia việc bảo vệ môi trường. Yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và Chủ tịch UBND các quận,huyện,phường,xã ,thị trấn triển khai thực hiện Chỉ thị này.

Trong quá trình thực hiện, nếu có phát sinh vướng mắc, thông qua Phòng Tài nguyên và Môi trường báo cáo UBND TP xem xét, chỉ đạo. Giao trách nhiệm cho Phòng Tài nguyên và Môi trường theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị này. Chỉ thị này có hiệu lực sau 7 ngày, kể từ ngày ký./.

– UBND TP ; – Sở Tài nguyên và Môi trường; – Sở Tư pháp; – Thường trực HĐND TP; – Quyền chủ tịch, các UBND quận,huyện,phường,xã, thị trấn; – Các cơ quan, đơn vị trên địa bàn TP ; – UBND các quận,huyện,phường, xã, thị trấn; – Lưu: VT.

……………………….

Ict Là Gì? Ý Nghĩa Của Ict

ICT là gì?

ICT là từ viết tắt của Information & Communication Technologies, từ này được hiểu là Công nghệ thông tin và Truyền thông. Đây là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong thời đại công nghệ hiện nay, nó là sự kết hợp giữa truyền thông và viễn thông, các hệ thống quản lý tòa nhà thông minh và hệ thống nghe – nhìn trong công nghệ thông tin hiện đại.

Bên cạnh đó, ICT còn là thuật ngữ để nói về các phương tiện được sử dụng để xử lý thông tin, chia sẻ âm thanh và hình ảnh như điện thoại, phương tiện truyền thông, xử lý âm thanh, truyền tải mạng và chức năng giám sát.

Ý nghĩa của ICT

Ngày nay, để nói về chỉ số ICT người ta thường dùng thuật ngữ đi kèm đó là cụm từ ICT Index. Chỉ số ICT được dùng để đo mức độ phát triển của Công nghệ thông tin và truyền thông, không chỉ vậy, đây còn là chỉ số để đo mức độ sẵn sàng phát triển và áp dụng CNTT và TT trong các lĩnh vực tại các nước.

Các chỉ số ICT theo các cấp độ ở Việt Nam:

1. ICT Index của Tỉnh – Thành: Đây là chỉ số về độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT – TT của Tỉnh – Thành. (Nhóm này gồm 2 chỉ số: hạ tầng và ứng dụng)

2. ICT Index của Bộ – Ngành: Mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT – TT của Bộ – Ngành. (ICT bao gồm: hạ tầng và ứng dụng)

3. ICT Index của Doanh nghiệp: Chỉ số về năng lực sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực CNTT-TT của Doanh nghiệp. (Chỉ số này gồm 2 nhóm: Kết quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh)

Information And Communications Technology

International Critical Tables

In Circuit Test

Institute Of Computer Technology – Also Icot

Influence Coefficient Tests

Information And Communication Technology

Insulin Coma Therapy

Integrated Concept Team

Intramolecular Charge Transfer

Information And Communication Technologies

Information Communication Technology

Idiopathic Copper Toxicosis

Ideal Cycle Time

Image Composition Tool

Isovolumic Contraction Time – Also Ivct

Vơi sự phát triển về công nghệ thông tin như hiện nay, có thể thấy ICT tác động rất lớn đến rất nhiều lĩnh vực trong cuộc sống của mỗi quốc gia. Hy vọng qua bài viết trên, các bạn đã phần nào hiểu rõ ý nghĩa của ICT là gì.

Về Nội Dung Và Cấu Trúc Của Khái Niệm “Văn Học Nghệ Thuật”

Lời người dịch: Vấn đề đặc trưng văn học, nghệ thuật, hay nói cách khác là khái niệm văn học, một thời trong các sách lí luận văn học cả phương Đông lẫn phương Tây đều coi như là định luận. Sự phân biệt văn học và phi văn học coi như là hiển nhiên. Nhưng bắt đầu từ những năm 80 vấn đề “văn học là gì” được đặt lại. Từ Todorov đến T. Eagleton, từ R. Wellek đến J. Culler, các học giả đã phủ nhận khả năng xá định được đặc trưng văn học theo một định nghĩa giản đơn nào đó. Trên vấn đề này Ju. Lotman có một cách hiểu khác, có tính chất lịch sử, đáng để chúng ta tham khảo. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.- TĐS.

 

Đối tượng nghiên cứu của nhà nghiên cứu văn học là văn học nghệ thuật. Thực trạng đó hiển nhiên đến mức mà bản thân khái niệm văn học nghệ thuật được người ta quan niệm như là một cài gì có tính thứ nhất, được đem đến một cách trực tiếp, cho nên nhà nghiên cứu văn học rất ít quan tâm định nghĩa về nó. Nhưng hễ chúng ta đi xa ra ngoài phạm vi các định nghĩa quen thuộc và nền văn hóa mà chúng ta đã được đào tạo trong đó thì số lượng các trường hợp tranh cãi sẽ bắt đầu gia tăng đến mức áp đảo. Không chỉ khi nghiên cứu văn học trung đại (ví như văn học Nga cổ), mà cả nền văn học thuộc các thời đại gần gủi với chúng ta, việc vạch ra đặc điểm có khả năng chỉ cái giới hạn thẩm quyền của nhà nghiên cứu văn học và bắt đầu phạm vi toàn quyền của nhà sử học, văn hóa học, luật học… xem ra là một việc không dễ dàng chút nào. Chẳng hạn chúng ta không cần suy nghĩ gạt ngay cuốn Lịch sử nhà nước Nga ra khoi phạm vi văn học nghệ thuật. Sách Thư nghiệm lí thuyết đánh du kích của D. Davydov không thể xem như một thể hiện của văn xuôi Nga, mặc dù Pushkin đã đánh giá nó trước hết từ phong cách (Tôi đã nhận ra các đường nét của phong cách không thể bắt chước được). Các sự thực về sự xê dịch ranh giới giữa văn bản nghệ thuật và phi nghệ thuật có vô vàn. Nhiều nhà nghiên cứu, bắt đầu từ M. M. Bakhtin, Ju. N. Tynianov, Ja. Mucarjovski…đã chú ý đến tính chất biến động của sự đối lập đó.

Nếu xem văn học nghệ thuật như là một tổng số các văn bản[1], thì trước hết phải nhận thấy rằng các văn bản ấy sẽ chỉ là một bộ phận trong hệ thống chung của văn hóa. Sự tồn tại của các văn bản nghệ thuật phải hiểu đồng thời với sự hiện diện của các văn bản phi nghệ thuật và cái tập thể người sử dụng các văn bản đó và biết cách phân biệt chúng. Sự dao động tất yếu trong các trường hợp đường biên chỉ củng cố thêm cho nguyên tắc: Khi ta lưỡng lự không biết xếp loài tiên cá vào loài cá hay vào loại phụ nữ, hay xếp thơ tự do vào loại thơ hay vào loại văn xuôi, thì trước đó chúng ta đã xuất phát từ cách phân loại như là cái có sẵn. Với ý nghĩa này, quan niệm về văn học có trước (về mặt logic, chứ không phải về mặt lịch sử) văn học.

Sự phân biệt văn học nghệ thuật với cái khối các văn bản còn lại hành chức trong thành phần của nền văn hóa có thể được thực hiện theo hai quan điểm.

1.Về mặt chức năng.Theo quan điểm này, bất cứ văn bản ngôn từ nào trong phạm vi văn hóa đó đều có khả năng thực hiện chức năng thẩm mĩ, thì đều là văn học nghệ thuật. Bởi vì về nguyên tắc có thể có tình trạng (mà về mặt lịch sử thì rất hiếm), là thực hiện chức năng thẩm mĩ vào thời đại khi văn bản được sáng tạo ra, và vào thời đại khi nó được nghiên cứu, các điều kiện tất yếu khác nhau, đối với tác giả, văn bản vốn không thuộc phạm vi nghệ thuật, lại có thể thuộc vào nghệ thuật và ngược lại.

Một nguyên  lí cơ bản của trường phái hình thức là chức năng thẩm mĩ được thực hiện khi văn bản khép kín trong bản thân nó. Chức năng thẩm mĩ được thực hiện bằng tâm thế biểu hiện, và từ đó suy ra, nếu trong văn bản phi nghệ thuật đặt ra câu hỏi “cái gì”, thì chức năng thẩm mĩ được thực hiện bằng câu hỏi “như thế nào”. Vì thế bình diện biểu hiện trở thành một phạm vi nội tại nào đó, có được một giá trị văn hóa độc lập. Các nghiên cứu kí hiệu học mới nhất lại đưa đến những kết luận ngược lại. Văn bản có chức năng thẩm mĩ là văn bản có dung lượng ngữ nghĩa cao hơn, chứ không phải thấp hơn so với các văn bản phi nghệ thuật.  Nó có nhiều nghĩa hơn, chứ không phải ít hơn so với lời nói thông thường. Khi được giải mã theo các cơ chế thông thường của ngôn ngữ tự nhiên, văn bản mở ra một cáp độ ý nghĩa nhất định, nhưng vẫn không được mở ra đến cùng. Khi người nhận thông tin biết được rằng trước mặt anh ta là một thông báo nghệ thuật, anh ta lập tức sẽ tiếp cận nó theo một phương thức hoàn toàn khác. Văn bản trước mặt anh ta là văn bản được mã hóa hai lần (tối thiểu); mã hóa thứ nhất là hệ thống mã hóa của ngôn ngữ tự nhiên (ví dụ như, tiếng Nga). Bởi vì hệ thông mã này đã cho trước và cả người gửi lẫn người nhận đã nắm vững nó thành thạo, việc giải mã trên cấp độ này tiến hành một cách tự động, cơ chế của mã này trở nên trong suốt, những người sử dụng chúng không cảm thấy được nữa. Nhưng cũng văn bản đó, người nhận thông tin biết điều này, còn phải được giải mã theo một cách khác nữa. Điều kiện để văn bản được hoạt động thẩm mĩ của nó, phải bao gồm một sự hiểu biết sơ bộ về cái mã kép này và sự không biết (đúng hơn là biết không đầy đủ) về cái mã thứ hai được vận dụng ở đây. Bởi vì người nhận thông tin không biết  rằng, trong văn bản mà anh ta tiếp nhận trên cấp độ thứ hai này cái gì có ý nghĩa, cái gì không, anh ta “hoài nghi” rằng tất cả mọi yếu tố biểu hiện đều có tính nội dung. Chúng ta cần tiếp cận văn bản như là văn bản nghệ thuật, cho nên về căn bản mọi yếu tố cho đến cả chữ viết sai trong văn bản, như nhà văn E. T. A. Hoffman nhận xét nêu trong lời Tựa viết cho truyện Quan điểm thông thường về con mèo Murra – đều có thể có nghĩa. Khi đặt vào tác phẩm nghệ thuật cả một trật tự các mã bổ sung: mã thời đại, mã thể loại, mã phong cách, hoạt động trong tập thể toàn dân tộc hay một nhóm người hẹp hơn (cho đến các cá nhân), chúng ta thu được trong văn bản những tập hợp có nghĩa khác nhau nhất, và tất nhiên một trật tự phức tạp nhất các lớp nghĩa bổ sung so với văn bản phi nghệ thuật.

Như vậy trường phái hình thức rõ ràng đã có những quan sát đúng đắn  khi cho rằng trong các văn bản hành chức nghệ thuật, sự chú ý thường bị trói vào các yếu tố, mà trong trường hợp khác được tiếp nhận một cách tự động, và ý thức không nắm bắt chúng. Nhưng sự giải thích của họ thì lại sai lầm. Hoạt động nghệ thuật không phải do văn bản đẻ ra, một văn bản đã bị “gột rửa” hết nghĩa, mà ngược lại, văn bản được chất chứa tối đa vô vàn nghĩa.

Chúng ta vừa nắm bắt một trật tự sắp xếp của các biểu hiện, chúng ta liền quy cho nó một nội dung nhất đinh hoặc là giả thiết có một nội dung nào đó mà chúng ta chưa biết. Nghiên cứu những diễn giải nội dung của âm nhạc sẽ cung cấp cho ta ngững khẳng định hết sức thú vị.

2. Theo quan điểm tổ chức văn bản. Để văn bản có thể tự thể hiện mình theo cách nói trên thì bản thân nó phải được tổ chức theo một cách nào đó.: người gửi thông tin của văn bản đã mã hóa nó nhiều lần và với các mã khác nhau (mặc dù trong các trường hợp nào đó, có thể người gửi xây dựng một văn bản phi nghệ thuật, tức là văn bản mã hóa một lần, còn người nhận thì quy cho nó một chức năng nghệ thuật, tưởng tượng cho nó các mã về sau và một ý nghĩa bổ sung). Ngoài điều đó ra người nhận cần phải biết rằng, văn bản mà anh ta đọc, cần phải được xem như là văn bản nghệ thuật. Tất nhiên văn bản cần được tổ chuevd thế nào đó về mặt ý nghĩa, và chứa đựng các tín hiệu hướng chú ý về phía tổ chức đó. Điều đó cho phép miêu tả văn bản nghệ thuật không chỉ như một văn bản hoạt động chức năng theo một cách nhất định trong hệ thống văn bản chung của nền văn hóa đó, mà còn như là văn bản được xây dựng theo một số cách nào đó. Nếu trong trường hợp thứ nhất ta nói đến cấu trúc văn hóa, thì trong trường hợp sau là nói đến cấu trúc của văn bản.

Giữa chức năng của văn bản và tổ chức nội tại của nó không có sự phụ thuộc tự động đơn nghĩa: công thức về mối quan hệ giữa hai nguyên tắc cấu trúc này được hình thành đối với mỗi loại hình văn hóa theo cách riêng, phụ thuộc vào các mô hình ý thức hệ chung nhất. Dưới dạng lược đồ tất yếu chung nhất, tương quan này có thể xác định như sau: trong thời kì xuất hiện một hệ thống văn hóa nào đó hình thành một cấu trúc chức năng nhất định, vốn có của văn hóa đó, và xác lập một hệ thống quanheej các chức năng và các văn bản. Chẳng hạn trong văn học Ng những năm 1740 -1750, diễn ra một sự điều chỉnh trên các cấp độ khác nhau nhất: âm luật, phong cách và thể loại. Đồng thời hình thành một hệ thống các quan hệ giữa các tổ chức này  và trật tự giá trị chung của chúng. Sau đó thời kì tổ chức kết thúc. Một tính không xác định  nào đó trong tương quan giữa các khâu nhường chỗ cho một trật tự đơn nghĩa, đánh dấu sự suy giảm dung lượng thông tin của hệ thống và sự xơ cứng của nó. Vào thời điểm đó, theo thông lệ, diễn ra sự thay thế các lí thuyết thẩm mĩ, còn nếu như, điều này cũng thường xảy ra, sự xơ cứng nghệ thuật chỉ là biểu hiện riêng lẻ của các quá trình đình trệ rộng lớn hơn, của toàn xã hội, thì có cả sự thay thế các quan niệm ý thức hệ trong chiều sâu. Ở giai đoạn này hệ thống chức năng và hệ thống tổ chức nội tại của các văn bản có thể giải thoát khỏi các mối liên hệ hiện hành và tham gia vào các tổ hợp mới: thay đổi các đặc điểm giá trị, bộ phận “dưới” và bộ phận “trên” của nền văn hóa đổi chỗ cho nhau về mặt chức năng. Vào thời kì này các văn bản thực hành chức năng thẩm mĩ hướng đến mục tiêu sao cho ít giống với văn học nhất xét về cấu trúc nội tại. Bản thân các từ nguywx “nghệ thuật”, “văn học” có sắc thái bị hạ thấp. Nhưng sẽ là ngây thơ, nếu nghĩ rằng các đấu sĩ hình tượng trong lĩnh vực nghệ thuật lại hạ thấp chức năng thẩm mĩ như nó vốn thế. Đơn giản là, như thông lệ, các văn bản nghệ thuật trong các điều kiện mới hình như đã không còn khả năng thực hiện cái chức năng nghệ thuật như các văn bản đã làm, mà bằng kiểu tổ chức của mình chúng báo hiệu về một  định hướng phi nghệ thuật “có từ cổ xưa”. Chẳng hạn, như văn nghệ dân gian, vốn bị lí thuyết chủ nghĩa cổ điển loại trừ khỏi phạm vị nghệ thuật, lại trở thành mẫu mực thẩm mĩ lí tưởng của các nhà khai sáng, các nhà tiền lãng mạn. Tương tự như vậy là số phận thể loại bút kí, chính là do tính chất “phi nghệ thuật của nó mà  trong những năm 1840-1860 và sau nữa trong những thời điểm bước ngoạt của sự phát triển văn học đã trở thành thể loại nghệ thuật chủ đạo.

Tiếp theo là giai đoạn hình thành hệ thống mã hóa tư tưởng nghệ thuật mới mà kết quả là giữa cấu trúc của văn bản và chức năng của chúng xây dựng nên một hệ thống quan hệ mới thoạt đầu khá mềm mại. Như vậy không chỉ có các văn bản nghệ thuật tham gia váo qúa trình phát triển của nghệ thuật.  Nghệ thuật, trong khi là một bộ phận của văn hóa, để được phát triển nó cần đến cái không phải nghệ thuật, cũng giống như văn hóa, trong khi chỉ là bộ phận của tồn tại con người, nó cần đến một tương quan năng động với  phạm vi tồn tại của con người không văn hóa nằm bên ngoài nó, một bộ phận chưa quen biết, phi văn bản, phi kí hiệu.  Giữa các phạm vi bên ngoài và bên trong diễn ra một sự trao đổi thường xuyên, một hệ thống phức tạp của những cái đưa vào và đưa ra khỏi văn hóa. Ở đây bản thân sự kiện đưa văn bản vào phạm vi nghệ thuật có nghĩa là chuyển mã của nó thành ngôn ngữ của tiếp nhận nghệ thuật, tức là tư duy lại nó một cách căn bản.

Ngoài quan hệ văn bản và chức năng hệ thống đánh giá cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển văn học. Toàn bộ hệ thống văn bản tham gia vào văn hóa, về phương diện giá trị được tổ chức thành một kênh có ba bậc. “Cái bên trên” được đồng nhất với các đặc trưng giá trị tối cao, “cái bên dưới” được quan niệm là cái đối lập của nó[2], và cái ở giữa trung lập về mặt giá trị.

Ngay bản thân việc sắp xếp các nhóm văn bản khác nhau về bản chất và chức năng theo các thang bậc giá trị trên dưới cũng có khả năng trở thành một đặc trưng loại hình quan trọng của một kiểu văn hóa cụ thể. Chẳng hạn nếu chúng ta đề cập đến một nền văn hóa mà trong đó kiểu văn bản đạo đức chiếm vị trí “trên cao”, còn văn bản nghệ thuật ở vị trí “bên dưới”, và một nền văn hóa khác có sự sắp xếp ngược lại đối với các lớp văn bản đó. Chỉ điều đó trhooi đã đủ để nhìn ra trong văn học thứ nhất có sự tương đồng loại hình với văn hóa nhà thờ trung đại, còn ở nền văn học thứ hai, có tính tương đồng loại hình với La mã thời kì suy đồi hay bất cứ hệ thống mĩ học nào khác. Rất dễ hiểu là cái vị trí mà văn học được đặt vào trong trật tự giá trị chung của các văn bản có ý nghĩa quan trọng như thế nào để hiểu văn học trong hệ thống đó.

Nhưng trong trường hợp này hình như các văn bản nghệ thuật sẽ ứng xử khác so với các văn bản còn lại. Thông thương vị trí của văn bản hay cơ quan đại diện của nó (bởi vì mỗi dạng văn bản có một hoiatj động phù hợp với nó), trong trật tự chung của văn hóa có một nghĩa nhất định: văn bản tín ngưỡng hay quân chủ có thể là thiêng liêng hay đáng khing bỉ, nhưng không thể vừa thiêng liêng vừa đáng khinh. Văn bane pháp luật và tính chất có thể hợp pháp trong mỗi kiểu văn hóa cũng được đánh giá một nghĩa, (văn bản sáng tạo ra các luật pháp được Ciceron đánh đánh giá cao nhất, đối với Cristo lại được đánh giá thấp nhất, trong trật tự thời trung đại chỉ chiếm vị trí trung bình). Duy chỉ cói văn bản nghệ thuật có thể trở thành đối tượng của những đánh giá loại trừ nhau về mặt giá trị. Mặc dù các văn bản nghệ thuật trong trật tự chung của văn hóa được đặt vào một vị trí nhất định chúng vẫn thường xuyên thể hiện khuynh hướng xếp đặt các đầu mút đối lập của bậc thang, tức là trong lập trường xuất phát chúng  đặt ra một số mối xung đột, tạo ra khả năng trung lập hóa tiềm tàng tiếp theo sau trong các văn bản đẳng trị. Các văn bản phục vụ cho các  chức năng văn hóa khác ứng xử theo những cách khác. Muốn giải thích hiện tượng này cần phải chú ý đến tổ chức nội tại của cả tập hợp văn bản mà chúng ta gọi là văn học nghệ thuật.

Tổ chức nội tại của văn học nghệ thuật – và đây là chỗ khác biệt của nó so với các lớp văn bản khác, những văn bản tương đối cùng loại trong hệ thống văn hóa chung, – là đồng hình với văn hóa như nó vốn thế, nó lặp lại các nguyên tắc cấu trúc chung. Văn học nghệ thuật không bao giờ là một tổng cộng các văn bản vô định hình-đồng chất: nó không chỉ là sự tổ chức, mà còn là một cơ chế tự tổ chức.

Trên trình độ cao hơn về tổ chức văn học, nó phân xuất ra một nhóm văn bản trừu tượng hơn so với cái khối văn bản còn lại, cái cấp độ, tức là các siêu văn bản. Đó là các mẫu mực, các quy tắc, các trước tác lia luận và các bài phê bình, những văn bản trả văn học về với chính nó, nhưng đã ở dưới dạng đã được rổ chức, được xây dụng và đánh giá. Tổ chức này được hình thành từ hai loại hành động: hành động loại trừ một chuỗi nhất định các văn bản khỏi phạm vi văn học và tổ chức theo trật tự trên dưới, và hành độngđánh giá phân loại các văn bản còn lại. Sự tự tư duy của văn học bắt đầu từ việc loại trừ một kiểu văn bản nhất định. Thế là bắt đầu phân biệt ra các loại văn bản “man rợ”, văn bản “tạm được”, văn bản “đúng đắn”, văn bản “hợp lí” trong thời đại chủ nghĩa cổ điển, phân biệt thành “văn chương” và “văn học” ở G. Bielinski từ những năm 1830 trở đi (vào những năm sau sự đối lập trên có ý nghĩa khác và sau văn chuwoiwng sẽ là văn học. Chẳng hạn, trong văn học Nga từ 1810 đến những năm đầu 1820, quyền được thừa nhận là văn học là mĩ văn (bellestristika). Một ví dụ hiển nhiên – sự pha trộn khái niệm “văn học” với một trong hai cực đối lập của nó  là thơ – văn xuôi, trong đó cái được coi là đối lập không phải là khái niệm văn chương nghệ thuật mà thực tế cái được pha trộn với thơ; trong ý thức của “những người thuộc năm 60” chúng ta nhìn thấy một hiện tượng đối lập.

Sự loại trừ một số văn bản ra khói phạm vi văn học được thực hiện không chỉ bằng đồng đại mà còn bằng lịch đại. Các văn bản được viết trước khi các quy phạm được công bố được coi là không phù hợp hay là phi-văn học. Chẳng hạn Boileau đã bỏ ra ngoài giới hạn của văn học những mảng lớn của nghệ thuật ngôn từ chấu Âu. Karamzin trong bài thơ Thơ có tính tuyên ngôn khẳng định rằng thơ ca sắp xuất hiện ở nước Nga, có nghĩa rằng, nó vẫn chưa tồn tại, mặc dù thơ đã được viết ra sau sự cáo chung của trường thơ của Lomonosov, Sumarokov, Trediakovski, và sự bùng phát của thơ của Derjavin. Một ý nghĩa tượng tự cũng có trong luận đề “chúng ta chưa có văn học”, được nêu ra bởi Andrei Turgenev vào năm 1801, Kiuchenberker vào năm 1825, và muộn hơn là Venevitinov, Naderjdin, Pushkin (xem phác thảo bài Về tính chất vô nghĩa của văn học Nga), Bielinski trong các bài Ảo tưởng về văn học. Ý nghĩa tương tự cũng có trong khẳng định về sau rằng, văn học Nga trước thời điểm (tất nhiên là trước thời điểm cái siêu văn bản này được tạo ra), không có được cái tính chất cơ bản và duy nhất cho phép được gọi là văn học, chẳng hạn là “tính nhân dân”. (Về sự tham gia của tính nhân dân vào văn học của Dobroliubov), hay “sự phản ánh đời sống nhân dân” (Nghệ thuật là gì của Tolstoi) v. v…Toàn bộ các tên tuổi và văn bản được đưa vào văn học phù hợp với các quan niệm lí thuyết nhất định về sau này càng được quy phạm hóa do các sách từ điển, sách bách khoa thư, sách tuyển tập thâm nhập vào ý thức của người đọc. Sắc thái tranh luận của toàn bộ văn học ấy bịmất đi, người ta quên đi tên tuổi của những người cụ thể đã tạo ra huyền thoại, và tất cả những gì được xem chỉ là ẩn dụ, phép khoa trương đày tính tranh cãi bắt đầu được tiếp nhận trong ý nghĩa trực tiếp.

Chúng tôi xin lấy ví dụ về cách đánh giá văn học vốn nảy sinh từ nhu cầu đấu tranh văn học đã biến thành một số kiểu mã ước lệ mà nhờ nó thế hệ sau đã dùng làm cơ sở để nêu ra các văn bản có ý nghĩa và giải mã chúng. Bielinski, người đấu tranh nhằm khẳng định văn học hiện thực, trong khi tranh luận đã khẳng định rằng, văn học Nga bắt đầu từ Pushkin (sự khẳng định này nhằm hướng tới trước hết chống lại truyền thông chủ nghĩa Karamzin đã mở đầu văn học Nga quý tộc với Karamzin; phê bình văn học Tháng Chạp và N. Polevoi còn gạch bỏ thế kỉ XVIII va chủ nghĩa cổ điển khỏi văn học.). Nhưng Bielinski, người có thái độ lạnh lùng và bất công đối với truyền thống văn học trước thời Piotr đại đế, lại là người am hiểu một cách tuyệt với văn học thế kỉ XVIII, và, mặc dầu đã nhiều lần phê bình nó rất gay gắt, tất nhiên, không cho rằng ai đó có thể hiểu lời lẽ của ông như là sự phủ nhận sự tồn tại của dòng văn học đó. Chúng ta nhớ rằng, trong thời đại của ông, Lomonosov và Derjavin vẫn còn là chuẩn mực của thị hiếu thẩm mĩ và cơ sở để đưa ra những phán đoán dung tục, còn tên tuổi của Karamzin vẫn được bao bọc trong vòng sùng bái của thế hệ. Tình hình đó buộc Bielinski phải cường điệu sự phủ định một cách đáng tranh cãi. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà Bielinski bắt đầu lịch sử văn học Nga khi thì từ Lomonosov, khi thì từ Kantemir, phụ thuộc vào sự tiến hóa trong quan niệm của ông. Về sau ý nghĩ cho rằng văn học Nga bắt đầu từ Pushkin, tách rời các ngữ cảnh do lịch sử quy định, được huyền thoại hóa một cách đặc biệt, không chỉ biến thành các bài báo đăng tạp chí phê bình văn học, qua đo biến thành ý thức  của người đọc giữa và cuối thế kỉ XIX, mà còn trở thành cở cho bộ lịch sử văn học hàn lâm, viết vào thời gian đó. Và thế là đến thế kỉ XX người ta lại phải “phát hiện” lại văn học Nga thế kỉ XVIII.

Như vậy là các hậu duệ nhận được từ mỗi thời kì văn học không chỉ là một tổng thể các văn bản, mà con cả cái huyền thoại mà nó tự tạo ra cho mình, một số lượng đáng kể các tác phẩm ngụy kinh, đã bị bác bỏ và trở thành chuyện vui. Nhưng bức tranh thực tế của đời sống văn học thường phức tạp hơn nhiều do tình trạng văn học một thời nào đó được dánh giá theo nhiều quan điểm khác nhau, trong đó giới hạn của khái niệm “văn học” có thể khác biệt nhau rất xa. Sự dao động của ranh giới đó bảo đảm cho hệ thống nói chung một lượng thông tin cần thiết.

Sự phân bố cái bên trên, bên dưới bên trong văn học, sự căng thẳng giữa các lĩnh vực này làm cho văn học trở thành không chỉ là tổng số các văn bản, mà còn là một văn bản, cơ chế thống nhất, thành tác phẩm nghệ thuật chỉnh thể. Sự thường hằng và sự thống nhất của các nguyên tắc cấu trúc này đối với văn học các dân tộc và thời đại khác nhau rất đáng được chú ý. Xem ra khi miêu tả văn học một thời đại như một văn bản thống nhất, chúng ta đã đi gần nhất đến nhiệm vụ vạch ra các phổ quát của văn học như là  một hiện tượng đặc trưng.

Sự phân loại nội tại của văn học được hình thành từ sự tác động qua lại của các khuynh hướng đối lập: ý hướng nói trên muốn phân bố các tác phẩm và thể loại, giống như bất cứ yếu tố có nghĩa nào khác của văn học nghệ thuật, các yếu tố trên cao và dưới thấp là một mặt, và mặt khác, khuynh hướng trung gian của cặp đối lập trên, khuynh hướng tước bỏ sự đối lập giá trị.

Phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, vào thời điểm khi một văn học nào đó đang trải qua, một khuynh hướng nào đó vượt lên trước. Nhưng nó không đủ sức xóa bỏ các đối lập, lúc đó chỉ còn có sự phát triển của văn học, bởi vì cơ chế của nó có phần được tạo thành từ sự căng thẳng giữa các khuynh hướng.

Một ví dụ khác về tổ chức nội tại của văn học như một cơ thể chỉnh thể, có thể là sự đối lập văn học “cao cấp” và văn học “đại chúng”. Trong phạm vi văn học thống nhất bao giờ cũng thấy được sự phân biệt văn học được tạo thành từ các tác phẩm độc đáo, chỉ hơi khó đồng nhất về mặt xếp loại, và đông đảo văn bản làng nhàng cùng loại[3]. Việc vạch ra một dấu hiệu nào đó, chỉ để quy nó vào một loại nói trên là rất khó. Bởi vì lịch sử văn học cho ta biết rằng, chúng dễ dàng và thường xuyên thay đổi các dấu hiệu ấy cho nhau. Chẳng hạn, thoạt nhìn có thể tưởng rằng, trong xã hội có giai cấp, văn học cao cấp nhất định có liên hệ với giai cấp thống trị, còn văn học “đại chúng” gắn bó với tầng lớp dân chủ. Chính các nhà xã hội học những năm 1920, cả V. B. Shklovski chiụ ảnh hưởng của họ trong chuyên luận nổi tiếng đã đuổi Matveia Komarov ra khỏi nhà văn nhân dân.

Trong khi đó trong lịch sử văn học đã có nhiều ví dụ cho thấy khi văn học thực sự đạt được đỉnh cao, thì về mặt ý thức hệ nó gắn với các tầng lớp xã hội thượng lưu, nhưng cũng có không ít trường hợp ngược lại. Và sở thích cá nhân của Nicholas I, được đào tạo bởi  sự quá độ từ đạo đức tiểu thị dân của sự thân tình kiểu cảm thương chủ nghĩa Maria Feodorovna sang chủ nghĩa lãng mạn hạ lưu và lợi ích xã hội của các lực lượng xã hội được họ quan niệm nằm ở phía văn học “đại chúng” của Bulgarin, Zagoskin và Kukolnich, chứ không phải ở phía văn học “đỉnh cao” như Pushkin hay Lermontov.

Cả văn học đỉnh cao lẫn văn học đại chúng tách riêng ra trong những điều kiện lịch sử cụ thể đều có những ý nghĩa rất khác nhau về mặt xã hội, thẩm mĩ hay triết học. Cái thường xuyên là sự đối lập của chúng về mặt chức năng[4]. Để hiểu các khái niệm này một cách cụ thể, chúng ta sẽ xem xét vấn đề “văn học đại chúng” một cách  cụ thể.

Niềm hứng thú đối với văn học đại chúng nảy sinh trong nghiên cứu văn học cổ điển Nga như là một phản động lực đối với truyền thống lãng mạn nghiên cứu các nhà văn “vĩ đại”, những người tách rời với thời đại và quay lưng lại với nó. Viện sĩ A. N. Veselovski so sánh các nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở của lí thuyết về “các anh hùng, các lãnh tụ, những người lẩm nhân loại” – trong tinh thần của tư tưởng Carlyle và Emerson – với một công viên theo phong cách của thế kỷ XVIII, trong đó “tất cả các con đường đều xây theo rẽ quạt hoặc theo hình bán kính đối với cung điện hoặc đối với một số tượng đài giả cổ điển nào đó, sao cho đứng ở đâu cũng không thấy được hoặc không được chiếu sáng tượng đài  hoặc giống như là nó không nằm ở vị trí trung tâm.”[5].

“Khoa học hiện đại, ông viết tiếp, cho phép mình nhìn vào những tầng lớp đaỊ chúng mà cho đến khi đó vẫn còn ở phía sau lưng họ, bị tước mất tiếng nói, nó nhìn thấy ở họ cuộc sống, phong trào, những điều mà mắt thường không nhận thấy, giống như tất cả những gì đang diễn ra trong quy mô không gian và thời gian cực lớn; các động cơ bí mật của quá trình lịch sử cần được tìm ở đây, và cùng với sự giảm bớt các tìm tòi lịch sử về mặt vất chất, trọng tâm nghiên cứu sẽ phải chuyển vào đời sống của nhân dân”[6].

Cách tiếp cận đó đã được thể hiện trong các tác phẩm của A. N. Pypin, V.V. Sipovsky, bản thân Veselovsky, và sau đó là V. N. Peretz, M. N. Speranskii và nhiều nhà nghiên cứu khác, đã dẫn đến mối quan tâm đối với văn học đại chúng và của tầng lớp dưới. Mang trong mình tính chất dân chủ nổi bất như một hiện tươịng ý thức hệ, phương pháp này với ý nghĩa khoa học đích thực, đã gắn liền với việc mở rộng phạm vi của các đối tượng nghiên cứu, và đưa vào lịch sử văn học những phương pháp đã nảy sinh từ mảnh đất nghiên cứu văn học dân gian trồng trên đất, và phần nào là các thủ pháp của nghiên cứu ngôn ngữ học.

Sự chỉ trích mà nhiều trường hợp vận dụng cách tiếp cận này vào lịch sử văn học là do người ta đã đánh dầu bằng giữa tính đại chúng và ý nghĩa lịch sử của hiện tượng văn học.

Tiêu chí của giá trị tư tưởng và thẩm mỹ của các văn bản đã bị vứt bỏ như là cài gì “phi khoa học”. Bản thân thuật ngữ “tác phẩm nghệ thuật” đã được thay thế bằng một khái niệm “tích cực” hơn là “đài kỉ niệm văn chương.” Việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian và văn học trung đại vào văn học không hề ngẫu nhiên, bởi vì, bởi vì tronng các văn bản mà họ nghiên cứu, trái với truyền thống của Buslaev (mà những người kế tục truyền thống đó sau này là các viện sĩ A. X. Orlov, I. P. Eremin, D. X. Likhachev), họ nhìn thấy không phải là tác phẩm nghệ thuật mà chỉ là “đài kỉ niệm ngôn từ”.

Việc nhà khoa học đánh mất sự thể nghiệm thẩm mỹ trực tiếp của văn bản đã được hìểu như là một tình huống thuận lợi. Nhà khoa học không cần kiến tạo lại một kinh nghiệm thẩm mỹ của văn bản người khác, và lại còn cắt đứt thể nghiệm này ngay cả khi xem xét những văn bản gần gủi. Khi đó tác phẩm sẽ biến thành một đài kỉ niệm, còn nhà nghiên cứu được nâng lên tận đỉnh cao của lối nghiên cứu tích cực của ông ta. Điều này đã cho thấy qua cuốn “Lịch sử tiểu thuyết Nga” của V. V. Sipovsky.

Một bước tiến xa hơn trong việc nghiên cứu văn học đại chúng đã được thực hiện trong những năm 1920. Những nỗ lực không thành công của các nhà xã hội học trong đồng nhất văn học đại chúng với các dòng văn học dân chủ trong văn học Nga, đồng thời làm mất uy tín các giá trị văn hóa cao cấp như là những giá trị xa lạ với nhân dân về mặt giai cấp, rất ít có khă năng đẩy vấn đề đi tới. Có hiệu quả hơn nhiều là ý định của các nhà nghiên cứu muốn  xem xét sự tương tác của các bình diện đại chúng và đỉnh cao trong lịch sử văn học.

Đó chính là vấn đề mà Zhirmunsky đặt ra trong công trình của ông  Byron và Pushkin, nơi mà sự đòi hỏi “nghiên cứu rộng rãi về văn học đại chúng của thời đại” đã gắn liền với sự tương tác của nó với các quá trình của văn học “đỉnh cao”. Một số quan sát thú vị đã được thực hiện bởi B. M. Eykhenbaum và V. B. Shklovsky. Đồng thời Ju. N. Tynyanov tạo ra một lý thuyết vững chắc, trong đó cơ chế của sự tiến hóa văn học được xác định bởi sự ảnh hưởng lẫn nhau và thay đổi chức năng lẫn nhau của các lớp văn học “bên trên” và “bên dưới”. Trong văn chương phi quy phạm nằm ngoài giới hạn của các quy phạm văn nhọc nói trên văn học hấp thu các phương tiện dự trữ  cho các giải pháp sáng tạo của các thời đại tương lai.

Mặc dù sơ đồ mà Tynianov đề xuất phần nào bị đơn giản hóa, nhưng ông có một vinh dự không thể phủ nhận là người  đầu tiên mô tả cơ chế vận động lịch đại của văn học. Đỉnh cao xem xét văn học như là một cuộc đấu tranh, căng thẳng giữa văn hóa “lớp trên” và “lớp dưới”, trung lập hóa cái sự căn thẳng kia trong các văn bản lưỡng tính và tương quan của quá trình này với sự tiến hóa chung của văn hóa, không bàn cãi gì nữa, cho đến nay vẫn là cuốn sách  Sáng tác của Francois Rabelais và văn hóa dân gian thời Trung đại và Phục hưng.

Khái niệm văn học đại chúng – là một khái niệm xã hội học (về mặt ký hiệu học – là khaúi niệm “dụng học”). Nó đề cập không chỉ là cấu trúc của một văn bản nào đó, mà còn là chức năng xã hội của nó trong toàn bộ hệ thống các văn bản tạo nên nền văn hóa này. Như vậy, khái niệm này trước hết được xác định mối quan hệ của một nhóm người này đối với một nhóm các văn bản nào đó. Cùng một tác phẩm mà theo quan điểm này thì nó được bao hàm vào văn học đại chúng, còn theo quan điểm khác lại bị loại trừ ra. Chẳng hạn, thơ Tyutchev, theo quan điểm của Pushkin, là một sự kiện của văn học đại chúng; Belinsky liệt Baratynsky vào đó. Nhưng đối với chúng tôi, Tiuchev không liệt vào đó, và đối với Pushkin cũng không liệt Batatynski vào đó.

Các tác phẩm của Petrov mặc dù bị  Novikov nhận xét có phần mỉa mai trong cuốn  Kinh nghiệm về ngôn từ lịch sử của các nhà văn Nga chúng đã được các nhà văn đương thời xem đỉnh cao của văn học. Pushkin trong bài thơ của ông đọc trong bài thi dịch ở trường trung học năm 1815, khi đánh giá văn học Nga thế kỷ XVIII, trong số các nhà thơ Nga đương thời, ông chỉ gọi  có hai người là  ​​Derzhavin và Petrov, đặt họ cạnh nhau. Và Derzhavin  không hề cảm thấy bị xúc phạm hay phản đối, mặc dù ở ông đã có một cảm giác về đẳng cấp thơ ca được phát triển rất mạnh mẽ.

Đối với chúng ta – Petrov một ví dụ sinh động của văn học đại chúng của thế kỷ XVIII. Một sự xáo trộn tương tự cũng đã xảy ra với Kheraskov.

Văn học đại chúng cần có hai đặc trưng mâu thuẫn với nhau. Thứ nhất,  nó cần phải hiện ra như một văn học có số lượng phổ biến. Khi xem xét các dấu hiệu về “phổ biến hơn hay ít phổ biến”, “được đọc nhiều hơn hay ít được đọc hơn”, “được biết đến nhiều hơn hay ít được biết đến hơn” văn học đại chúng sẽ có đặc trưng nổi bật.  Do đó, trong một số lượng nhất định, nó sẽ được ý thức như là một hiện tượng văn học có đầy đủ giá trị văn hóa, và có đủ tất cả mọi phẩm chất cần thiết cho chức năng thẩm mỹ. Tuy nhiên, thứ hai, cùng trong một xã hội đó cần phải hành động và tác động tích cực các quy phạm và quan niệm, mà theo đó thì văn học này không chỉ được đánh giá là cực kì thấp, như là cài tồi, cái thô thiển, cái cũ rích, hay là theo một  tiêu chí khác nó bị loại trừ, chối bỏ, cái ngụy tạo hoặc như là cái không tồn tại nói chung.

Đôi khi sự loại trừ này sẽ nâng cao hứng thú đối với văn bản. Ví dụ, trong thời đại của Pushkin, người đọc dường như có hai bậc thang thứ tự giá trị thơ ca tồn tại song song nhau. Một giá trị quan phương – sẽ được phổ biến trong các bản in, và một giá trị khác – “bị bỏ rơi” như các sổ tay viết nháp:

                                        Tôi giấu cuốn sổ tay

 Da dê bí mật. Cuộn giấy quý giá này, Được giữ gìn bao thế kỷ Không chothành viên của sức mạnh Nga Người anh em họ, người lính long kị binh được biết Tôi đã viết không công Mà bạn hình như còn ngờ vực… Chẳngkhó để đoán ra; Vì các tác phẩm này, Khinh thường sựin ấn …[7]

Mối quan hệ giữa các nhóm này có thể được hình thành bởi những con đường khác nhau nhất. Chẳng hạn, văn học đại chúng có thể sao chép văn bản “cao cấp”, tạo ra một biến thể sơ lược, dịch sang một thứ ngôn ngữ thô thiển hơn nhiều. Trên chất liệu của tranh dân gian Lithuania thể hiện tuyệt vời khát  vọng mô phỏng các loại hội họa baroque “cao cấp.” Trường ca đại chúng của chủ nghĩa lãng mạn Nga bắt đầu từ những năm 1820. quy phạm hóa các chuẩn mực của  “trường ca miền Nam” của Pushkin, biến chúng thành những khuôn mẫu.

Có thể có một quan hệ khác, mà dựa trên cơ sở đó không có  tham vọng so sánh với văn học cao cấp, mà đấu tranh với văn học ấy, nhưng chỉ trong phạm vi của các quy phạm cấu trúc chung mà văn học cao cấp nhấn mạnh. Trong trường hợp này xxuất hiện lối giễu nhại kiểu “Dịch vụ quán rượu” thế kỷ XVII. hoặc những bài thơ mô phỏng anh hùng của thế kỷ XVIII. Văn học đại chúng tự cho mình là một văn học phản chiếu gương lộn ngựôc văn học cao cấp với một hệ thống đánh giá giá trị luận ngược lại[8].

Xuất hiện những quy tắc của văn học “bị bỏ rơi”, các tác phẩm kinh điển của nó và khuôn mẫu của nó. Chẳng hạn, nếu trong văn học Nga XVIII – đầu thế kỷ XIX. Các quy phạm của thơ ca cao cấp đòi hỏi địa vị cho “người ca sĩ cao cả”,  ​​của người hát rong ca ngợi chiến công, người lên án cac s thói xấu,  mà tại các thời điểm khác nhau Derzhavin hoặc Kapnist, Gnedich hoặc Ryleyev đều muốn đóng vai, thì lập trường đó nay lại có một kẻ đồng dạng độc đáo trong phạm vi mà giờ đây chúng tôi muốn xem xét (giống như một vị thánh thời trung cổ trong kinh điển đều cccó một kẻ đồng dạng bên ngoài thứ bậc trên dưới quan phương dưới dạng một kẻ ngốc nghếch).  Đó là hình tượng vừa cao cả vừa buồn cười. Nhà thơ và một kẻ say rượu, một tác giả tụng ca cao cả  và một nhà châm biếm, một mặt, là thơ quán rượu – mặt khác, là tiểu sử của một người mà khi con sống cuộc đời của anh ta đã trở thành một truyện cười, mà hành vi của anh ta vừa khẳng định lại vừa chế nhạo các chuân mực của thơ ca cao cả.

Như vậy, ở đây chúng ta đang phải đối diện không phải với một tổng số cố định các văn bản, được sẵp xếp trên giá sách của các thư viện, mà với các cuộc xung đột, căng thẳng, các “trò chơi” của các lực lượng tổ chức khác nhau.

Người ta có thể dừng lại ở sự căng thẳng nội tại được tạo ra trong văn học hiện đại với sự cùng tồn tại đồng thời của thơ ca và văn xuôi, các loại khác nhau của chúng vừa đẩy nhau và vừa mô phỏng nhau. Tuy nhiên, điều này vẫn thường được thực hiện. Tạo một danh sách đầy đủ của tất cả các đối lập vốn có của văn học như là một cơ chế thống nhất là một vấn đề của tương lai.

Nhưng nhiệm vụ này là khả thi và, hơn nữa, cực kỳ quan trọng bức thiết: nếu không, thì không thể có so sánh loại hình của văn học và không xây dựng được lịch sử văn học toàn thế giới. Tuy nhiên, nhiệm vụ này không phải là một mục tiêu của công trình này, nguyện vọng của nó khiêm tốn hơn nhiều. Chúng tôi đã cố gắng để chứng minh rằng văn học như một toàn thể năng động, nó không thể được mô tả trong giới hạn của một trật tự duy nhất.

Văn học tồn tại như một đa bội nhất định của nhiều trật tự, từ đó mối nền văn học chỉ tổ chức một phạm vi nhất định của mình. nhưng đồng thời tìm cách mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó càng nhiều càng tốt. Trong “cuộc sống” của mỗi giai đoạn lịch sử văn học cuộc đấu tranh của các xu hướng này là cơ sở để làm cho văn học có khả năng biểu hiện các lợi ích của các lực lượng xã hội khác nhau,  đấu tranh của các quan niệm đạo đức, chính trị, triết học của thời đại.

Khi bước vào một thời điểm lịch sử mới, tính tích cực mô hình hoa của văn học được thê hiện, nói riêng về khi nó tích cực sáng tạo ra quá khứ của mình, lựa chọn từ trong vô vàn cái tổ chức của ngày hôm qua một mô hình và quy phạm hóa nó (chẳng hạn, thời Phục hưng đã chọn thời cổ đại đã giản lược hóa). Quá trình này được giảm nhẹ bởi một thực tế là mỗi khuynh hướng mâu thuẩn nhau về ý định gây tranh cãi tự khẳng định tính phổ quát của nó. Trong quá trình quy phạm hóa lịch sử và khoa học như thế, bản thân các các văn bản được biến đổi, bởi vì trong văn học ngày hôm qua chúng đã tồn tại như một phần của quần thể, một yếu tố của cơ chế, và giờ đây trở thành đại diện duy nhất của thời đại.

Tuy nhiên, khi một giai đoạn lịch sử mới của nền văn hóa đến, và các nhà khoa học của thế hệ tiếp theo phát hiện ra một khuôn mặt mới, hình như là của các văn bản đã được nghiên cứu từ lâu, họ kinh ngạc trước sự mù quáng của những người đi trước của mình và chẳng suy nghĩ về những điều các nhà phê bình văn học tương lai sẽ nói về chính họ. Trong khi đó, cái khả năng đáng kinh ngạc này của của các văn bản nghệ thuật cung cấp tài liệu cho tất cả các khám phá mới cần phải được chú ý, bởi vì nó thể hiện một số đặc tính bản chất của tổ chức văn học như là một cơ chế đồng đại.

 

Người dịch: Trần Đình Sử

Nguồn: Ю.М. Лотман.-Избранные статьи. Т. 1. – Таллинн, 1992. – С. 203-216

 

[1]Khái niệm về văn bản được tiếp nhận ở đây phù hợp với các định nghĩa đưa ra ở trên (xem bài báo Lời nói trong viễn  cảnh văn hóa lịch sử). Văn bản có thể được thể hiện bằng các kí hiệu bằng lời nói (văn hóa dân gian), được định hình bằng các phương tiện của chữ viết, được diễn (thể hiện trong hệ thống các kí hiệu sân khấu).

[2]Chức năng văn hóa của văn bản, có tính lưỡng tính trong mối quan hệ với cặp đối lập Trên / Dưới” và cơ chế của chức năng trao đổi giữa “đầu” và “đít” mà M. M.  Bakhtin xem xét trong chuyên khảo “Sáng tác Francois Rabelais và Văn hóa dân gian của thời Trung cổ và Phục hưng” (M., 1965).

[3]Chúng tôi không xem xét vấn đề “Văn học và văn học dân gian” là một vấn đề riêng biệt và phức tạp, để dừng lại ở việc xem xét các chức năng bên trong của văn học viết.

[4]Cơ chế trung hòa, tất nhiên, tác động cả ở đây, ví dụ như trong trường hợp nghệ thuật cao cấp có ý thức định hướng vào “đại chúng” – ví dụ như niềm đam mê đối với thủ pháp thô sơ, các hình thức cổ xưa của văn học hay thơ ca của trẻ em.

[5]Veselovski  A. N. Thi pháp học lịch sử. L. 1940. C. 43.

[6]Veselovski A. N. Tác phẩm đã dẫn,. C. 44.

[7]Pushkin A.S. Toàn tập. Bộ 16 tập, M.,1937. T. 1. C. 99.

[8]Xem  Lotman. Ju. M.., B.  A. Uspenski.- Về cơ chế ký hiệu học của văn hóa / / Tác phẩm về các hệ thống kí hiệu. Tartu, 1971. T. 5. (Tạp chí khoa học của Đại học tổng hợp Tartu, số 284).