Thuật Ngữ Hacker Là Gì / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Bàn Về Cách Dùng Thuật Ngữ Hacker

Ngược dòng lịch sử, từ hacker xuất hiện vào thế kỷ 14 và được dùng để chỉ “một người thiếu kinh nghiệm và tay nghề non nớt trong một lĩnh vực nào đó” (Robert Graham, 2001), chẳng hạn như golf hacker – người chơi golf kém.

Vào những năm 70, những người say mê máy tính tự gọi mình là hacker. Điều này phản ánh cách thức sử dụng máy tính của họ: Không được đào tạo một cách chính thức và tự mày mò cho đến khi có thể khiến nó làm việc. Điều này cũng giống như một goft hacker cố gắng đánh bóng cho đến khi nào nó lọt lỗ. Hơn nữa, khi “các chuyên gia” nghiên cứu sâu hơn về công nghệ, họ nhận ra “khoảng trống vô tận” trong kiến thức của mình. Và nếu tự gọi mình là hacker, những người này muốn ám chỉ rằng họ không biết gì cả.

Ngày nay, nếu nhập từ khoá hacker trong bất kỳ một chương trình tìm kiếm nào, đôi lúc kết quả sẽ cho ra những nghĩa khác nhau và được sử dụng vào các thời điểm khác nhau.

Sau khi nghĩa mới cho từ hacker xuất hiện vào những năm 70, thì ý nghĩa ban đầu của nó là để chỉ sự nể phục các chuyên gia lập trình và thiết kế máy tính.

Cộng đồng các chuyên gia máy tính “chân chính” thường đề cập đến những người có mục đích phá hoại bằng máy tính là cracker. Còn đối với giới bảo mật, cracker được coi là những kẻ chuyên phá mã khoá phần mềm và bản quyền.

Kết quả là, khi một nhà báo viết về tội phạm máy tính sử dụng từ hacker hay cracker đều nhận được những lời chỉ trích về cách dùng từ sai. Nếu một bài báo viết về hacker đột kích vào hệ thống máy tính, thì tác giả của nó sẽ nhận được lời phản đối rằng không phải tất cả hacker đều xấu và từ phải sử dụng là cracker. Tương tự như vậy, khi viết về cracker phá khoá hệ thống, người viết sẽ nhận được các bức thư phàn nàn rằng cracker chỉ phá mã khoá, còn các tay hacker mới là kẻ đột nhập.

Một giải pháp mà website về từ điển Sew-lexicon đưa ra, khi định nghĩa về hacker, được coi là có tính trung hoà. Trang này chia hacker thành 3 loại khác nhau: Hacker mũ trắng, Hacker mũ xám và Hacker mũ đen.

Hacker mũ trắng là những người thích tìm hiểu tận gốc cơ chế hoạt động của hệ điều hành và hệ thống mạng. Mũ xám được dành cho những hacker có mục đích công bố các lỗ hổng bảo mật trong phần mềm và thường sau đó sẽ đưa phát hiện của mình lên Internet. Cuối cùng, chụp lên mình chiếc mũ đen là những kẻ tận dụng các khe hở bảo mật mà hacker mũ xám đưa ra để thực hiện hành vi phạm pháp.

Như vậy, những nguyên tắc đạo đức chung của cộng đồng hacker thuộc thế hệ đầu tiên là sự chia sẻ thông tin kỹ thuật. Tuy nhiên, hành động phá huỷ, làm biến dạng hay dịch chuyển thông tin gây ra thiệt hại thì không bao giờ được coi là đúng chuẩn mực của hacker chân chính.

Văn Bình

Thuật Ngữ Ota Là Gì?

Trong ngành khách sạn nói riêng và du lịch nói chung, OTA viết tắt của Online Travel Agent là một thuật ngữ khá phổ biến. Vậy bạn có biết OTA là gì? OTA dùng để làm gì? Tại sao lại cần OTA?

Thuật ngữ OTA là gì?

OTA viết tắt của Online Travel Agent là một thuật ngữ được dịch sang tiếng Việt là đại lý du lịch trực tuyến, bán các sản phẩm dịch vụ du lịch đơn lẻ hoặc các gói dịch vụ như: phòng khách sạn, tour du lịch, vé máy bay, vé xe … cho các đơn vị cung cấp dịch vụ. Các giao dịch mua bán, được đặt qua các đại lý (qua các website, ứng dụng trung gian) và hình thức thanh toán có thể là thanh toán qua cho đơn vị trung gian hoặc trực tiếp nhà cung cấp dịch vụ khi sử dụng dịch vụ.

Nhà cung cấp dịch vụ phải trả phần hoa hồng cho đơn vị trung gian khi khách hàng đặt dịch vụ qua đặt qua các đại lý (qua các website, ứng dụng trung gian). Thông thường khi khách hàng mua gói dịch vụ như cả khách sạn và vé máy bay sẽ rẻ hơn nếu mua lẻ khách sạn + mua lẻ vé máy bay trên cùng một trang web hoặc ứng dụng trung gian (đại lý).

Mô hình OTA đã rất phát triển trên thế giới với những tên tuổi lớn như: chúng tôi chúng tôi , AirBNB, Traveloka,… Ở Việt Nam, các trang như: chudu24, mytour, chúng tôi chúng tôi Abay.vn… chính là các mô hình OTA tại Việt Nam.

Tại sao lại sử dụng OTA?

Theo thống kê đến năm 2016 trên thế giới có khoảng 3.5 tỷ người dùng internet. Theo số liệu báo cáo từ tổ chức We Are Social, tính đến tháng 01 năm 2018, dân số Việt Nam có 96.02 triệu người với tỉ lệ đô thị hóa là 35%. Báo cáo này cũng cho biết, tổng số người dùng Internet ở quốc gia hình chữ S vào tháng 01/2018 là 64 triệu người.

Việc triển khai 3G, 4G và các thiết bị di động ngày càng rẻ và được phổ cập giúp số lượng người tiếp cận và sử dụng internet ngày càng gia tăng. Và việc tìm kiếm thông tin trên internet là xu hướng tất yếu được hầu hết mọi người sử dụng internet quan tâm.

Tham gia vào các kênh OTA sẽ giúp gia tăng đáng kể cơ hội tiếp cận khách hàng trên khắp thế giới, không phân biệt khoảng cách. Mặc dù mỗi doanh nghiệp đều website riêng nhưng các doanh nghiệp như khách sạn vẫn cần hợp tác với các OTA. Bởi các đại lý du lịch trực tuyến là một kênh marketing hiệu quả cho khách sạn. Sự hiện diện tên khách sạn trên nhiều website như vậy sẽ tạo được ấn tượng về mặt thương hiệu và người dùng cũng sẽ dễ dàng đặt phòng hơn. Khách sạn cũng không bỏ ra nhiều chi phí để marketing online vì các OTA sẽ thực hiện việc này.

Những ưu điểm khi sử dụng kênh bán dịch vụ trực tuyến OTA

– Các trang quản trị OTA thường có phần thống kê khách truy cập giúp nhà quản lý có thể theo dõi, thống kê khách và đưa ra các chiến lược giá phù hợp hay từng thị trường mục tiêu.

Hạn chế khi sử dụng kênh bán dịch vụ trực tuyến OTA

– Người đăng ký, sử dụng phải biết hoặc đã được đào tạo thì mới có thể đăng ký, sử dụng được. – Người bán phải trả phần hoa hồng cho đối tác làm giảm doanh thu/lợi nhuận, tăng thêm chi phí của doanh nghiệp.

Thuật Ngữ Erp Là Gì?

E: Enterprise (Doanh Nghiệp)

Đây chính là đích đến thật sự của ERP. ERP cố gắng tích hợp tất cả các phòng ban và toàn bộ chức năng của công ty vào chung một hệ thống máy tính duy nhất mà có thể đáp ứng tất cả các nhu cầu quản lý khác nhau của từng phòng ban.

Chẳng hạn, về khâu Nhận đơn hàng. Thông thường, khi một khách hàng nào đó đặt hàng, đơn hàng đó thường đi theo một lộ trình dài trên mặt giấy tờ. Nào là nhận thông tin, lưu trữ, xử lý thông tin qua các hệ thống máy tính khác nhau của từng bộ phận lòng vòng trong công ty. Cách làm đó thường gây ra trễ hẹn giao hàng cho khách và thiệt hại nhiều đến đơn hàng. Vì bạn có thể hiểu rằng không một ai trong công ty có thể biết rõ tình trạng của đơn hàng vào thời điểm quy định như thế nào? Bởi vì chẳng có cách nào cho bộ phận Tài chính, chẳng hạn, cập nhật vào hệ thống máy tính của bộ phận Kho để xem mặt hàng đó đã gửi hay chưa. “Anh phải gọi cho Kho hỏi thử xem!”– là một điệp khúc kêu ca quen thuộc từ phía khách hàng.

Như vậy, ERP là gì? Đó là sự kết hợp toàn bộ các hệ thống riêng lẻ vào chung một chương trình phần mềm tích hợp, chạy trên một cơ sở dữ liệu để các bộ phận có thể dễ dàng chia sẻ thông tin và tương tác với nhau. Việc tích hợp này sẽ mang lại nhiều lợi ích nếu các công ty biết thiết lập phần mềm một cách đúng đắn.

Chức năng của ERP là gì? Nó loại bỏ các hệ thống máy tính riêng lẻ ở bộ phận Tài chính, Nhân sự, Sản xuất và Kho,và thay thế chúng bằng một chương trình phần mềm hợp nhất phân chia theo các phân hệ phần mềm khác nhau xấp xỉ gần đúng với các hệ thống riêng lẻ cũ. Tài chính, Sản xuất và Kho vẫn sẽ có phần mềm riêng của họ ngoại trừ giờ đây phần mềm sẽ được nối kết lại để nhân viên ở bộ phận Tài chính có thể nhìn vào phần mềm của Kho để xem đơn hàng đã xuất chưa. Hầu hết các nhà cung cấp phần mềm ERP linh động trong việc cài đặt một số phân hệ theo yêu cầu, ngoại trừ việc mua toàn bộ. Ví dụ, một số công ty chỉ cài đặt một phân hệ Tài chính hay quản lý Nhân sự và các chức năng còn lại sẽ triển khai sau.

R: Resource (Tài Nguyên)

Trong kinh tế, resource là nguồn lực (tài chính, nhân lực, công nghệ). Tuy nhiên, trong ERP, resource có nghĩa là tài nguyên (TN). Trong CNTT, tài nguyên là bất kỳ PM, phần cứng hay dữ liệu thuộc hệ thống mà có thể truy cập và sử dụng được. Ứng dụng ERP vào quản trị DN đòi hỏi DN phải biến nguồn lực (NL) thành tài nguyên (TN). Cụ thể là:

Phải làm cho mọi bộ phận của đơn vị đều có khả năng khai thác NL phục vụ cho DN.

Phải hoạch định và xây dựng lịch trình khai thác NL của các bộ phận có sự phối hợp nhịp nhàng.

Phải thiết lập được các quy trình khai thác đạt hiệu quả cao nhất.

Phải luôn cập nhật thông tin tình trạng NL DN một cách chính xác, kịp thời.

Muốn biến NL thành TN, DN phải trải qua một thời kỳ ‘lột xác’, thay đổi văn hóa kinh doanh trong và ngoài DN, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa DN và nhà tư vấn. Đây là giai đoạn ‘chuẩn hóa dữ liệu’. Giai đoạn này quyết định thành bại của việc triển khai hệ thống ERP, chiếm phần lớn chi phí đầu tư cho ERP.

P: Planning (Hoạch Định)

Planning là khái niệm quen thuộc trong quản trị kinh doanh. Điều cần quan tâm ở đây là hệ ERP hỗ trợ DN lên kế hoạch ra sao? Trước hết, ERP tính toán và dự báo các khả năng sẽ phát sinh trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh của DN. Chẳng hạn, ERP giúp nhà máy tính chính xác kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu (NVL) cho mỗi đơn hàng dựa trên tổng nhu cầu NVL, tiến độ, năng suất, khả năng cung ứng… Cách này cho phép DN có đủ vật tư sản xuất nhưng vẫn không để lượng tồn kho quá lớn gây đọng vốn. ERP còn hỗ trợ lên kế hoạch trước các nội dung công việc, nghiệp vụ cần trong sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, hoạch định chính sách giá, chiết khấu, các kiểu mua hàng giúp tính toán ra phương án mua nguyên liệu, tính được mô hình sản xuất tối ưu… Cách này giảm thiểu sai sót trong xử lý nghiệp vụ.

ERP – Hệ Thống Hoạch Định Tài Nguyên Doanh Nghiệp Tổng Thể

Phúc Gia® – Đơn Vị Hàng Đầu Cung Cấp Các Dịch Vụ Hải Quan:

CÂU HỎI THƯỜNG GẶP:

Tại Sao Với Giá Dịch Vụ Ở Phân Khúc Cao, Phúc Gia® Vẫn Được Các Doanh Nghiệp Lựa Chọn Là Đơn Vị Tin Cậy Hàng Đầu Với Các Dịch Vụ Hải Quan?

Đây cũng là băn khoăn của nhiều khách hàng trước khi lựa chọn Phúc Gia® là đơn vị cung cấp các Dịch vụ Hải quan.

Trong hơn 5 năm qua Phúc Gia® đã phục vụ hơn 500 Doanh nghiệp lớn nhỏ trong Nước và Quốc tế, hơn 90% trong các Doanh nghiệp đã sử dụng các Dịch vụ Hải quan của Phúc Gia® đều nhận xét rằng chất lượng Dịch vụ xứng đáng với số tiền họ bỏ ra.

Khách hàng nhận xét rằng: “Với mức giá Doanh nghiệp phải bỏ ra khi sử dụng các Dịch vụ Hải quan của Phúc Gia® là RẺ hơn nhiều so với chi phí và khoảng thời gian Doanh nghiệp tự tìm hiểu để hoàn thành các công việc như: Tự mang sản phẩm đi thử nghiệm; Tự tìm hiểu để soạn hồ sơ; Tự làm việc với các bộ ban ngành để hoàn chỉnh hồ sơ; Tự làm giấy phép Thông quan…”

Phúc Gia® cam kết tối ưu hóa thời gian, tâm trí, sức lực và tiền bạc trong quá trình Thông Quan hàng hóa cũng như GIẢM THIỂU RỦI RO trong quá trình cấp giấy phép!

BÀI VIẾT LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH VỤ LOGISTICS PHÚC GIA®:

Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ: CÔNG TY CỔ PHẦN LIÊN MINH PHÚC GIA (PGU – Nhấn vào đây để xem thông tin Cty) Phone: 02477796696/ 0982996696 Email: info@phucgia.com.vn “Liên Minh Phúc Gia – Vì cuộc sống tiện nghi” Chúng tôi mong muốn mang lại nhiều “GIÁ TRỊ TỐT NHẤT” cho bạn!

5

/

5

(

1

bình chọn

)

Các Thuật Ngữ Mới Manga Là Gì

Các thuật ngữ chỉ người

Tính riêng các thuật ngữ chỉ người thôi, thì manga là gì và những con người “sống” trong nó ra sao với những tính cách muôn hình vạn trạng thế nào đã khiến cho không ít người mới “nhập môn” phải điên đầu. 

Bài viết sẽ không đề cập đến các thuật ngữ đã quá quen thuộc như shounen (con trai), shoujo (con gái), mà thay vào đó là những từ nghe qua có vẻ lạ lẫm như: Bishounen (美少年) là từ để chỉ mấy anh chàng đẹp trai, đẹp trai kiểu này thì theo quan niệm của người Nhật là nét đẹp phi giới tính. 

Ngược lại với Bishounen (美少年) thì sẽ có Bishoujo (美少女), tức là những cô gái có vẻ đẹp hấp dẫn (theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng).

Về độ tuổi thì chúng ta có thuật ngữ mà ai mới biết đến manga là gì cũng sẽ hơi “bối rối”, bởi các nhân vật trẻ có Chunibyo (hội chứng tuổi teen, hoang tưởng tuổi dậy thì) thường sẽ có xu hướng hành động khó hiểu. 

Các nhân vật có hội chứng Chunibyo thường là người bình thường, rất bình thường thôi nhưng lại luôn nghĩ mình là một nhân vật có sức mạnh tưởng tượng như ác quỷ, ma cà rồng, phù thủy, chiến binh hoặc một người có huyết thống đặc biệt (huyết thống hoàng gia chẳng hạn). 

Tuyến nhân vật Chunibyo thường có cách ứng xử lạ lùng, cách ăn mặc thường theo phong cách Gothic và thỉnh thoảng có quấn vài miếng băng gạc máu me để “hợp” với “nhân vật tưởng tượng” mà họ muốn hóa thân thành.

Nói về con gái thì ai mới “nếm trải” thế giới muôn màu của manga là gì hẳn sẽ mê mệt với những cô gái dễ thương dễ mến – những cô gái này thường được gọi bằng một thuật ngữ Dojikko (ドジっ子, “ngốc nghếch”). Một cô gái Dojikko thường có xu hướng ngốc nghếch, vụng về nhưng lại rất đáng yêu. Sự vụng về của họ sẽ ít nhiều làm tổn thương người khác hoặc chính bản thân họ. 

Theo mạch nói về tính cách, thì trong tiếng Nhật có một thuật ngữ “Deres”, xuất phát từ “deredere”: ý chỉ việc đang đắm chìm trong tình yêu. Khi kết hợp “deres” với những từ ngữ khác, người Nhật sẽ có được hàng loạt các từ mới để miêu tả tính cách nhân vật: tsundere, kuudere, dandere, và yandere.

Hoặc như các Waifu – vợ tưởng tượng – của các anh thanh niên đam mê anime, manga và thường xuyên tự nhân các nhân vật 2D là vợ của mình, từ này được xuất phát từ Azumanga Daioh.

Trong không gian gia đình, còn có một dạng nhân vật đó là các Hikikomori, những nhân vật này thường có tính nết tương tự như các Otaku, nhưng họ sống khép kín hơn hẳn. Họ từ chối rời khỏi nhà dù dưới bất cứ sức ép nào. Hội chứng này để hiểu thì đó là một câu chuyện dài, nhưng để hiểu nhanh thì có thể xét ở các nét tương đồng với hội chứng sợ đám đông.

Kemonomimi chỉ những nhân vật sở hữu các đặc điểm của động vật như tai hoặc đuôi. Người Nhật rất thích những thứ dễ thương, như tai mèo, đuôi mèo, tai cáo… nên chẳng lạ gì khi họ “gán” những đôi tai xinh xắn đó lên đầu của các nhân vật nam, hoặc nữ đẹp trai, xinh gái để… tăng sức sát thương cho người xem.

Nekomimi cũng là một “nhánh nhỏ” của Kemonomimi, cụ thể thì các nhân vật sẽ có tai mèo và đuôi mèo, phần còn lại là cơ thể người. Những nhân vật này cũng tự nhiên sở hữu các đặc trưng tính cách như mèo. Trong tiếng anh thì thuật ngữ này được gọi là “Catgirl”. 

Thuật ngữ chỉ thể loại

Thuật ngữ manga là gì và các thể loại phát triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp truyện tranh Nhật Bản nhiều năm qua nói chung không quá “xa lạ”, quanh đi quẩn lại là những thuật ngữ quen thuộc. 

Tuy nhiên, sức sáng tạo của các mangaka là vô hạn, nên việc xuất hiện các thuật ngữ mới về thể loại cũng chẳng phải chuyện quá khó. Ví dụ như ABO: trước đây các nhân vật thường sẽ chia thành nam, nữ, gay hoặc les với các thể loại truyện về các đối tượng này như shounen, shoujo, yaoi hay yuri, thì giờ đây còn có ABO. 

ABO là thuật ngữ chỉ thể loại truyện mà các nhân vật trong đó sở hữu một “dạng” giới tính khác, con người khi này về cơ bản chia thành nam hay nữ không quan trọng, quan trọng là Alpha, Beta hay Omega. Alpha được hiểu là “phái mạnh”, chuyên “gieo giống” và tương phối của Alpha là Omega chuyên “thụ giống”. Beta có thể sống thoải mái giữa các Omega và cả Alpha, tuy nhiên họ cũng có thể chuyển đổi thành Alpha hoặc Omega trong một số trường hợp đặc biệt.

Về mặt “sản xuất” nói chung thì manga cũng có nhiều loại như truyện về các ngành nghề chuyên môn, đào sâu các chi tiết của chỉ dân trong nghề mới hiểu như Expertise. Truyện về các cô gái, chàng trai sở hữu đặc điểm hình thể của động vật sẽ được gọi là Kemono – đây là thể loại mà người lần đầu biết manga là gì sẽ phải há hốc với khả năng nhân hóa đỉnh cao của người Nhật.

Ở “thế giới khác”, ngoài thuật ngữ quen thuộc là Isekai, thì Post-Apocalyptic cũng là một thể loại được khá nhiều người yêu thích. Kết thúc chính là bắt đầu, thể loại Hậu tận thế Post-Apocalyptic có thể sẽ là các câu chuyện nói về thế giới sau khi nhân loại bị diệt vong, hoặc là sẽ chỉ sót lại vài người cuối cùng, hoặc là vài người được dịch chuyển sang một thế giới khác, vùng đất khác, nói chung ở thể loại này thì cuộc sống của con người rất “bất thường” với nhiều chi tiết sáng tạo thú vị.

Các thuật ngữ chung thường gặp

Comiket cũng là một từ mà hẳn là bạn sẽ dễ dàng bắt gặp nhưng lại ít ai nói cho bạn biết ý nghĩa của từ đó là gì, bởi về cơ bản thì từ này là một từ quá nổi tiếng, dù bạn mới “nhập môn” đi nữa thì dân otaku nói chung cũng sẽ cho rằng “sao mà không biết cho được”. Cụ thể, Comiket là từ viết tắt của Comics Market, là hội chợ truyện tranh lớn nhất thế giới, được tổ chức 6 tháng 1 lần ở Tokyo. 

Tương tự, Owari (おわり, オワリ, 終わり, 終) là “kết thúc” và Tsuzuku (つづく) là “còn tiếp” trong tiếng Nhật.

Và cuối cùng, nếu bạn thắc mắc về một vài thuật ngữ dễ gây rạo rực cho các anh thanh niên đam mê ngắm gái 2D manga là gì!? Thì đã có Enjo kousai (援助交際), đây là thuật ngữ được dùng để nói về hiện tượng các nữ sinh quan hệ tình dục với các người đàn ông lớn tuổi để kiếm tiền, đã có một thời kỳ mà các mối quan hệ thế này được pháp luật thừa nhận.

Tiếp theo là Futanari, các nhân vật Futanari thường có vẻ ngoài xinh xắn, người nhìn người yêu hoa thấy hoa thẹn, bằng tất cả ngọt ngào và đáng yêu, các nhân vật được xây dựng kiểu này thường đốn tim cả nam và nữ, tuy nhiên, các bạn ấy lại là nam và có bộ phận sinh dục nam hẳn hoi.

Tóm lại, thông qua bài viết này độc giả đam mê truyện tranh và anime đã có thể dễ dàng nắm bắt được ý nghĩa của các thuật ngữ manga là gì mà mình đang vướng mắc, để có thể dễ dàng “bắt trend” cùng đồng đội và hiểu các ẩn ý có thể sẽ xuất hiện trong các tác phẩm mà bạn đang theo dõi.