Thuật Ngữ Siêu Âm Doppler Anh

Absorption: (Sự hấp thụ) Sự đổi (năng lượng) sóng âm thành nhiệt.

Acoustic variable: (Biến số âm thanh) Gồm: áp suất, nhiệt độ, tỉ trọng, chuyển động hạt. Ghi nhận rằng tất cả các biến số trên thay đổi thành sóng âm đi qua môi trường.

Aliasing: (Loạn màu) Thông tin không chính xác về độ lệch Doppler từ một dụng cụ Doppler xung khi độ lệch Doppler thật sự vượt quá một nửa tần số lặp xung (pulse repetition frequency, [PRF]).

Amplification: (Khuếch đại) Tăng điện áp nhỏ thành lớn hơn.

Amplitude: (Biên độ) Biến thiên cực đại của một biến số thuộc âm thanh hoặ điện áp.

Annular array: (Dãy [biến t]) dạng vòng) Dãy cấu tạo bởi các phần tử dạng vòng xếp đồng tâm.

Array: Transducer array, Dãy bộ chuyển đổi

Attenuation: (Độ suy giảm) Giảm biên độ và cường độ khi sóng (âm) đi qua một môi trường. Đó là lý do tại sao các echo từ các cấu trúc sâu lại yếu hơn echo từ các cấu trúc nông. Các yếu tố góp phần vào độ suy giảm gồm sự hấp thụ, sự tán xạ, sự phản hồi âm, sự bù trừ.

Attenuation coefficent: (Hệ số suy giảm) Độ giảm trên mỗi đơn vị độ dài sóng của khoảng cách di chuyển.

Augmentation: Đè đoạn tĩnh mạch bên dưới chỗ khám sẽ làm tăng lưu lượng trên phổ hiển thị. Hiện tượng này chứng tỏ đoạn tĩnh mạch từ chỗ bị đè đến chỗ khám thông suốt của mặc dầu không thể loại trừ bế tắc một phần tĩnh mạch.

Autocorrelation: (Sự tự tương quan) Một kỹ thuật nhanh để đạt được tần số trung bình độ lệch Doppler. Kỹ thuật này được dùng trong các dụng cụ đo lưu lượng màu.

Axial: (Theo trục) Theo hướng trục đầu dò (hướng đi của sóng âm).

Axial resolution: (Độ phân giải theo trục) Độ cách biệt cần thiết tối thiểu của vật.

Lên đầu trang ↑

B mode: Kiểu vận hành qua đó màn hiển thị ghi lại một điểm sáng cho mỗi xung echo phát ra từ máy thu.

B scan: Một ảnh sáng trình bày một mặt cắt ngang một vật thể qua mặt quét.

Backscatter: (Tán xạ lùi) Sóng âm tán xạ (ngược) lại hướng phát xuất.

Bandwidth: (Dải thông) Dải tần số chứa đựng trong một xung siêu âm (ultrasound pulse) hoặc echo.

Baseline shift: (Sự dịch chuyển đường gốc) Sự di chuyển của tần số lệch Doppler zero hay đường tốc độ dòng zero [zero-flow speed line] lên hoặc xuống trên màn hiển thị phổ.

Beam area: Diện tích mặt cắt ngang của chùm âm (sound beam).

Beam former: (Bộ lập dạng chùm tia) Phần dụng cụ thực hiện việc quét chùm điện tử, việc xác lập nó (apodization), việc chỉnh hướng [steering], việc tụ tiêu chùm điện tử [focusing] và thực hiện góc mở động học [dynamic aperture] với dãy bộ chuyển đổi.

Bernouilli effect: (Hiệu ứng Bernouilli) Sự giảm áp suất trong vùng tốc độ dòng cao.

Bidirectional: (Hai chiều) Các dụng cụ chỉ thị Doppler có khả năng phân biệt các độ lệch Doppler dương hay âm [dòng chảy về trước hoặc chảy ngược].

Bruit: (Am thổi) Các âm thanh nghe được (bằng cách dùng ống thính chẩn) từ các mạch máu có dòng chảy hỗn độn.

Lên đầu trang ↑

Cathode ray tube (CRT): Một dụng cụ hiển thị tạo nên ảnh bằng cách quét một chùm điện tử lên một màn ảnh phủ phosphor.

Cavitation: (Sự tạo hốc) Sự tạo thành và diễn biến của bọt trong âm thanh.

Clutter: (Vệt dội tạp) Nhiễu tín hiệu Doppler thường do echo có biên độ cao của độ lệch Doppler (Doppler-shifted echoes) từ chuyển động của tim hoặc thành mạch.

Color flow (CF): (Dòng chảy màu) Việc trình bày thông tin 2 chiều và trong thời hạn xử lý (real-time) của độ lệch Doppler hay độ lệch thời gian chồng lên hình ảnh cắt ngang giải phẫu theo thang độ xám và trong thời gian xử lý. Các dòng chảy hướng về hoặc ra xa khỏi đầu dò (nghĩa là Doppler âm và dương hoặc các độ lệch thời gian) được diễn tả trên màn hiển thị bằng các màu khác nhau.

Compensation: (Sự bù trừ) Sự hiệu chỉnh các khác biệt biên độ echo thu được gây ra bởi sự suy giảm và các khác biệt về độ sâu của vật phản hồi âm.

Compliance: (Tính mềm, dễ ép nén) Sự dễ nở ra. Tính có thể căng ra, không cứng nhắc của mạch máu.

Composite: (Chất phức hợp) Sự kết hợp sứ áp điện với chất trùng hợp không áp điện.

Continuous mode: Continuous-wave mode (Kiểu sóng liên tục).

Continuous-wave mode: (Kiểu sóng liên tục) Kiểu vận hành dùng sóng âm liên tục.

Continuous-wave (CW): Một sóng (âm) trong đó các chu kỳ lặp lại không giới hạn. Không phải xung.

Continuous-wave Doppler: Một dụng cụ hay phương pháp Doppler dùng sóng âm liên tục. Dùng một biến tử phát (transmitting crystal) và một biến tử phản hồi âm [thu, received] (receiving crystal). Sự khác biệt tùy thuộc trên tốc độ mà vật đích di chuyển và hướng chuyển động của nó. Các tần số độ lệch Doppler ở khoảng tai người nghe được (20-20.000Hz). Các hồng cầu là nguồn của tín hiệu Doppler.

Lên đầu trang ↑

Damping: (Sự làm nhụt) Chất đặt phía sau mặt sau của một phần tử đầu dò để làm giảm độ rộng xung (pulse’s duration); cũng là quá trình làm giảm độ rộng xung.

dB: Viết tắt của decibel.

Decibel: Đơn vị công suất hoặc hệ số cường độ; số decibels bằng 10 lần log (cơ số 10) của công suất hoặc hệ số cường độ.

Demodulation: Chuyển đổi các xung điện áp từ dạng tần số vô tuyến (radio-frequency, RF) thành dạng thị tần viđêo.

Density: (Tỉ trọng) Khối lượng chia cho thể tích.

Depth gain compensation (DGC) : (Sự bù trừ).

Detail resolution: Khả năng hình ảnh hóa các chi tiết nhỏ và phân biệt các vật phản hồi âm ở gần nhau.

Disturbed flow: (Dòng nhiễu loạn) Lưu lượng không thể chảy theo dòng chảy thẳng, song song.

Doppler angle: Góc hợp bởi chùm sóng âm với hướng dòng chảy.

Doppler effect: (Hiệu ứng Doppler) Sự thay đổi tần số của sóng phản hồi âm là kết quả của chuyển động tương đối của vật phản hồi âm đối với đầu dò.

Lên đầu trang ↑

Echo : Sóng phản hồi âm.

Eddies: Xem chữ vortices.

Element: (Biến tử) Một mẫu nhỏ chất áp điện trong một tập hợp đầu dò.

Energy: (Năng lượng) Khả năng làm việc.

Energy, kinetic: Năng lượng chuyển động.

Lên đầu trang ↑ Lên đầu trang ↑ Lên đầu trang ↑ Lên đầu trang ↑ Lên đầu trang ↑

Parabolic flow: Dòng chảy thành lớp (laminar flow) với đường viền mặt cắt (profile) là dạng parabol.

Penetration: (Độ xuyên thấu) Độ sâu ảnh [imaging depth].

Period: (Thời gian) Thời gian của một chu kỳ. Đơn vị giây (s), microsecond (s).

Phantom: (Chất ma) Các chất tương đương với mô có được vài đặc điểm của các mô (thí dụ như sự tán xạ hoặc suy giảm).

Phase: (Pha) Diễn tiến qua một chu kỳ. Một chu kỳ đầy đủ được chia thành 360 độ của pha.

Phase quadrature: (Pha vuông góc) Hai tín hiệu khác nhau một phần tư chu kỳ.

Phased array: (Dãy định pha) Một dãy chỉnh hướng và điều tiêu chùm sóng âm bằng điện tử (với sự trì hoãn ngắn).

Phasic flow: Tín hiệu lưu lượng của các tĩnh mạch (đùi và khoeo) có thể tương ứng với kiểu thở bệnh nhân. Ở tư thế nằm ngửa lưu lượng lớn nhất trong lúc thở ra, giảm hay mất lúc thở vào. Tắc trên chỗ khám khi phổ hiển thị chỉ có một mực, mất tín hiệu chu kỳ.

Piezoelectricity: (Hiện tượng áp điện) Đổi áp suất thành điện áp.

Pixel: (Pix= Anh) Phần tử ảnh. Đơn vị trong đó thông tin Doppler và hình ảnh hóa được phân chia để lưu trữ và hiển thị trong một dụng cụ kỹ thuật số (digital instrument).

Plug flow: (Dòng chảy đều đặn) Lưu lượng với toàn bộ thành phần chất dịch hầu như chảy cùng vận tốc và cùng hướng.

Poise: Đơn vị độ nhớt.

Poiseuille’s law: (Định luật Poiseuille) Mô tả toán học sự phụ thuộc của tốc độ lưu lượng vào áp suất, chiều dài và bán kính mạch máu cũng như độ nhớt dung dịch.

Postprocessing: (Xử lý sau) Xử lý tín hiệu sau khi ghi vào bộ nhớ.

Preprocessing: (Xử lý trước) Xử lý tín hiệu trước khi ghi vào bộ nhớ (thí dụ, độ tăng ích [gain], bù trừ tăng ích thời gian [time gain compensation]).

Pressure: (Áp suất) Lực chia cho diện tích.

PRF: Viết tắt cho pulse repetition frequency (tần số lặp xung).

Priority: (Sự ưu tiên) Cường độ echo theo thang độ xám mà dưới nó thông tin lưu lượng màu được ưu tiên hiển thị.

Probe: (Đầu dò) Tập hợp đầu dò.

Propagation speed: (Tốc độ truyền lan) Tốc độ một sóng [âm] chuyển động ngang qua một môi trường.

Pulsatile Venous Flow: Một tĩnh mạch có thể có lưu lượng mạch động (pulsatile flow) trong các trường hợp dò động tĩnh mạch hay bệnh lý tim, hơn là kiểu lưu lượng theo chu kỳ (phasic flow) trơn tru.

Pulse: (Xung) Một dịch chuyển ngắn (brief excursion) khỏi giá trị bình thường của một lượng. Một vài chu kỳ.

Pulse duration (PD): (Thời khoảng xung) Thời gian từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc một xung. Thời gian của một xung.

Pulse-echo diagnostic ultrasound: (Siêu âm chẩn đoán echo-xung) Hình ảnh hóa siêu âm và đo đạc lưu lượng mà trong đó các xung siêu âm (ultrasound pulses) được phản hồi âm lại và các echo được dùng để tạo một ảnh hiển thị.

Pulse repetition frequency (PRF): (Tần số lặp xung) Số các xung trong một giây. Đơn vị hertz (Hz), kilohertz (kHz). Đôi khi còn gọi là tốc độ lặp xung (pulse repetition rate).

Pulse repetition period (PRP): Thời gian từ lúc bắt đầu một xung này đến lúc bắt đầu một xung khác. PRP tỉ lệ nghịch với PRF. PRP tăng khi độ sâu hình (imaging depth) tăng.

Pulsed Doppler: (Doppler xung) Một thiết bị hoặc kỹ thuật Doppler dùng sóng siêu âm xung (pulsed-wave ultrasound).

Pulsed mode: (Kiểu xung) Kiểu vận hành mà trong đó siêu âm xung được sử dụng.

Pulsed ultrasound: (Siêu âm xung) Siêu âm được tạo dưới dạng xung bằng cách áp dụng các xung điện hoặc điện áp của vài chu kỳ vào đầu dò.

Pulsed wave: (Sóng xung) Một sóng bao gồm một chuỗi các xung mà mỗi xung chứa đựng vài chu kỳ siêu âm. Không liên tục.

Pulsed-wave Doppler: Dụng cụ này chỉ dùng một biến tử đơn để truyền và thu tín hiệu Doppler. Biến tử Doppler xung phát ra một tín hiệu [burst] siêu âm ngắn hơn là phát và thu tín hiệu liên tục.

Lên đầu trang ↑ Lên đầu trang ↑

Sample volume: (Âm lượng mẫu) Vùng từ đó thu thập các độ lệch Doppler, được đặt trong lòng mạch và được kiểm soát bởi người vận hành máy. Một con chạy điện tử (electronic cursor) có thể di chuyển âm lượng mẫu lên xuống, và con chạy này có thể điều khiển được trên hình hiển thị để có được góc Doppler thích hợp. Góc không được quá 600 đối với dòng chảy. Bề dài âm lượng mẫu tức là cỡ theo trục (axial dimension) do người vận hành máy điều chỉnh. Chỉ có tín hiệu trong vùng âm lượng mẫu được hiển thị trên phổ tốc độ (velocity spectrum). Cỡ bên (lateral dimension) của âm lượng mẫu được xác định bằng vị trí của âm lượng mẫu trong chùm siêu âm.

Saturation: (Sự bão hòa) Lượng sắc thái hiện diện trong một chất trộn (mix) với màu trắng.

Scan line: (Dòng quét) Một dòng được tạo ra trên màn hiển thị bằng cách di chuyển một chấm (spot) [được tạo bởi một chùm điện tử] băng qua mặt màn hiển thị với một tốc độ hằng định. Một dòng echo được ghi vào bộ nhớ.

Scanning: (Sự quét) Sự quét một chùm âm để tạo ra hình ảnh.

Scatterer: (Chất tán xạ) Một vật thể tán xạ âm vì cỡ nó nhỏ hay bề mặt của nó thô.

Scattering: (Sự tán xạ) Phân phát hoặc định hướng lại sóng âm theo các hướng khi giáp mặt với một hạt lơ lửng hoặc một bề mặt thô ráp.

Sensitivity: (Độ nhạy) Khả năng của một hệ thống hình ảnh phát hiện các echoes yếu.

Shadowing: (Sự che bóng) Sự giảm biên độ một echo từ các vật phản hồi âm mà các vật này nằm phía sau một sự phản hồi âm mạnh hoặc cấu trúc suy giảm [âm].

Signal: (Tín hiệu) Các điện áp góc phương thông tin trong một mạch điện. Một thông tin âm thanh, thấy được [visual], điện hoặc băng chuyển khác.

Sound: (Am thanh) Sóng di chuyển của các biến âm thanh.

Source: (Nguồn) Một cực phát (emitter) của siêu âm (đầu dò).

Spatial pulse length (SPL): (Độ dài không gian xung) Khoảng cách trên đó một xung xuất hiện.

Spectral analysis: (Phân tích phổ) Làm phân cách các tần số trong một tín hiệu Doppler để hiển thị như là một phổ Doppler.

Spectral analyzer: (Dụng cụ phân tích phổ) Một dụng cụ tìm ra phổ tần số từ một tín hiệu phức tạp.

Spectral broadening: (Phổ rộng ra) Sự làm rộng ra phổ độ lệch Doppler, có nghĩa là sự tăng dải các tần số độ lệch Doppler hiện diện vì một dải rộng hơn các vận tốc lưu lượng bị va chạm với chùm sóng âm. Điều này xảy ra cho lưu lượng bình thường trong các mạch máu nhỏ hơn và cho các dòng chảy xáo trộn ở bất kỳ mạch máu nào.

Spectral display: (Phổ hiển thị) Gồm hướng dòng máu chảy, tốc độ đỉnh tâm thu (peak-systolic velocity), tốc độ cuối tâm trương (end-diastolic velocity), khoảng các tốc độ (khoảng hẹp đối với phổ rộng ra), thời gian và biên độ các tốc độ. Đối với các nhánh động mạch Cảnh, sóng phân tích phổ hiển thị đặc trưng của dòng chảy.

Spectral width: (Bề rộng phổ) Dải các độ lệch Doppler hoặc tốc độ lưu lượng hiện diện đúng lúc ở một điểm được cho.

Spectrum: (Phổ) Dải các tần số.

Specular reflection: (Phản hồi âm qua kính viễn vọng) Sự phản hồi âm từ một biên hạn phẳng, nhẵn.

Speed: (Tốc độ) Sự dời chỗ chia cho thời gian trên đó xảy ra sự dời chỗ.

Spontaneity (of Flow): Tín hiệu chu kỳ (phasic signal) có thể có khi đặt âm lượng mẫu trong lòng tĩnh mạch đùi hay khoeo. Nếu có quá ít hoặc mất tín hiệu thì đây là dấu hiệu có nghẽn mạch tại chỗ do huyết khối [thrombus].

Stenosis: (Hẹp) Sự làm hẹp một mạch máu.

Stoke: Đơn vị độ nhớt động (kinematic viscosity).

Streamline: (Đường dòng) Một vạch diễn tả lộ trình (path) chuyển động của một hạt chất dịch.

Lên đầu trang ↑ Lên đầu trang ↑

Variable focusing: (Sự điều tiêu biến đổi) Tiêu điểm truyền với các độ dài tiêu điểm thay đổi.

Variance: (Phương sai) Bình phương độ lệch tiêu chuẩn. Một của những đầu ra của tiến trình tự điều chỉnh. Sự đo độ rộng ra của phổ.

Vector: (Vectơ) Một lượng của độ lớn và hướng.

Velocity : (Vận tốc) Tốc độ với hướng và sự chuyển động chuyẻn biệt.

Video: Các điện áp biên độ hoàn điệu trình bày echo.

Viscosity: (Độ nhớt) Trở kháng của chất dịch để chảy.

Viscosity, kinematic: (Độ nhớt động) Độ nhớt chia cho tỉ trọng.

Volume flow rate: (Tốc độ dung tích lưu lượng) Dung tích chất dịch đi qua một điểm trong một đơn vị thời gian (giây hoặc phút).

Vortices: (Dòng xoáy) Các miền của các kiểu dòng chảy vòng tròn (circular flow patterns) hiện diện trong dòng chảy hỗn độn.

Lên đầu trang ↑

Trang web đang upload liên tục các video bài giảng và tài liệu chẩn đoán hình ảnh. Để nhận được thông báo về các bài viết mới nhất, vui lòng đăng ký tại Form nhận bản tin và theo dõi tại kênh Youtube

Thuật Ngữ Siêu Âm Không Trùng Với Thuật Ngữ Sản Khoa. Tại Sao Thời Kỳ Mang Thai Siêu Âm Khác Với Sản Khoa

Sự sẵn có của chẩn đoán siêu âm cho phép một phụ nữ mới biết về sự khởi đầu của thai kỳ không phải suy đoán về thời hạn mà có thể tìm hiểu chính xác em bé của mình đang phát triển như thế nào. Đương nhiên, khi đến phòng khám siêu âm, một phụ nữ đại khái gợi ý bác sĩ sẽ gọi bao lâu, nhưng điều đó xảy ra là mong đợi của cô ấy không được đáp ứng.

Bao lâu thì xảy ra hiện tượng này, làm sao để giải thích tình trạng siêu âm lệch với nguyệt san, hoặc kích thước thai nhi khác với tiêu chuẩn trong một thời kỳ cụ thể?

Bạn có thể tin tưởng siêu âm bao nhiêu?

Những phụ nữ thực sự muốn mang thai muốn biết về việc đạt được điều kỳ diệu trong cuộc đời mình càng sớm càng tốt, nghĩa là ngay trong những ngày đầu chậm kinh. Tất nhiên, bạn luôn có thể mua que thử thai. Nhưng ngay cả những xét nghiệm siêu nhạy cũng chỉ có thể đưa ra câu trả lời chính xác cho câu hỏi “có thai chưa?” Họ có thể trả lời có hoặc không, nhưng các phương pháp chính xác hơn sẽ được yêu cầu để đặt giới hạn thời gian.

Thử thai dương tính

Khi khám thai bằng tay, bác sĩ sản phụ khoa có thể nhận thấy tử cung lỏng lẻo và hơi to. Nhưng hiện tượng này được quan sát thấy trước kỳ kinh nguyệt. Để làm rõ chính xác tình hình, cần phải khám siêu âm.

Siêu âm có thể xác định chính xác việc mang thai khi nồng độ hCG (gonadotropin màng đệm) trong máu của phụ nữ vượt quá một nghìn đơn vị. Trong trường hợp này, bác sĩ đã có thể nhìn thấy noãn trong tử cung (với đa thai – hai hoặc ba noãn). Thời gian càng dài, nghiên cứu cho thấy càng đầy đủ – bác sĩ xác định chắc chắn sự hiện diện của không chỉ trứng, mà còn cả túi noãn hoàng trong đó, hoặc thậm chí nhìn thấy phôi thai và nhịp tim của nó, và sẽ có thể đo CTE của phôi thai (khoảng cách từ xương cụt đến thân răng).

Nếu chu kỳ kinh nguyệt của bạn trên 30 ngày thì siêu âm và thời gian hành kinh có thể khác nhau đáng kể.

Thường có một tình huống như vậy: một người phụ nữ đến siêu âm, bác sĩ quan tâm đến ngày của kỳ kinh cuối cùng, tiến hành nghiên cứu, và sau đó thông báo rằng cái thai, rất có thể, chắc chắn đã được đông lạnh – phôi thai và nhịp tim của nó không được hình dung, có thể nhìn thấy trứng của bào thai, kích thước của nó nhỏ hơn so với bình thường. Bác sĩ có thể nhầm nếu người phụ nữ bị rụng trứng muộn. Ở một bộ phận đáng kể phụ nữ, chu kỳ kinh nguyệt không phải là 28 ngày tiêu chuẩn, mà là 33, hoặc thậm chí 35-40. Điều này có nghĩa là sự thụ thai không xảy ra vào ngày thứ 14-16 của chu kỳ mà là một hoặc hai tuần sau đó, đơn giản là thai phụ đến siêu âm quá sớm nên không thấy thai. Rất có thể, thai sẽ không bị đông cứng và thai phát triển bình thường, chỉ là nghiên cứu nên được lặp lại sau một vài tuần, để không xảy ra sai sót. Cũng có thể giải thích tình huống khi siêu âm hoàn toàn không nhìn thấy thai: có thể là nồng độ hCG trong máu thấp hơn so với lúc có thai.

Sự khác biệt giữa thai kỳ kinh nguyệt và siêu âm

Tất cả các bác sĩ sản-phụ khoa đều sử dụng thuật ngữ “sản khoa” khi xác định tuổi thai. Điều này cho phép tất cả các bác sĩ phụ khoa trên thế giới nói cùng một ngôn ngữ. Nó được tiến hành trong nhiều tuần, đếm ngược bắt đầu từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng. Tuần sản khoa đầu tiên và tuần thứ hai là những tuần mà trứng vẫn đang trưởng thành trong cơ thể, sau đó sẽ rời buồng trứng trong quá trình rụng trứng và gặp tinh trùng.

Như vậy, một phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt chuẩn là 28 ngày và đến bác sĩ khi bị chậm kinh một tuần sẽ được chẩn đoán là mang thai đúng năm tuần sản khoa. Đồng thời, với một cuộc kiểm tra siêu âm, một khoảng thời gian ngắn hơn một chút có thể được thiết lập – ở ba hoặc bốn tuần. Điều này hợp lý như thế nào và tại sao thuật ngữ này không trùng với nhau? Tình trạng này là bình thường, vì siêu âm không nhằm xác định thời gian chính xác theo tuần mà để xác định xem thai nhi được phát triển trong bao nhiêu tuần kể từ khi thụ thai trong các thông số của nó (tuổi thai). Điều quan trọng là phải hiểu sự khác biệt giữa hai điều này. Vì vậy, sự chênh lệch 1-2 tuần giữa chu kỳ kinh nguyệt và siêu âm có lợi cho kinh nguyệt (tức là thời gian hành kinh dài hơn và siêu âm ít hơn) là một điều thường xảy ra, không có gì sai.

Làm thế nào để xác định thời gian mang thai với chu kỳ không đều?

Một số phụ nữ bị rối loạn nội tiết tố và kết quả là chu kỳ không đều. Với các bệnh lý như buồng trứng đa nang, đa nang, lượng hormone sinh dục nam dư thừa, kinh nguyệt có thể không đến trong vài tháng. Tuy nhiên, sự rụng trứng với những vi phạm như vậy vẫn xảy ra theo thời gian, có nghĩa là cơ hội mang thai ở những phụ nữ như vậy gần như giống như những người còn lại.

Nếu bạn không mong muốn có thai, việc sử dụng biện pháp tránh thai là bắt buộc, ngay cả khi bạn bị chu kỳ không đều và đã vắng mặt trong vài tháng.

Thường thì những phụ nữ có chu kỳ không đều không cho là cần thiết phải sử dụng biện pháp bảo vệ, vì tin rằng họ chắc chắn sẽ không thể có thai. Trong trường hợp này, có thể phát hiện mang thai ở tháng thứ ba hoặc thậm chí thứ tư, bởi vì không có kinh nguyệt trong vài tháng trở thành một điều bình thường. Việc tính toán chính xác thời hạn sản khoa trong tình huống như vậy là gần như không thể, do đó, khi xác định thời hạn, bác sĩ có thể chỉ dựa vào dữ liệu siêu âm. Nếu thai không quá lớn hoặc quá nhỏ, siêu âm có thể xác định được tuổi thai của thai nhi trong vòng 2-3 tuần. Ngày sinh cũng sẽ được xác định bằng một phương pháp độc đáo – tính 40 tuần kể từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng và dựa trên dữ liệu siêu âm.

Những trường hợp nào thì thời hạn siêu âm trước sản khoa?

Hiện tại, tất cả phụ nữ mang thai ở Nga đều có quyền siêu âm 3 lần miễn phí. Thông thường, chúng được chỉ định từ 11 đến 14 tuần, từ 18 đến 22, và từ 32 đến 34. Mỗi lần siêu âm này đều có mục đích riêng (đầu tiên là để xác định xem liệu họ có thấy dị tật tổng thể của thai nhi và bất thường di truyền hay không, lần thứ hai là kiểm soát sự phát triển của các cơ quan nội tạng, thứ ba là xác định tình trạng của bánh nhau, vị trí của thai nhi và cân nặng gần đúng của nó). Tuy nhiên, với mỗi lần khám, bác sĩ xác định thai nhi đã phát triển được bao nhiêu tuần. Và thường thì giai đoạn này trước thời kỳ sản khoa. Ví dụ, một phụ nữ biết chắc chắn rằng thai của mình là 20 tuần, và bác sĩ chỉ định trong kết luận rằng kích thước của thai tương ứng với 22 tuần. Tại sao tình trạng này lại phát triển? Không có sai lầm trong đó. Điều này có thể được giải thích như sau:

Quả lớn. Thai nhi có kích thước lớn, vượt trước tuổi thai không phải là bệnh lý. Cũng giống như tất cả mọi người, thai nhi đã ở trong bụng mẹ có những đặc điểm riêng.

Kích thước của quả hơi nhỏ hơn so với kích thước của nó. Đây cũng có thể là một biến thể của tiêu chuẩn, có lẽ đứa bé chỉ là nhỏ, đặc biệt nếu cha mẹ của nó không được phân biệt bởi sự phát triển cao và cân nặng ấn tượng của chúng.

Tuần sản khoa được xác định không chính xác. Có những trường hợp ra máu mà người phụ nữ có trong kỳ kinh tiếp theo thực chất là dọa sẩy thai khi đã có thai ở chu kỳ trước. Trong dân gian gọi hiện tượng này là “rửa thai”. Hóa ra là một người phụ nữ nói với bác sĩ một ngày của kỳ kinh cuối cùng, tin rằng sự thụ thai xảy ra trong chu kỳ này, trong khi thực tế nó đã xảy ra ở chu kỳ trước, và do đó, thời kỳ sản khoa sẽ kéo dài hơn.

Bao lâu thì siêu âm sai?

Luôn có khả năng xảy ra sai số, cả hướng lên và hướng xuống khi xác định thời hạn siêu âm. Tại sao điều này lại xảy ra và có bao nhiêu yếu tố đáng trách? Trong số đó có một số trường hợp: trang thiết bị lạc hậu, không đủ trình độ của bác sĩ chẩn đoán chức năng, nhầm lẫn ngày hành kinh cuối cùng, không thấy thai ngay, đặc điểm riêng của thai (quá lớn hoặc quá nhỏ). Bạn có thể giảm thiểu rủi ro sai sót. Bạn nên đến các trung tâm y tế đã được kiểm chứng, nơi có trình độ bác sĩ và chất lượng trang thiết bị vượt trội, cũng như theo dõi chặt chẽ chu kỳ và biết chính xác ngày kinh nguyệt cuối cùng của bạn.

Olya thân mến!

Việc bạn cho rằng siêu âm xác định tuổi thai sản khoa là không hoàn toàn đúng. Nghiên cứu này không nhằm mục đích thiết lập khung thời gian mà là xác định xem kích thước của thai nhi có tương ứng với tuổi thai thực sự dự kiến u200bu200bhay không.

Tính thời gian mang thai bằng siêu âm

Khi khám siêu âm ở giai đoạn đầu, các chỉ số phát triển của thai nhi được đánh giá bằng bảng tính cho thời kỳ phôi thai, tức là ít hơn 2 tuần so với sản khoa. Có một số bảng như vậy, do các tác giả khác nhau biên soạn, chứa dữ liệu về kích thước trung bình của thai nhi ở các giai đoạn khác nhau của thai kỳ và đưa ra khoảng sai số có thể lên tới 2 tuần. Máy siêu âm có các chương trình tích hợp trong đó các chỉ số trung bình được lấy từ các bảng khác nhau. Chỉ cần chị em biết chính xác thời điểm thụ thai là có thể phán đoán được thai nhi có bị chậm phát triển hay không, nếu không bác sĩ chuyên khoa chỉ có thể đưa ra kết luận sơ bộ, phải nghiên cứu thêm mới có thể khẳng định được.

Trong giai đoạn đầu của thai kỳ (đến 12 tuần), các chuyên gia chú ý đến chiều dài của phôi thai từ xương cụt đến thân răng (CTE) và đường kính bên trong trung bình của buồng trứng. Ở giai đoạn sau của thai kỳ, sự phát triển của thai nhi diễn ra nhảy vọt, do đó, các bảng mà bác sĩ uzist hướng dẫn được thiết kế cho thời kỳ sản khoa, tức là từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng.

Chính vì lý do này mà sự khác biệt thường phát sinh giữa khoảng thời gian được thiết lập để siêu âm và khoảng thời gian trôi qua trong tất cả các tài liệu được lập tại phòng khám tiền sản. Do đó, rất thường xuyên, các bác sĩ uzist đưa ra một kết quả trung bình nhất định, có tính đến dữ liệu về ngày hành kinh cuối cùng, ngày thụ thai, kết quả của lần siêu âm trước đó và dữ liệu về sự phát triển và tăng trưởng của thai nhi. trong hầu hết các trường hợp trùng với tuổi thai thật, nếu nó diễn ra bình thường.

Làm thế nào để xác định ngày thụ thai?

Để xác định ngày thụ thai, bạn cần tính toán thời điểm mình rụng trứng và phân tích xem ngày nào mà bạn quan hệ tình dục gần với thời kỳ rụng trứng nhất. Cần lưu ý rằng hầu như không thể xác định chính xác thời điểm thụ thai một đứa trẻ, tuy nhiên, có thể thực hiện một phép tính gần đúng.

Để xác định thời điểm rụng trứng, bạn cần biết độ dài của chu kỳ kinh nguyệt. Nếu nó ổn định và là 28 ngày, thì rất có thể bạn sẽ rụng trứng vào ngày 14 tháng. Nếu thời hạn của nó là 29 ngày, thì vào ngày 15 tháng. Với chu kỳ 30 ngày vào ngày 16,… Dữ liệu của lần siêu âm đầu tiên và mức độ phân tích hCG từ 7.04 cho thấy bạn có thể đã rụng trứng trong khoảng thời gian từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 3 năm 2023. Nếu chúng ta tuân thủ những dữ liệu này, thì theo kết quả siêu âm sau đó, sự phát triển của đứa trẻ xấp xỉ tương ứng với thời kỳ phôi thai của thai kỳ với một chút dư thừa. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đó, sự phát triển của thai nhi có tính chất đột ngột, do đó, sai số +/- 2 tuần được coi là một biến thể của tiêu chuẩn.

Việc chẩn đoán thai chậm phát triển không thể chỉ dựa trên sự khác biệt về tuổi thai. Sự phát triển chậm phát triển của thai nhi cần được xác nhận bằng số liệu đo chiều cao đáy tử cung và chu vi bụng thường xuyên được thực hiện ở mỗi lần khám bác sĩ sản phụ khoa; nghiên cứu về mức độ hormone nhau thai; Dữ liệu CTG (chụp tim hoạt động của tim thai); và siêu âm trong trường hợp trẻ chậm phát triển cho thấy trẻ nhẹ cân, phát triển không cân đối giữa các cơ quan, suy giảm lưu thông máu qua các mạch của dây rốn và động mạch, và các sai lệch có thể có khác so với bình thường.

Trân trọng, Ksenia

Mang thai là một trong những khoảng thời gian đẹp đẽ nhất của cuộc đời người phụ nữ. Điều đáng chú ý là y học biết được hai phương án để tính thời gian mang thai trong tử cung: tuổi thai sản và thực.

Tất cả bắt đầu như thế nào? Xác định thời gian mang thai

Khi một người phụ nữ nhận ra rằng cô ấy đang ở một vị trí thú vị, nhiệm vụ ban đầu của cô ấy là xác định ngày. Tuổi thai được tính theo tuần. Thông thường, khoảng thời gian mà em bé ở trong bụng mẹ là 40 tuần. Sự dịch chuyển nhẹ theo hướng này hay hướng khác được coi là bình thường và không cần điều chỉnh. Các bác sĩ phân biệt giữa sản khoa và thai thật.

Thời gian thực sự mang em bé

Giai đoạn này bắt đầu được tính từ thời điểm rụng trứng. Ngày trứng rụng khỏi nang là ngày tính tuổi thai thực. Hầu hết các phòng khám phụ nữ theo dõi quá trình mang thai đều sử dụng phương pháp tính toán cụ thể này. Nếu bạn quyết định thử máu để xác định hàm lượng trong đó, thì bạn cũng sẽ được cung cấp một kết quả cho biết giá trị thực của kỳ kinh.

Tuổi thai sản

Khoảng thời gian này bắt đầu đếm ngược kể từ ngày đầu tiên phát hiện lần cuối cùng từ đường sinh dục của phụ nữ. Để tính toán ngày dự sinh của em bé, đây là thuật ngữ được sử dụng. Ngoài ra, nhiều người trong số những người có quan hệ tình dục bình thường sử dụng phương pháp này để thiết lập thời kỳ mang thai. Đó là lý do tại sao rất thường phụ nữ có sự khác biệt với tính toán của bác sĩ.

Tuổi thai sản và thực

Trong hầu hết các trường hợp, sự khác biệt giữa các phương pháp đếm này là hai tuần. Với chu kỳ tiêu chuẩn của phụ nữ là hai mươi tám ngày, quá trình phóng thích trứng từ buồng trứng diễn ra đúng hai tuần sau khi bắt đầu kỳ kinh cuối cùng.

Tuy nhiên, không phải phụ nữ nào cũng có chiều dài chu kỳ chuẩn. Ví dụ, một số phụ nữ rụng trứng một tuần sau khi bắt đầu kỳ kinh cuối cùng. Trong những trường hợp như vậy, sự khác biệt giữa điều kiện sản khoa và điều kiện thực sẽ là một tuần.

Nếu quá trình rụng trứng của phụ nữ xảy ra sau ba tuần kể từ ngày bắt đầu hành kinh cuối cùng, thì trong trường hợp này, tuổi thai sản và tuổi thật sẽ chênh lệch nhau hai mươi mốt ngày.

Tất cả các tình huống được mô tả là bình thường. Đó là lý do tại sao thời gian mang thai theo tuần nên được đặt có tính đến độ dài chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ. Không thể đánh đồng tất cả giới tính công bằng theo các tiêu chuẩn được chấp nhận chung. Điều này có thể dẫn đến việc tính toán thời gian mang thai không chính xác.

mang thai bằng siêu âm

Có những tình huống người phụ nữ không thể gọi tên ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng của mình. Tình trạng này thường xảy ra nếu phụ nữ mới sinh con hoặc đang cho con bú. Trong những trường hợp như vậy, giới tính công bằng được khuyến nghị tiến hành chẩn đoán bằng máy siêu âm (siêu âm).

Tuổi thai nhỏ, chưa thể xác định được bằng cách khám bằng tay, khi siêu âm sẽ dễ dàng chẩn đoán được. Điều đáng chú ý là bác sĩ chuyên khoa có thể xác định sự hiện diện của một phụ nữ trong tử cung bắt đầu từ tuần sản khoa thứ tư. Tất cả các phép đo và định nghĩa của thuật ngữ này được tính theo cách sản khoa này.

Thay cho một kết luận

Nếu bạn không chắc chắn về cách tính thai kỳ của mình, hãy hỏi bác sĩ. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ cần biết ngày hành kinh cuối cùng và độ dài chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ là đủ. Nếu cần thiết, một cuộc kiểm tra siêu âm cũng được quy định. Thực hiện phép tính theo cùng một phương pháp mà chuyên gia đã sử dụng. Chỉ trong trường hợp này, bạn sẽ không gặp phải sự khác biệt và sẽ không rơi vào tình huống tranh cãi.

Người ta thường chấp nhận rằng trong quá trình mang thai bình thường, thời gian trung bình của nó trong dân số là khoảng 280 ngày nếu bạn đếm từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng cái tên đó “Tuổi thai sản khoa” … Cách tính này nhằm xác định thời điểm nghỉ trước khi sinh và ngày dự sinh, cũng như đánh giá kích thước của thai nhi theo dữ liệu siêu âm khi thai trên 12 tuần.

Để xác định ngày dự sinh theo điều kiện sản khoa, kể từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối theo lịch. đếm ngược ba tháng và thêm 7 ngày … Tuy nhiên, cần lưu ý rằng ngày đến hạn ước tính không phải là một ngày cố định. Đây chỉ là một khoảng thời gian nhất định, là ± 10-12 ngày, khi chuyển dạ có nhiều khả năng xảy ra … Thực tế là thời gian mang thai của mỗi phụ nữ trong mỗi lần mang thai của họ là hoàn toàn riêng biệt, thay đổi trong một số giới hạn nhất định, khoảng thời gian trung bình là 280 ngày.

Đôi khi họ sử dụng phép tính của cái gọi là “Thời hạn phôi thai” mang thai từ thời điểm thụ thai, thường gần như trùng với ngày rụng trứng … Thực tế là chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ (khoảng thời gian từ ngày đầu tiên của một lần hành kinh đến ngày đầu tiên của kỳ kinh tiếp theo) kéo dài trung bình 28-30 ngày. Trong nửa đầu của chu kỳ kinh nguyệt, một nang trứng trưởng thành ở một trong các buồng trứng và sự rụng trứng xảy ra vào ngày 14-15. Trong trường hợp này, một quả trứng trưởng thành đi ra khỏi nang trứng. Nếu tính đến việc trứng trưởng thành có khả năng thụ tinh trong vòng 2 ngày sau khi rụng trứng và tinh trùng có hoạt động thụ tinh trong vòng 4 ngày sau khi xuất tinh thì tổng thời gian có khả năng thụ thai cao nhất là khoảng 6 ngày. Thời hạn phôi thai ngắn hơn sản khoa khoảng 14-15 ngày .

Trong thực tế lâm sàng, các bác sĩ chủ yếu sử dụng cách tính “thời hạn sản khoa”, vì hầu hết phụ nữ mang thai đều biết rõ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng là khi nào, nhưng không phải tất cả họ đều biết rõ về ngày thụ thai.

Cũng có thể xác định thời gian mang thai bằng kích thước của tử cung và sự chuyển động của thai nhi. Tuy nhiên, các tiêu chí này không chính xác, vì chúng được cá nhân hóa cao. Thực tế là kích thước của tử cung ở cùng tuổi thai ở những phụ nữ khác nhau thay đổi trong một phạm vi khá rộng, không cho phép ước tính tuổi thai ở từng bệnh nhân cụ thể với độ chính xác lên đến một tuần.

Cảm giác cử động của thai nhi cũng rất chủ quan, và phụ thuộc vào ngưỡng nhạy cảm của từng thai phụ. Vì vậy, một số phụ nữ có thể bắt đầu cảm thấy chuyển động của thai nhi từ 18 tuần, trong khi những người khác chỉ từ 22 tuần. Nhưng trên thực tế, thai nhi bắt đầu chuyển động từ tuần thứ 7-8.

Khá điển hình và phổ biến là quan niệm sai lầm rằng siêu âm (siêu âm) xác định tuổi thai … Điều này không thực sự xảy ra. Trong quá trình nghiên cứu này, một câu hỏi quan trọng không kém khác đã được giải quyết – đối với thời kỳ mang thai, kích thước của thai nhi thu được trong quá trình nghiên cứu là đặc điểm nào, với điều kiện là tuổi thai ước tính được biết, lần lượt, được tính từ đầu ngày hành kinh cuối cùng hoặc kể từ ngày thụ thai. Vì vậy, nếu trong một quan sát nào đó, ví dụ, người ta biết rằng tuổi thai ước tính là 32 tuần, và theo số liệu siêu âm, kích thước của thai nhi đặc trưng cho tuổi thai 29 tuần, thì không ai phản bác rằng Tuổi thai là 29 tuần chứ không phải 32. Sẽ được kết luận là thai nhi bị tụt kích thước 3 tuần nên cần đi khám chuyên sâu hơn để tìm nguyên nhân. Ngoài ra, trong động thái của siêu âm, tốc độ (tốc độ phát triển của thai nhi) được đánh giá phù hợp với tuổi thai.

Trong quá trình mang thai bình thường, xảy ra ở hầu hết các bệnh nhân, kích thước của thai nhi và tuổi thai trùng nhau, điều này tạo ra giả thiết sai lầm rằng siêu âm có thể xác định thời gian mang thai.

Điều quan trọng nữa là phải tính đến các trường hợp sau: lên đến 12 tuần của thai kỳ, khi chiều dài của phôi (kích thước xương cụt-đỉnh – CTE) và đường kính trong trung bình của buồng trứng được ước tính bằng cách sử dụng siêu âm, kết quả đo tuổi thai được đánh giá theo bảng tính cho “thời kỳ phôi thai”, tức là nhỏ hơn 2 tuần so với sản khoa.

Vào một ngày sau đó, để so sánh kết quả đo thai bằng siêu âm, hãy sử dụng bàn sản khoa (từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng).

Nếu bác sĩ thực hiện nghiên cứu trước 12 tuần không thực hiện điều chỉnh trong 2 tuần đối với thời kỳ sản khoa, thì có thể có sự bất đồng về 2 tuần giữa các giai đoạn của thai kỳ, được giả định theo dữ liệu siêu âm trước 12 tuần và sau đó. Trong thực tế, không có sự khác biệt. Bạn chỉ nên thêm 2 tuần vào kết quả thu được tối đa 12 tuần nếu điều này chưa được thực hiện.

Như vậy, tuổi thai tính theo tuần chỉ được xác định trên cơ sở tập hợp số liệu bao gồm ngày hành kinh cuối cùng, ngày thụ thai, kết quả siêu âm động, số liệu về tốc độ phát triển của thai nhi.

Thời gian mang thai là một chỉ số quan trọng. Nó được sử dụng để đánh giá sự phát triển của thai nhi, để tìm ra ngày dự kiến u200bu200bsinh. Có nhiều cách để người phụ nữ mang thai có thể có ngày dự sinh (ví dụ, theo ngày bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng, ngày rụng trứng).

Chẩn đoán siêu âm (USL) đáng được quan tâm đặc biệt. Nó được quy định trong thời kỳ mang thai vì một số lý do. Trước hết, siêu âm là cần thiết để xác nhận sự phát triển của thai trong tử cung. Các lý do để thực hiện quét bao gồm xác định độ dài của thời kỳ mang thai.

Với sự trợ giúp của chẩn đoán siêu âm, thời gian của thời kỳ mang thai có thể được xác định chính xác nhất có thể trong ba tháng đầu. Trong các kỳ tiếp theo, thông tin nhận được không hoàn toàn chính xác. Các sai sót phát sinh do các đặc điểm cấu thành của sự phát triển của thai nhi, cũng như do các biến chứng đang có và tiến triển ở một số phụ nữ trong thời kỳ mang thai.

Làm thế nào để xác định thời gian mang thai bằng cách sử dụng SPL?

Trong 3 tháng đầu, khi không thể nhìn thấy phôi thai, các chuyên gia sẽ nhận biết bằng SVD tính toán của noãn – đường kính trong trung bình. Tham số này được xác định bởi thuật toán sau:

phép đo kích thước trước và sau của noãn được thực hiện trong quá trình quét dọc;

chiều rộng được đo trong quá trình quét ngang;

trung bình cộng được tính toán từ các số thu được.

Vào 5,5 tuần. Đối với đường kính trong trung bình, các giá trị từ 0,6 đến 0,7 cm là đặc trưng. Mỗi ngày phôi phát triển với thai phát triển bình thường:

ở 6 tuần chỉ số được đề cập đã trở nên bằng 1,1 cm;

ở 6,5 tuần – 1,4 cm;

ở 7 tuần – 1,9 cm;

ở 7,5 tuần. – 2,3 cm;

ở 8 tuần – 2,7 cm.

Khi phôi thai bắt đầu hình dung, chỉ số cho phép bạn biết độ dài của thời kỳ mang thai sẽ trở thành CTE – một kích thước được gọi là xương cụt-đỉnh.

Nó được xác định bằng cách quét sagittal. Tham số này có nghĩa là khoảng cách tối đa từ xương cụt đến đường viền bên ngoài của phần đầu:

vào 1 tháng và 3 tuần. CTE là 0,81 cm;

ở 2 tháng – 1,48 cm;

ở 2 tháng và 1 tuần. – 2,24 cm;

ở 2 tháng và 2 tuần. – 3,12 cm;

ở 2 tháng và 3 tuần. – 4,21 cm;

lúc 3 tháng. – 5,11 cm;

lúc 3 tháng. và 1 tuần. – 6,32 cm;

lúc 3 tháng. và 2 tuần. – 7,67 cm.

Các bác sĩ chuyên khoa có thể tính đến kích thước vòng đầu của thai nhi, kích thước hai đầu, đường kính trung bình của bụng và ngực, kích thước vòng bụng, chiều dài xương đùi.

Siêu âm bao lâu thì thấy: sản khoa hay từ lúc thụ thai?

Bác sĩ sản phụ khoa sử dụng trong công việc của họ như các thuật ngữ sản khoa và giai đoạn thai nghén (phôi thai). Có một sự khác biệt nhỏ giữa các khái niệm này. Thời kỳ sản khoa là số tuần đã trôi qua kể từ đầu kỳ kinh cuối cùng. Thời kỳ mang thai (phôi thai) là thời kỳ bắt đầu từ thời điểm trứng được thụ tinh.

Thời kỳ xác định bằng siêu âm được coi là thời kỳ phôi thai. Trong thực hành sản khoa, khái niệm đầu tiên được sử dụng rộng rãi. Đó là lý do tại sao, để tránh nhầm lẫn, các chuyên gia dịch thời gian mang thai thành sản khoa, cộng thêm 2 tuần vào.

Nếu thời hạn tính theo số liệu siêu âm siêu âm vượt quá sản khoa …

Về mặt lý thuyết, thai kỳ ít hơn sản khoa vài tuần. Tuy nhiên, đôi khi chẩn đoán bằng siêu âm cho thấy điều gì đó hoàn toàn khác. Một số phụ nữ cho biết họ có nhiều hơn sản khoa… Đây là một hiện tượng hoàn toàn có thể chấp nhận được.

Ở tam cá nguyệt thứ hai, tuổi thai có thể được xác định khá chính xác bằng các thông số đo thai, nhưng ở tam cá nguyệt thứ ba đã xảy ra sai số do mỗi thai bắt đầu phát triển riêng lẻ, yếu tố di truyền ảnh hưởng. Sai số trong một số trường hợp là ± 3-4 tuần. Trong ba tháng cuối của thai kỳ, không nên dùng phương pháp đo thai để làm rõ thời gian mang thai, mà để xác định xem kích thước của thai có tương ứng với thời kỳ đã biết hay không.

Tại sao thuật ngữ được chỉ định với sự trợ giúp của siêu âm?

Để ngăn ngừa hậu quả của việc mang thai sau sinh cần có những biện pháp phòng tránh nhất định. Một trong số đó là xác định tuổi thai chính xác dựa trên kết quả siêu âm chẩn đoán (mong muốn những phụ nữ có thai nên siêu âm không quá 20 tuần). Việc xác định số tuần cũng tránh được những kích thích chuyển dạ không cần thiết.

Việc nắm rõ thời gian thai nghén giúp bác sĩ có thể xác định được thai nhi có phát triển theo chuẩn hay không, có sai lệch gì không. Một lý do khác tại sao bạn cần biết chính xác số tuần là phụ nữ cần phải khám sàng lọc, làm các xét nghiệm khác nhau vào một thời điểm nhất định (nếu bạn vượt qua một hoặc một xét nghiệm khác muộn hơn hoặc sớm hơn, bạn có thể nhận được kết quả không đáng tin cậy).

Kết luận, cần lưu ý rằng siêu âm là một cách khá đơn giản để xác định thời gian mang thai. Phương pháp cung cấp thông tin chính xác nhất trong tam cá nguyệt đầu tiên. Đó là từ giai đoạn được tính vào đầu thai kỳ mà các bác sĩ bắt đầu trong tương lai. Điều đáng chú ý nữa là sự an toàn của siêu âm được nhiều mẹ bầu quan tâm. Sóng siêu âm có thể gây hại. Tuy nhiên, các thiết bị hiện đại có ảnh hưởng tối thiểu đến cơ thể, vì vậy phương pháp chẩn đoán được coi là an toàn cho cả bà mẹ tương lai và thai nhi.

Khái Niệm Echo Trong Âm Thanh Là Gì? Cách Chỉnh Echo Hay Nhất?

Echo trong âm thanh là độ vang của âm thanh, dễ nhận biết đó chính là khi hát Karaoke hoặc khi nói vào Micro bạn sẽ cuối câu sẽ bị vọng lại, tùy chỉnh 1 mức Echo thích hợp sẽ giúp bài hát của bạn trở lên hay hơn rất nhiều so với bình thường.  

2. Echo trong âm thanh có tác dụng gì?

Echo sẽ giúp bản nhạc hay giọng hát của bạn trở lên vang vọng hơn từ đó sẽ giúp bạn trở lên hay hơn rất nhiều, nếu một sử dụng dàn âm thanh với mục đích Karaoke thì bắt buộc bạn phải sử dụng tính năng Echo trên Amply nếu không có Echo sẽ trở thành 1 bài hát khô và rất khó nghe. Tầm quan trọng của Echo vô vùng to lớn tuy nhiên việc tinh chỉnh cũng khá là dễ dàng không quá khó khăn gì cho người dùng, bạn có thể tự tinh chỉnh theo ý của mình cũng được.

 

Cách chỉnh Echo trên Amply

3. Cách tinh chỉnh Echo của Amply sao cho hay nhất:

Việc tinh chỉnh Echo khá là dễ dàng tuy nhiên cũng phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ngoại cảnh khác như không gian phòng, độ nhậy của Micro, chất lượng các thiết bị âm thanh, khả năng tương thích giữa các thiết bị,… do vậy sau đây Audio Hải Hưng sẽ gợi ý cho bạn một vài kinh nghiệm sau đây. Trước tiên bạn cần đưa tất cả các nút về trạng thái cân bằng, sau đó sử dụng Micro để nói (không mở nhạc hay beat) tiếp đó bạn tinh chỉnh các nút khác và Echo sao cho phù hợp nhất để tạo ra chất lượng âm thanh ổn định và phù hợp với tai của bạn. Tiếp đó bạn sử dụng 1 bản beat để tinh chỉnh Echo sao cho hợp lý, sẽ không có 1 con số cố định cho tinh chỉnh Echo hay Treble, Bass cả do vậy bạn cần phải trải nghiệm thực tế và dựa vào khả năng cảm nhận âm thanh của bạn để phán quyết điều này.

Những Thuật Ngữ Chuyên Môn Trong Âm Nhạc

Leading Tones: Nốt thứ 7 trong âm giai (scale)

Ledger Lines: Những hàng kẻ phụ

Melody: Một dòng nhạc

Meter: Nhịp

Meter Signature: Số nhịp

Major Chord: Hợp âm trưởng

Minor Chord: Hợp âm thứ

Modulation Sự chuyển hợp âm

Natural: Dấu bình

Orchestra: Dàn nhạc lớn, có string, brass, woodwing và percussion instruments

Ornamentation: Những nốt như dấu luyến, láy,vv…

Percussion Family: Bộ gõ: drums, rattles, bells, gongs, và xylophones

Pitch: Cao độ của âm thanh

Plainsong: Nhạc bình ca (Gregorian songs) nhạc không có nhiều bè, không có trường canh, không có nhạc đệm.

Quarter Note: Nốt đen

Quarter Rest: Dấu nghỉ đen

Refrain: Điệp khúc

Rhythm: Tiết tấu

Scale: Âm giai

Sharp #: Dấu thăng

Slur: Dấu luyến, nối hai nốt khác cao độ

Staff: hàng kẻ nhạc

String Instrument Family Những nhạc khí dùng dây như Guitar, violin, violla, cello, bass

Syncopation: Đảo phách, nhấn trên phách yếu.

Tenore Clef: Khóa Đô nằm ở hàng kẻ thứ 4

Tie: Dấu nối hai nốt cùng cao độ

Time Signature: Số nhịp của bản nhạc

Tone: Một nốt

Tonic: Chủ âm trong âm giai (scale)

Treble: Cho những nốt cao.

Treble clef: Khóa Sol

Triad: một hợp âm gồm 3 nốt chồng lên nhau theo những quãng 3.

Triplet: Liên ba

Unison: Hai nốt giống nhau, cùng cao độ.

Wind instrument family: Những nhạc khí như kèn và sáo

Woodwind family: Những nhạc khí mà original làm bằng gỗ, như sáo (recorders, flutes, clarinets, saxophones, oboes, bassoons)

Những từ ngữ quốc tế thường gặp trong âm nhạc

A piacere (giống như chữ “ad libitum”): diễn tả tự do

A tempo: Trở về nhịp vận cũ

Acelerando, accel: Hát dần dần nhanh hơn

Ad libitum, ad lib: Cho phép người hát dùng tempo (nhịp vận) tùy ý (có hay không có nhạc đệm). Đồng nghĩa với chữ “A piacere”

Adagio: Chậm, chậm hơn andante, nhanh hơn largo

Addolorado: Diễn tả sự buồn sầu

Affrettando: Hát nhanh (hurry) lên

Agilmente: Hát một cách sống động

Agitato: Hát một cách truyền cảm (excitement)

Al Coda: Tới chỗ Coda (đoạn kết bài)

Al Fine: Tới chỗ kết

Al segno: Trở về chỗ dấu hiệu Dal segno (có dạng chữ S)

Al, all’, alla, alle: “tới, trở về” (to), thí dụ: al Fine (tới chỗ kết)

Alla breve Cut time: (nhịp 2/2) Allargando, allard: Hát chậm dần lại nhưng to dần lên, thường xẩy ra lúc kết bài hát.

Allegretto: Chậm hơn Allegro

Allegro: Hát với nhịp vận nhanh, vui vẻ

Alto: Giọng thấp nhất của bên nữ (đôi lúc có thể dùng bè tenore một (cao) để hát cho bè này. Trong string family thì alto có nghĩa là đàn “viola”.

Ancora: Lập lại

Andante: Hát với nhịp vận vừa phải (moderate)

Animato: Hát sống động

Appassionato: Hát một cách say sưa (impassioned)

Arpeggio: Rải Arpeggio: Đánh đàn theo kiểu rải nốt. Baritone: Giọng trung bình của bè nam (giữa tenore và basso). Hầu hết người Việt Nam chúng ta có giọng này.

Bass: Giọng thấp nhất của bè nam.

Baton: Cái đũa nhịp của Ca trưởng

Bis: Lập lại 2 lần (Encore!)

Caesura: Im bặt tiếng (dấu hiệu:

Calmo, calmato: Im lặng

Canon: Hai bè đuổi nhau (counterpoint) mà bè sau lập lại giống như của bè trước.

Carol Bài hát mừng Chúa Giáng Sinh

Coda: Phần kết của bài hát, thường viết thêm vào để kết.

Col, coll’, colla: Có nghĩa là “với”

Con: Hát “với”

Con brio: Hát với tâm tình (spirit)

Con calore: Hát với sự ân cần, nhiệt tâm (warmth)

Con intensita: Hát với sự mạnh mẽ, kiên cường (intensity)

Con moto: Hát với sự chuyển động (motion)

Con spirito: Hát với tâm hồn

Contra: Tấu, hát một octave bên dưới bình thường

Crecendo: Hát dần dần to lên

Da capo, D.C: Trở về từ đầu

Dal: Có nghĩa là “từ chỗ…”

Dal Seno, D.S: Trở lại từ chỗ có dấu seno (giống chữ S)

Decrescendo: Hát nhỏ, êm dần lại (đồng nghĩa với diminuendo)

Delecato: Một cách khéo léo (delicately)

Diminished: Giảm gần trường độ nốt.

Diminunendo, dim: Hát nhỏ, êm dần

Dolce: Hát một cách ngọt ngào (sweetly)

Dolcissimo: Hát một cách rất ngọt ngào.

Dolosoro: Hát một cách buồn sầu (sadly, mournfully)

Duet: Hai người hát

Encore: Lập lại hay chơi thêm ở cuối bài hát.

Espressivo: Hát một cách truyền cảm (expressively)

Fermata: Ký hiệu viết trên nốt nhạc (giống con mắt) dùng để ngân dài.

Festivo, festoso: Hát một cách vui vẻ (festive, merry)

Finale: Đọan cuối cùng

Fine: Hết

Glissando: vuốt (phím đàn)

Gracia: Vui vẻ

Grave: Chậm, buồn

Interlude: Khúc dạo để chuyển bè, chuyển đoạn

Lacrimoso: Hát một cách buồn sầu, khóc lóc (tearful, mournful)

Lamento: Hát một cách buồn sầu

Langsam: Hát chậm

Largetto: Hát chậm hơn largo

Largo: Hát rất chậm

Legato: Hát một cách êm ái và liên tục

Leggiero: Hát một cách nhẹ nhàng, vui vẻ

Lento: Hát một cách chậm chạp, nhưng nhanh hơn largo và chậm hơn adagio

Liberamento: Hát một cách tự do (freely)

Medesimo: Giống nhau (the same)

Meno: Ít hơn

Meno mosso: ít cử động hơn (less motion)

Metronome: Một dụng cụ để giữ nhịp. Nếu M.M. 60, nghĩa là mỗi hát 60 phách mỗi phút

Mezzo: Khoảng giữa, trung bình

Mezzo Alto: Giọng trung bình của bè nữ.

Mezzo forte, mf: Mạnh vừa

Mezzo piano, mp: Nhẹ vừa

Misterioso: Một cách thần bí (misteriously)

Moderato: Hát với tốc độ trung bình

Morendo: Dần dần hát nhẹ lại (dying away)

Mosso: Nhanh

Octave: hai nốt cùng tên, cách nhau một quãng 8 (hay 12 cái half steps)

Ottava: Một Octava

Ottava alta (8va): 1 octave cao hơn

Ottave bassa (8va, 8vb): 1 Octave thấp hơn

Pacato: Im lặng (calm, quiet)

Pausa: Nghỉ (a rest)

Petite: Nhỏ

Peu a Peu: Từng ít một

Pianissimo, pp: Rất êm

Pianississimo, ppp: Êm vô cùng

Piano, p: Êm

Piu: Nhiều hơn (more)

Poco: Một ít

Poco ced., Cedere: Chậm hơn một ít

poco piu mosso: Chuyển động nhiều hơn một chút

Poi: sau đó (then)

Postlude: Bài dạo sau lễ

Prelude: Bài dạo đầu lễ

Prelude: Nhạc dạo (chơi trước)

Prestissimo: Rất, rất nhanh

Presto: Rất nhanh

Quasi: Hầu hết (almost)

Rallentando, rall: Chậm dần lại, như chữ Ritardando

Rapide: Nhanh

Rinforzando: Dấu nhấn

Ritardando, rit: Chậm lại dần

Ritenuto: Giảng tốc độ ngay

Rubato: Nhịp lơi

Sanft: Nhẹ nhàng (soft, gentle)

Sans: Không có (without)

Segno: Dấu hồi đoạn (như chữ S)

Semplice: Đơn giản (simple)

Sempre: Luôn luôn, thí dụ: Sempre staccato

Senza: Không có (without)

Sereno: Bình thản (peaceful)

Sforzando, sfz, sf: Nhấn buông, nhấn mạnh trên nốt một cách bất ưng

Simile: Giống nhau

Sinistra: Trai trái (left hand)

Sino: Mãi tới khi (until)

Smorzando: Tắt lịm dần (fading away)

Soave: Ngọt ngào (sweet, mild)

Sognando: Một cách mơ màng (dreamily)

Solo: Hát một mình

Soprano: Giọng cao nhất của bè nữ.

Sostenuto: Kéo dài nốt

Spiccato: Hát tách rời (khác với legato)

Stesso: Giống nhau (same)

Subito: Một cách thình lình (suddenly)

Sur: Trên (on, over)

Svelto: Nhanh (quick, light)

Tanto: Nhiều

Tempo: Nhịp vận

Tempo primo: Trở về nhịp vận đầu

Teneramente: Nhẹ nhàng (tenderly)

Tenore: Giọng cao nhất của bè nam.

Tenuto, ten: Giữ nốt lâu hơn bình thường (nhưng không lâu bằng fermata)

Tosto: Nhanh (quick)

Tranquillo: Im lặng

Tre: 3

Trills Rung: (hát thay đổi từ nốt chính lên một hay nửa cung một cách liên tục)

Troppo: Qúa nhiều

Tutti: Tất cả (all)

Un Peu: Một ít (a little)

Un poco: Một ít (a little)

Una corda soft pedal

Vibrato: Rung

Vivace: Hát một cách hoạt bát, linh động

Volti subito: Giở trang thật nhanh

Vrescendo: Hát lớn dần lên

Soạn Bài Thuật Ngữ (Siêu Ngắn)

Soạn bài Thuật ngữ I, Thuật ngữ là gì?

Câu 1 (trang 87 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Cách giải thích thứ nhất ai cũng hiểu được. Cách giải thích thứ hai nếu ai không có kiến thức về hóa học thì sẽ rất khó hiểu

Câu 2 (trang 88 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

a, Môn Địa lí, Hóa học, Ngữ văn, Toán

b, Những từ được in đậm chủ yếu được dùng cho văn bản khoa học

II, Đặc điểm của thuật ngữ

Câu 1 (trang 88 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Các thuật ngữ ở trên chỉ có một nghĩa, không có nghĩa nào khác

Câu 2 (trang 88 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Ví dụ b muối mang sắc thái biểu cảm. Nó ẩn dụ cho sự gắn bó, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau

Luyện tập

Câu 1 (trang 89 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Những từ cần điền theo thứ tự: Lực, Xâm thực, Hiện tượng hóa học, Trường từ vựng, Di chỉ, Thụ phấn, Lưu lượng, Trọng lực, Khí áp, Đơn chất, Thị tộc phụ hệ, Đường trung trực

Câu 2 (trang 90 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

– Điểm tựa ở đây không được dùng như một thuật ngữ của Vật lí

– Nó có ý nghĩa là nơi gửi gắm niềm tin và hi vọng của tác giả, của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

Câu 3 (trang 90 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

– Trường hợp a hỗn hợp được dùng như thuật ngữ. Trường hợp b “hỗn hợp” được dùng theo nghĩa thông thường

– Thức ăn gia súc hỗn hợp

Câu 4 (trang 90 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

– Định nghĩa từ “cá”: Cá là động vật có xương sống, ở dưới nước, bơi bằng vây, thở bằng mang

– Khi chúng ta gọi “cá voi, cá heo” đấy là dựa trên đặc điểm sống dưới nước của chúng mà gọi

Câu 5 (trang 90 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

Hai thuật ngữ “thị trường” không vi phạm nguyên tắc “một thuật ngữ – một khái niệm” vì đây là hai từ dùng trong hai lĩnh vực khoa học khác nhau. Đây đơn giản chỉ là hiện tượng đồng âm khác nghĩa.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.