Thuật Ngữ An Ninh Phi Truyền Thống Được Chính Thức Đề Cập Từ Đại Hội Mấy Của Đảng Cộng Sản Việt Nam / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Phương Thức Lãnh Đạo Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Đề nghị chúng tôi cho biết khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Trả lời:

Trong những năm chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mệnh “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhiều lần bàn và chỉ ra những nội hàm chủ yếu của khái niệm “lãnh đạo”, “lãnh đạo đúng” của Đảng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Người viết:

Lãnh đạo đúng nghĩa là:

1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng vì dân chúng chính là người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.

2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.

3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được.

Những điểm nêu trên cũng là những yếu tố chủ yếu tạo nên sự lãnh đạo đúng của Đảng. Đó cũng chính là quy trình, cách thức, phương pháp lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Tại Đại hội lần thứ VII (6-1991), Đảng đã nêu khá rõ về phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới: Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng các công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên…

Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), Đảng ta bổ sung: Đảng “lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên”.

Tại Đại hội X (4-2006), Đảng ta đã có bước phát triển nhận thức về phương thức lãnh đạo, bổ sung thêm nhiều nội dung cụ thể, thiết thực. Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Đảng theo hướng thực sự dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng; làm việc có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm. Đổi mới cách ra nghị quyết, văn kiện và báo cáo phải ngắn gọn, thiết thực, cụ thể; đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả của hội nghị. Cấp uỷ dành nhiều thời gian tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, tổng kết việc thực hiện nghị quyết; chỉ đạo hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân… Xây dựng và thực hiện chế độ báo cáo xin ý kiến… Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải báo cáo, xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương về hoạt động của mình giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ rõ hơn và bổ sung thêm những vấn đề chủ yếu về phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó nhấn mạnh, Đảng lãnh đạo bằng công tác cán bộ, lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, phương thức là phương pháp và hình thức tiến hành. Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao.

Sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đưa ra định nghĩa: Phương thức lãnh đạo là tổng thể phương pháp, hình thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác… mà Đảng sử dụng để thực hiện sự lãnh đạo toàn xã hội thông qua tổ chức đảng, đảng viên ….

Từ phân tích trên, có thể hiểu: Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy trình, phong cách, lề lối làm việc… mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phương thức lãnh đạo của Đảng, gồm:

Tuấn Giang

Đề Cương Ôn Tập Đương Lối Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Published on

Giúp các bạn ôn tập hiệu quả và trong quá trình thi đề mở ở Đại học Công nghiệp thực phẩm TP.HCM

3. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 3  Khác nhau về chế độ sở hữu, quản lý, phân phối thu nhập, cơ chế thị trường. @Bài làm@  Về Chế độ sở hữu: Trong Tư bản chủ nghĩa tồn tại 2 hình thức sở hữu: Sở hữu tư nhân và Sở hữu công. Sở hữu tư nhân là doanh nghiệp cá thể có quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân có liên kết. Còn sở hữu công là doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Đối tư bản chủ nghĩa xem quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất là thiêng liêng được xã hội và pháp luật bảo vệ. Trong đó hình thức sở hữu tư nhân đóng vai trò thống trị, quyết định đến việc thực hiện những nhiệm vụ chính của nền kinh tế. Các thành quả kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân tạo nên chiếm từ 80%- 85% GDP. Thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động. Và mục tiêu của nó đó là vì lợi nhuận. Đối với Xã hội chủ nghĩa có 3 hình thức sở hữu đó là: Sở hữu toàn dân (Các nông trường quốc doanh quy mô lớn), Sở hữu tập thể, Sở hữu tư nhân.Trên cơ sở 3 chế độ sở hữu nêu trên, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước , kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó sở hữu nhà nước( sở hữu toàn dân) đóng vai trò chủ đạo và quyết định đến nền kinh tế của đất nước. Về lâu dài, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu không vì lợi nhuận.  Về Quản lý: Ở chế độ TBCN, sự can thiệp hạn chế của chính phủ vào các hoạt động kinh tế “nhà nước nằm trên TBCN” nhà nước không muốn can thiệp vào nên kinh tế mà chỉ muốn can thiệp vào những lĩnh vực mà cả người sản xuất vào người tiêu dùng diều không làm được( xây dựng luật và chính sách bảo vệ người sản xuất và tiêu dùng). Các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ở XHCN, có sự can thiệp một cách toàn diện của chính phủ vào hoạt động kinh tế, Nhà nước nằm trong lòng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là Chính phủ là chủ sở hữu nguồn lực, là chủ quản các hoạt động KTXH, là chủ sở hữu các lĩnh vực ngân hàng- tài chính phân phối thu nhập -Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo: + Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến độ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển .

4. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 4 + Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt. -Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng cường với đảm bảo an sinh và công bằng xã hội.  phân phối thu nhập – sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xhcn, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. vì thế phân phối theo lao động được xác định là hinhg thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xh.  Về Cơ chế thị trường Đối với tư bản chủ nghĩa, cạnh tranh và quyền tự do sản xuất kinh doanh của nhà sản xuất. Đây cũng chính là yếu tố tạo nên môi trường cạnh tranh hoàn hảo(ra vào thị trường một cách tự do). Chủ nghĩa cá nhân và khách hàng là thượng đế tạo nên tự do cạnh tranh Còn đối với XHCN quyền làm chủ tập thể, mình vì mọi người và mọi người vì mình nên cơ chế này sẽ dễ dàng làm xã hội tiến lên hoặc lùi là phục thuộc và xã hội đó có tốt hay không. Có sự can thiệp một các toàn diện của chính phủ vào hoạt động kinh tế .Nhà nước nằm trong lòng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ là chủ sở hữu nguồn lực, chủ quản các hoạt động KTXH, chủ sở hữu các lĩnh vực ngân hàng- tài chính 5) Tại hội nghị VI (1986) Đảng ta xác định “Khoa học kĩ thuật là 1 động lực to lớn, đẩy mạnh quá trình phát triển của xã hội, có vị trí then chốt trong phát triển xã hội.  Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát.  Vai trò của KHKT  KHCN nước ta có những đóng góp cho sự nghiệp CNHHĐH  Những vấn đề bất cập của khoa học công nghệ hiện nay 6) Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa  Đây là mối quan hệ có ý nghĩa quan trọng  Khẳng định trong nhận thức và thực tiễn, mục tiêu kinh tế thường lấn áp mục tiêu văn hóa

5. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 5  Văn hóa trở thành mục tiêu của sự phát triển KT-XH  Phát triển VH đồng bộ với phát triển xã hội  Phải có chính sách cho kinh tế và ngược lại phải xây dựng nền VH đạo đức cho nhân dân. 7) Mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời có ý nghĩa ntn trong việc nâng cao dân trí bồi dưỡng nhân tài.  Mô hình XH học tập đáp ứng nhu cầu cho người học Trước tiên học phải có mục đích đúng đắn : mỗi người chúng ta phải xác định mục đích học tập của mình là gì, để từ đó có thể lập nên kế hoạch học riêng của bản thân. Cố gắng hoàn thành hoạch định đã vạch ra thì mới có kết quả tốt đẹp.  Tạo ra cơ hội cho người học Giúp chúng ta luôn có sự tự tin trong mọi việc. Không lạc hậu so với xã hội. Góp phần xây dựng đất nước…..  Đây là là chiến lược đảm bảo công bằng trong giáo dục. Đây là 1 nhu cầu quan trọng trong 1 thị trường lao động đang biến động và phát triển như ở nước ta. “học, học nữa, học mãi” xã hội luôn luôn phát triển, nếu không ngừng trao dồi kiến thức chúng ta sẽ nhanh chóng bị lạc hậu. 8) Phân tích sức mạnh dân tộc 3 với sức mạnh thời đại 3 @Bài làm@ Sức mạnh dân tộc -Thể hiện ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường – Truyền thống yêu nước là hạt nhân của truyền thống dân tộc, nó không chỉ là một tình cảm tự nhiên bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong quá trình hình thành và phát triển trong quá trình giữ nước. – sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và hiện tại; sức mạnh của sự thông minh và lòng dũng cảm; của lòng chân chính ko lay chuyển nổi. Sức mạnh thời đại – Sức mạnh của các nhân dân các nước thuộc địa trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, sức mạnh này nâng lên gấp nhiều lần và gắn với cuộc cách mạng vô sản trong thời đại mới.

6. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 6 – Sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản – Sự phát triển lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học kĩ thuật- 1 động lực phát triển xã hội… Các câu hỏi trong sách thì nên bám vào sách mà làm. Lưu ý giữa chủ trương với quan điểm nhầm là zero. Chương 4 9) Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa  Nêu 8 tác dụng @Bài làm@ Câu 7: Tại sao nói: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam chú trọng phát huy nguồn lực là yếu tố căn bản và bề vững:. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam Bài làm * CNH, HĐH ở VN chú trọng phát huy nguồn nhân lực là yếu tố căn bản và bền vững, Vì: Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế thị trường và quản lý Nhà nước, trong đó con người là yếu tố quyết định CNH,HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ và khoa học công nghệ, khoa học quản lý cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của TG và có khả năng sang tạo công nghệ mới. Đại hội XI chỉ rõ “Phát triển và nâng chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bề vững” * Liên hệ thực tiễn ở VN: Để chú trọng phát triển con người nhanh và bền vững, bộ giáo dục và đào tạo Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi cho nền giáo dục với nhiều trường Đại học, Cao đẳng, TC chuyên nghiệp có uy tín để đào tạo tay nghề, đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực cao, phẩm chất tốt, với các lớp bồi dưỡng giáo viên, cán bộ

7. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 7 Câu 17: Phân tích nội dung của CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức. Theo Anh (chị) cần phải làm gì để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay? Bài làm a. Nội dung Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nội dung cơ bản của quá trình này là: – Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. – Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội. – Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. – Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao. b. Để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay – Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân. + Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. + Về quy hoạch phát triển nông thôn: + Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn: – Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. – Ba là, phát triển kinh tế vùng. – Bốn là, phát triển kinh tế biển. – Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.

8. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 8 Câu 19: Trình bày mục tiêu, quan điểm của CNH, HĐH ở nước ta thời kỳ đổi mới. Bài làm a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa – Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. – Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. – Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. – Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. – Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Câu 20: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa bước ngoặt khởi xướng cho công cuộc đổi mới ở nước ta. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa của Đảng tại đại hội lần thứ VI là gì? Bài làm Đại hội VI phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương của Đảng thời kỳ 1960 – 1985

10. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 10 + Tiếp tục đẩy mạnh CNH,HĐH phát triển nhanh + CNH,HĐH là của toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân + Xây dựng VN cơ bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại b) Để rút ngắn quá trình CNH,HĐH chúng ta phải: – Đẩy nhanh và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật – Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế (đi tắt đón đầu) – Đẩy nhanh kinh tế tri thức – Phát triển giáo dục và đào tạo Chương 5 10) Quan điểm về xây dựng kinh tế thị trường theo hướng XHCN (chưa phân tích) Để thực hiện các mục tiêu nhằm hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội, Nghị quyết nêu 5 quan điểm cần quán triệt trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm tới là: 1/ Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng XHCN. Khắc phục tư tưởng chủ quan, rập khuôn, bắt chước nước ngoài, coi nhẹ định hướng XHCN, định hướng phát triển của nền kinh tế nước ta. 2/ Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường. Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường, giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội, giữa nhà nước, thị trường và xã hội. 3/Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. 4/Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.

11. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 11 Quá trình này ở nước ta còn mới, phải vừa làm vừa tổng kết thực tiễn. Nhưng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững không cho phép chúng ta lừng chừng. 5/Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lí của Nhà nước. Xuất phát từ bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân thực hiện và vì lợi ích của nhân dân. Do vậy, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta định hướng xã hội chủ nghĩa. 11) Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội V XI Câu 8: Thế nào là KTTT định hướng XHCN? Trình bày sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT thời kỳ đổi mới. Bài làm a) Khái niệm: KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật thị trường vừa chịu sự chi phối và dẫn dắt bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH b) Sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT thời kỳ đổi mới: * Đại hội VI-VIII – KTTT không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại. KTTT nó có mầm mống trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến, phát triển cao trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Trước kia nhầm tưởng kinh tế hàng hóa – KTTT là 1 nhưng giữa kinh tế hàng hóa – KTTT có sự khác biệt nhau. Do phát triển đỉnh cao trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa nên người ta nhầm tưởng KTTT là thành tựu của tư bản. – KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH, KTTT đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ không đối lập với chế độ xã hội đó và nó tồn tại dưới nhiều hình thức. KTTT vừa liên hệ với chế độ công hữu vừa liên hệ với chế độ tư hữu và phục vụ cho quần chúng nhân dân, cho nên nó tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH – Cóa thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta. Vì tồn tại khách quan trong quá trình đi lên CNXH cho nên chúng ta có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH * Đại hội IX – X:

12. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 12 – Đại hội IX: xác định nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH – Đại hội X (2006): + Mục đích: Thực hiên “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, gải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, khuyến khích vươn lên làm giàu. + Phương hướng phát triển: xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể cùng kinh tế nhà nước ngày càng đóng vai trò nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước + Định hướng và phân phối sản phẩm: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế, thực hiện và giải quyết tốt mục tiêu con người gắn liền phát triển xã hội. * Đại hội XI (2011): Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố và phát triển. Kinh tế tư nhân là động lực phát triển của đất nước. Kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước là nền tảng vững chắc của đất nước. Kinh tế có vốn nước ngoài được khuyến khích đầu tư phát triển. 12) Mục tiêu, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sgk 13) Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (nằm trong đổi mới III) sgk 14) Làm rõ những tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN Tích cực +Con người: Đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn liền động cơ và hiệu quả. Nó buộc người ta phải khắc phục lối tư duy cảm tính, chủ quan và phải rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy lý tính, lành mạnh. Mục đích phải trên cơ sở hiện thực và đi đôi với những biện pháp để hiện thực hóa trong thực tế. Hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi và sáng tạo. + Văn hóa Các chính sách kinh tế mới sẽ tạo ra cơ sở kinh tế-xã hội mới cho các hoạt động văn hóa tiềm ẩn được phát triển đa dạng, phong phú

13. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 13 Thúc đẩy hoạt động văn hóa theo hướng xã hội hóa. Hoạt động văn hóa sẽ thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân. +Kinh tế Kinh tế thị trường chấp nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các thành phần kinh tế tác động và bình đẳng với nhau trong thực hiện các quyền kinh tế của mình. -Tiêu cực +Tổ chức Quá trình xây dựng, hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu hiệu quả. Tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu vẫn nghiêm trọng. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong DNNN chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước Hệ thống an ninh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt. Phân bố nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Cơ chế “xin – cho” chưa được xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân. +Xã hội Kinh tế thị trường chú trọng đến nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu nên nó không giải quyết được cái gọi là “Hàng hóa công cộng” (đường xá, các công trình y tế, văn hóa, giáo dục…) Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội +Thị trường Thị trường đất đai còn nhiều vướng mắc. Thị trường tài chính phát triển không cân đối, thị trường chứng khoán thiếu chiều sâu, chưa trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, Thị trường khoa học công nghệ chậm phát triển.

15. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 15 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát nhân dân, sự phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của mặt trận. 16) Cấu trúc hệ thống chính trị nước ta và vai trò của đoàn thanh niên trong hệ thống chính trị nước ta Câu 9: Hệ thống chính trị là gì? Hiện nay ở nước ta hệ thống chính trị bao gồm những tổ chức đoàn thể nào? Hãy nêu chức năng của các đoàn thể đó. Bài làm * Hệ thống chính trị: là hệ thống của các tổ chức đơn vị trong xã hội mà thông qua các tổ chức đó nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Nó bao trùm và điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp. * Hệ thống chính trị hiện nay ở nước ta bao gồm: Mặt trận tổ quốc và 5 đoàn thể chính trị xã hội: – Tổng liên đoàn lao động VN – Đoàn thanh niên cộng sản HCM – Hội liên hiệp phụ nữ VN – Hội cựu chiến binh VN – Hội nông dân VN Hệ thống chính trị bao chum và điều chỉnh mọi quan hệ chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc trong cộng đồng xã hội, giữa các yếu tố xã hội, tập thể và các nhân, vấn đề về quyền lực, về hoạch định đường lối, chủ trương chính sách phát triển xã hội * Chức năng của 5 đoàn thể: Các tổ chức, thiết chế trong hệ thống có mục đích, chức năng thực hiện, tham gia thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị, thực hiện hoặc tham gia vào các quyết định chính trị, vào thực hiện các chính sách quốc gia. Chức năng của 5 đoàn thể: – Tổng liên đoàn lao động VN: bảo vệ g/c công nhân lao động – Đoàn TN CS HCM: đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỷ luật, ý thức cho tầng lớp thanh niên. – Hội phụ nữ: bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ

16. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 16 – Hội cựu chiến binh VN: bảo vệ quyền lợi cho cựu chiến binh – Hội nông dân VN: bảo vệ quyền lợi cho người nông dân + Cấu trúc hệ thống : Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực chính trị công khai và các mối quan hệ tương hỗ của nó với các cá nhân, với tư cách là những chủ thể pháp luật, những người mang các quyền tự do của con người và công dân. Nhà nước pháp quyền XHCN là một Nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc đặc thù của riêng mình. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp luật, đặc biệt Hiến pháp và luật giữ địa vị tối cao. * Quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc có sự phân công rành mạch trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. * Trong Nhà nước pháp quyền, giá trị con người là giá trị cao quý, là mục tiêu cao nhất * Quyền lực Nhà nước là thuộc về nhân dân. +vai trò của đoàn thanh niên trong hệ thống chính trị nước ta Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. a. Mối quan hệ của Đoàn đối với Đảng và nhà nước. Thanh niên là lực lượng dự bị tin cậy, cánh tay đắc lực của Đảng và của hệ thống chính trị. Vì vậy, thanh niên cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Cụ thể: – Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. – Thực hiện một cách có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. – Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, mạnh dạn đấu tranh với những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của nhân dân. – Tích cực tham gia và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực học tập và công tác.

17. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 17 – Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào của các tổ chức chính trị – xã hội phát động; trực tiếp là xây dựng tổ chức Đoàn và phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. c. Đoàn đối với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đoàn tích cực chủ động, liên kết phối hợp, nhằm quy tụ sức mạnh của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đoàn Thanh niên là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – một liên minh chính trị rộng lớn, tập hợp lực lượng đại đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. d. Đoàn đối với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đảng giao cho Đoàn trực tiếp phụ trách, dìu dắt, giáo dục Đội Thiếu niên, nhi đồng. Tại chương IX, Điều lệ Đoàn ghi rõ: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, hướng dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, phấn đấu trở thành đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người công dân tốt của đất nước. Phối hợp với các cơ quan Nhà nước tạo điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính cho hoạt động của Đội. 17) Hệ thống chuyên chính vô sản (1975-1989) SGK Chương 7 18) 6 quan điểm xây dựng nền VH thời kì đổi mới 19) Chủ trương XF nền VH nền VH thời kì đổi mới 20) Quan điểm về giải quyết các vấn đề XH thời kì đổi mới 21) Chủ trương về giải quyết các vấn đề XH thời kì đổi mới 22) Vì sao việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay (Quan điểm 6) Trong hầu hết các định nghĩa về văn hóa ta đều thấy nổi bật nên hai yếu tố : Văn hóa về bản chất chính là khả năng sáng tạo của con người và luôn gắn với những giá trị nhân văn. Theo Mác, ” bất cứ ở đâu con người cũng làm theo thước đo của cái đẹp “. Do đó rất cần nhận rõ khái niệm giá trị văn hóa trước khi bàn tới việc bảo tồn và phát huy 2. Bảo tồn giá trị văn hóa / di sản văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là sự khẳng định vai trò và vị trí xứng đáng của nó trong đời sống xã hội hiện đại. 2.1 Nội hàm khái niệm giá trị văn hóa truyền thống chỉ ra rằng, chúng ta nhất thiết phải tận dụng / phát huy tính hữu dụng và khả năng liên kết cộng đồng, định hướng tư duy, hành động xã hội của giá trị phục vụ thiết thực nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ công

19. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 19 hợp lý trong các chính sách vĩ mô và vi mô của chính phủ. Nói cách khác, sau một năm, khía cạnh tích cực của việc gia nhập WTO là chúng tôi đang trên đường tiến tới những tiêu chuẩn của một nền kinh tế chuyên nghiệp. Còn về khía cạnh tiêu cực thì có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các bạn biết rằng, Việt Nam là một nước đang chuyển đổi, chuyển đổi về kinh tế, chuyển đổi về hành chính và chuyển đổi về chính trị. Do đó, khía cạnh tiêu cực nhất mà tôi thấy là người Việt Nam bắt đầu phải làm việc một cách thực sự hơn và vất vả hơn những năm trước đây, đặc biệt là chính phủ. Một khía cạnh tiêu cực khác là khoảng cách giàu nghèo tăng lên trong một năm vừa qua, nguyên do là người Việt chưa tích luỹ đủ những kinh nghiệm, những năng lực để sống và làm việc trong điều kiện của toàn cầu hoá và theo các tiêu chuẩn của WTO. Chính sự chênh lệch năng lực như vậy dẫn đến chênh lệch thu nhập và dẫn đến sự giãn ra của khoảng cách giàu nghèo. Đấy là hai khía cạnh tiêu cực mà tôi quan sát thấy. 26) Phân tích mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế và xã hội 27) Những chủ trương nào của Đảng đề ra nhằm khuyến khích người dân làm giàu theo pháp luật Trước hết, trong giải quyết việc làm cho người lao động Thứ hai, trong lãnh đạo thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo Thứ ba, trong lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công Thứ tư, trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân Thứ năm, trong thực hiện chính sách an sinh xã hội Chương 8 28) Vai trò công tác đối ngoại nhân dân 29) Những tác động tích cực và tiêu cực của nền văn hóa Chuyển biến theo hướng tiêu cực: Tư tưởng phương Ðông đã ăn sâu vào phong tục, tập quán và tâm khảm của con người. Lối sống theo làng xã, họ tộc đã tạo nên thế tự trị lâu đời cho người Việt Nam. Con người Việt Nam có nếp sống chuẩn mực từ trong cách ăn mặc cho đến việc ứng xử. Thế mà đến đầu thế kỉ XX, sự du nhập của văn hoá phương Tây vào Việt Nam đã làm thay đổi những giá trị cổ truyền của dân tộc. Văn hoá Việt Nam chuyển dần sang nền văn hoá hiện đại chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây.

20. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 20 Chính bản sắc truyền thống của văn hóa Việt Nam đang bị những biến thái do toàn cầu hóa từ văn hóa phương Tây đưa tới những ảnh hưởng rất xấu. Văn hóa, bản sắc dân tộc Việt Nam đang thật sự bị xâm hại, đến nỗi rất bức bối nên người ta đang hô hào thực hiện nếp sống văn minh, cách sống “có văn hóa”. Trước nguy cơ có thật này, cần có ngay những giải pháp thích hợp để chỉnh đốn lại những nền nếp truyển thống, đồng thời tìm cách phát huy cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của bản sắc Việt Nam trên đường hội nhập vào kho tàng văn hóa toàn cầu. Vốn theo truyển thống văn hóa, tâm linh lâu đời của người Việt thì hạnh phúc được đặt nền tảng trên những giá trị tinh thần nhiều hơn là trên những giá trị vật chất. Những giá trị tinh thần ấy, như đạo lý, nhân nghĩa, đạo làm người theo quan niệm truyền thống Á Đông, thì đang bị xói mòn trầm trọng bởi thời buổi “kinh tế thị trường”, nhất là qua lối sống của lớp dân thành thị mới giàu lên nhờ “mở cửa”, “kinh tế thị trường” và một số khá lớn thanh niên nam nữ. Chuyển biển theo hướng tích cực: Ý thức vô sản đã bắt đầu xuất hiện. Nó có mặt do hai điều kiện: Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và cách mạng Trung Quốc thông qua sách báo, đặc biệt là vai trò của Nguyễn Aí Quốc và một số trí thức tiến bộ đương thời Sự ra đời của giai cấp vô sản Việt Nam Nhưng ảnh hưởng của ý thức hệ vô sản chủ yếu mới chỉ là trên đời sống tư tưởng chính trị. Ðối với văn học, nhất là văn học giai đoạn này, dĩ nhiên nó có ảnh hưởng, hơn nữa còn tạo ra những thành tựu đáng kể nhưng chưa có điều kiện để phát triển. 30) Tư tưởng chỉ đạo đối ngoại thời kì hội nhập Câu 10: Hãy nêu tóm tắt những thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân của đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới. Bài làm a) Thành tựu và ý nghĩa: – Phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. + VN ký hiệp định Pari: 23/10/1991 + VN bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc: 10/11/1991

22. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 22 Câu 14: Trình bày nội dung đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới. Là công dân Việt Nam, anh (chị) cần làm gì để góp phần mở rộng quan hệ giữa nhân dân ta và bạn bè quốc tế? Bài làm a) Nội dung: * Cơ hội – thách thức: – Cơ hội: Xu thế hòa bình hợp tác trên TG phát triển là điều kiện để ta đẩy nhanh quá trình hội nhập. Sự nghiệp đổi mới hơn 20 năm qua của Đảng đã nâng cao uy tín VN trên trường TG, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế – Thách thức: + Sự bất hòa toàn cầu hóa (các tập đoàn xuyên quốc gia lợi dụng và chi phối) + Mức độ cạnh tranh rất là gay gắt trên cả mức độ sản phẩm doanh nghiệp quốc gia, nếu không đề ra chính sách cụ thể đúng đắn sẽ dẫn đến sự khủng hoảng + Các thế lực thù địch, phản động chống phá chính quyền * Mục tiêu: của Đảng về chính sách đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế. * Nhiệm vụ: giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế, thuận lợi cho công cuộc đổi mới – Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế – Nắm giữ 2 mặt hợp tác đấu tranh trong quan hệ quốc tế – Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia, không phân biệt quan hệ chính trị xã hội khác nhau – Kết hợp chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nước và toàn dân – Phát huy nội lực thu hút và sử dụng ngoại lực, cải cách các thủ tục hành chính cho phù hợp – Giữ vững bà tăng cường lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước b) Để góp phần mở rộng quan hệ giữa nhân dân ta và bạn bè quốc tế. Ta cần phải làm: – Tố giác tội phạm, tệ nạn xã hội của nước ta và nước bạn khi bắt gặp

23. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 23 – Học tập, tham gia tìm hiểu văn hóa của các nước – Loại bỏ, không tham gia, sử dụng các sản phảm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh Câu 2: Trình bày mục tiêu, quan điểm cơ bản về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN do Đảng đề ra. Bài làm a) Mục tiêu: – Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020. Những năm trước mắt cần đạt các mục tiêu: – Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. – Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị, danh nghiệp. – Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới. – Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. – Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế – xã hội. b) Quan điểm – Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. – Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.

24. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 24 – Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. – Chủ động tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm. – Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Câu 6: Toàn cầu hóa là gì? Hãy trình bày chủ trương của Đảng ta về toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay. Bài làm * Toàn cầu hóa: là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các ròa cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. * Chủ trương của đảng về toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay: Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức” – Phải nhìn rõ mặt tích cực và tiêu cực trong mối quan hệ của nó, tức là: + Với mặt tích cực ta phải biết tận dụng hết khả năng của mình. Toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước. + Với mặt tiêu cực phải bình tĩnh tháo gỡ, do xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hóa tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo. – Châu Á- Thái Bình Dương là khu vực ổn định, có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế vì vậy phải đẩy mạnh xu thế hợp tác phát triển và hình thành các khu vực kinh tế, tứ giác kinh tế và tam giác kinh tế. Câu 13: Là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, trong những năm gần đây Đảng ta đã đưa ra những định hướng gì để đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Bài làm

25. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 25 Đẩy mạnh CNH,HĐH nông thôn và giải quyết các vấn đề CNH nông thôn. – Chuyển dịch nhanh cơ cấu nông nghiệp kinh tế nông thôn, gắn công nghiệp với nông nghiệp, gắn công nghiệp với chế biến và thị trường đẩy nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ sinh học nhằm nâng cao chất lượng năng suất sản phẩm đối với từng ngành, từng vùng. – Quy hoạch phát triển nông thôn: Xây dựng nông thôn mới văn minh, đô thị xen canh nông nghiệp và xây dựng các khu cơ sở vật chất – kỹ thuật – Giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn: tạo công ăn việc làm cho người dân Câu 15: Trình bày những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài làm 1.Đặc tính chung thống nhất của kinh tế thị trường. Thứ nhất, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, nhưng có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế tham gia thị trường nhằm giành giật những điều kiện kinh doanh thuận lợi. Thứ hai, giá cả do thị trường quyết định. Giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, là công cụ quan trọng thông qua cung cầu để kích thích và điều tiết hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường. Sự biến động của cung cầu kéo theo sự biến động của giá cả thị trường và ngược lại, giá cả thị trường cũng điều tiết cung cầu. Thứ ba, nền kinh tế vận động theo những qui luật vốn có của kinh tế thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh…Sự tác động của các qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Thứ tư, đối với nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. 2. Tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

26. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 26 Việt Nam. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng của nó. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – XHCN ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thúc phân phối theo thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Trong cơ chế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối theo thu nhập sau : phân phối theo lao động, theo nguồn vốn, theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội. phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên CNXH. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước XHCN. Nhà nước quản lí nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước XHCN. Sự quản lí của Nhà nước XHCN nhằm đưa nền kinh tế đi theo đúng hướng XHCN, vì vậy phải tăng cường vai trò quản lí của nhà nước thông qua các công cụ quản lí vĩ mô.Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Đây là hai phương tiện khác nhau để điều tiết nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta nhằm thu hút vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn

Các Cương Lĩnh Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã đi qua chặng đường lịch sử 80 năm. Từ sau Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng (3-2-1930) đến nay, Đảng đã tiến hành 10 Đại hội đại biểu toàn quốc, khoảng 141 cuộc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, nhiều cuộc Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương và Hội nghị Bộ Chính trị. Mỗi Đại hội, hội nghị đã đánh dấu những mốc quan trọng trong lịch sử anh hùng, vẻ vang của Đảng bởi những văn kiện, nghị quyết làm nên chủ trương, đường lối cách mạng Việt Nam. Có nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng mang tính cương lĩnh chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, nếu xét về tên gọi của mỗi văn kiện và khái niệm “Cương lĩnh chính trị” theo nghĩa là bản trình bày một cách khoa học nhất mục đích, tôn chỉ, phương hướng, nhiệm vụ của một chính đảng cách mạng, cũng như xác định đầy đủ lực lượng, phương thức, phương pháp tiến hành cách mạng để thực hiện mục tiêu trước mắt, và nhằm tới mục đích cuối cùng của cách mạng, thì trong lịch sử 8 thập kỷ ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có 4 Cương lĩnh chính trị quan trọng.

Trong Chánh cương của Đảng đã nêu “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (1). Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã hội làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công, nông, binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.

Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.

Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.

Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng Mác – Lênin.

Luận cương chánh trị do đồng chí Trần Phú (1904 – 1931) dự thảo từ mùa hè đến mùa thu 1930, sau khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về nước, cử bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (2-1930) và khảo sát các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai – Cẩm Phả…

Từ phân tích tính chất, đặc điểm của xã hội các nước Đông Dương thuộc địa của đế quốc Pháp; những mâu thuẫn kinh tế, giai cấp tạo nên mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Đông Dương và đế quốc chủ nghĩa Pháp, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm cơ bản giống với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tính chất cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; là độc lập hoàn toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương, lập chính phủ, quân đội nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp bức trên thế giới và sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực theo phương thức tổng bãi công, bạo động võ trang khi có thời cơ; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung thành và hy sinh hết thảy vì lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và nhân dân lao động…(2).

Tuy vậy, Luận cương chánh trị, Án nghị quyết và Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm khác biệt, nhưng không đối lập về tư tưởng chính trị với Chánh cương, Sách lược và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những điểm khác biệt đó là ở chỗ bỏ tên “Việt Nam Cộng sản Đảng”, lấy tên “Đông Dương Cộng sản Đảng”; chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền trong toàn cõi Đông Dương; lực lượng cách mạng chỉ trong công nhân, nông dân, binh lính, chưa thấy hết vai trò của lực lượng yêu nước trong tiểu tư sản, tư sản dân tộc; xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, giữa độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân tuy biện chứng, sâu sắc nhưng chưa định được xu hướng phát triển nhiệm vụ giải phóng dân tộc có tính quyết định hàng đầu; hệ thống tổ chức của Đảng quy định thêm tổng bộ, xứ bộ, quận bộ, liên khu bộ và Đảng đoàn (3).

Có những nguyên nhân của sự tương đồng và nguyên nhân của sự khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên và Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nguyên nhân chính là do nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản về lập Đảng Cộng sản, về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới vào điều kiện nước ta; vai trò của lãnh tụ Đảng, lãnh tụ dân tộc và chính sách phản động đàn áp khủng bố của đế quốc, phong kiến.

3. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang (nay xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Đại hội đưa ra những văn kiện quan trọng: Diễn văn khai mạc Đại hội do đồng chí Tôn Đức Thắng đọc; Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội, tức là bản Luận cương cách mạng Việt Nam, do đồng chí Trường Chinh trình bày; Chính cương Đảng Lao động Việt Nam; Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam; Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam, là những văn kiện chủ yếu về nội dung Cương lĩnh thứ ba của Đảng. Tại Đại hội có 6 báo cáo tham luận về Mặt trận, chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng quân đội, kinh tế tài chính, xây dựng văn nghệ nhân dân và thi đua ái quốc cùng 4 Nghị quyết Đại hội về Báo cáo chính trị, công tác quân sự, công tác mặt trận và dân vận, về tờ báo Nhân dân là cơ quan Trung ương của Đảng, bổ sung cho nội dung Đại hội.

Báo cáo chính trị đã tổng kết khái quát tình hình thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX; thắng lợi cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời lãnh đạo qua các thời kỳ cho đến giai đoạn tổng phản công của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đề ra từ năm 1950, đã chứng tỏ đường lối, chính sách của Đảng ta là đúng; thành tích nhiều, khuyết điểm cũng không ít như khuynh hướng hoặc “tả” hoặc “hữu”, chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần. Từ đó xác định tình hình mới, nhiệm vụ mới của Đảng, nhiệm vụ chính trước mắt là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và tổ chức xây dựng Đảng Lao động Việt Nam, để lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện tiến đến chủ nghĩa xã hội” (4).

Luận cương cách mạng Việt Nam là bản Cương lĩnh chính trị mới của Đảng. Phân tích tính chất xã hội Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và phần nửa phong kiến; mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược diễn ra quyết liệt dưới hình thức chiến tranh; đối tượng của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cùng bè lũ Việt gian bù nhìn bán nước; xác định nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ phản đế giải phóng dân tộc là trọng tâm, nhiệm vụ chống phong kiến, giành quyền dân chủ tiến hành đồng thời nhưng phải có kế hoạch tiến hành từng bước, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm cả hai nhiệm vụ phản đế và phản phong; cách mạng dân tộc dân chủ do nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục nhau và quan hệ mật thiết: kháng chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân; cải cách ruộng đất triệt để, phát triển nông nghiệp, công nghiệp dưới hình thức hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Luận cương cách mạng Việt Nam là sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng, soi sáng nhiệm vụ trước mắt và về sau của cách mạng nước ta.

Đại hội lần thứ II quyết định đưa Đảng ra công khai và lấy tên Đảng Lao động Việt Nam. Bổ sung cho Cương lĩnh của Đảng còn có Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ Đảng xác định mục đích, tôn chỉ, nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ cơ sở đến Trung ương và trong quân đội bao gồm các cấp ủy: Chi ủy, Đảng ủy, quận, huyện ủy, thị ủy, tỉnh ủy, thành ủy, xứ ủy, khu ủy, Trung ương. Trong Đảng đã đặt ra chế độ khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh để tất cả đảng viên, tổ chức đảng thi hành.

Báo cáo chính trị – nền tảng của Cương lĩnh đã đánh giá 4 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện theo Nghị quyết Đại hội VI (12-1986) của Đảng, với những thành tựu, yếu kém và khó khăn trên các mặt chính trị, kinh tế – xã hội; quyền làm chủ nhân dân, quốc phòng – an ninh và quan hệ quốc tế; đồng thời đúc rút 5 bài học kinh nghiệm chủ yếu; đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm (1991 – 1995), 5 mục tiêu cụ thể, 4 phương châm chỉ đạo và một số nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Bản Cương lĩnh đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ năm 1930, đúc rút 5 bài học lớn về nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đặc biệt nêu 6 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là xã hội “do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (5).

Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường vừa xây dựng vừa bảo vệ Tổ quốc, nên phải nắm vững 7 phương hướng cơ bản. Đó là: Xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hành chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị; kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

Xuất phát từ Cương lĩnh đó, chiến lược của Đảng là phải ổn định, phát triển kinh tế – xã hội, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng Đảng gắn với xây dựng, thực hiện Cương lĩnh, chiến lược công cuộc đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng ở các cấp từ dưới cơ sở đến Trung ương.

5. Cương lĩnh của Đảng qua những thời kỳ cách mạng nước ta trong thế kỷ XX.

Có 3 Cương lĩnh về cách mạng dân tộc dân chủ, và 1 Cương lĩnh về thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo thời gian và tiến trình lịch sử, mỗi Cương lĩnh của Đảng chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa lớn lao riêng. Các Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến ba cao trào cách mạng trong những năm 30, 40 thế kỷ trước và thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời là cơ sở cho Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh chống thực dân Pháp xâm lược.

Cương lĩnh năm 1952 định hướng cho quyết tâm đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề cho Đại hội III (9-1960) của Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược tập trung kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam diễn ra suốt từ sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954) đến năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội..

Cương lĩnh năm 1991 là bước phát triển, hoàn chỉnh các Cương lĩnh trước đó của Đảng, mở đầu cho quá trình nhận thức đầy đủ hơn, ngày càng rõ ràng hơn về chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Những điểm chung trong các Cương lĩnh đó của Đảng là tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các Cương lĩnh đó đều được xây dựng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.

Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến tới Đại hội lần thứ XI. Cùng với việc chuẩn bị các Văn kiện Đại hội, việc bổ sung hoàn chỉnh Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đang được tiến hành. Với truyền thống kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được nêu trong các Cương lĩnh của Đảng trước đây; với những tổng kết về lý luận và kinh nghiệm công cuộc đổi mới từ Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X và nhiều Hội nghị Trung ương qua các kỳ Đại hội toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tin tưởng rằng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xãhội thông qua Đại hội Đảng lần thứ XI là Cương lĩnh cách mạng Việt Nam của Đảng trong thế kỷ XXI, đáp ứng nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam và mong muốn của nhân dân thế giới về xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa giàu mạnh./.

(2) (3) Xem Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1998, t2, tr88- 103, 104- 129

(3) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, t2, tr37

(5) Đảng Cộng sản Việt nam: cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H.1991, tr 8- 9

Bài 2: Đảng Cộng Sản Việt Nam

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, CHẤM DỨT SỰ KHỦNG HOẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, MỞ RA SỰ PHÁT TRIỂN MỚI CỦA CÁCH MẠNG VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

1.1. Sự khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam

Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, đẩy mạnh xâm chiếm các nước thuộc địa. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ra đời. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt.

Trước tình hình đó, phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến Việt Nam. Đặc biệt, thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga (năm 1917) và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III năm 1919) làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, mở đầu thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Đối với Việt Nam, ngày 01-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn ký với Chính phủ Pháp bản Hiệp ước Pa-tơ-nốt thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thực dân Pháp xác lập chế độ cai trị và khai thác thuộc địa ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực:

Về chính trị: thực dân Pháp thực thi chính sách “chia để trị”.

Về kinh tế: thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914), lần thứ hai (1919-1929).

Về văn hoá: thi hành triệt để chính sách văn hoá nô dịch, ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hoá tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.

Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc:

Về tính chất xã hội: từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

Về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội: nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai; mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.

Về cơ cấu giai cấp trong xã hội: giai cấp cũ bị phân hoá (địa chủ phong kiến và nông dân); đồng thời, xuất hiện những giai cấp và tầng lớp mới (công nhân, tư sản và tiểu tư sản).

Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra những yêu cầu cơ bản cần phải giải quyết, đó là: đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, tự do cho Nhân dân và xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho Nhân dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trước mắt và nổi lên hàng đầu.

Trước yêu cầu của lịch sử, phong trào đấu tranh chống Pháp đã diễn ra mạnh mẽ:

– Phong trào Cần Vương (1885  – 1896): điển hình là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)…, với những sĩ phu phong kiến yêu nước như:  Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng…

– Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám, là cuộc đấu tranh anh dũng của nông dân Việt Nam kéo dài gần 30 năm (1884 – 1913).

- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh.

Phan Bội Châu chủ trương bạo động để giành độc lập dân tộc nhưng dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài (dựa vào Nhật để đánh Pháp), thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến như của Nhật (1905) và sau đó theo chế độ cộng hoà tư sản như ở Trung Quốc (1912).

Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo động, tiến hành cải cách văn hóa, mở mang dân trí, làm cho dân giàu, nước mạnh, nhưng lại dựa vào nhà nước “bảo hộ Pháp”.

+ Phong trào Quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên (1919 - 1923).

+ Phong trào Yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới (1925 – 1926).

+ Phong trào Cách mạng quốc gia tư sản của Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu (1927 – 1930) và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (tháng 02-1930).

Như vậy, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản của Nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên tục, nhưng tất cả đều không thành công. Sự thất bại đó do nguyên nhân các giai cấp lãnh đạo đã lạc hậu, non yếu; không nhận thức đúng yêu cầu khách quan của lịch sử gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; không tập hợp và tổ chức được đông đảo các giai tầng yêu nước; những hạn chế trong phương pháp đấu tranh… Việt Nam lâm vào khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.

1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong hoàn cảnh Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc, với nhiệt huyết cứu nước, với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, ngày 05-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Nguyễn Tất Thành sang Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Trải qua nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man.

Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ ở Pháp lúc đó. Tháng 6-1919, các nước thắng trận họp Hội nghị Hoà bình ở Vécxây (Pháp), Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới hội nghị bản yêu sách tám điểm[1]. Những yêu sách của Người không được Hội nghị đáp ứng. Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc mà sau gần mười năm tìm kiếm (1911 – 1920) Nguyễn Ái Quốc mới bắt gặp.

Tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 – 1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập). Đây cũng là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản.

Từ đây, Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức, cán bộ cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam.  

Về tư tưởng: Người tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với Nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh Nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng.

Về chính trị: thông qua những tác phẩm lý luận tiêu biểu, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc. Cách mạng muốn giành được thắng lợi thì “trước hết phải có Đảng cách mệnh”.

Về tổ chức: tháng 6-1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập tại Quảng Châu (Trung Quốc), từ đó đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Tháng 3-1929, tại số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam ra đời. Tiếp đó, các tổ chức cộng sản liên tiếp được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng tại Bắc Kỳ (tháng 6-1929), An Nam Cộng sản Đảng tại Nam Kỳ (tháng 11-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn tại Trung Kỳ (tháng 01-1930).

Sự ra đời của các tổ chức cộng sản phản ánh sự phát triển nhảy vọt của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và Nhân dân Việt Nam.

Với sự nhạy bén về chính trị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ ngày 06-01 đến ngày 07-02-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chỉ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng. Trong đó, nội dung của Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt thể hiện rõ đường lối của cách mạng Việt Nam, với chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; đồng thời, là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

II. QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NAY

2.1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc

2.1.1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

Với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai.

Qua 15 năm (1930 - 1945) lãnh đạo cách mạng, trải qua đấu tranh gian khổ, mặc dù gặp phải những tổn thất hy sinh to lớn nhưng Đảng vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, kiên định cách mạng, trung thành với mục tiêu tư tưởng của mình. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân tiến hành ba cao trào cách mạng, đó là: – Cao trào cách mạng (1930 - 1931) với đỉnh cao Xô viết - Nghệ Tĩnh. – Cao trào cách mạng dân sinh, dân chủ (1936 - 1939).

– Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) với đỉnh cao Cách mạng tháng Tám năm 1945.

 Trên cơ sở nắm bắt tình hình trong nước và quốc tế, Đảng đã dự báo đúng thời cơ lịch sử và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để lãnh đạo Nhân dân tiến hành khởi nghĩa. Với nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945), Nhân dân Việt Nam đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật nhào chế độ phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 02-9-1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

2.1.2. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946)

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt những khó khăn, thách thức nghiêm trọng: nền kinh tế kiệt quệ, ngân sách quốc gia trống rỗng, nạn đói tiếp tục đe dọa; hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại nặng nề; trong khi đó, ngoại xâm và nội phản câu kết với nhau để cùng chống phá chính quyền cách mạng non trẻ. Vận mệnh của Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước yêu cầu mới của lịch sử, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… Cụ thể là: – Lãnh đạo xây dựng chế độ dân chủ nhân dân: tiến hành bầu cử Quốc hội khoá I (06-01-1946), thành lập Chính phủ chính thức (02- 3-1946) và thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (09-11-1946).

– Phát động phong trào chống “giặc đói”, “giặc dốt”, xây dựng nền văn hoá mới, xoá bỏ tàn dư văn hoá nô dịch của thực dân.

– Lãnh đạo Nhân dân Nam Bộ tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp ngay từ thời điểm thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ hai (23-9-1945).

– Tiến hành đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đã thực hiện sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế cùng một lúc đương đầu với nhiều kẻ thù. Đó là: + Thực hiện sách lược nhân nhượng, hòa hoãn với quân đội Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (từ tháng 09-1945 đến tháng 03-1946).

+ Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Pháp để đẩy nhanh quân đội Trung Hoa Dân quốc về nước, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ tháng 3-1946 đến tháng 12-1946).

Với đường lối đúng đắn, sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. 2.1.3. Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954).

Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình của Nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương công bố Chỉ thị Toàn dân kháng chiến và cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thực hiện chủ trương kháng chiến của Đảng và đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên với quyết tâm: “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã tổ chức, lãnh đạo Nhân dân vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến 09 năm chống thực dân Pháp xâm lược.

Chiến thắng Điện Biên Phủ (từ ngày 13-3-1954 đến ngày 07-5-1954) đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Hồ Chủ tịch viết: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội thế giới”…

Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý: trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng một khi đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính Đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

2.1.4. Đảng lãnh đạo Nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975)

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Con đường phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta xác định là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:

Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc của cả nước.

Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là một Đảng thống nhất lãnh đạo Nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt từ năm 1965 trở đi miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân miền Bắc đã kiên cường trong sản xuất và chiến đấu, giành được những thành tựu to lớn, đồng thời chi viện đắc lực cho miền Nam… Hàng triệu tấn lương thực và vũ khí, trang bị; hàng vạn thanh niên nam nữ hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc đã dốc sức vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội.

Đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn, thử nghiệm mọi chiến lược chiến tranh, sử dụng các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Quy mô, tính chất cũng như mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh mà Nhân dân ta phải đương đầu chịu đựng chưa từng có trong lịch sử. Song, Nhân dân miền Nam nói riêng và Nhân dân Việt Nam nói chung đã kiên cường vượt qua gian khổ hy sinh, kiên quyết đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ:

– Chiến lược Chiến tranh điển hình của chủ nghĩa thực dân mới (1954 - 1960). – Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965).

– Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968).

– Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” (1969 -  1975).

 Với những thắng lợi đó, miền Nam đã xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”, sát cánh cùng đồng bào miền Bắc đánh bại mọi âm mưu, chiến lược của đế quốc Mỹ, góp phần trực tiếp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, mở ra thời kỳ mới – thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

2.2. Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ năm 1975 đến nay 2.2.1. Chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975 - 1986)

 Ngay sau khi giải phóng miền Nam, mặc dù Nhân dân đã làm chủ toàn bộ đất nước, nhưng về mặt nhà nước thì vẫn còn hai Chính phủ, hai tổ chức mặt trận và các đoàn thể quần chúng ở hai miền Nam - Bắc. Đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Nhân dân cả nước, đáp ứng quy luật khách quan của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam, Đảng đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước bỏ phiếu (bầu Quốc hội chung của cả nước với 492 đại biểu đủ các thành phần (Quốc hội khoá VI). Ngay sau đó, các tổ chức đoàn thể cách mạng cũng nhanh chóng được thống nhất.

Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước trong giai đoạn mới và đường lối xây dựng kinh tế - xã hội. Đại hội đã bổ sung Điều lệ Đảng và đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân cả nước thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980) và tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã chỉ ra chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ bao gồm 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến năm 1990; đồng thời, chỉ ra những nhiệm vụ bức thiết trước mắt về kinh tế – xã hội của đất nước.

Thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, Nhân dân cả nước đã hăng hái tham gia khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống. Đồng thời, tập trung thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự – an toàn xã hội.

Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế – xã hội đạt được trong hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975 - 1986) còn thấp so với yêu cầu đặt ra và so với tiềm năng của đất nước; nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, phân phối lưu thông rối ren, lạm phát “phi mã”, tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng; niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng giảm sút.

Trước những khó khăn, thách thức đó, các địa phương, cơ sở và các tầng lớp nhân dân đã có những tìm tòi, đổi mới cách nghĩ, cách làm. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Trung ương Đảng đã có những bước đổi mới từng phần nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.

2.2.2. Đường lối đổi mới và quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay

– Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra những yếu kém trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đó phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo phát triển kinh tế. Với tinh thần trách nhiệm vì nước, vì dân, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và đối ngoại, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội chỉ rõ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.

Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện bước trưởng thành mới của Đảng, “đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình kế thừa và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thành công của Đại hội là sức mạnh mới, là cơ sở hết sức quan trọng để tăng cường hơn nữa sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và toàn dân ta”.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường tác động sâu sắc đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta: các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng toàn diện; các thế lực thù địch ra sức chống phá quyết liệt từ nhiều phí nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực; Việt Nam sau 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI đã có những bước khởi sắc, tuy nhiên chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội…

Đại hội VII của Đảng xác định: “mục tiêu tổng quát của 05 năm tới vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”[1].

Đặc biệt, Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế – xã hội 5 năm 1991-1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, nhất là sự khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa những năm 1989 - 1991. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (từ ngày 22-6 đến ngày 01-7-1996) đã nhận định: công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Đại hội quyết định chuyển đất nước sang thời kỳ mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” và đề ra nhiệm vụ kinh tế – xã hội từ năm 1996 đến năm 2000.

– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996  - 2000, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định: thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và Nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đại hội thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, đề ra mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

– Đại hội XI của Đảng (tháng 01-2011) đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 -  2010 và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 - 2011 theo Nghị quyết Đại hội X. Đặc biệt, một trong những đóng góp quan trọng có ý nghĩa lịch sử của Đại hội XI là đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

Trên cơ sở kế thừa những nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã có nhiều điểm mới như: bổ sung thành tựu của cách mạng Việt Nam sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung thêm 02 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang xây dựng; đồng thời, có sự điều chỉnh trong hầu hết các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa…

– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 01-2016) đã tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới, khẳng định: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng là quá trình cải biến sâu sắc và toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành ựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống Nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.

Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ dối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội XII cũng cho rằng chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận Nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa động bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.

Bốn nguy cơ được Đảng chỉ ra tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 01-1994) là: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, “diễn biến hòa bình” và tham ô, tham nhũng vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới nhất, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Những hạn chế khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu, không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập tự do; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới, đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam”.

Với những thắng lợi đã giành được từ khi Đảng ra đời, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, chủ quyền đất nước được củng cố vững chắc, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, ngày càng ấm no, hạnh phúc, văn minh; đất nước ta đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Với những thành tựu to lớn đã đạt được, có thể khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

III. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 3.1. Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị

Thứ nhất, xuất phát từ bối cảnh của xã hội hiện đại đã làm thay đổi cấu trúc quyền lực giữa các chủ thể trong đời sống chính trị – xã hội trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Theo đó, các chủ thể có các khả năng và nguồn lực riêng trong việc tạo dựng quyền lực, dẫn tới sự tham gia, tác động đến nhiều hoạt động chính trị và buộc các hệ thống chính trị phải thay đổi cách thức tổ chức và hoạt động của mình để có thể thích ứng và đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chẳng hạn, việc tổ chức và thực thi quyền lực đang có xu hướng giảm dần tính thứ bậc, tầng nấc trung gian để tăng hiệu lực và hiệu quả, xu hướng dùng quyền lực trí tuệ, quyền lực thông minh cũng chiếm ưu thế hơn so với dùng sức mạnh bạo lực, cưỡng chế. Cách thức tổ chức và phương thức thực thi quyền lực thay đổi, dẫn tới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cũng phải thay đổi một cách tương thích.

Thứ hai, đổi mới hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan nhằm khắc phục những yếu kém tồn tại trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị đã bộc lộ những hạn chế của nó: “Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ, còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ… Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội chậm đổi mới…”[1].

Thứ ba, xuất phát từ sự chủ động trong lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam. Nhận thức được những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi thời kỳ, các nghị quyết đại hội Đảng đều xác định nhiệm vụ quan trọng là đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện cải cách nền hành chính và gần đây nhất, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII  đã tập trung vào việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

3.2. Nguyên tắc, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản 3.2.1. Nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị

– Đổi mới hệ thống chính trị phải bảo đảm ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất để từng bước đổi mới vững chắc, tránh sự nóng vội, chủ quan và có thể sai lầm về mặt chính trị. Do vậy, đổi mới hệ thống chính trị phải được tiến hành một cách đồng bộ, thống nhất, nhưng cũng phải có lộ trình, bước đi phù hợp.

– Đổi mới hệ thống chính trị phải đảm bảo nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là một nguyên tắc hiến định và trong hệ thống chính trị một đảng thì vấn đề không nằm ở việc tăng cường sự lãnh đạo mà quan trọng là làm thế nào để tăng hiệu lực lãnh đạo.

 - Đổi mới hệ thống chính trị không làm thay đổi bản chất của chế độ mà là làm cho hệ thống chính trị ngày càng được tổ chức hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của Nhân dân, xã hội và sự phát triển của đất nước trong điều kiện hội nhập khu vực, quốc tế và sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

3.2.2. Nhiệm vụ và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ: “tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung Nhân dân làm chủ và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”[2].

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp đổi mới hệ thống chính trị[3]. Trong thời gian tới cần tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau:

- Nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

– Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó rà soát lại hệ thống tổ chức hiện có để nhận diện và khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các tổ chức này, đồng thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, Nhà nước về tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

– Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

 - Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của toàn hệ thống chính trị. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị. Kiên quyết thực hiện các biện pháp nhằm loại bỏ các tổ chức, các cấp trung gian, trùng lắp chức năng, tinh giản biên chế.

Ngoài các giải pháp cho toàn hệ thống ở trên, cần thực hiện một số giải pháp riêng cho các tổ chức của hệ thống: Đối với Đảng: Thứ nhất, kiện toàn và nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu và các tổ chức Đảng ở trung ương theo hướng làm tăng hàm lượng trí tuệ cho các chủ trương, định hướng chính sách lớn của Đảng trong bối cảnh hiện nay.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội theo hướng phát huy tính tự chủ, chủ động, tích cực của các tổ chức này trong thực thi chức năng của mình.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là đối với cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Đồng thời kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, làm trong sạch đội ngũ của Đảng, củng cố niềm tin của dân đối với Đảng.

Đối với Nhà nước: Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ chế “kiểm soát” giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến. Quốc hội cần phải nâng cao chất lượng hoạt động, nhất là trong hoạt động lập pháp để đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống pháp luật đáp ứng được yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần phải tăng số đại biểu chuyên trách, giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp.

Chính phủ, cần phải đổi mới theo hướng xây dựng một Chính phủ hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả. Theo đó, Chính phủ, các bộ, ngành tiếp tục thực hiện đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành và hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành.

Rà soát nhiệm vụ, quyền hạn để phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương để góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực.

Tiếp tục cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn tổ chức, giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế của các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân. Đẩy mạnh và kiên quyết thực hiện tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh. Định rõ quyền và trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan trực thuộc chính phủ và chính quyền địa phương.

Đối với hệ thống Tòa án và Viện Kiểm sát: Tòa án phải được đảm bảo xét xử độc lập. Xét xử độc lập của tòa án là nguyên tắc hiến định, nhưng nếu trong thực tế không tạo ra các điều kiện đảm bảo thì các thẩm phán vẫn có khả năng bị chi phối, ảnh hưởng bởi các quyền lực mạnh và lợi ích lớn trong xã hội. Tiếp tục thực hiện xây dựng tòa án khu vực và dần tách tòa án khỏi hệ thống hành chính nhà nước. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tòa bằng việc xây dựng và chuẩn hóa đội ngũ luật sư, hiệp hội luật sư. Sắp xếp, đổi mới Viện Kiểm sát theo hướng tập trung vào thực hiện chức năng điều tra, công tố.

Đối với chính quyền địa phương: Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế xây dựng chính quyền địa phương. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; quy định rõ cơ chế phân cấp, uỷ quyền và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi được phân cấp, ủy quyền giữa các cấp chính quyền địa phương.

Nghiên cứu, thực hiện giảm hợp lý số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và giảm đại biểu Hội đồng nhân dân công tác ở các cơ quan quản lý nhà nước; giảm số lượng phó chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Quy định khung số lượng các cơ quan trực thuộc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và khung số lượng cấp phó của các cơ quan này.

Rà soát, sắp xếp tổ chức bên trong của các sở, ngành theo hướng tinh gọn đầu mối. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp; tổ chức thực hiện có hiệu quả mô hình trung tâm phục vụ hành chính công, cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở các cấp. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội: Kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong mỗi tổ chức, chú trọng ở hai cấp trung ương và cơ sở; khắc phục tình trạng “hành chính hoá” trong tổ chức bộ máy, giảm bớt những cấp, vị trí trung gian, tạo cho bộ máy tổ chức gọn nhẹ, năng động, thiết thực.

 Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội theo hướng đảm bảo đúng tôn chỉ, mục đích, tập trung cho cơ sở; đại diện và bảo vệ một cách thiết thực quyền lợi chính đáng và hợp pháp của hội viên, đoàn viên, tích cực tham gia xây dựng Ðảng, chính quyền và quản lý xã hội.

Để Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội có sự độc lập nhất định trong tổ chức và hoạt động, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội phải nỗ lực, chủ động trong việc huy động nguồn lực của tổ chức, dần tự chủ về kinh phí. Trong khi đó sự hỗ trợ kinh phí hoạt động từ Nhà nước nên được bàn thảo và và quyết định trước theo các nhu cầu công việc và điều kiện hoạt động, vừa đảm bảo sự độc lập, chủ động của các tổ chức vừa nâng cao được hiệu quả sử dụng.

Để nâng cao tính hiệu quả của việc giám sát, phản biện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước: một mặt, Đảng, Nhà nước cần cụ thể hoá cơ chế tư vấn, giám sát, phản biện của Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội, mặt khác, Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội cũng cần được tổ chức và thay đổi cách thức giám sát, phản biện. Hoạt động giám sát được thực hiện theo đúng tính chất là ai ở đâu, làm gì thì giám sát và phản biện cái đó. Việc giám sát và phản biện được thực hiện xuất phát từ chính lợi ích, lĩnh vực hoạt động của các cá nhân, tổ chức, hiệp hội và do vậy cũng có tính chuyên môn. Mặt trận sẽ đóng vai trò tiếp nhận sự phản hồi, giám sát của các tổ chức thành viên, kết nối tạo mạng lưới hỗ trợ hoặc huy động nguồn lực, kết nối với Đảng và Nhà nước trong việc phản ánh, đề xuất, kiến nghị, tư vấn về các vấn đề giám sát và phản biện.