Phương Thức Lãnh Đạo Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Đề nghị chúng tôi cho biết khái niệm phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Trả lời:

Trong những năm chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mệnh “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhiều lần bàn và chỉ ra những nội hàm chủ yếu của khái niệm “lãnh đạo”, “lãnh đạo đúng” của Đảng. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Người viết:

Lãnh đạo đúng nghĩa là:

1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng vì dân chúng chính là người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.

2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.

3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được.

Những điểm nêu trên cũng là những yếu tố chủ yếu tạo nên sự lãnh đạo đúng của Đảng. Đó cũng chính là quy trình, cách thức, phương pháp lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Tại Đại hội lần thứ VII (6-1991), Đảng đã nêu khá rõ về phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới: Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng các công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên…

Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), Đảng ta bổ sung: Đảng “lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên”.

Tại Đại hội X (4-2006), Đảng ta đã có bước phát triển nhận thức về phương thức lãnh đạo, bổ sung thêm nhiều nội dung cụ thể, thiết thực. Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Đảng theo hướng thực sự dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng; làm việc có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm. Đổi mới cách ra nghị quyết, văn kiện và báo cáo phải ngắn gọn, thiết thực, cụ thể; đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả của hội nghị. Cấp uỷ dành nhiều thời gian tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, tổng kết việc thực hiện nghị quyết; chỉ đạo hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân… Xây dựng và thực hiện chế độ báo cáo xin ý kiến… Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải báo cáo, xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương về hoạt động của mình giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ rõ hơn và bổ sung thêm những vấn đề chủ yếu về phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó nhấn mạnh, Đảng lãnh đạo bằng công tác cán bộ, lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, phương thức là phương pháp và hình thức tiến hành. Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao.

Sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đưa ra định nghĩa: Phương thức lãnh đạo là tổng thể phương pháp, hình thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác… mà Đảng sử dụng để thực hiện sự lãnh đạo toàn xã hội thông qua tổ chức đảng, đảng viên ….

Từ phân tích trên, có thể hiểu: Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy trình, phong cách, lề lối làm việc… mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phương thức lãnh đạo của Đảng, gồm:

Tuấn Giang

Chính Sách Xã Hội Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Trong Những Năm Đổi Mới

Chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm đổi mới

I. Sự phát triển nhận thức của Đảng về chính sách xã hội

Đại hội đại biểu lần thứ VI thể hiện bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng về chính sách xã hội, đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong phát triển đất nước. Chính sách xã hội được coi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, là động lực to lớn, phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết Đại hội khẳng định: ” Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Từ nhận thức: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”, Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh: ” Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong nhận thức về chính sách xã hội của Đảng “.

Từ chính sách xã hội chung đó, Đại hội đề cập tới chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp dân cư trong cộng đồng xã hội, đã nhấn mạnh: “ quan điểm đúng đắn và thống nhất, kèm theo những chính sách, biện pháp hiệu quả xây dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị – xã hội của xã hội mới ngày càng vững chắc, ưu thế của lực lượng xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Tiến hành điều tra cơ bản, nắm chắc cơ cấu giai cấp và xã hội của cả nước và từng địa phương sau hơn mười năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát hiện những vấn đề cần được giải quyết về mặt chính sách giai cấp”.[3]

Đại hội nhấn mạnh: “ Huy động mọi khả năng của Nhà nước và của nhân dân, trung ương và địa phương để cùng nhau giải quyết các vấn đề của chính sách xã hội. Xây dựng các quỹ bảo hiểm xã hội của nhân dân trong tất cả các thành phần kinh tế…” và ” cải cách chế độ tiền lương cho đủ tái sản xuất sức lao động, tiền tệ hóa lương,.. gắn cải cách tiền lương với chỉnh đốn bộ máy tổ chức và giảm biên chế. Chăm sóc những người có công với nước,…đặc biệt chú trọng vùng núi biên giới và đồng bào các dân tộc thiểu số “.

Đến Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” và ” Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội “. Sự phát triển nhận thức thể hiện ở các nhiệm vụ trước mắt về chính sách xã hội, đó là: Tập trung sức tạo việc làm; thực hiện xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện; chăm sóc bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân; đẩy mạnh công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình; đẩy lùi tệ nạn xã hội…

Xuyên suốt các kỳ Đại hội IX, X, XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ, mục tiêu của chính sách xã hội, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề công bằng trong các chính sách xã hội. Văn kiện Đại hội IX nêu rõ: ” Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản“. Tiếp tục phát triển nhận thức mới về chính sách xã hội, Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ” kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển…Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc “.

Đại hội XI tiếp tục khẳng định: ” Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.”

Để thực hiện tốt mục tiêu công bằng trong các chính sách xã hội, Đảng ta nhấn mạnh chính sách xã hội phải phù hợp với từng đối tượng, từng giai cấp, tầng lớp trong xã hội: ” Tạo môi trường và điều kiện để mọi lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu – nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước.”.

Đến Đại hội XII, quan điểm về chính sách xã hội phù hợp với các giai cấp, tầng lớp và cộng đồng dân cư được nhấn mạnh và nhận thức sâu sắc hơn: ” Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội… quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo, bảo đảm sự phát triển xã hội ổn định và bền vững… Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội..”[10].

Ngoài các chủ trương chung về chính sách xã hội đối với cộng đồng dân cư, Đảng ta có những nghị quyết riêng để phát huy vai trò tích cực của mỗi giai cấp, tầng lớp. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương (khoá X), Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 về ” Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước“. Đến Hội nghị Trung ương 7 (khoá X), có Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về ” Nông nghiệp, nông dân, nông thôn“. Cũng trong Hội nghị này, xác định rõ vai trò to lớn của tầng lớp trí thức, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về ” Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước“. Đến Đại hội khoá XI, lần đầu tiên, Đảng ban hành nghị quyết riêng để phát triển tầng lớp doanh nhân. Ngày 9/12/2011, Bộ Chính trị khoá XI, ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về ” Xây dựng và phát huy đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước“. Nghị quyết 15, khóa XI, ngày 1/6/2012 một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2023; Những chủ trương, chính sách phát huy đội ngũ doanh nhân Việt Nam tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị Trung ương 5, khoá XII với sự ra đời của Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3/6/2023 về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh đó, có các Nghị quyết 27, khóa XII, về cải cách chính sách tiền lương; Nghị quyết 28, khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tiếp tục hoàn thiện chính sách xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

II. 1. Hệ thống văn bản pháp luật về các chính sách xã hội ngày càng hoàn thiện, đầy đủ Chính sách xã hội và một số kết quả đạt được thời gian qua 2. Chính sách xã hội, chính sáchđối với các giai cấp, tầng lớp– Đối với giai cấp công nhân dân cưngày càng được mở rộng, phù hợp hơn với từng nhóm đối tượng.

Nhà nước ta đã xây dựng hành lang pháp lý, các cơ chế, pháp luật về chính sách xã hội ngày càng được đầy đủ, hoàn thiện, từ Hiến pháp đến các luật, văn bản luật… tạo điều kiện để thực thi ngày càng hiệu quả vai trò, chức năng của các chính sách xã hội.Hiến pháp năm 1992 có nhiều quy định về chính sách xã hội. Điều 56 của Hiến pháp quy định: ” Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ, tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động “. Điều 39 nêu những quy định về thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe…

Các chính sách xã hội được thể hiện rõ trong các luật, bộ luật như: Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002 và 2006, 2012) có các chương quy định về bảo hiểm xã hội đối với người lao động; Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2023… Quốc hội xây dựng Luật Quan hệ lao động và nhiều văn bản pháp luật khác về các vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, các văn bản dưới luật như pháp lệnh, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng được ban hành làm cho chính sách xã hội càng hoàn thiện và đạt nhiều kết quả như: Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước (Bà mẹ Việt Nam anh hùng), Pháp lệnh ưu đãi người có công…

Trong giai đoạn 1997 – 2013, Nhà nước đã ban hành 146 văn bản chính sách xã hội. Trong đó, có 02 văn bản chính sách về an sinh xã hội chung là Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 1-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2023 và Nghị quyết 70/NQ-CP của Chính phủ ngày 1-11-2012 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15/NQ/TW. Còn lại 144 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội, được chia thành bốn nhóm chính sách an sinh xã hội, cụ thể: Chính sách tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động với 33 văn bản hiện hành (2001-2013); Chính sách hỗ trợ giảm nghèo với 14 văn bản hiện hành (2005-2013); Chính sách BHXH với 5 văn bản hiện hành (2006-2012); Chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn với 18 văn bản hiện hành, gồm 16 văn bản chính sách trợ giúp xã hội hiện hành (2000-2013) và 2 văn bản chính sách hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị trường hiện hành (2010-2011); Chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu với 74 văn bản hiện hành (1997-2013). Tiếp đó, giai đoạn 2014- 2023 cũng đã có hàng loạt các văn bản về vấn đề này được ban hành QĐ-1490/QĐ-TTg về bổ sung dự toán kinh phí chương trình mục tiêu phát triển hệ thống trợ giúp xã hội năm 2023; Quyết định 1865- QĐ năm 2023 về giao kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2023-2023.

Các luật và các văn bản luật nêu trên, đã làm cho chính sách xã hội trở thành một hệ thống chính sách chặt chẽ, đầy đủ, được bảo đảm bằng tính pháp lý, được thực hiện thống nhất trong cả nước, góp phần tích cực trong quản lý và hiện thực hóa mục tiêu của chính sách xã hội.

Đối với từng giai cấp, tầng lớp và các đối tượng khác nhau trong cộng đồng dân cư, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành các chính sách riêng phù hợp với từng đối tượng. Diện bao phủ ngày càng được mở rộng, phát huy tích cực nguồn nhân lực quốc gia.

Sau 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo số liệu thống kê, đến cuối năm 2013, công nhân lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900 người (chiếm 12,8% dân số, 21,7% lực lượng lao động xã hội). Trong đó, 70,2% có trình độ trung học phổ thông, 26,8% có trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình độ tiểu học. Công nhân có trình độ trung cấp chiếm 17,9%, cao đẳng 6,6%, đại học chiếm 17,4%, được đào tạo tại doanh nghiệp chiếm 48%. Đến năm 2023, lên tới 12.856,9 nghìn người, chiếm 14,01% dân số và 23,81% lực lượng lao động xã hội.

– Đối với giai cấp nông dân

Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp…; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”.

Mục tiêu về chính sách xã hội cho giai cấp công nhân được nêu rõ trong Nghị quyết 20-NQ/TW: “Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hoá, cơ sở nuôi dạy trẻ…) tương xứng với những thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp. Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp mới. Tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân”.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành và triển khai nhiều chính sách, giải pháp thiết thực.

Trong Luật Nhà ở năm 2014, các cơ chế, chính sách phát triển nhà ở nói chung và chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội nói riêng đã được Luật hóa, đã đưa ra các giải pháp toàn diện, đồng bộ, lâu dài để giải quyết một cách căn bản nhu cầu nhà ở cho 8 nhóm đối tượng có khó khăn về nhà ở, trong đó có công nhân tại các KCN tập trung, bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng. Triển khai Luật Nhà ở năm 2014, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 100/2023/NĐ-CP ngày 20/10/2023 về phát triển và quản lý nhà ở xã hội. Luật Nhà ở năm 2014 và Nghị định 100/2023/NĐ-CP của Chính phủ đã có các quy định tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước, nước ngoài và các hộ gia đình, cá nhân tham gia đầu tư phát triển các loại nhà ở xã hội, trong đó có các quy định rất ưu đãi để phát triển nhà ở xã hội nói chung và nhà ở xã hội cho công nhân KCN nói riêng.

Chính sách bảo hiểm xã hội thường xuyên được sửa đổi đã tạo điều kiện bảo đảm hơn về an sinh xã hội cho công nhân. Luật BHXH năm 2014 đã quy định mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, theo đó, từ ngày 1/1/2023, người lao động trong đó có công nhân, có hợp đồng lao động từ 1 đến dưới 3 tháng được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ, khắc phục tình trạng trốn đóng bảo hiểm của các doanh nghiệp và bảo đảm cho công nhân có được nguồn quỹ an sinh.

Ngoài ra, việc ký thoả ước lao động tập thể, các chính sách về y tế, giáo dục, thể thao, điểm sinh hoạt văn hoá ở các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng đã góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tái sản xuất sức lao động, nâng cao trình độ, nhận thức chính trị cho giai cấp công nhân – giai cấp tiên phong trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước hiện nay.

Nông thôn nước ta hiện nay có gần 70% dân số đang sinh sống, với lực lượng lao động chiếm khoảng 50 % lực lượng lao động toàn xã hội, đến năm 2023, dự kiến khoảng 65% dân cư sinh sống tại khu vực nông thôn và khoảng 40% lao động xã hội, năm 2023 cả nước đã có 42,4% số xã đạt nông thôn mới đây luôn là địa bàn chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội. Thực hiện tốt chính sách xã hội đối với nông dân, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội sẽ góp phần tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước. Cụ thể hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về nông dân, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách xã hội đối với nông dân như: giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội…

3. Các chính sách xã hội được từng bước hoàn thiện, ngày càng mở rộng, đa dạng, phát huy hiệu quả đối với cộng đồng xã hội.

Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách việc làm cho người nông dân trở thành chủ thể trong phát triển kinh tế (kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, hợp tác xã kiểu mới, xây dựng nông thôn mới…), và tạo cơ hội cho nông dân tiếp cận những nguồn lực sản xuất kinh doanh (đất đai, vốn, tín dụng, khoa học – kỹ thuật…) gắn với thị trường; khuyến khích phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn (chính sách thuế, đất đai, tín dụng…), hỗ trợ dạy nghề, phát triển thị trường lao động nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn, di chuyển lao động, nhất là thanh niên từ nông thôn vào các khu công nghiệp, khu chế xuất làm việc. Chính sách xóa đói, giảm nghèo đối với nông dân đã thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đối với khu vực nông thôn và nông dân.

Chính sách bảo hiểm xã hội cho nông dân có những điều chỉnh để mở rộng đội tượng và diện bao phủ, bảo đảm an sinh xã hội cho nông dân. Nông dân làm việc trong nông nghiệp, nông thôn là khu vực có rất nhiều rủi ro, việc làm không ổn định, năng suất và thu nhập thấp, rất dễ bị tác động bối cảnh kinh tế – xã hội, trong khi đó, mức độ tham gia bảo hiểm xã hội lại rất thấp. Với sự ra đời của Nghị quyết 28, khóa XII, về cải cách bảo hiểm xã hội, tới đây Luật Bảo hiểm xã hội sẽ có sự điều chỉnh theo hướng công bằng, mở rộng, tăng tính chia sẻ, sẽ là những chính sách bảo đảm an sinh xã hội thiết thực cho nông dân – những người lao động ở khu vực phi chính thức, không có quan hệ lao động.

Ngoài ra, nông dân còn được hưởng trợ giúp xã hội đột xuất, trước những rủi ro bất thường xảy ra ngày càng nhiều và trên diện rộng với hình thức hỗ trợ phong phú, từ cấp tiền, gạo, nhu yếu phẩm đến khám chữa bệnh miễn phí, cho vay vốn ưu đãi. Nhiều mô hình trợ giúp không chính thức, mang tính xã hội hóa đang được triển khai rất hiệu quả như “quỹ phát triển thôn bản”, “quỹ quản lý rủi ro cộng đồng”, “quỹ bảo hiểm vi mô”, “quỹ đền ơn đáp nghĩa”…

– Với tầng lớp trí thức, năm 2023, ước tính cả nước có khoảng 6,5 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, tăng hơn 2,8 triệu người so với 10 năm trước, trong đó phần lớn đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Cho đến nay, đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức đã được Đảng và Nhà nước thực thi, đem lại hiệu quả tốt trong thời gian qua, như chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức; chính sách tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức và chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Nhiều giải thưởng quốc gia và của các ngành, các lĩnh vực, việc phong tặng các chức danh khoa học, các danh hiệu cao quý cho trí thức, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ,… đã được thực hiện cũng tạo sự khích lệ, động viên tinh thần đối với trí thức. Gắn liền với các chủ trương, chính sách đó là sự cố gắng trong việc đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ,… đã góp phần phát huy tiềm năng và nội lực của đội ngũ trí thức trong hoạt động thực tiễn.

Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đào tạo đội ngũ trí thức là các cán bộ khoa học, công nghệ, lãnh đạo, quản lý. Đề án 322 của Chính phủ về “Đào tạo cán bộ khoa học – kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” đã tuyển và cử được 5.833 người đi học, trong đó có 2.951 tiến sĩ, 1.603 thạc sĩ, 260 thực tập sinh và 1.019 đại học trong giai đoạn 2000 – 2013. Trong giai đoạn 2009 – 2013, Đề án 165 của Ban Tổ chức Trung ương về “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” đã bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho 11.690 lượt cán bộ, đào tạo được 158 tiến sĩ và 444 thạc sĩ ở nước ngoài, 339 thạc sĩ đào tạo theo hình thức liên kết. Ngoài ra, số trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có vị trí quan trọng, trong tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới còn có khoảng hơn 10% đang hoạt động trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa, nghệ thuật (trong đó có hơn 6.000 người có trình độ tiến sỹ, hàng trăm trí thức tên tuổi được đánh giá cao).

Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chú trọng đến việc thu hút trí thức Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước. Sự tham gia của lực lượng trí thức ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng đất nước thể hiện sâu sắc trên các lĩnh vực, như: hợp tác và chuyển giao công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng; tư vấn chính sách; nghiên cứu – triển khai,… đã mang lại những giá trị to lớn cho các cơ quan, tổ chức triển khai. Bên cạnh đó, lực lượng trí thức Việt Nam ở nước ngoài đồng thời làm cầu nối hợp tác trong nghiên cứu khoa học, giúp tiếp cận các quỹ đầu tư tài chính, tiếp cận và mở rộng thị trường cho sản phẩm trong nước tới các quốc gia nơi họ đang sinh sống,…

Cùng với sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân nước ta đã không ngừng lớn mạnh, dự kiến đến năm 2023 có khoảng 1 triệu doanh nghiệp, hiện nay doanh nghiệp tư nhân chiếm gần 90% việc làm mới trong xã hội, đóng góp khoảng 50% GDP của cả nước, có vai trò to lớn trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong phát triển đất nước, giải quyết việc làm cho người lao động và các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Trong những năm qua, Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Nhà nước đã ban hành nhiều cơ cơ chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, tạo môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho doanh nhân như: Công khai, minh bạch các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giúp doanh nhân có định hướng đầu tư, giảm rủi ro, thuận lợi trong kinh doanh. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh, về tài chính công, thuế, tài nguyên môi trường, bảo vệ người tiêu dùng; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, lành mạnh các thị trường, nhất là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ. Có chính sách hỗ trợ đội ngũ doanh nhân phát triển quy mô sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ và khuyến khích doanh nhân khu vực nông thôn… từ đó tạo động lực cho doanh nhân cống hiến, phát triển kinh tế cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngoài ra là nhóm những người yếu thế, người nghèo, người dễ bị tổn thương trong xã hội

Chính sách xã hội ở nước ta trong những năm qua ngày càng được hoàn thiện trở thành hệ thống chính sách hỗ trợ lẫn nhau trong việc bảo đảm mục tiêu xây dựng tiến bộ, công bằng xã hội, trong đó nổi bật nhất là các chính sách: chính sách lao động – việc làm, chính sách bảo hiểm, xóa đói giảm nghèo, trợ cấp xã hội, chính sách người có công… Các chính sách xã hội đã góp phần tích cực trong việc nâng cao đời sống nhân dân, từng bước đáp ứng nguyện vọng của các giai cấp, các tầng lớp và cộng đồng dân cư trong xã hội bảo đảm “tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng, xã hội”.

Thứ nhất, chính sách lao động – việc làm đi vào cuộc sống góp phần giải quyết việc làm, xây dựng thị trường lao động, nâng cao thu nhập và đời sống người lao động.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách lao động – việc làm như: hoàn thiện thể chế thị trường lao động, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, xây dựng quỹ hỗ trợ việc làm, có chính sách hỗ trợ lao động di chuyển, xuất khẩu lao động… Cơ cấu lao động được phân bổ trong các ngành, trong các loại hình kinh tế hợp lý hơn, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế. Số lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên. Mục tiêu đặt ra là, “đến năm 2023, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%”.

Thứ hai, chính sách xóa đói, giảm nghèo đạt những kết quả đáng ghi nhận.

Xóa đói, giảm nghèo là chủ trương lớn, quan trọng được Đảng, Nhà nước quán triệt và kiên trì thực hiện trong suốt nhiều năm qua. Thực hiện quan điểm nhất quán của Đảng về xóa đói, giảm nghèo, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng như: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (2002), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP), Quyết định số 1971/QĐ-TTg về việc cho 30 huyện khác nằm ngoài chương trình thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2023, Quyết định số 2324/QĐ-TTg, ngày 19-12-2014 về kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2023. Ngân sách nhà nước đã ưu tiên tập trung nguồn lực cao nhất cho các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Ngoài ra, Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách đặc thù trên địa bàn các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, như chính sách chăm sóc, giao khoán và bảo vệ rừng; chính sách khai hoang, phục hóa, tạo ruộng bậc thang; chính sách tăng cường hỗ trợ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; chính sách cán bộ đối với các huyện nghèo…

PGS.TS Phạm Văn Linh

Nhờ những nỗ lực đó, thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao trên tất cả các khía cạnh và tiêu chí. Nước ta chính thức bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình, không còn tình trạng hộ thiếu đói kinh niên, tình trạng nghèo đã chuyển từ diện rộng ở các vùng, miền sang cục bộ ở một số vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn và trong một số nhóm dân cư. Tỉ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2023 còn 6,8%, dự kiến tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 1-1.5%/ năm đến năm 2023. Việt Nam đã sớm hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói. Đánh giá chung, ở cấp quốc gia mức độ giảm nghèo được ghi nhận mạnh mẽ và ấn tượng cả theo chuẩn quốc gia và chuẩn quốc tế.

Thứ ba, hệ thống bảo hiểm xã hội ngày càng hoàn thiện, đa tầng, đa chiều, công bằng, chia sẻ, rộng mở hơn.

Cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về BHXH ngày càng được hoàn thiện. Luật BHXH 2014 đã mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện tùy theo khả năng ngân sách từng thời kỳ; tăng cường các biện pháp bảo đảm bền vững tài chính để bảo đảm sự bình đẳng trong tham gia BHXH giữa các thành phần kinh tế; nâng cao các biện pháp xử lý đối với các vi phạm về chính sách BHXH…

Đối tượng tham gia các hình thức bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng. Số người tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng lên hàng năm.

Thứ tư, chính sách người có công tiếp tục được phát huy, làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa.

Chính sách ưu đãi người có công không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cảu đất nước như: việc ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với nước, cùng với hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành có tác dụng to lớn, sâu rộng về chính trị, xã hội được toàn dân hưởng ứng.

Ưu đãi xã hội đối với người có công bước đầu đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, công khai, công bằng xã hội. Người có công được chăm lo, đền ơn đáp nghĩa, được ưu tiên, ưu đãi trong giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm. Những trường hợp như thương binh nặng, thân nhân liệt sỹ, bà mẹ Việt Nam anh hùng được ưu tiên về nhà ở, đất ở, được chăm lo phụng dưỡng về vật chất và tinh thần của địa phương và các đoàn thể xã hội.

Thứ năm, chính sách hỗ trợ xã hội đóng góp tích cực trong giảm thiểu rủi ro, khắc phục rủi ra, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.

Chính sách hỗ trợ xã hội không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước, góp phần đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội. Đối tượng của hỗ trợ xã hội có thể là cá nhân, gia đình, một địa phương, từng vùng, miêng gặp khó khăn hay gặp nạn. Ở nước ta hiện nay, hỗ trợ xã hội bao gồm: Hỗ trợ thường xuyên (người tàn tật, trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa…); Hỗ trợ xã hội đột xuất (cứu đói, cứu trợ thiên tai).

– Hỗ trợ thường xuyên: Điều kiện để được hưởng hỗ trợ thường xuyên từng bước được cải tiến theo hướng mở rộng đối tượng được hưởng nên số đối tượng gia tăng nhanh. Người già cô đơn, không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, người tàn tật không có người nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở bảo trợ xã hội, được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm,…

– Hỗ trợ đột xuất: Những rủi ro về dịch bệnh, thiên tai, mất mùa là những yếu tố bất thường ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Nhà nước có các chính sách, chương trình hỗ trợ đột xuất (bằng tiền mặt, lương thực…) cho đồng bào trước những rủi ro đó. Công tác hỗ trợ (cứu trợ) trong những năm qua được triển khai tương đối kịp thời, có sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự tham gia tích cực của cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương, doanh nghiệp,..

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

Điều Lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam Thông Qua Tại Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần Thứ Xi Của Đảng

ĐẢNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG

Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.

Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luậtkhách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc : tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội.

Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.

ĐẢNG VIÊN Điều 1.

1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.

2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện : thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.

Điều 2.

Đảng viên có nhiệm vụ :

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

Điều 3.

Đảng viên có quyền :

2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.

Điều 4.

Thủ tục kết nạp đảng viên (kể cả kết nạp lại) :

1. Người vào Đảng phải :

– Có đơn tự nguyện xin vào Đảng;

– Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ;

– Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.

Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.

Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.

2. Người giới thiệu phải :

– Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào Đảng ít nhất một năm;

– Báo cáo với chi bộ về lý lịch, phẩm chất, năng lực của người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới thiệu của mình. Có điều gì chưa rõ thì báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.

3. Trách nhiệm của chi bộ và cấp uỷ :

– Trước khi chi bộ xét và đề nghị kết nạp, chi uỷ kiểm tra lại điều kiện của người vào Đảng và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức đoàn thể nơi người đó sinh hoạt.

Vấn đề lịch sử chính trị của người vào Đảng phải thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

– Chi bộ xét và đề nghị kết nạp từng người một, khi được ít nhất hai phần ba số đảng viên chính thức trong chi bộ tán thành thì đề nghị lên cấp uỷ cấp trên; khi có quyết định của cấp uỷ cấp trên, chi bộ tổ chức lễ kết nạp từng người một.

– Đảng uỷ cơ sở xét, nếu được ít nhất hai phần ba số cấp uỷ viên tán thành kết nạp thì đề nghị lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp.

– Ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng hoặc cấp uỷ cơ sở được uỷ quyền xét, quyết định kết nạp từng người một.

4. Nơi chưa có đảng viên hoặc có đảng viên nhưng chưa đủ điều kiện giới thiệu thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp cử đảng viên về làm công tác tuyên truyền, xem xét, giới thiệu kết nạp vào Đảng. Trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Điều 5.

1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ.

2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức từng ngườ i một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp uỷ có thẩm quyền quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị.

3. Nghị quyết của chi bộ về đề nghị công nhận đảng viên chính thức phải được cấp uỷ có thẩm quyền quyết định.

4. Đảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp.

Điều 6.

Việc phát và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên và thủ tục chuyển sinh hoạt đảng do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Điều 7.

Đảng viên tuổi cao, sức yếu, tự nguyện xin giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng do chi bộ xem xét, quyết định.

Điều 8.

1. Đảng viên bỏ sinh hoạt chi bộ hoặc không đóng đảng phí ba tháng trong năm mà không có lý do chính đáng; đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, không làm nhiệm vụ đảng viên, đã được chi bộ giáo dục mà không tiến bộ thì chi bộ xem xét, đề nghị lên cấp có thẩm quyền xoá tên trong danh sách đảng viên.

2. Các trường hợp trên nếu đảng viên có khiếu nại thì chi bộ báo cáo cấp uỷ có thẩm quyền xem xét.

3. Đảng viên xin ra khỏi Đảng do chi bộ xem xét, đề nghị cấp có thẩm quyền chuẩn y kết nạp quyết định.

NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG Điều 9.

Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là :

1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).

3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.

4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.

5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.

Điều 10.

1. Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước.

2. Tổ chức cơ sở đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo quy định tại Chương VI. Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định lập hoặc giải thể đảng bộ, chi bộ trực thuộc.

Điều 11.

1. Cấp uỷ triệu tập đại hội khi hết nhiệm kỳ, thông báo trước cho cấp dưới về thời gian và nội dung đại hội.

2. Cấp uỷ triệu tập đại hội quyết định số lượng đại biểu và phân bổ cho các đảng bộ trực thuộc căn cứ vào số lượng đảng viên, số lượng đảng bộ trực thuộc, vị trí quan trọng của từng đảng bộ, theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Đại biểu dự đại hội gồm các uỷ viên ban chấp hành cấp triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu.

4. Việc chỉ định đại biểu chỉ thực hiện đối với tổ chức đảng hoạt động trong điều kiện đặc biệt không thể mở đại hội để bầu cử được, theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

5. Đại biểu dự đại hội phải được đại hội thẩm tra tư cách và biểu quyết công nhận. Cấp uỷ triệu tập đại hội không được bác bỏ tư cách đại biểu do đại hội cấp dưới bầu, trừ trường hợp đại biểu đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ, bị khởi tố, truy tố, tạm giam.

6. Đại hội chỉ hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba số đại biểu hoặc đảng viên được triệu tập tham dự và có ít nhất hai phần ba số tổ chức đảng trực thuộc có đại biểu tham dự.

7. Đại hội bầu đoàn chủ tịch (chủ tịch) để điều hành công việc của đại hội.

Điều 12.

1. Cấp uỷ viên phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến thức và năng lực tham gia lãnh đạo tập thể, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đoàn kết cán bộ, đảng viên, được quần chúng tín nhiệm.

2. Số lượng Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc quyết định; số lượng cấp uỷ viên cấp nào do đại hội cấp đó quyết định, theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương. Cấp uỷ các cấp cần được đổi mới, bảo đảm tính kế thừa và phát triển qua mỗi lần đại hội.

3. Đoàn chủ tịch (chủ tịch) hướng dẫn bầu cử :

– Đại biểu có quyền nhận xét, chất vấn về người ứng cử và người được đề cử.

– Bầu cử bằng phiếu kín.

– Người trúng cử phải được số phiếu bầu quá một nửa so với tổng số đại biểu được triệu tập hoặc so với tổng số đảng viên chính thức của đảng bộ, chi bộ được triệu tập.

Trường hợp số người có số phiếu quá một nửa nhiều hơn số lượng cần bầu thì lấy số người có số phiếu cao hơn; nếu ở cuối danh sách trúng cử có nhiều người ngang phiếu nhau và nhiều hơn số lượng cần bầu thì bầu lại số người ngang phiếu đó để lấy người có số phiếu cao hơn, không cần phải quá một nửa. Trường hợp bầu lại mà số phiếu vẫn ngang nhau, có bầu nữa hay không do đại hội quyết định.

Nếu bầu một lần mà chưa đủ số lượng quy định, có bầu thêm nữa hay không do đại hội quyết định.

Điều 13.

1. Cấp uỷ khoá mới nhận sự bàn giao từ cấp uỷ khoá trước, điều hành công việc ngay sau khi được bầu và được công nhận chính thức khi có quyết định chuẩn y của cấp uỷ cấp trên trực tiếp.

2. Việc bổ sung cấp uỷ viên thiếu do cấp uỷ đề nghị, cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định; số lượng cấp uỷ viên sau khi bổ sung không vượt quá tổng số cấp uỷ viên mà đại hội đã quyết định. Khi thật cần thiết, cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định tăng thêm một số cấp uỷ viên cấp dưới.

3. Khi thật cần thiết, cấp uỷ cấp trên có quyền điều động một số cấp uỷ viên cấp dưới, nhưng không quá một phần ba tổng số cấp uỷ viên do đại hội đã bầu.

4. Cấp uỷ viên xin rút khỏi cấp uỷ, do cấp uỷ xem xét đề nghị lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định; đối với Uỷ viên Trung ương, do Ban Chấp hành Trung ương quyết định. Cấp uỷ viên đương nhiệm ở đảng bộ từ cấp tỉnh trở xuống, khi có quyết định nghỉ công tác để nghỉ hưu hoặc chuyển công tác đến đơn vị khác ngoài đảng bộ thì thôi tham gia các cấp uỷ đương nhiệm ở đảng bộ đó.

Đối với Uỷ viên Trung ương khi có quyết định thôi giữ chức vụ trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể để nghỉ hưu thì thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương đương nhiệm.

5. Từ tổ chức cơ sở đảng đến đảng bộ trực thuộc Trung ương nếu được thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập trong nhiệm kỳ, thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định cấp uỷ chính thức; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp; nhiệm kỳ đầu tiên của các cấp uỷ này không nhất thiết là 5 năm để nhiệm kỳ đại hội phù hợp với nhiệm kỳ đại hội của tổ chức đảng cấp trên.

6. Đối với tổ chức đảng không thể mở đại hội được, cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định cấp uỷ của tổ chức đảng đó.

Điều 14.

1. Cấp uỷ mỗi cấp lập các cơ quan tham mưu, giúp việc theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.

2. Khi cần, cấp uỷ lập tiểu ban, hội đồng, tổ công tác và giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ.

CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở CẤP TRUNG ƯƠNG Điều 15.

1. Đại hội đại biểu toàn quốc do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm.

2. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ vừa qua; quyết định đường lối, chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới; bổ sung, sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần; bầu Ban Chấp hành Trung ương. Số lượng Uỷ viên Trung ương chính thức và Uỷ viên Trung ương dự khuyết do Đại hội quyết định.

Ban Chấp hành Trung ương xem xét việc chuyển Uỷ viên Trung ương dự khuyết có đủ điều kiện để thay thế Uỷ viên Trung ương chính thức khi khuyết.

3. Khi Ban Chấp hành Trung ương xét thấy cần hoặc khi có hơn một nửa số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu thì Ban Chấp hành Trung ương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường. Đại biểu dự Đại hội bất thường là các Uỷ viên Trung ương đương nhiệm, đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc đầu nhiệm kỳ, đủ tư cách.

Điều 16.

1. Ban Chấp hành Trung ương tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đại hội; quyết định những chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần chúng và công tác xây dựng Đảng; chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhiệm kỳ tiếp theo, Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có).

2. Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế quyết định chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới.

3. Ban Chấp hành Trung ương họp thường lệ sáu tháng một lần; họp bất thường khi cần.

Điều 17.

1. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số Uỷ viên Bộ Chính trị; thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số Uỷ viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công và một số Uỷ viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; bầu Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trong số Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

Số lượng Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư và Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.

Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.

2. Bộ Chính trị lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; báo cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương.

CƠ QUAN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Ở CÁC CẤP ĐỊA PHƯƠNG Điều 18.

1. Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh do cấp uỷ cùng cấp triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm.

3. Khi cấp uỷ xét thấy cần hoặc khi có trên một nửa số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý thì triệu tập đại hội đại biểu bất thường.

Đại biểu dự đại hội đại biểu bất thường là các cấp uỷ viên đương nhiệm, đại biểu đã dự đại hội đại biểu đảng bộ đầu nhiệm kỳ, đang sinh hoạt tại đảng bộ, đủ tư cách.

Điều 19.

1. Cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành uỷ), cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên.

2. Hội nghị tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ do ban thường vụ triệu tập thường lệ ba tháng một lần; họp bất thường khi cần.

Điều 20.

1. Hội nghị tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ bầu ban thường vụ; bầu bí thư và phó bí thư trong số uỷ viên thường vụ; bầu uỷ ban kiểm tra; bầu chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra trong số uỷ viên uỷ ban kiểm tra.

2. Số lượng uỷ viên ban thường vụ và uỷ viên uỷ ban kiểm tra do cấp uỷ quyết định theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cùng cấp và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp uỷ.

4. Thường trực cấp uỷ gồm bí thư, các phó bí thư, chỉ đạo kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ, của ban thường vụ và cấp uỷ cấp trên; giải quyết công việc hằng ngày của đảng bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của ban thường vụ.

TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Điều 21.

1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.

2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.

3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực thuộc.

4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.

5. Những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện :

– Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.

– Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.

– Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở.

Điều 22.

1. Đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở đảng do cấp uỷ cơ sở triệu tập năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn nhưng không quá một năm.

3. Khi cấp uỷ xét thấy cần hoặc khi có trên một nửa số tổ chức đảng trực thuộc yêu cầu và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý thì triệu tập đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên bất thường.

Đại biểu dự đại hội đại biểu bất thường là các cấp uỷ viên đương nhiệm, đại biểu đã dự đại hội đại biểu đảng bộ đầu nhiệm kỳ, đang sinh hoạt tại đảng bộ, đủ tư cách. Dự đại hội đảng viên bất thường là những đảng viên của đảng bộ đó.

4. Đảng uỷ, chi uỷ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.

5. Đảng uỷ cơ sở có từ chín uỷ viên trở lên bầu ban thường vụ; bầu bí thư, phó bí thư trong số uỷ viên thường vụ; dưới chín uỷ viên chỉ bầu bí thư, phó bí thư.

6. Đảng bộ cơ sở họp thường lệ mỗi năm hai lần; họp bất thường khi cần. Chi bộ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.

Điều 23.

Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ :

1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.

2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.

3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị – xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.

Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.

Điều 24.

1. Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi ở của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có 3 đảng viên chính thức. Chi bộ đông đảng viên có thể chia thành nhiều tổ đảng; tổ đảng bầu tổ trưởng, nếu cần thì bầu tổ phó; tổ đảng hoạt động dưới sự chỉ đạo của chi uỷ.

2. Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần chúng và công tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng viên; thu, nộp đảng phí. Chi bộ, chi uỷ họp thường lệ mỗi tháng một lần.

3. Đại hội chi bộ do chi uỷ triệu tập năm năm hai lần; nơi chưa có chi uỷ thì do bí thư chi bộ triệu tập. Khi được đảng uỷ cơ sở đồng ý có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá sáu tháng.

4. Chi bộ có dưới chín đảng viên chính thức, bầu bí thư chi bộ; nếu cần, bầu phó bí thư. Chi bộ có chín đảng viên chính thức trở lên, bầu chi uỷ, bầu bí thư và phó bí thư chi bộ trong số chi uỷ viên.

TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM Điều 25.

1. Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

2. Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam hoạt động theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

3. Các ban của cấp uỷ đảng theo chức năng giúp cấp uỷ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam.

Điều 26.

1. Quân uỷ Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định, gồm một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Quân đội và một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đồng chí Tổng Bí thư là Bí thư Quân uỷ Trung ương.

2. Quân uỷ Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội.

3. Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp, thường xuyên của Quân uỷ Trung ương. Ở mỗi cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên.

Điều 27.

1. Cấp uỷ đảng trong bộ đội chủ lực và bộ đội biên phòng ở cấp nào do đại hội cấp đó bầu, lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt; trường hợp đặc biệt do cấp uỷ cấp trên chỉ định.

2. Đảng uỷ quân khu gồm các đồng chí công tác trong đảng bộ quân khu do đại hội cùng cấp bầu và các đồng chí bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ trên địa bàn quân khu được chỉ định tham gia; lãnh đạo thực hiện nghị quyết của cấp trên, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phối hợp với cấp uỷ địa phương thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong quân khu.

3. Tổ chức đảng quân sự địa phương ở cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương cấp đó về mọi mặt, đồng thời chấp hành nghị quyết của đảng uỷ quân sự cấp trên về nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương. Cơ quan chính trị cấp trên phối hợp với cấp uỷ địa phương chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong lực lượng vũ trang địa phương.

4. Đảng uỷ quân sự tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã gồm các đồng chí công tác trong đảng bộ quân sự địa phương do đại hội cùng cấp bầu, đồng chí bí thư cấp uỷ địa phương và một số đồng chí ngoài đảng bộ quân sự địa phương được cấp uỷ địa phương chỉ định tham gia. Đồng chí bí thư cấp uỷ địa phương trực tiếp làm bí thư đảng uỷ quân sự cùng cấp.

Điều 28.

1. Đảng uỷ Công an Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác trong Công an nhân dân và một số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương công tác ngoài Công an nhân dân, một số đồng chí công tác thuộc Đảng bộ Công an Trung ương, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đảng uỷ Công an Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, chính sách, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo mọi mặt công tác trong công an.

2. Cấp uỷ công an cấp nào do đại hội cấp đó bầu, trường hợp thật cần thiết do cấp uỷ cấp trên chỉ định. Cấp uỷ lãnh đạo các đơn vị thuộc cấp mình về mọi mặt.

3. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong các đơn vị thuộc đảng bộ công an, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ Công an Trung ương; phối hợp với cấp uỷ địa phương chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị và công tác quần chúng trong lực lượng công an địa phương.

4. Cơ quan xây dựng lực lượng công an mỗi cấp đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị, công tác quần chúng trong đảng bộ, hoạt động dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan xây dựng lực lượng cấp trên.

Điều 29.

1. Tổ chức đảng công an nhân dân địa phương cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp uỷ cấp đó, đồng thời chấp hành nghị quyết của đảng uỷ công an cấp trên về giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; lãnh đạo xây dựng lực lượng công an nhân dân ở địa phương và xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

2. Đảng uỷ công an tỉnh, thành, huyện, quận, thị xã do đại hội đảng bộ cùng cấp bầu.

CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG VÀ UỶ BAN KIỂM TRA CÁC CẤP

1. Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.

2. Các cấp uỷ đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

Điều 31.

1. Uỷ ban kiểm tra các cấp do cấp uỷ cùng cấp bầu, gồm một số đồng chí trong cấp uỷ và một số đồng chí ngoài cấp uỷ.

2. Các thành viên uỷ ban kiểm tra và chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu điều động chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra sang công tác khác phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý.

3. Uỷ ban kiểm tra làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ cùng cấp và sự chỉ đạo, kiểm tra của uỷ ban kiểm tra cấp trên.

Điều 32.

Uỷ ban kiểm tra các cấp có nhiệm vụ :

1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.

2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.

3. Giám sát cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

4. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật.

5. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.

6. Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp.

Chương VIII KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT Điều 34.

Tổ chức đảng và đảng viên có thành tích được khen thưởng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

Điều 35.

1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công minh, chính xác, kịp thời.

2. Hình thức kỷ luật :

– Đối với tổ chức đảng : khiển trách, cảnh cáo, giải tán;

– Đối với đảng viên chính thức : khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ;

– Đối với đảng viên dự bị : khiển trách, cảnh cáo.

Thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm :

1. Chi bộ quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong chi bộ (kể cả cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao).

Đảng uỷ cơ sở quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ, cách chức cấp uỷ viên cấp dưới.

Đảng uỷ cơ sở được uỷ quyền quyết định kết nạp đảng viên thì có quyền quyết định khai trừ đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý.

2. Cấp uỷ tỉnh, thành, huyện, quận và tương đương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên cùng cấp vi phạm nhiệm vụ do cấp uỷ giao.

Ban thường vụ cấp uỷ quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên; quyết định khiển trách, cảnh cáo cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý vi phạm nhiệm vụ chuyên môn được giao.

3. Ban Chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; khiển trách, cảnh cáo Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên.

4. Uỷ ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và cấp uỷ viên cấp dưới trực tiếp.

5. Cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên có quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật do cấp dưới quyết định.

6. Đảng viên giữ nhiều chức vụ bị kỷ luật cách chức thì tuỳ mức độ, tính chất vi phạm mà cách một hay nhiều chức vụ.

Điều 37.

Thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng vi phạm :

1. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định khiển trách, cảnh cáo tổ chức đảng cấp dưới.

2. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng do cấp uỷ cấp trên trực tiếp đề nghị, cấp uỷ cấp trên cách một cấp quyết định. Quyết định này phải báo cáo lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

3. Chỉ giải tán một tổ chức đảng khi tổ chức đó phạm một trong các trường hợp : có hành động chống đường lối, chính sách của Đảng; vi phạm đặc biệt nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng hoặc pháp luật của Nhà nước.

Điều 38.

1. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm không thuộc thẩm quyền quyết định kỷ luật của cấp mình thì đề nghị lên cấp có thẩm quyền quyết định.

2. Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý không đúng mức đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên quyết định các hình thức kỷ luật theo thẩm quyền, đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng đó.

3. Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng và khai trừ đảng viên phải được ít nhất hai phần ba số thành viên của tổ chức đảng cấp dưới đề nghị và do tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định.

Điều 39.

1. Đảng viên vi phạm phải kiểm điểm trước chi bộ, tự nhận hình thức kỷ luật; nếu từ chối kiểm điểm hoặc bị tạm giam, tổ chức đảng vẫn tiến hành xem xét kỷ luật. Trường hợp cần thiết, cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp có thẩm quyền trực tiếp xem xét kỷ luật.

2. Tổ chức đảng vi phạm phải kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên quyết định.

3. Trước khi quyết định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền nghe đảng viên vi phạm hoặc đại diện tổ chức đảng vi phạm trình bày ý kiến.

4. Quyết định của cấp dưới về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải báo cáo lên cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra cấp trên trực tiếp; nếu đảng viên vi phạm tham gia nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng thì phải báo cáo đến các cơ quan lãnh đạo cấp trên mà đảng viên đó là thành viên.

5. Quyết định của cấp trên về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải được thông báo đến cấp dưới, nơi có tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; trường hợp cần thông báo rộng hơn thì do cấp uỷ có thẩm quyền quyết định.

6. Kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm có hiệu lực ngay sau khi công bố quyết định.

7. Tổ chức đảng, đảng viên không đồng ý với quyết định kỷ luật thì trong vòng một tháng, kể từ ngày nhận quyết định, có quyền khiếu nại với cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên cho đến Ban Chấp hành Trung ương. Việc giải quyết khiếu nại kỷ luật, thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

8. Khi nhận khiếu nại kỷ luật, cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra thông báo cho tổ chức đảng hoặc đảng viên khiếu nại biết; chậm nhất ba tháng đối với cấp tỉnh, thành phố, huyện, quận và tương đương, sáu tháng đối với cấp Trung ương, kể từ ngày nhận được khiếu nại, phải xem xét, giải quyết, trả lời cho tổ chức đảng và đảng viên khiếu nại biết.

9. Trong khi chờ giải quyết khiếu nại tổ chức đảng và đảng viên bị kỷ luật phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật.

Điều 40.

1. Đảng viên bị hình phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên phải khai trừ ra khỏi Đảng.

2. Tổ chức đảng bị kỷ luật giải tán, cấp uỷ cấp trên trực tiếp lập tổ chức đảng mới hoặc giới thiệu sinh hoạt đảng cho số đảng viên còn lại.

3. Đảng viên bị kỷ luật cách chức, trong vòng một năm, kể từ ngày có quyết định, không được bầu vào cấp uỷ, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tương đương và cao hơn.

4. Việc đình chỉ sinh hoạt đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp uỷ của cấp uỷ viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức đảng phải được cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra có thẩm quyền quyết định theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI Điều 41.

1. Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

2. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.

3. Đảng giới thiệu cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội.

4. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức đảng lãnh đạo việc cụ thể hoá thành các văn bản luật pháp của Nhà nước, chủ trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.

Điều 42.

1. Trong cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị – xã hội cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do bầu cử lập ra, cấp uỷ cùng cấp lập đảng đoàn gồm một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập đảng đoàn thì tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

2. Đảng đoàn do cấp uỷ cùng cấp chỉ định; có bí thư, nếu cần, có phó bí thư. Đảng đoàn làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ.

3. Đảng đoàn lãnh đạo, thuyết phục các thành viên trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; liên hệ mật thiết với nhân dân; đề xuất với cấp uỷ về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng.

Điều 43.

1. Trong cơ quan hành pháp, tư pháp cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cấp uỷ cùng cấp lập ban cán sự đảng gồm một số đảng viên công tác trong tổ chức đó. Nơi không lập ban cán sự đảng thì tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan đó thực hiện chức năng lãnh đạo theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

2. Ban cán sự đảng do cấp uỷ cùng cấp chỉ định; có bí thư, nếu cần, có phó bí thư. Ban cán sự đảng làm việc theo chế độ tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp uỷ.

3. Ban cán sự đảng lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; đề xuất với cấp uỷ về phương hướng, nhiệm vụ, tổ chức, cán bộ và quyết định theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH Điều 44.

1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh niên; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.

2. Cấp uỷ đảng lãnh đạo trực tiếp tổ chức đoàn cùng cấp về phương hướng, nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.

Điều 45.

Đảng viên còn trong độ tuổi đoàn phải sinh hoạt và công tác trong tổ chức đoàn.

TÀI CHÍNH CỦA ĐẢNG Điều 46.

1. Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng, từ ngân sách nhà nước và các khoản thu khác.

2. Ban Chấp hành Trung ương quy định thống nhất nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính, tài sản của Đảng, mức đóng đảng phí của đảng viên.

3. Hằng năm, cấp uỷ nghe báo cáo và quyết định nhiệm vụ tài chính của cấp mình.

CHẤP HÀNH ĐIỀU LỆ ĐẢNG Điều 47.

Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng.

Điều 48.

Chỉ Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng.

Theo : Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.

Đề Cương Ôn Tập Đương Lối Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Published on

Giúp các bạn ôn tập hiệu quả và trong quá trình thi đề mở ở Đại học Công nghiệp thực phẩm TP.HCM

3. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 3  Khác nhau về chế độ sở hữu, quản lý, phân phối thu nhập, cơ chế thị trường. @Bài làm@  Về Chế độ sở hữu: Trong Tư bản chủ nghĩa tồn tại 2 hình thức sở hữu: Sở hữu tư nhân và Sở hữu công. Sở hữu tư nhân là doanh nghiệp cá thể có quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân có liên kết. Còn sở hữu công là doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Đối tư bản chủ nghĩa xem quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất là thiêng liêng được xã hội và pháp luật bảo vệ. Trong đó hình thức sở hữu tư nhân đóng vai trò thống trị, quyết định đến việc thực hiện những nhiệm vụ chính của nền kinh tế. Các thành quả kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân tạo nên chiếm từ 80%- 85% GDP. Thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động. Và mục tiêu của nó đó là vì lợi nhuận. Đối với Xã hội chủ nghĩa có 3 hình thức sở hữu đó là: Sở hữu toàn dân (Các nông trường quốc doanh quy mô lớn), Sở hữu tập thể, Sở hữu tư nhân.Trên cơ sở 3 chế độ sở hữu nêu trên, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước , kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó sở hữu nhà nước( sở hữu toàn dân) đóng vai trò chủ đạo và quyết định đến nền kinh tế của đất nước. Về lâu dài, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu không vì lợi nhuận.  Về Quản lý: Ở chế độ TBCN, sự can thiệp hạn chế của chính phủ vào các hoạt động kinh tế “nhà nước nằm trên TBCN” nhà nước không muốn can thiệp vào nên kinh tế mà chỉ muốn can thiệp vào những lĩnh vực mà cả người sản xuất vào người tiêu dùng diều không làm được( xây dựng luật và chính sách bảo vệ người sản xuất và tiêu dùng). Các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ở XHCN, có sự can thiệp một cách toàn diện của chính phủ vào hoạt động kinh tế, Nhà nước nằm trong lòng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là Chính phủ là chủ sở hữu nguồn lực, là chủ quản các hoạt động KTXH, là chủ sở hữu các lĩnh vực ngân hàng- tài chính phân phối thu nhập -Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo: + Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến độ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển .

4. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 4 + Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt. -Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng cường với đảm bảo an sinh và công bằng xã hội.  phân phối thu nhập – sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xhcn, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. vì thế phân phối theo lao động được xác định là hinhg thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xh.  Về Cơ chế thị trường Đối với tư bản chủ nghĩa, cạnh tranh và quyền tự do sản xuất kinh doanh của nhà sản xuất. Đây cũng chính là yếu tố tạo nên môi trường cạnh tranh hoàn hảo(ra vào thị trường một cách tự do). Chủ nghĩa cá nhân và khách hàng là thượng đế tạo nên tự do cạnh tranh Còn đối với XHCN quyền làm chủ tập thể, mình vì mọi người và mọi người vì mình nên cơ chế này sẽ dễ dàng làm xã hội tiến lên hoặc lùi là phục thuộc và xã hội đó có tốt hay không. Có sự can thiệp một các toàn diện của chính phủ vào hoạt động kinh tế .Nhà nước nằm trong lòng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ là chủ sở hữu nguồn lực, chủ quản các hoạt động KTXH, chủ sở hữu các lĩnh vực ngân hàng- tài chính 5) Tại hội nghị VI (1986) Đảng ta xác định “Khoa học kĩ thuật là 1 động lực to lớn, đẩy mạnh quá trình phát triển của xã hội, có vị trí then chốt trong phát triển xã hội.  Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát.  Vai trò của KHKT  KHCN nước ta có những đóng góp cho sự nghiệp CNHHĐH  Những vấn đề bất cập của khoa học công nghệ hiện nay 6) Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa  Đây là mối quan hệ có ý nghĩa quan trọng  Khẳng định trong nhận thức và thực tiễn, mục tiêu kinh tế thường lấn áp mục tiêu văn hóa

5. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 5  Văn hóa trở thành mục tiêu của sự phát triển KT-XH  Phát triển VH đồng bộ với phát triển xã hội  Phải có chính sách cho kinh tế và ngược lại phải xây dựng nền VH đạo đức cho nhân dân. 7) Mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời có ý nghĩa ntn trong việc nâng cao dân trí bồi dưỡng nhân tài.  Mô hình XH học tập đáp ứng nhu cầu cho người học Trước tiên học phải có mục đích đúng đắn : mỗi người chúng ta phải xác định mục đích học tập của mình là gì, để từ đó có thể lập nên kế hoạch học riêng của bản thân. Cố gắng hoàn thành hoạch định đã vạch ra thì mới có kết quả tốt đẹp.  Tạo ra cơ hội cho người học Giúp chúng ta luôn có sự tự tin trong mọi việc. Không lạc hậu so với xã hội. Góp phần xây dựng đất nước…..  Đây là là chiến lược đảm bảo công bằng trong giáo dục. Đây là 1 nhu cầu quan trọng trong 1 thị trường lao động đang biến động và phát triển như ở nước ta. “học, học nữa, học mãi” xã hội luôn luôn phát triển, nếu không ngừng trao dồi kiến thức chúng ta sẽ nhanh chóng bị lạc hậu. 8) Phân tích sức mạnh dân tộc 3 với sức mạnh thời đại 3 @Bài làm@ Sức mạnh dân tộc -Thể hiện ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường – Truyền thống yêu nước là hạt nhân của truyền thống dân tộc, nó không chỉ là một tình cảm tự nhiên bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong quá trình hình thành và phát triển trong quá trình giữ nước. – sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và hiện tại; sức mạnh của sự thông minh và lòng dũng cảm; của lòng chân chính ko lay chuyển nổi. Sức mạnh thời đại – Sức mạnh của các nhân dân các nước thuộc địa trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, sức mạnh này nâng lên gấp nhiều lần và gắn với cuộc cách mạng vô sản trong thời đại mới.

6. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 6 – Sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản – Sự phát triển lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học kĩ thuật- 1 động lực phát triển xã hội… Các câu hỏi trong sách thì nên bám vào sách mà làm. Lưu ý giữa chủ trương với quan điểm nhầm là zero. Chương 4 9) Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa  Nêu 8 tác dụng @Bài làm@ Câu 7: Tại sao nói: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam chú trọng phát huy nguồn lực là yếu tố căn bản và bề vững:. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam Bài làm * CNH, HĐH ở VN chú trọng phát huy nguồn nhân lực là yếu tố căn bản và bền vững, Vì: Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế thị trường và quản lý Nhà nước, trong đó con người là yếu tố quyết định CNH,HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ và khoa học công nghệ, khoa học quản lý cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của TG và có khả năng sang tạo công nghệ mới. Đại hội XI chỉ rõ “Phát triển và nâng chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bề vững” * Liên hệ thực tiễn ở VN: Để chú trọng phát triển con người nhanh và bền vững, bộ giáo dục và đào tạo Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi cho nền giáo dục với nhiều trường Đại học, Cao đẳng, TC chuyên nghiệp có uy tín để đào tạo tay nghề, đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực cao, phẩm chất tốt, với các lớp bồi dưỡng giáo viên, cán bộ

7. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 7 Câu 17: Phân tích nội dung của CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức. Theo Anh (chị) cần phải làm gì để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay? Bài làm a. Nội dung Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nội dung cơ bản của quá trình này là: – Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. – Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội. – Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. – Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao. b. Để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay – Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân. + Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. + Về quy hoạch phát triển nông thôn: + Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn: – Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. – Ba là, phát triển kinh tế vùng. – Bốn là, phát triển kinh tế biển. – Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.

8. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 8 Câu 19: Trình bày mục tiêu, quan điểm của CNH, HĐH ở nước ta thời kỳ đổi mới. Bài làm a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2023 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa – Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. – Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. – Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. – Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. – Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Câu 20: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa bước ngoặt khởi xướng cho công cuộc đổi mới ở nước ta. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa của Đảng tại đại hội lần thứ VI là gì? Bài làm Đại hội VI phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương của Đảng thời kỳ 1960 – 1985

10. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 10 + Tiếp tục đẩy mạnh CNH,HĐH phát triển nhanh + CNH,HĐH là của toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân + Xây dựng VN cơ bản là nước công nghiệp theo hướng hiện đại b) Để rút ngắn quá trình CNH,HĐH chúng ta phải: – Đẩy nhanh và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật – Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế (đi tắt đón đầu) – Đẩy nhanh kinh tế tri thức – Phát triển giáo dục và đào tạo Chương 5 10) Quan điểm về xây dựng kinh tế thị trường theo hướng XHCN (chưa phân tích) Để thực hiện các mục tiêu nhằm hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội, Nghị quyết nêu 5 quan điểm cần quán triệt trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm tới là: 1/ Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng XHCN. Khắc phục tư tưởng chủ quan, rập khuôn, bắt chước nước ngoài, coi nhẹ định hướng XHCN, định hướng phát triển của nền kinh tế nước ta. 2/ Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường. Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường, giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội, giữa nhà nước, thị trường và xã hội. 3/Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. 4/Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.

11. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 11 Quá trình này ở nước ta còn mới, phải vừa làm vừa tổng kết thực tiễn. Nhưng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững không cho phép chúng ta lừng chừng. 5/Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lí của Nhà nước. Xuất phát từ bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân thực hiện và vì lợi ích của nhân dân. Do vậy, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta định hướng xã hội chủ nghĩa. 11) Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội V XI Câu 8: Thế nào là KTTT định hướng XHCN? Trình bày sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT thời kỳ đổi mới. Bài làm a) Khái niệm: KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật thị trường vừa chịu sự chi phối và dẫn dắt bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH b) Sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT thời kỳ đổi mới: * Đại hội VI-VIII – KTTT không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại. KTTT nó có mầm mống trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến, phát triển cao trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Trước kia nhầm tưởng kinh tế hàng hóa – KTTT là 1 nhưng giữa kinh tế hàng hóa – KTTT có sự khác biệt nhau. Do phát triển đỉnh cao trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa nên người ta nhầm tưởng KTTT là thành tựu của tư bản. – KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH, KTTT đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ không đối lập với chế độ xã hội đó và nó tồn tại dưới nhiều hình thức. KTTT vừa liên hệ với chế độ công hữu vừa liên hệ với chế độ tư hữu và phục vụ cho quần chúng nhân dân, cho nên nó tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH – Cóa thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta. Vì tồn tại khách quan trong quá trình đi lên CNXH cho nên chúng ta có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH * Đại hội IX – X:

12. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 12 – Đại hội IX: xác định nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH – Đại hội X (2006): + Mục đích: Thực hiên “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, gải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, khuyến khích vươn lên làm giàu. + Phương hướng phát triển: xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể cùng kinh tế nhà nước ngày càng đóng vai trò nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước + Định hướng và phân phối sản phẩm: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển kinh tế, thực hiện và giải quyết tốt mục tiêu con người gắn liền phát triển xã hội. * Đại hội XI (2011): Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố và phát triển. Kinh tế tư nhân là động lực phát triển của đất nước. Kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước là nền tảng vững chắc của đất nước. Kinh tế có vốn nước ngoài được khuyến khích đầu tư phát triển. 12) Mục tiêu, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sgk 13) Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (nằm trong đổi mới III) sgk 14) Làm rõ những tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN Tích cực +Con người: Đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn liền động cơ và hiệu quả. Nó buộc người ta phải khắc phục lối tư duy cảm tính, chủ quan và phải rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy lý tính, lành mạnh. Mục đích phải trên cơ sở hiện thực và đi đôi với những biện pháp để hiện thực hóa trong thực tế. Hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi và sáng tạo. + Văn hóa Các chính sách kinh tế mới sẽ tạo ra cơ sở kinh tế-xã hội mới cho các hoạt động văn hóa tiềm ẩn được phát triển đa dạng, phong phú

13. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 13 Thúc đẩy hoạt động văn hóa theo hướng xã hội hóa. Hoạt động văn hóa sẽ thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân. +Kinh tế Kinh tế thị trường chấp nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các thành phần kinh tế tác động và bình đẳng với nhau trong thực hiện các quyền kinh tế của mình. -Tiêu cực +Tổ chức Quá trình xây dựng, hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu hiệu quả. Tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu vẫn nghiêm trọng. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong DNNN chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước Hệ thống an ninh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt. Phân bố nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Cơ chế “xin – cho” chưa được xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân. +Xã hội Kinh tế thị trường chú trọng đến nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội. Kinh tế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu nên nó không giải quyết được cái gọi là “Hàng hóa công cộng” (đường xá, các công trình y tế, văn hóa, giáo dục…) Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội +Thị trường Thị trường đất đai còn nhiều vướng mắc. Thị trường tài chính phát triển không cân đối, thị trường chứng khoán thiếu chiều sâu, chưa trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, Thị trường khoa học công nghệ chậm phát triển.

15. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 15 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát nhân dân, sự phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của mặt trận. 16) Cấu trúc hệ thống chính trị nước ta và vai trò của đoàn thanh niên trong hệ thống chính trị nước ta Câu 9: Hệ thống chính trị là gì? Hiện nay ở nước ta hệ thống chính trị bao gồm những tổ chức đoàn thể nào? Hãy nêu chức năng của các đoàn thể đó. Bài làm * Hệ thống chính trị: là hệ thống của các tổ chức đơn vị trong xã hội mà thông qua các tổ chức đó nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Nó bao trùm và điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp. * Hệ thống chính trị hiện nay ở nước ta bao gồm: Mặt trận tổ quốc và 5 đoàn thể chính trị xã hội: – Tổng liên đoàn lao động VN – Đoàn thanh niên cộng sản HCM – Hội liên hiệp phụ nữ VN – Hội cựu chiến binh VN – Hội nông dân VN Hệ thống chính trị bao chum và điều chỉnh mọi quan hệ chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc trong cộng đồng xã hội, giữa các yếu tố xã hội, tập thể và các nhân, vấn đề về quyền lực, về hoạch định đường lối, chủ trương chính sách phát triển xã hội * Chức năng của 5 đoàn thể: Các tổ chức, thiết chế trong hệ thống có mục đích, chức năng thực hiện, tham gia thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị, thực hiện hoặc tham gia vào các quyết định chính trị, vào thực hiện các chính sách quốc gia. Chức năng của 5 đoàn thể: – Tổng liên đoàn lao động VN: bảo vệ g/c công nhân lao động – Đoàn TN CS HCM: đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỷ luật, ý thức cho tầng lớp thanh niên. – Hội phụ nữ: bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ

16. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 16 – Hội cựu chiến binh VN: bảo vệ quyền lợi cho cựu chiến binh – Hội nông dân VN: bảo vệ quyền lợi cho người nông dân + Cấu trúc hệ thống : Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực chính trị công khai và các mối quan hệ tương hỗ của nó với các cá nhân, với tư cách là những chủ thể pháp luật, những người mang các quyền tự do của con người và công dân. Nhà nước pháp quyền XHCN là một Nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc đặc thù của riêng mình. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp luật, đặc biệt Hiến pháp và luật giữ địa vị tối cao. * Quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc có sự phân công rành mạch trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. * Trong Nhà nước pháp quyền, giá trị con người là giá trị cao quý, là mục tiêu cao nhất * Quyền lực Nhà nước là thuộc về nhân dân. +vai trò của đoàn thanh niên trong hệ thống chính trị nước ta Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. a. Mối quan hệ của Đoàn đối với Đảng và nhà nước. Thanh niên là lực lượng dự bị tin cậy, cánh tay đắc lực của Đảng và của hệ thống chính trị. Vì vậy, thanh niên cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Cụ thể: – Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. – Thực hiện một cách có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. – Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, mạnh dạn đấu tranh với những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của nhân dân. – Tích cực tham gia và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực học tập và công tác.

17. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 17 – Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào của các tổ chức chính trị – xã hội phát động; trực tiếp là xây dựng tổ chức Đoàn và phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. c. Đoàn đối với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đoàn tích cực chủ động, liên kết phối hợp, nhằm quy tụ sức mạnh của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đoàn Thanh niên là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – một liên minh chính trị rộng lớn, tập hợp lực lượng đại đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. d. Đoàn đối với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đảng giao cho Đoàn trực tiếp phụ trách, dìu dắt, giáo dục Đội Thiếu niên, nhi đồng. Tại chương IX, Điều lệ Đoàn ghi rõ: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, hướng dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, phấn đấu trở thành đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người công dân tốt của đất nước. Phối hợp với các cơ quan Nhà nước tạo điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính cho hoạt động của Đội. 17) Hệ thống chuyên chính vô sản (1975-1989) SGK Chương 7 18) 6 quan điểm xây dựng nền VH thời kì đổi mới 19) Chủ trương XF nền VH nền VH thời kì đổi mới 20) Quan điểm về giải quyết các vấn đề XH thời kì đổi mới 21) Chủ trương về giải quyết các vấn đề XH thời kì đổi mới 22) Vì sao việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay (Quan điểm 6) Trong hầu hết các định nghĩa về văn hóa ta đều thấy nổi bật nên hai yếu tố : Văn hóa về bản chất chính là khả năng sáng tạo của con người và luôn gắn với những giá trị nhân văn. Theo Mác, ” bất cứ ở đâu con người cũng làm theo thước đo của cái đẹp “. Do đó rất cần nhận rõ khái niệm giá trị văn hóa trước khi bàn tới việc bảo tồn và phát huy 2. Bảo tồn giá trị văn hóa / di sản văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là sự khẳng định vai trò và vị trí xứng đáng của nó trong đời sống xã hội hiện đại. 2.1 Nội hàm khái niệm giá trị văn hóa truyền thống chỉ ra rằng, chúng ta nhất thiết phải tận dụng / phát huy tính hữu dụng và khả năng liên kết cộng đồng, định hướng tư duy, hành động xã hội của giá trị phục vụ thiết thực nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ công

19. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 19 hợp lý trong các chính sách vĩ mô và vi mô của chính phủ. Nói cách khác, sau một năm, khía cạnh tích cực của việc gia nhập WTO là chúng tôi đang trên đường tiến tới những tiêu chuẩn của một nền kinh tế chuyên nghiệp. Còn về khía cạnh tiêu cực thì có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các bạn biết rằng, Việt Nam là một nước đang chuyển đổi, chuyển đổi về kinh tế, chuyển đổi về hành chính và chuyển đổi về chính trị. Do đó, khía cạnh tiêu cực nhất mà tôi thấy là người Việt Nam bắt đầu phải làm việc một cách thực sự hơn và vất vả hơn những năm trước đây, đặc biệt là chính phủ. Một khía cạnh tiêu cực khác là khoảng cách giàu nghèo tăng lên trong một năm vừa qua, nguyên do là người Việt chưa tích luỹ đủ những kinh nghiệm, những năng lực để sống và làm việc trong điều kiện của toàn cầu hoá và theo các tiêu chuẩn của WTO. Chính sự chênh lệch năng lực như vậy dẫn đến chênh lệch thu nhập và dẫn đến sự giãn ra của khoảng cách giàu nghèo. Đấy là hai khía cạnh tiêu cực mà tôi quan sát thấy. 26) Phân tích mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế và xã hội 27) Những chủ trương nào của Đảng đề ra nhằm khuyến khích người dân làm giàu theo pháp luật Trước hết, trong giải quyết việc làm cho người lao động Thứ hai, trong lãnh đạo thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo Thứ ba, trong lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công Thứ tư, trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân Thứ năm, trong thực hiện chính sách an sinh xã hội Chương 8 28) Vai trò công tác đối ngoại nhân dân 29) Những tác động tích cực và tiêu cực của nền văn hóa Chuyển biến theo hướng tiêu cực: Tư tưởng phương Ðông đã ăn sâu vào phong tục, tập quán và tâm khảm của con người. Lối sống theo làng xã, họ tộc đã tạo nên thế tự trị lâu đời cho người Việt Nam. Con người Việt Nam có nếp sống chuẩn mực từ trong cách ăn mặc cho đến việc ứng xử. Thế mà đến đầu thế kỉ XX, sự du nhập của văn hoá phương Tây vào Việt Nam đã làm thay đổi những giá trị cổ truyền của dân tộc. Văn hoá Việt Nam chuyển dần sang nền văn hoá hiện đại chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây.

20. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 20 Chính bản sắc truyền thống của văn hóa Việt Nam đang bị những biến thái do toàn cầu hóa từ văn hóa phương Tây đưa tới những ảnh hưởng rất xấu. Văn hóa, bản sắc dân tộc Việt Nam đang thật sự bị xâm hại, đến nỗi rất bức bối nên người ta đang hô hào thực hiện nếp sống văn minh, cách sống “có văn hóa”. Trước nguy cơ có thật này, cần có ngay những giải pháp thích hợp để chỉnh đốn lại những nền nếp truyển thống, đồng thời tìm cách phát huy cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của bản sắc Việt Nam trên đường hội nhập vào kho tàng văn hóa toàn cầu. Vốn theo truyển thống văn hóa, tâm linh lâu đời của người Việt thì hạnh phúc được đặt nền tảng trên những giá trị tinh thần nhiều hơn là trên những giá trị vật chất. Những giá trị tinh thần ấy, như đạo lý, nhân nghĩa, đạo làm người theo quan niệm truyền thống Á Đông, thì đang bị xói mòn trầm trọng bởi thời buổi “kinh tế thị trường”, nhất là qua lối sống của lớp dân thành thị mới giàu lên nhờ “mở cửa”, “kinh tế thị trường” và một số khá lớn thanh niên nam nữ. Chuyển biển theo hướng tích cực: Ý thức vô sản đã bắt đầu xuất hiện. Nó có mặt do hai điều kiện: Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và cách mạng Trung Quốc thông qua sách báo, đặc biệt là vai trò của Nguyễn Aí Quốc và một số trí thức tiến bộ đương thời Sự ra đời của giai cấp vô sản Việt Nam Nhưng ảnh hưởng của ý thức hệ vô sản chủ yếu mới chỉ là trên đời sống tư tưởng chính trị. Ðối với văn học, nhất là văn học giai đoạn này, dĩ nhiên nó có ảnh hưởng, hơn nữa còn tạo ra những thành tựu đáng kể nhưng chưa có điều kiện để phát triển. 30) Tư tưởng chỉ đạo đối ngoại thời kì hội nhập Câu 10: Hãy nêu tóm tắt những thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân của đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới. Bài làm a) Thành tựu và ý nghĩa: – Phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. + VN ký hiệp định Pari: 23/10/1991 + VN bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc: 10/11/1991

22. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 22 Câu 14: Trình bày nội dung đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới. Là công dân Việt Nam, anh (chị) cần làm gì để góp phần mở rộng quan hệ giữa nhân dân ta và bạn bè quốc tế? Bài làm a) Nội dung: * Cơ hội – thách thức: – Cơ hội: Xu thế hòa bình hợp tác trên TG phát triển là điều kiện để ta đẩy nhanh quá trình hội nhập. Sự nghiệp đổi mới hơn 20 năm qua của Đảng đã nâng cao uy tín VN trên trường TG, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế – Thách thức: + Sự bất hòa toàn cầu hóa (các tập đoàn xuyên quốc gia lợi dụng và chi phối) + Mức độ cạnh tranh rất là gay gắt trên cả mức độ sản phẩm doanh nghiệp quốc gia, nếu không đề ra chính sách cụ thể đúng đắn sẽ dẫn đến sự khủng hoảng + Các thế lực thù địch, phản động chống phá chính quyền * Mục tiêu: của Đảng về chính sách đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế. * Nhiệm vụ: giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế, thuận lợi cho công cuộc đổi mới – Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế – Nắm giữ 2 mặt hợp tác đấu tranh trong quan hệ quốc tế – Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia, không phân biệt quan hệ chính trị xã hội khác nhau – Kết hợp chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nước và toàn dân – Phát huy nội lực thu hút và sử dụng ngoại lực, cải cách các thủ tục hành chính cho phù hợp – Giữ vững bà tăng cường lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước b) Để góp phần mở rộng quan hệ giữa nhân dân ta và bạn bè quốc tế. Ta cần phải làm: – Tố giác tội phạm, tệ nạn xã hội của nước ta và nước bạn khi bắt gặp

23. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 23 – Học tập, tham gia tìm hiểu văn hóa của các nước – Loại bỏ, không tham gia, sử dụng các sản phảm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh Câu 2: Trình bày mục tiêu, quan điểm cơ bản về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN do Đảng đề ra. Bài làm a) Mục tiêu: – Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2023. Những năm trước mắt cần đạt các mục tiêu: – Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. – Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị, danh nghiệp. – Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới. – Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. – Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế – xã hội. b) Quan điểm – Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. – Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.

24. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 24 – Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. – Chủ động tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm. – Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Câu 6: Toàn cầu hóa là gì? Hãy trình bày chủ trương của Đảng ta về toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay. Bài làm * Toàn cầu hóa: là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các ròa cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. * Chủ trương của đảng về toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay: Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức” – Phải nhìn rõ mặt tích cực và tiêu cực trong mối quan hệ của nó, tức là: + Với mặt tích cực ta phải biết tận dụng hết khả năng của mình. Toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước. + Với mặt tiêu cực phải bình tĩnh tháo gỡ, do xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hóa tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo. – Châu Á- Thái Bình Dương là khu vực ổn định, có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế vì vậy phải đẩy mạnh xu thế hợp tác phát triển và hình thành các khu vực kinh tế, tứ giác kinh tế và tam giác kinh tế. Câu 13: Là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, trong những năm gần đây Đảng ta đã đưa ra những định hướng gì để đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Bài làm

25. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 25 Đẩy mạnh CNH,HĐH nông thôn và giải quyết các vấn đề CNH nông thôn. – Chuyển dịch nhanh cơ cấu nông nghiệp kinh tế nông thôn, gắn công nghiệp với nông nghiệp, gắn công nghiệp với chế biến và thị trường đẩy nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ sinh học nhằm nâng cao chất lượng năng suất sản phẩm đối với từng ngành, từng vùng. – Quy hoạch phát triển nông thôn: Xây dựng nông thôn mới văn minh, đô thị xen canh nông nghiệp và xây dựng các khu cơ sở vật chất – kỹ thuật – Giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn: tạo công ăn việc làm cho người dân Câu 15: Trình bày những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài làm 1.Đặc tính chung thống nhất của kinh tế thị trường. Thứ nhất, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, nhưng có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế tham gia thị trường nhằm giành giật những điều kiện kinh doanh thuận lợi. Thứ hai, giá cả do thị trường quyết định. Giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, là công cụ quan trọng thông qua cung cầu để kích thích và điều tiết hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường. Sự biến động của cung cầu kéo theo sự biến động của giá cả thị trường và ngược lại, giá cả thị trường cũng điều tiết cung cầu. Thứ ba, nền kinh tế vận động theo những qui luật vốn có của kinh tế thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh…Sự tác động của các qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Thứ tư, đối với nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. 2. Tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

26. Trần Đình Trọng -05DHDT4 HUFI [Type text] Page 26 Việt Nam. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng của nó. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – XHCN ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thúc phân phối theo thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Trong cơ chế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối theo thu nhập sau : phân phối theo lao động, theo nguồn vốn, theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội. phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên CNXH. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước XHCN. Nhà nước quản lí nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước XHCN. Sự quản lí của Nhà nước XHCN nhằm đưa nền kinh tế đi theo đúng hướng XHCN, vì vậy phải tăng cường vai trò quản lí của nhà nước thông qua các công cụ quản lí vĩ mô.Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Đây là hai phương tiện khác nhau để điều tiết nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta nhằm thu hút vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn

An Ninh Phi Truyền Thống

An ninh phi truyền thống: một khái niệm mới

Tuy nhiên, cho đến nay, việc nhận thức và xác định những vấn đề an ninh phi truyền thống vẫn chưa có sự thống nhất. Một số nghiên cứu viện dẫn quan niệm của Liên hợp quốc về vấn đề an ninh phi truyền thống trong 7 lĩnh vực chính: kinh tế, lương thực, sức khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và chính trị. Có nghiên cứu quy vấn đề an ninh phi truyền thống vào 5 lĩnh vực cơ bản: kinh tế, môi trường, xã hội, chính trị và văn hóa. Một quan điểm khác phân chia các vấn đề an ninh phi truyền thống thành 6 nhóm chính: ô nhiễm môi trường, tình trạng thiếu hụt tài nguyên, tội phạm xuyên quốc gia, nạn khủng bố, dịch bệnh truyền nhiễm và thảm họa địa chất.

Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa các nước ASEAN và Trung Quốc tại Phnôm Pênh (Cam-pu-chia) đã ra Tuyên bố chung ASEAN – Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống, xác định an ninh phi truyền thống là những vấn đề: tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao.

Các quan niệm nêu trên dù không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều có một điểm chung là xác định các vấn đề an ninh phi truyền thống là gì để so sánh và qua đó thấy được sự khác biệt với vấn đề an ninh truyền thống. Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các mối quan hệ, các lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập, đan xen, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau, việc tách biệt đâu là vấn đề an ninh truyền thống và đâu là an ninh phi truyền thống chỉ mang tính tương đối bởi sự đan xen, chồng lấn nội dung giữa chúng. Chẳng hạn, sự khủng hoảng, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhiên liệu, đặc biệt là năng lượng, dầu mỏ… đã dẫn đến các cuộc tranh đoạt tài nguyên, và, trong không ít trường hợp, vũ lực đã được sử dụng để phân thắng, bại. Tội phạm công nghệ cao đột nhập, tấn công vào nhiều mục tiêu trên toàn thế giới, xâm nhập hệ thống dữ liệu của nhiều công ty, tập đoàn, các tổ chức quốc tế, các cơ quan chính phủ để đánh cắp các dữ liệu, hồ sơ, tài sản sở hữu trí tuệ, bí mật quốc gia…Thiệt hại mà loại hình tội phạm này gây ra không chỉ nghiêm trọng về kinh tế mà còn thách thức đối với an ninh của quốc gia dân tộc. Để đối phó với nguy cơ này, trên thế giới xuất hiện những khái niệm mới, lĩnh vực hoạt động mới, chẳng hạn “chạy đua vũ trang mạng”, “liên minh chống tội phạm mạng”… nhằm giành quyền chủ động trong “thế giới ảo”. Hoặc, những biến động chính trị, bạo loạn, xung đột, dẫn đến lật đổ chế độ ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông vừa qua, bắt nguồn từ những lời kêu gọi được truyền đi trên các trang mạng xã hội. Người ta đã nói đến các cụm từ: “cách mạng xã hội trên in-tơ-nét”, “cách mạng từ in-tơ-nét” như là đặc điểm nổi bật của “phong trào” biến động, bạo loạn này.

Khái niệm an ninh phi truyền thống với những nội dung cụ thể của nó, rõ ràng mang tính chất “động”, và, cùng với thời gian, nội hàm của nó có thể còn tiếp tục được mở rộng hơn. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà cách đặt vấn đề an ninh phi truyền thống của các quốc gia, khu vực và cộng đồng có những điểm khác nhau nhất định. Việc khuôn những vấn đề cụ thể nào đó trong nội hàm của vấn đề an ninh phi truyền thống như các nhận thức nêu trên đều mang ý nghĩa tương đối, nhằm phục vụ cho việc hoạch định, xây dựng chính sách, chiến lược an ninh của đất nước và những cam kết an ninh song phương, đa phương trong hợp tác, liên kết quốc tế nhất định.

Những mối đe dọa an ninh phi truyền thống: thách thức mang tính toàn cầu

Có một điểm cần nhấn mạnh là, không phải đến bây giờ, nhiều vấn đề được gọi là mối đe dọa đối với an ninh phi truyền thống, như giá lương thực tăng cao, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…, mới gây cho con người những lo lắng về sự an nguy và tồn vong của mình. Lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến những trận đói, nạn dịch khủng khiếp cướp đi sinh mạng của hàng triệu con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh bùng nổ cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm cho biên giới địa lý giữa các quốc gia trở nên “mềm” hơn, dễ vượt qua hơn; mạng in-tơ-nét đã tạo ra một “thế giới ảo” với các xa lộ thông tin toàn cầu, hoàn toàn không còn biên giới ngăn cách. Cùng với đó là sự hủy hoại của con người đối với tự nhiên, môi trường; sự phát triển kinh tế thiếu kiểm soát, chạy theo lợi nhuận thuần túy, lợi ích trước mắt; sự chi phối của những tư tưởng chính trị cực đoan, sự tha hóa và suy thoái về đạo đức của chính con người… đã làm cho những vấn đề mà ngày nay được gọi là an ninh phi truyền thống trở nên trầm trọng hơn, phức tạp hơn, có quy mô lớn hơn rất nhiều. Phạm vi tác động của vấn đề đã vượt ra khỏi biên giới lãnh thổ và lợi ích an ninh quốc gia dân tộc của một nước. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng tới nhiều nước, kéo cả nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái, là một thí dụ. Vấn đề môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, nguồn nước sạch, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng… đôi khi lại đe dọa nhiều hơn đối với cuộc sống của người dân ở những quốc gia không phải là “thủ phạm” gây ra những biến đổi, cạn kiệt đó. Các hoạt động tội phạm, khủng bố quốc tế, nhất là khủng bố bằng vũ khí sinh học, hóa học, bệnh dịch…, có quy mô xuyên biên giới. Những mối đe dọa an ninh phi truyền thống, vì thế, trở thành những thách thức mang tính toàn cầu.

Tính chất nguy hiểm của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống không chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó đối với cuộc sống của con người, mà còn đặt ra nhiều thách thức đối với sự ổn định xã hội, sự tồn vong của cả cộng đồng, hiệu quả thực tế của hợp tác và hội nhập toàn cầu; thậm chí còn làm nảy sinh các vấn đề về an ninh quân sự. Các thảm họa thiên nhiên, động đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên… ngày càng thách thức các thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại và khả năng, nỗ lực của con người. Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, những vấn đề tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực… đang thử thách nghiệt ngã năng lực điều hành của các chính phủ, sự vững chắc của các thể chế chính trị và các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế giàu mạnh nhất, cũng như tính khả thi, bền vững của các liên kết quốc tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tăng lên, thế giới dường như trở nên nhỏ bé hơn, nhưng lại khó kiểm soát hơn, kém an toàn hơn bởi các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có mức độ nguy hiểm cao hơn, sức ảnh hưởng lớn hơn, tầm ảnh hưởng rộng hơn và tốc độ lây lan cũng nhanh hơn. Chính vì vậy, để giải quyết và đối phó với những vấn đề này đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, sự cố gắng của mỗi cộng đồng, quốc gia, con người, với những giải pháp và bước đi phù hợp, kết hợp tổng lực các biện pháp kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, pháp luật, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội.

Phối hợp hành động: giải pháp quan trọng để đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống

Tăng cường hợp tác, cùng nhau phối hợp hành động chung đang là xu thế và giải pháp quan trọng nhằm đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay. Trong thời gian tới, các mối quan hệ hợp tác này càng cần được nâng cao hơn nữa cả về hiệu quả và tính thiết thực.

Ở khu vực Đông Nam Á, các nước ASEAN và các nước đối thoại đã xây dựng các chương trình và kế hoạch hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống, bao gồm các cơ chế và khả năng hợp tác cụ thể. Các chương trình và kế hoạch hợp tác đã thể hiện rõ sự cần thiết khách quan và tầm quan trọng của những hợp tác song phương và đa phương trong nội khối, cũng như sự hợp tác giữa các nước ASEAN với các bên đối thoại trong việc đối phó với vấn đề an ninh phi truyền thống. Những thách thức an ninh mà khu vực đang phải đối mặt, như an ninh biển, hoạt động khủng bố, thảm họa thiên nhiên, dịch bệnh truyền nhiễm, an ninh lương thực và năng lượng, biến đổi khí hậu, được các tư lệnh quốc phòng các nước ASEAN nhất trí coi là những vấn đề cần được ưu tiên hợp tác hiện nay và xác định cần tăng cường khả năng quân đội tham gia giải quyết các vấn đề khu vực, tăng cường xây dựng lòng tin, giảm căng thẳng thông qua trao đổi trực tiếp các cấp.

Kể từ sau Tuyên bố chung ASEAN – Trung Quốc về hợp tác trên những lĩnh vực an ninh phi truyền thống, các nước ASEAN đã triển khai với các nước đối thoại, đặc biệt là với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, EU, các tổ chức quốc tế trong hợp tác đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia và lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Đó là các chương trình: “Chiến lược hợp tác chống ma túy ASEAN năm 2000”; “Tuyên bố chung Bắc Kinh về hợp tác chống ma túy năm 2001”; “Tuyên bố ASEAN về hợp tác chống khủng bố”; “Tuyên bố chung ASEAN – Mỹ về hợp tác chống khủng bố” tháng 8-2002; “Tuyên bố chung ASEAN-EU về hợp tác chống khủng bố” tháng 1-2003; “Tuyên bố Ba-li II”, tháng 10-2003 về xây dựng cộng đồng ASEAN; các kỳ họp của Diễn đàn an ninh khu vực – ASEAN (ARF)…

Nhiệm vụ an ninh của nước ta trong thời kỳ mới không chỉ là vấn đề giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, mà còn phải góp phần làm thất bại mọi sự chống phá của các thế lực thù địch, bảo đảm “sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ”, “sự bất khả xâm phạm, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”(2). Giữ vững an ninh quốc gia, đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống là một nội dung quan trọng của nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” hiện nay của nước ta.

Yêu cầu đối phó với vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay là phải trực tiếp phục vụ cho mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XI của Đảng đã xác định: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.”(3). Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quy định những vấn đề về bảo đảm an ninh quốc gia, bao gồm cả việc đối phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống.

Để đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và toàn diện.

– Trước hết, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng – an ninh”(4). Theo đó, phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh… là những vấn đề cơ bản tạo nền tảng vững chắc cho việc đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.

– Nâng cao ý thức cho mọi tầng lớp nhân dân về bảo vệ Tổ quốc theo yêu cầu của thời kỳ mới. Quán triệt và giáo dục sâu rộng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần của Đại hội XI của Đảng cho toàn xã hội, đặc biệt là cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; tăng cường tuyên truyền, trao đổi thông tin về các mối đe dọa an ninh, quốc phòng. Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm xã hội, trách nhiệm cộng đồng của chính quyền các cấp, của các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề an ninh phi truyền thống là một nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ mới. Đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống vừa là yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp quốc phòng – an ninh, bảo vệ Tổ quốc, vừa là điều kiện quan trọng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi sự đồng thuận và nỗ lực của toàn xã hội, sự quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, với những giải pháp, biện pháp phù hợp và hiệu quả.

PGS,TS. Nguyễn Mạnh Hưởng – Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòngNguồn: Tạp chí Cộng sản điện tử

(1) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004, tr. 11

(2) Luật An ninh quốc gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 8

(3), (4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 81 – 82, 237