Thiên Nhiên Là Gì Vai Trò Của Thiên Nhiên / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Vai Trò Của Thiên Nhiên Trong Đời Sống Của Người Nhật

Nhật Bản là đất nước có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp thay đổi độc đáo theo sự tuần hoàn của bốn mùa trong năm. ‘Đó là một “cửa hàng của thời tiết” trưng bày mọi sản phẩm qua những biến đổi tinh vi của bốn mùa’.

Phương thức sản xuất truyền thống của người Nhật là nông nghiệp. Nền nông nghiệp thiên về âm tính đã rèn đúc lòng tôn trọng tự nhiên, tình yêu thiên nhiên và ước vọng sống hài hòa với tự nhiên.

Thần đạo (Shinto), tôn giáo bản địa đầu tiên của người Nhật Bản khởi đầu với khái niệm “kami” là những gì siêu việt và tồn tại trong thiên nhiên như những năng lực sáng tạo. Đó là quyền lực thiên nhiên có trong con người và có trong cây cỏ, sông núi…Tình yêu thiên nhiên là nền tảng hình thành những triết lý trong tín ngưỡng Thần đạo và những triết lý này càng khắc sâu tình yêu thiên nhiên vào tâm thức con người Nhật Bản.

Người Nhật Bản thần hóa các yếu tố thiên nhiên như mặt trời, ngọn núi, cái cây và trực tiếp thờ phụng những cái đó. Người Nhật tự nhận mình là con cháu của nữ thần mặt trời. Từ xa xưa, người Nhật bản đã xem đỉnh núi Fuji – ngọn núi cao nhất và đẹp nhất Nhật Bản – là núi thiêng, thậm còn có người sùng bái nó như một vị thần. Tu sĩ Watanabe Shin tại đền thờ Fuji-san Hongu Sengen đã đưa ra lời khuyên “Nếu bạn đến đây, hãy nhớ uống nước từ những con suối tự nhiên, bạn sẽ thực sự cảm nhận được ân huệ của tạo hóa”

2. Tình yêu thiên nhiên

Tình yêu thiên nhiên của người Nhật không chỉ thể hiện qua nhu cầu tìm đến với thiên nhiên mà còn trong mong muốn mang thiên nhiên vào cuộc sống hàng ngày. – Nhu cầu thưởng thức thiên nhiên Ở Nhật Bản, thưởng thức thiên nhiên là một nhu cầu mang tính cộng đồng chứ không còn giới hạn trong sở thích của từng cá nhân. Người Nhật có những lễ hội nhằm thoả mãn nhu cầu thưởng thức cảnh quan tươi đẹp của thiên nhiên trong đó nổi bật nhất là hai lễ hội: hana-mi (ngắm hoa đào mùa xuân) và Momiji-gari (ngắm cây thích).

Khi mùa thu đến, lá cây thích chuyển sang sắc vàng, sắc đỏ. Người Nhật lại nô nức đến những thắng cảnh nổi tiếng để được ngắm nhìn màu sắc mùa thu trên các cành cây. Người Nhật gọi dịp này là Momiji-gari – Sự mô phỏng thiên nhiên Tình yêu thiên nhiên được thể hiện trong sự mô phỏng thiên nhiên. Trà đạo, nghệ thuật cắm hoa, kiến trúc vườn và nhiều loại hình nghệ thuật khác thể hiện cách nhìn thiên nhiên của người Nhật. Bản chất của nghệ thuật này là sự mô phỏng thu nhỏ thiên nhiên như nó vốn có. Thiên nhiên xuất hiện trên sân kịch Noh qua hình ảnh cây thông xanh, qua những âm thanh phụ họa mô phỏng tiếng sấm, tiếng mưa, tiếng sóng vỗ hay hình ảnh cây anh đào, cây tre trên sân khấu kịch Kabuki.

3. Ước vọng sống hài hòa với tự nhiên

Nhìn từ góc độ gốc văn hóa, ta có thể thấy thiên nhiên có vai trò hết sức quan trọng với những cư dân nông nghiệp lúa nước. Cuộc sống của họ phụ thuộc rất nhiều vào những biến đổi của môi trường tự nhiên. Vì vậy người Nhật Bản cũng như những cư dân của các nền văn hóa gốc nông nghiệp khác trong tâm thức đều mong muốn sống hòa hợp với tự nhiên. “Hòa mình và đồng nhất với thiên nhiên là xúc cảm tiềm ẩn trong cội nguồn đời sống tinh thần của người Nhật Bản”. Không có một sự đối nghịch hay phân ranh nào giữa con người với thế giới tự nhiên. Người Nhật tin tưởng rằng có những năng lực kỳ diệu đang lưu chuyển trong thiên nhiên và lưu chuyển trong bản thân họ. Trong nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản (Ikebana) thiên nhiên và người cắm hoa hoà thành một. Sự hài hoà của yếu tố thiên – địa – nhân về bản chất là tính nghệ thuật thật sự của Ikebana.

Tài Nguyên Thiên Nhiên Là Gì?

Tài nguyên thiên nhiên là gì?

Tài nguyên thiên nhiên là toàn bộ giá trị vật chất có sẵn trong tự nhiên (vật liệu, nguyên liệu do tự nhiên tạo ra mà loài người có thể khai thác và sử dụng trong đời sống và sản xuất). Đây là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của xã hội loài người. Phân loại tài nguyên thiên nhiên bao gồm.

Tài nguyên thiên nhiên thường được phân loại gồm: Tài nguyên tái tạo và không tái tạo.

Tài nguyên tái tạo (đất, sinh vật, nước ngọt,…): Là loại tài nguyên thiên nhiên tự duy trì và bổ sung một cách liên tục khi được sử dụng và quản lý hợp lý. Tuy nhiên nếu không sử dụng hợp lý. Lại tài nguyên này có thể bị suy thoái và thành tài nguyên không tái tạo được.

Tài nguyên không tái tạo: Là loài tài nguyên thiên nhiên hữu hạn. Có thể mất đi và biến đổi sau thời gian sử dụng. Ví dụ: tài nguyên khoáng sản của một mỏ sẽ bị cạn kiệt sau khi khai thác. Tài nguyên gen di truyền sẽ bị mất đi với sự tiêu diệt của các loại sinh vật quý hiếm.

Theo quan hệ đối với con người

Tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên xã hội.

Đây là một dạng tài nguyên tái tạo đặc biệt. Thể hiện sức lao động chân tay và trí óc. Khả năng tổ chức và chế độ xã hội, tín ngưỡng và tập quán của cộng đồng con người.

Tài nguyên đất, rừng, nước, biển, khoáng sản, năng lượng, khí hậu cảnh quan, tri thức khoa học và thông tin, tài nguyên di sản văn hóa kiến trúc.

Vai trò của tài nguyên thiên nhiên

Sau khi chúng ta tìm hiểu được tài nguyên thiên nhiên là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của tài nguyên thiên nhiên.

Vai trò trong nền kinh tế

Với sự phát triển và tăng trưởng của kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Thực tế, nếu công nghệ là cố định. Thì lưu lượng của tài nguyên thiên nhiên là mức hạn chế tuyệt đối. Về sản xuất vật chất trong ngành công nghiệp sử dụng quặng làm nguyên liệu đầu vào như: Thép, nhôm…

Tài nguyên thiên nhiên chỉ có vai trò quan trọng với kinh tế. Khi con người biết khai thác cũng như sử dụng chúng một cách hiệu quả. Có thể nói, tài nguyên thiên nhiên là yếu tố giúp thúc đẩy quan trọng. Giúp phát triển sản xuất. Các nước đang phát triển thường quan tâm tới việc xuất khẩu các sản phẩm thô. Được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chưa qua chế biến và ở dạng sơ chế.

Tài nguyên thiên nhiên cũng là cơ sở giúp phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, sản xuất thủy tinh, vật liệu xây dựng, sành sứ,…

Vai trò trong sự phát triển ổn định của đất nước

Như vậy có thể thấy tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng. Trong việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến, khai thác và cung cấp nguyên. Nhiên liệu cho ngành kinh tế khác. Giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp các quốc gia ít lệ thuộc vào quốc gia khác. Và đất nước đó có thể tăng trưởng ổn định, độc lập hơn. Khi thị trường tài nguyên thiên nhiên thế giới đang bất ổn.

Thực trạng tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam

Hiện tại, tài nguyên thiên nhiên ở nước ta nói riêng và thế giới nói chung đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực. Tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam nói chung đang bị thu hẹp. Về cả chất lượng và số lượng.

Tài nguyên rừng bị thu hẹp theo từng ngày, diện tích rừng bị che phủ đang giảm dần vì bị khai thác trái phép, đất rừng bị chuyển thành đất công, nông nghiệp, một số loài sinh vật quý hiếm đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao (Một số thống kê cho biết ở nước ta có 100 loài động vật và 100 loài thực vật đang phải đứng trước nguy cơ tuyệt chủng).

Tình trạng ô nhiễm môi trường nguồn nước cũng là một trong những vấn đề rất nghiêm trọng với nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta, dự báo tới năm 2025 ⅔ người trên thế giới phải sống tại những vùng thiếu nước nghiêm trọng.

Bãi rác công nghệ và chất thải: Các doanh nghiệp ở nước ta đang là chủ sở hữu của hơn 1000 con tàu biển có tải trọng lớn và cũ nát. Chúng bị cấm hoạt động tại hầu hết các cảng biển trên thế giới bởi quá cũ, gây ô nhiễm môi trường cũng như không đảm bảo được an toàn hàng hải. Tuy nhiên, ở nước ta những con tàu đó vật được neo đậu vật vờ tại các cửa biển, tuyến sống chờ ngày hóa kiếp thành phế liệu, việc phá dỡ các loại tàu này sẽ thải ra lượng rác thải gây nguy hại tới môi trường sống.

Tài nguyên đất cũng đang gặp khó khăn vì đất nông nghiệp đang bị chuyển dần sang phục vụ cho dịch vụ và công nghiệp khiến tình trạng đất bị nhiễm mặn và sa mạc hóa ngày một nghiêm trọng.

Như vậy qua bài viết trên chúng ta đã tìm được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi tài nguyên thiên nhiên là gì. Có thể thấy tài nguyên khoáng sản đang bị khai thác và sử dụng một cách lãng phí khiến chúng bị cạn kiệt. Do đó hãy chung tay bảo vệ tài nguyên thiên nhiên giúp phát triển xã hội theo chiều hướng tích cực hơn.

Định Luật Thiên Nhiên Của Vũ Trụ

ĐỊNH LUẬT THIÊN NHIÊN CỦA VŨ TRỤ

Bhikkhu Nāga Mahā Thera – Tỳ khưu Bửu Chơn

Lời Tựa

“Ngũ luật thiên nhiên” hay là “Định luật tự nhiên của vũ trụ” ( pañca niyāma) là một định luật tự nhiên có sẵn, dầu cho ai khám phá nó ra không, nó cũng vẫn có, nó không ở dưới sự điều khiển, sai khiến, chỉ huy của một vị Thần Linh hay vị Chúa Tể nào cho rằng mình có toàn năng toàn lực tạo hóa ra vạn vật như Trời Phạm Thiên ( Brahma) hay là Đức Phật là bậc toàn giác chẳng hạn.

“Ngũ luật thiên nhiên” ấy có tánh cách tự nhiên hoạt động theo “bản tánh của nó” tùy thời gian và không gian của nó phù hợp mà phối hợp vậy thôi.

Mong rằng quý vị độc giả sau khi đọc qua quyển “Định luật tự nhiên của vũ trụ” sẽ lãnh hội một phần nào về giáo lý Phật Đà rất có liên hệ đến khoa học, mà hiện nay các khoa học gia càng khám phá ra những bí ẩn của Vũ trụ lại càng nhìn nhận và chứng minh những gì mà Đức Phật đã dạy từ lâu rồi.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Đây xin kể về “Ngũ luật thiên nhiên“: utu niyāma – định luật về thời tiết (nóng, lạnh); bīja niyāma – định luật về giống chồi, mầm và tế bào; kamma niyāma – định luật về nghiệp báo; citta niyāma – định luật về tâm thức; dhamma niyāma – định luật về quy phạm hay các Pháp. (Năm định luật thiên nhiên này mà các “Thần giáo” cho là “Đấng tạo hóa” hay là “Thượng Đế”).

Định luật về giống chồi, mầm và tế bào (bīja niyāma): là định luật về sự tiến triển của những vật chất hữu cơ (organique) như cây cỏ, hột giống và những vật có tế bào. Do định luật này mà giống nào sinh ra giống nấy, lúa do hột lúa mà ra, vị ngọt do đường mía, mật mà ra, luật trống mái tế bào và phần tử genes trong sự thọ thai cũng do định luật này chi phối. Bīja niyāma cũng không phải là một định luật bất cưỡng lại. Ta cũng có thể xoay chuyển, kiểm soát nó được. Như trong cách trồng tỉa, ta cũng có thể chấp cành cây này qua cây kia để đổi phẩm chất hoặc số lượng của giống ấy được.

Định luật về nghiệp báo (kamma niyāma) là định luật hành vi và quả hay là “nhân quả”. Nhân gieo thì trổ quả. Nhân tốt đem lại quả tốt, nhân xấu đem lại quả xấu, đó là sự tự nhiên phải trổ sanh ra như vậy chớ không do ai thưởng phạt cả. Kamma niyāma tự nhiên có năng lực tác động mà không cần đến sự kích thích. Muốn hay không muốn bên ngoài đây là định luật chung của vạn vật trong vũ trụ.

Ta thường nói “thủy lưu tại hạ”, nước chảy xuống chỗ thấp, bởi chất nước luôn luôn tìm kiếm cho được sự quân bình, bằng phẳng không cần một máy móc hay nhân vật nào chỉ huy hay sai khiến, luật nhân quả cũng vậy, đã có nhân thì có quả như trả lại sự quân bình không thể tránh được, cũng như không thể ngăn hay tránh không cho nước chảy xuống chiều thấp trước khi nó đến mức quân bình như sự tự nhiên xoay vần của mặt trời và mặt trăng vậy.

Kamma niyāma không phải là một định luật bất cưỡng mà ta có thể chuyển hướng nó được (gọi là chuyển nghiệp). Tuy rằng trong khắp cõi sa bà này không có một nơi nào mà ta có thể tránh khỏi sự tác động của nghiệp báo, nhưng ta cũng không phải bắt buộc thọ lãnh trọn vẹn. Những cái gì mà ta mang theo trong cái nghiệp của ta từ người đê hèn, độc ác cũng có thể trở nên một bậc đạo hạnh, thanh cao. Luôn luôn ta có thể trở thành một cái gì, mà cái ấy tùy sự hành động và tư tưởng của ta. Mỗi lúc ta có thể trở nên tốt hơn hay là xấu hơn. Dầu cho người tội lỗi nhất cũng không nên tuyệt vọng (như đệ tử của ĐĐ. Ca-Diếp vì không thu thúc mà phải ra đời làm nhiều điều tội lỗi phải bị đức vua bắt được và đem ra pháp trường xử trảm, trong khi đưa ra pháp trường nhờ Đại đức Ca-Diếp đến nhắc nhở mà người để tử đổi liền tư tưởng ác xấu và thất vọng nhờ niệm đề mục tham thiền rồi đắc thiền dùng thần thông bay lên hư không thuyết pháp cho đức vua nghe và sám hối tội lỗi xin được xuất gia tu hành trở lại). Hoặc người có đạo hạnh cao nhất cũng không nên cẩu thả ỷ lại (như tích đức Bồ tát tu hành rất trong sạch đã đắc thiền và được đức vua thỉnh vào đền thọ thực mỗi bữa, vì dể duôi mà phải đứt thiền hành dâm với hoàng hậu). Như vậy tốt hay xấu chỉ do một tích tắc tư tưởng và hành động mà thôi.

Ai biết được nghiệp của mình đã tàng trữ bao nhiêu xấu, bao nhiêu tốt? Nếu suy theo sự hành động hiện tại mà ta suy đoán ngay cái quả thì ai dám nghĩ rằng một người như Aṅgulimala là một tên giết người không gớm tay mà lại đắc quả A-la-hán trong kiếp ấy. Như vậy định luật nghiệp báo ta có thể chuyển được do sự tinh tấn tu tập của ta.

Định luật về tâm thức (citta niyāma) như lịch trình diễn tiến của tâm thức, sự sanh, sự diệt của tâm niệm, những tác động của tâm, những hiện tượng của thần giao cách cảm, viễn cảm, hồi thức, huệ nhãn, huệ nhĩ, tha tâm thông .v.v. đều thuộc về citta niyāma cả.

Định luật về quy phạm hay các pháp (dhamma niyāma) như hấp dẫn lực, nhẹ bay lên, nặng rơi xuống, nhẹ hút vào nặng, dị chất phản ứng, như âm dương tương phản, như hiện tượng lạ lùng xảy ra trong lúc Bồ tát giáng sanh .v.v… và các định luật tương tợ trong vũ trụ cũng nằm trong định luật này.

Như đã giải trên, năm định luật vừa kể thì tất cả hiện tượng vật chất, tâm lý, luân lý đều có thể xoay chuyển được tùy theo sự cố gắng và khả năng của ta. Còn nếu như theo các thần giáo thì cho rằng: năm định luật ấy là Đấng Tạo Hóa hay là Thượng Đế đã an bài cách nào ta phải chịu như cách ấy thì ta mặc nhiên tự mình làm mất sự cố gắng và tự chủ của mình. Như vậy thì phải chịu hoàn toàn thất vọng vì ỷ lại hay quá tin tưởng vào kẻ khác.

Theo lời Đức Phật nói trong kinh này thì những hoa quả mọc nhanh chóng như quả địa cầu này trong lúc đầu tiên vì còn tinh khiết nguyên vẹn cũng như sự tinh khiết trên đất của mặt trăng. Như vậy thì chúng ta nhận thấy không có sự “Pha trộn thần bí” về sự tinh khiết của đất đầu tiên quả địa cầu này và sự tinh khiết của đất mặt trăng. Về sau sự mọc chậm trễ của thảo mộc trên quả địa cầu này vì sự “suy đồi và nhơ bẩn” thay đổi lần lần mà phải chậm lại.

Trong kinh còn nói thêm rằng: “… trước khi có mặt trăng, sao và hành tinh xuất hiện thì tất cả hư không vũ trụ này ở trong một thế giới tối tăm không thấy chi cả”. Bây giờ đoàn phi hành của thuyền Apolo 12 có nói rằng “…Tất cả đều không có thật tế với chúng ta,… mặt trăng chỉ như một trái banh trắng hiện ra giữa cảnh hư không vĩ đại và đen tối”. Cũng như Đức Phật có nói trong cảnh hư không vô tận đen tối, chỉ được sáng lên do nhờ mặt trăng, những ngôi sao và các vì tinh tú khi nào xuất hiện.

Chúng ta còn ghi nhận thêm rằng “Những nhân viên phi hành của phi thuyền Apolo 11 và 12, khi về đến quả địa cầu này phải bị dưới sự kiểm soát trong một thời gian coi họ có mang những tật bệnh chi về từ mặt trăng hay không, nhưng sau khi thời hạn kiểm soát nhận thấy họ không mang một bệnh tật chi về cả. Như vậy chứng tỏ trên mặt trăng ít có nhiều thứ bệnh, trái lại trong hiện nay trên quả địa cầu này không biết bao nhiêu là thứ bệnh mà kể. Như Đức Phật có nói sau khi kiếp hoại đến kiếp thành quả địa cầu trong lúc đầu tiên con người ít có bệnh tật chỉ có vài ba thứ bệnh thông thường mà thôi như bệnh: ước muốn, đói khát và bệnh già, các điều mà thời ấy gọi là một thứ bệnh. Trái lại sau này vì tánh xấu con người phát sanh lên giết hại lẫn nhau hoặc để ăn thịt, hoặc vì lòng sân hận mà nhiều thứ bệnh bắt đầu lần lần phát sanh lên cho đến bây giờ, chúng ta có thể nói không thể nào kể hết các thứ bệnh.

Đến đây, ý định của tôi là muốn khêu gợi sự chủ ý của độc giả, nhứt là cho sinh viên tìm hiểu Phật giáo, không phải là học và hiểu biết Phật giáo mà có thể giải quyết các vấn đề, nhưng chỉ cho thấy mau lẹ và nhận định chính xác sự thật tế của vũ trụ không về sự khám phá toàn cõi vũ trụ thật mà còn xa vời với khoa học. Như vậy con người không cần phải chờ, mất cả sự quý báu của đời người, cho đến khi nào khoa học xác định sự khám phá của vũ trụ mà Đức Phật đã khám phá ra trước đây hơn 25 thế kỷ. Sự dẫn chứng viện lý này rất cần cho người tìm hiểu chân lý.

Rất hữu ích, chúng ta cố gắng để hiểu biết người Âu châu đã tiến triển và khám phá vũ trụ được bao xa rồi, luôn cả quả địa cầu mà ta đang ở. Trước khi chúng ta có thể bàn về năm Định luật Thiên nhiên quản trị lái “chúng sanh và vạn vật” trong Thái dương hệ, cũng như trong hàng triệu vũ trụ được khám phá ra trong “vô số của vũ trụ” ở rải rác trong không gian theo quan niệm của Phật giáo. Trước hết, chúng ta xem coi người Âu châu họ có ý định gì và để hoàn thành những gì trong lãnh vực địa cầu này?

Như chúng ta biết, từ lâu rồi ông Nicholas Copernicus nhà thiên văn Ba Lan nói quả quyết rằng: “Thái dương hệ của chúng ta đây chỉ là một trong số của những ngôi sao rải rác trong khắp hư không vô tận cũng như những người Âu Châu từ từ và vững chắc tin tưởng rằng “quả địa cầu nhỏ bé của chúng ta ở trong Thái dương hệ nhỏ bé này chỉ là một chấm nhỏ trong hư không vô tận mà thôi”. Bây giờ đến ông Bessel một nhà Thiên văn và toán học của xứ Prusse, mà các học sinh khoa học và thiên văn học đều biết, càng đi xa hơn là có thể đoán ra cỡ lớn và sự cách xa của những ngôi sao khác nhau, cái này đến cái kia. Như sự thay đổi hình thức và ánh sáng, có vài ngôi sao như Batelgeuse có ánh sáng vĩ đại 300 năm ánh sáng mới đến chúng ta và 400 lần lớn hơn hay 300 lần sáng chói hơn mặt trời của chúng ta. Còn nói về sự nhỏ bé lại thì vì sao tên là Van Manen’s thì có 13 năm ánh sáng xa cách chúng ta và nhỏ hơn quả địa cầu này, có ánh sáng 10.000 lần yếu hơn Thái dương hệ. Nhưng cũng lần đầu ông Bessel biện hộ thẳng cho bằng chứng của ông Copernicus rằng “Mặt trời của chúng ta cũng chỉ là một vì sao nhỏ bé trong vô số vì sao rải rác trong hư không vô tận”. Thật vậy, cái gọi là Dãy Ngân Hà, theo ông W Herschel, một nhà thiên văn của Anh mới khám phá ra đó là một số những vì sao tụ họp lại nhau do sự thay đổi hay di chuyển của chiều sâu và nó không phải là một dây đai do những hơi của cụm mây lan tràn ra trong hư không như chúng ta tưởng. Bây giờ chúng ta biết rằng Thái dương hệ này không phải là một vật ở trung tâm của một xã hội vĩ đại của những vì sao. Sự càng làm cho chúng ta phấn khởi là hơn nửa triệu vì sao đã được trông thấy xuyên qua ống kính viễn vọng 100 inch (ngón tay) của đài Thiên văn Mt.Wilson bên California Huê-Kỳ.

Về sự khám phá vĩ đại cách đây hơn 25 thế kỷ mà Đức Phật đã cho chúng ta và những dân chúng ở hướng đông của thung lũng con sông Hằng biết đã có ghi trong bộ kinh Phật giáo vắn tắt như sau: Đức Phật có nói “Một Thái dương chỉ chiếu sáng có một Thế giới”, một ngàn Thế giới thì có một ngàn Thái dương hệ, mỗi thế giới đều có một vùng hệ thống của riêng mình. Hệ thống này gồm có một ngàn tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới làm thành một trung thế giới. Một ngàn trung thế giới làm thành một đại thế giới, như vậy trong một đại thế giới có đến một ngàn triệu Thái dương hệ. Tất cả 1.000.000.000 thế giới ấy lập thành một Vũ trụ ( universe). Nhưng khỏi ngoài phạm vi của vũ trụ ấy ra cõi hư không vô tận còn có nhiều đại thế giới khác nữa”. Trong bộ kinh khác cũng có giải tương tự như thế là: “Về hướng Tây cách đây 10 muôn triệu vũ trụ có một thế giới gọi là ‘Cực lạc Thế giới'”. Hơn nữa, nói về chỗ ở của Cực lạc Thế giới này như một dãy của 13 đại Thế giới. Đại Thế giới của chúng ta ở chính giữa, cách về hướng Tây, nếu kể số Thế giới tương đương những hạt bụi trong một quả địa cầu mới đến biên giới của vũ trụ thứ 13, nơi đó gọi là “Cực lạc Thế giới”. Còn bộ kinh khác cũng giải tiếp thêm rằng: “Ở chính giữa một đại dương vô tận có vô số thế giới rải rác trong hư không. Số của thế giới ấy chỉ trong một dãy của Đại Thế giới thôi, cũng hằng hà sa số không lời nào mô tả hoặc kể đếm được”. Trải qua vô số hệ thống Thế giới, ngoài dãy đại vũ trụ của chúng ta, ở đó có một dãy đại vũ trụ thứ nhì liên tiếp như thế ấy cho đến 20 dãy đại vũ trụ. Ở chính giữa của dãy thứ 13 là thế giới của chúng ta hiện đang ở. Ở ngoài biên giới của dãy đại vũ trụ của chúng ta là cõi “Cực lạc Thế giới”. Tính như vậy trong chừng 10 vùng của hư không cũng còn có những hệ thống đại vũ trụ tương tợ và tiếp tục như thế trong 10 phương vô cùng vô tận của không gian.

Bây giờ, đã phá tan quá xa về quan niệm từ sự nhận thức hẹp hòi đã tràn lan ra khắp những người trong các nước Âu châu. Vì theo quan niệm của Phật giáo thì Thái dương hệ chỉ thể hiện cho một chấm nhỏ có thể thấy được trong không gian vô tận. Hơn nữa mỗi Thái dương hệ không phải chỉ là một hoàng cung trọn vẹn của một vị Chúa tể trị vì, bảo bọc và thông qua bởi hệ thống thống trị của một vị Trời. Và như vậy thì trong mỗi tiểu Thế giới, trung Thế giới và đại Thế giới đều có rất nhiều vị Trời để cai trị, thế thì sự phối hợp để tạo thành những vũ trụ có uy quyền, vượt ra ngoài vòng hiểu biết của nhân loại.

Người Phật tử không thể nào hóa giải được sự sự tạo tác không hoàn toàn trên thế giới của một đấng Chúa Tể hoàn toàn. Nếu cho một đấng Chúa Tể hoàn toàn và phần tử tại sao lại tạo ra một thế giới không hoàn toàn và đầy rẫy sự bất công, tàn ác đối với súc sanh và nhân loại. Còn nói có toàn năng toàn lực nhưng hoàn toàn bất lực vì loại bỏ ra những sinh vật bị đau khổ một cách độc ác về tinh thần lẫn vật chất, đối với Phật giáo sự ức đoán ấy là sự sai lầm và tà kiến ( micchadiṭṭhi).

Không, nói như thế người Phật tử có quan niệm khác vì họ cho rằng “không có một đấng toàn năng toàn thiện và vị Chư Thiên đâu”. Họ cũng nhận thấy rằng có nhiều vị Trời, nhưng các vị Trời ấy ở trong một phạm vi quyền lực của mình do phước lành cấu tạo ra họ mà thôi, chớ không phải là một đấng hoàn toàn.

Theo tôi cảm thấy và tóm lược cho rõ rằng “Trong vũ trụ có hằng hà sa số Thái dương hệ nhưng Thái dương hệ ấy phối hợp làm thành một đại thế giới trải ra khắp thập phương trong cõi hư không vô tận. Nhưng cuộc sống ( life) hay là sinh vật, theo chúng ta hiểu thì không có trên các hành tinh khác, như trên hỏa tinh, vệ tinh, mộc tinh… của trong mỗi Thái dương hệ nhưng chỉ có trên quả Địa cầu ( earth) của mỗi Thái dương hệ mà thôi. Như vậy mỗi Thái dương hệ khác cũng có quả địa cầu như chúng ta và các hành tinh khác cũng giống như của chúng ta vậy”.

Ở đây, điểm quan trọng mà chúng ta ráng hiểu và nên nhớ là mỗi Thái dương hệ chỉ có một quả địa cầu mới có sinh vật mà thôi và đó cũng là luật cấu tạo và điều hành thiên nhiên của vũ trụ. Dĩ nhiên, nếu nói về sinh vật sống trên quả địa cầu của mỗi Thái dương hệ đều giống nhau như quả địa cầu này thì không thể được, bởi vì có những trường hợp và tình trạng cung cấp khác nhau như: bầu khí quyển, khí hậu, trọng lượng… có thể khác nhau. Về sự phát triển của khoa học cận đại, có thể làm các cổ giáo tổn thương và kinh sợ, có một lúc mà người Âu châu đã bám niếu, nhưng rất mau chóng bây giờ họ đã rời bỏ quan niệm cổ kính của các cổ giáo ấy. Do nhờ xuyên qua các khoa học gia đã khám phá ra sự thật, không phải do nhờ sự truyền thống của Thần giáo, nhưng do nhờ phòng khảo cứu, các ống thí nghiệm, các toán học, những kính hiển vi và những kính viễn vọng. Do đó mà họ càng xích lại gần Phật giáo hơn, chẳng những họ nhìn nhận mà còn quả quyết trong vài lãnh vực mà Đức Phật đã khám phá ra trước đây hơn 25 thế kỷ.

Bây giờ giải thêm về năm định luật.

Tuy đã có giải ở phía trước nhưng đây xin giải thêm có vài sự nhận thức của các học giả Âu châu. Những định luật thiên nhiên này không phải tạo ra hoặc để dưới sự điều khiển của một vị thần linh hay một vị chúa tể nào có toàn năng, toàn giác hay do sự vui thích của một Đấng tạo hóa. Nhưng nó chỉ là một định luật thiên nhiên, nó hoạt động một cách hòa điệu ăn nhịp với căn bản của nhân và quả.

Trước hết muốn giải thích và hiểu biết những nguyên tắc và căn bản này chúng ta nên biết qua một vài thí dụ: Như sự thông báo rằng “Đức vua đã đến”. Bây giờ ta thử nghĩ đức vua chỉ đến có một mình, không có người tùy tùng hầu cận hay sao? Nếu suy nghĩ và ức đoán như vậy là sai lầm. Không hiểu rõ lời thông báo ấy. Một cách khác, cũng do sự thông báo ấy có người lại hiểu rằng “Đức vua đã đến với rất nhiều người tùy tùng hầu hạ để lo hành sự theo chức vụ của mình”, sự hiểu biết như thế mới gọi là sự hiểu biết đúng đắn, rõ rệt lời thông báo.

Cũng như thế ấy, có rất nhiều sự ám chỉ bất ngờ, ngẫu nhiên để chúng ta tự hiểu cho đầy đủ ý nghĩa của một định luật nào trong năm định luật thiên nhiên ấy. Trước hết là:

Như khi nắng, khi gió, khi mưa tự nhiên thay đổi mùa tiết hoặc có vài loại hoa nở trong mùa này không nở trong mùa kia, có thứ thì nở trái ngược lại. Như thế ấy nhiều loại trái cây trổ quả khác thời kỳ nhau, có thứ thì trổ sớm, có thứ thì trổ muộn, như vậy không phải do ý muốn hay tánh ngông cuồng bất thường của một nhân vật hay một vị Trời nào sai khiến.

Theo quan niệm cổ truyền thì mỗi bộ phận và mỗi tế bào phải nảy nở và phát triển theo mỗi loại của nó, theo quan niệm ấy thì bây giờ không còn thật sự nữa vì bác sĩ chúng tôi và Yes Delage có dẫn chứng rằng: Có thể làm mọc lên ở chỗ nào có chân. Như tại Jurich (Thụy Sĩ) và Standfuss, chỉ thay đổi nhiệt độ trong phòng thí nghiệm mà họ có thể tạo được những mẫu của con bướm giống nhau của miền nhiệt đới và miền bắc cực. Như vậy do sự chế tạo của khoa học mà vật lý chung quanh có thể làm cho các bộ phận hay tế bào và các loại kiểu mẫu thay đổi được chớ không phải chỉ có sự truyền thống mới được. Chúng ta tự nhận thức sự kết quả của vật lý chung quanh (lạnh và nóng) trên cơ thể của con người và sinh vật. Một lần nữa ở đây xin xác nhận dưới sự điều hòa của phòng thí nghiệm do định luật thiên nhiên của lạnh và nóng mà có sự kết quả đến những bộ phận cơ thể của sinh vật.

Con người thường có tánh tình của mỗi người do hai yếu tố là: một là sự truyền thống (như các loại giống, mầm, tế bào), hai là do nhiệt độ lạnh nóng chung quanh nếu cho sự truyền thống chủng tử của cha mẹ mà không khác tánh tình thì họ dựa vào lý lẽ thứ nhì là do ảnh hưởng sự tiếp xúc nhiệt độ của sự lạnh sự nóng mà phát sanh ra khác nhau. Điều này cũng không hoàn toàn đúng vì điều trước và điều sau, thường cũng xảy ra sự khác nhau về tánh tình và nhân vật. Rất nhiều bằng chứng để tỏ ra tính tình con người khác nhau trong khi sinh ra, dù cho trước khi chưa bị ảnh hưởng của áp lực chung quanh là thời tiết nóng lạnh.

Như chúng ta đã thấy, sự tiến triển của mầm, giống, hột chỉ do phương châm của vật lý mà thôi, đó chỉ là sự khởi đầu tiến triển của mầm, giống vậy thôi. Nhưng trường hợp vật lý đã gieo vào bào thai do cha mẹ cấu sanh thì phương diện tiến triển hết sức lạ của mầm giống về con người này. Yếu tố rất quan trọng ở đây không phải do sự phát triển về vật lý, nhưng mà tinh thần là sự sống linh hoạt của một cơ thể con người. Vật lý chung quanh chỉ có ảnh hưởng đến cơ thể vật lý mà thôi, nó không ảnh hưởng đến phần vô hình quan trọng của đời người.

Như vậy cái gì là phần vô hình quan trọng trong cơ thể? Cái gì làm cho sự hành vi và hạnh kiểm của họ nhiều cách khác nhau? Cái gì làm cho hưởng được một gia tộc hạnh phúc hơn những người khác? Phật giáo có giải: Tánh tình có thể chịu một phần ảnh hưởng của sự truyền thống cha mẹ hoặc một vài ảnh hưởng của thời tiết chung quanh như lạnh nóng, nhưng nó còn có một ảnh hưởng thứ ba quan trọng hơn là sự tiến hóa của cá nhân do sự hành vi thiện hoặc ác từ trong kiếp quá khứ, sự hành vi ấy đem lại sự vui sự khổ mà họ phải chịu trong đời này. Tất cả sự việc khác nhau này là do định luật nhân quả vậy.

Nhưng trái lại khi chúng ta nói định luật thiên nhiên về mầm, giống thì cũng nên hiểu như chúng ta nói “Đức vua đã đến”, câu này chúng ta tự biết rằng không phải một mình đức vua đến mà còn rất nhiều quan quân tùy tùng hộ vệ nữa như thế nào thì khi ta nói định luật về mầm, giống thì cũng phải có những vật phụ thuộc giúp vào như phải có đất, nước rồi nảy sanh ra cây lá bông trái… Có loại thích hợp với đất địa chỗ này, có loại lại không hạp mà thích hợp với chỗ kia. Có loại thích hợp với phong thổ thời tiết này, có loại lại không chịu được thời tiết ấy. Có loại thích hợp với phong thổ thời tiết ở Âu châu, có loại thì phù hợp với thời tiết Á châu… Hoặc mầm giống đã có điều kiện phong thổ thời tiết mùa màng đều phù hạp nhưng không có người cày người gieo thì mầm giống cũng không thể nào nảy nở phát triển được.

Bây giờ, tinh trùng và noãn châu của cha mẹ cũng thuộc về định luật mầm giống và tế bào, trong hai yếu tố này có sự truyền thống vật lý và ảnh hưởng chung quanh của lạnh và nóng đến sự hình thành của con cái. Nói về vật lý thì hình tướng đứa trẻ thường giống cha mẹ, nhưng tính tình và cử chỉ khác hẳn, tất cả điều đó cũng do sự biến chuyển của thể chất và bất ngờ của dòng tâm thức thường gọi là đời sống. Thật vậy, ta có thể nhận thấy sự khác biệt của tánh tình và vật lý của nhiều loại sanh vật khác nhau như một cặp song sinh cùng một cha mẹ giống cha mẹ như khuôn đúc nhưng về tính tình khi lớn lên thì không giống nhau. Như một con chó nhỏ sanh ra bởi một giống chó săn và chó Ái Nhĩ Lan, nó không giống như con voi hay con thỏ, nó cũng không lớn lẹ như con voi hay chậm như con thỏ, nó cũng có bốn chân, một cái đuôi dài, hai lỗ tai, hai con mắt nhưng nó chỉ lớn lên theo hình thức của nó và khi nó lớn lên thật giống tính tình như các loại chó săn. Theo tân khoa học của phép tính số giải hiện tượng này rằng: Những đặc điểm khác biệt phát triển của con chó nhỏ là do nó mang theo một phần nhỏ vật lý về hai dòng máu của cha mẹ qua sự thay đổi làm lộn xộn chủng tử ( gene) trải qua nhiều thế hệ rất lâu đời, cũng như nhiều loại sinh vật và thảo mộc cũng có thể thay đổi căn bản của nó. Sự này ngẫu nhiên trùng hợp theo kinh của Phật giáo như có một cây xoài có trái rất ngọt nhưng khi nó bị ghép và làm lộn xộn vào với loại khác thì khi có trái mới trở nên chua đắng. Thật vậy, nhà toán số về chủng tộc của Mỹ là ông H.Morgan vừa mới chứng minh điều này, khi ông sản xuất (trình bày) nhiều kiểu của trái cây thay đổi hương vị. Như luật thiên nhiên truyền thống vài loại hết sức là toán học như hột lúa sẽ sản xuất ra hột lúa gạo, cây mía sẽ sản xuất ra vị ngọt là đường.

Thật vậy khoa học còn đi xa hơn nữa là do sự thay đổi và làm xáo trộn những chủng tử mà có thể sản xuất và kết quả những loại khác. Thí dụ như con mèo giao tình với con thỏ sẽ sinh ra một loại gọi là thỏ mèo, nó không giống con mèo mà cũng không giống con thỏ. Hai loại tình nhân khác giống sẽ sản xuất một thứ gọi là “Interlocked – lai căn”.

Ở đây, một lần nữa để xác định dưới sự điều kiện của nhà thí nghiệm Phật giáo về định luật thiên nhiên về mầm giống và tế bào cũng giống như phương châm của sự truyền thống dưới sự khám phá của các phòng thí nghiệm.

Kamma niyāma – định luật thiên nhiên về nghiệp báo hay nhân quả

Nghiệp báo chỉ cho chúng ta biết cách nào sự tích trữ, chất chứa hành vị thiện và ác trong quá khứ và sẽ đưa chúng ta đến sự vui hoặc khổ cảnh mà chúng ta có thể phải thọ lãnh trong một lúc nào. Đây là một vài thí dụ về nghiệp ác quá khứ trả quả khổ đau cho chúng ta thấy.

Như trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, có một con quạ bay trên mái nhà tranh đang bị lửa cháy vì bị gió cuốn luôn vô lửa nên con quạ phải bị chết cháy theo. Có một trường hợp khác, có một chiếc thuyền bị ngừng lại giữa bể khơi không thể di chuyển tới lui được, dầu cho những người thủy thủ cố gắng cho nó di chuyển. Trong thời đó, người ta tin rằng có lẽ trong thuyền này có người nào nhiều tội lỗi cho nên mới khiến cho con thuyền không thể di chuyển được một cách kỳ lạ như thế. Người ta mới bày bắt số thì ba lần đều nhằm vợ của ông thuyền trưởng vì bà này trước khi xuống thuyền đã làm nhiều tội lỗi. Hết sức nài nỉ khóc lóc nhưng buộc lòng người ta phải bỏ bà xuống biển với một tấm ván, vừa bỏ bà xong thì con thuyền bắt đầu di chuyển như thường. Trường hợp thứ ba, có một vị tỳ khưu đang ở trong một cái động bị đá tự nhiên lăn xuống ngừng lại che lấp miệng động làm cho vị tỳ khưu bị nghẹt thở hàng bảy ngày. Tất cả những sự việc này, Đức Phật giải rằng, xảy ra đều do định luật của nghiệp và quả. Vì con quạ một tiền kiếp là một người nam có một con bò ngỗ nghịch không chịu nghe theo sự sai khiến của y như kéo xe…, y bèn đem rơm cỏ đốt con bò ấy đến chết, cái quả ấy y phải trả nhiều kiếp cũng bị chết cháy như vậy cho đến kiếp sanh làm con quạ cũng không thoát khỏi trả quả chết cháy ấy. Về bà vợ ông thuyền trưởng thì kiếp trước kia giận con chó rồi cột cổ nó với một nồi cát đem thẩy xuống sông cho nó chết, vì vậy y phải trả quả tương tự. Về vị tỳ khưu, có một kiếp nọ ông sanh làm một cậu trai thấy một con kỳ đà bò trông ổ mối, nó mới lấy cỏ lấp lại miệng ổ mối ý chơi nghịch và định ngày mai sẽ thả con kỳ đà ra, nhưng vì quên đi nên qua bảy ngày mới lại chỗ ấy và mở miệng ổ mối cho con kỳ đà ra, vì con kỳ đà không chết chỉ yếu đuối kiệt sức vì thiếu nước uống và vật thực mà thôi, vì vậy mà kiếp sau lên làm vị tỳ khưu cũng phải bị nhốt vào trong động bảy ngày nghẹt thở kiệt sức vì thiếu cơm nước, cũng như ông đã làm cho con kỳ đà trước kia vậy.

Nghiệp ác có thể đưa ta sanh vào gia đình thấp hèn như người cha say sưa, người mẹ dâm loạn phóng đãng, trong trường hợp như vậy thì nên tìm cách giúp đỡ cho đứa trẻ ấy được phát triển và tánh tình trong lúc còn thơ ấu. Như hột giống đã gieo xuống miếng ruộng xấu thì kết quả thế nào cũng không tốt, cũng như đứa trẻ đã sanh vào dòng ác xấu thì thế nào người con ấy cũng phải bị suy đồi nếu không tìm cách thân cận để sửa chữa cho phát triển tốt đẹp. Như thầy tốt không có gặp đúng lúc và trời mưa không đúng mùa tiết thì đứa trẻ và mùa màng ấy phải sụp đổ không sai. Cũng như thế ấy, nếu người nào có thể làm sự lợi ích của mình trong ngày vị lai cho đúng lúc như khi y phải làm điều gì cần phải làm xong cho kịp thời thì sự lợi ích ấy mới có kết quả tốt, còn như quên đi hay làm trong lúc không cần thiết thì không có kết quả tốt vậy. Như người nông dân, mặc dù trời mưa tốt, gieo giống đúng mùa nhưng gặt hái không được dồi dào là vì những công việc cần phải làm phụ thuộc như làm cỏ, bón phân… không làm lúc nên làm thì sự gặt hái không được đầy đủ. Cũng như nghiệp tốt sẽ đem lại kết quả tốt đẹp dồi dào khi nào những điều kiện phụ thuộc (như hằng nhớ đến sự lành đã làm ấy luôn luôn, cũng có đúng lúc đúng kỳ). Chính định luật thiên nhiên của nghiệp báo làm cho phát sanh tính tình, đặc điểm khác lạ hơn dòng giống ông bà và những sự phối hợp chung quanh.

Khi chúng ta quan sát về nghiệp báo xuyên qua một vài ánh sáng của sự tiến triển trong lãnh vực khoa học thì chúng ta có thể thấy rằng “Lý thuyết cổ truyền về vật lý hoàn toàn lỗi thời vì họ cho đời sống chỉ là một sự sản xuất của vật chất mà thôi”, lý thuyết ấy các nhà khoa học trứ danh của Âu châu và Mỹ châu đều bác bỏ từ lâu rồi. Lý thuyết của Darwinian về sự truyền sang bằng máy móc cho rằng tánh tình con người chỉ do tinh trùng và huyết thống của cha mẹ về vật chất mà ra, điều này hội đồng khoa học đã đánh ngã bác bỏ và không lâu họ đã nhận định vững chắc rõ ràng, khi họ phối hợp lại thai bào học và tâm lý học. Như vậy toàn vấn đề được giải quyết bằng cách phối hợp trong một bài toán về tinh thần và vật chất. Hai nhà khoa học Pháp và Đức là ông H. Bergson và Hans Driesch chỉ rõ về sự nhu cầu của vật lý học là phải họp lại với cái mãnh lực vô hình của tiền kiếp nó bắt buộc những nguyên tử vật lý phải tụ tập trung lại trong một kiểu mẫu hay cơ thể của thân thể con người. Như vậy bây giờ khoa học đã thừa nhận “Căn bản của sự tái sanh” là phải phối hợp lại “Tinh thần và vật chất” mới tạo thành ra một con người, hướng dẫn bằng trực giác của mình đã nằm sâu trong tiềm thức. Như con tằm tự đương lấy tổ kén hay là những con chim con tự trực giác của mình mà làm ổ thật khéo léo không cần đến sự chỉ dạy của cha mẹ chúng.

Như vậy chúng ta thấy, năng lực vô hình mà chúng ta gọi là con người thật gìn giữ bản thân này trong trật tự cho tốt đẹp càng lâu dài có thể được. Nếu thân thể mà không được toàn vẹn trong khi sanh, hay sau này thì đó cũng là do năng lực vô hình của nghiệp báo tạo nên, còn nếu bộ óc mà có bệnh hoạn là do sự không lành mạnh nếu không phát triển hay ngu ngốc. Và khi thân thể thôi không nhận lãnh sự toàn vẹn hay tàn phế thì năng lực vô hình phải đầu hàng vì thân thể ấy đã tàn phế. Bất luận hình thức nào của thân thể vật lý chỉ để phô diễn trung gian của sức lực vô hình và không biết được cái đó người khoa học Tây phương gọi là “đời sống và tâm thức” còn Phật giáo thì gọi là “nghiệp báo” vậy. Cho nên Đức Phật có nói mỗi chúng sanh đều có cái nghiệp là của ta, nơi trả quả cho ta, là thân quyến nơi sanh ta ra, nơi nương nhờ của ta. Chúng ta thấp hèn hay cao thượng khác nhau cũng đều do nghiệp báo cả. Tùy theo nghiệp báo khác nhau mà nảy sanh ra chúng sanh cũng khác nhau như người thì cao thượng, kẻ thấp hèn, người thì hạnh phúc, người lại khổ đau, người thì lịch sự, kẻ lại xấu xa, người thì giàu có, kẻ lại bần cùng, người thì mạnh khỏe, kẻ lại ốm đau, người thì danh vọng, kẻ lại vô danh, người thì đáng khen ngợi, kẻ lại bị chê bai khinh bỉ đều do nghiệp báo khác nhau.

Nhà báo học G. Grimm trong “Quyển giáo lý Đức Phật”, ông có viết: “Không khó trong các trường hợp có thể chỉ sự kết hợp để làm cho phù hạp với tế bào mới khi có một sự chết xảy ra như: Người nào không có lòng từ mẫn, có thể giết người hoặc thú thì y tự đem theo trong tiềm thức một khuynh hướng về sự sống ngắn ngủi rồi. Y tìm sự thỏa mãn trong cách làm cho đời sống kẻ khác yếu tử thì tế bào ấy kết hợp với sự yếu tử ấy sau khi sự chết của y có thể bám níu vào với tế bào mới khác sẽ làm cho y bị thiệt hại của kết quả sau này. Như vậy năng lực của tế bào nảy nở và cấu tạo ra hình thể con người luôn cả sự kết hợp với sự vui thích làm khổ hoặc làm tai hại kẻ khác”.

Như trong trường hợp của người sân hận tự nảy sanh trong thân tâm mình một sự phối hợp của sự xấu xa cho một cơ thể và những căn nguyên tinh trùng kể từ đó nảy sinh ra lần hồi làm bộ mặt mình trở nên xấu xí do bởi đặc tính của sự sân hận. Còn người nào mà có tính ganh tị, bỏn xẻn, ngạo mạn thì tự nhiên trong thân tâm y có mang theo một khuynh hướng thù hằn, oán ghét mọi việc đối với những kẻ khác và khinh bỉ họ nữa, thì theo mầm giống ấy sẽ nảy nở trong sự thiếu thốn, nghèo khó đã phối hợp sẵn trong tâm y. Vì vậy mà có khi nguyên nhân ấy kết quả làm cho cơ thể thay đổi từ nam ra nữ được. Trong trường hợp A hàm có thuật lại rằng “Cô Gopikā là con gái của dòng Thích Ca, sau khi chết được tái sanh làm một vị Chư Thiên nam ( Gopaka devaputta) bởi vì cô ta rất nhàm chán thân phận nữ lưu và đồng thời cô thỏa thích muốn được sanh làm nam giới”.

Như có bài kệ về nghiệp báo như sau:

Do nghiệp báo mà thế giới chuyển động.

Do nghiệp báo mà nhân loại và súc sanh có liên đới.

Vì do sự liên đới ấy mà chúng sanh phải luân hồi mãi mãi.

Do nghiệp báo mà con người được sự vinh quang khen ngợi.

Cũng do nghiệp báo mà có kẻ phải làm nô lệ, suy sụp, bạo tàn.

Biết rằng nghiệp báo sẽ trả quả nhiều cách khác nhau.

Tại sao có người cho rằng “Trong đời này không có nghiệp báo?”

Định luật thiên nhiên về tâm thức này là sự phát sanh tư tưởng do hình thức như sắc, thinh, hương, vị, xúc và những tư tưởng nảy sanh ra từ bên trong của mỗi tâm thức, tùy theo căn bản của họ có.

Như họ có cảm giác đã từng kinh nghiệm từ trong kiếp quá khứ, những hy vọng, những sự ước muốn, những nguyện vọng mà họ nhìn đến để thực nghiệm trong kiếp vị lai luôn cả những biến chuyển khác lạ mà khoa học chưa phát minh ra được. Như sự huyền bí của năng lực vô hình mà do một vài người có được, do sự phát triển về tinh thần mà họ có thể thấy hoặc nghĩ được những hình và tiếng mà người thường không thể nghe thấy hoặc nói trước những biến cố sẽ xảy ra trong thời gian tới rất đúng.

Hơn nữa B.S. B.Rhine và một ban đang sưu tầm về năng lực của tinh thần (viết tắt là E.S.P. extra Sensory Perception) nơi trường đại học Duke của Huê Kỳ. Như ông Kant nói với chúng ta những sự bí ẩn của Thụy Điển và triết gia Swdenberg có một mãnh lực tinh thần có thể nói cho chúng ta biết lửa đang cháy cách đây 300 dặm Anh. Còn Phật giáo có đề cập đến 10 năng lực của tinh thần mà con người có thể đạt được do sự cố gắng để hiểu biết và tinh thông những khoa học và nghệ thuật của Đông phương. Những năng lực đó trong Phật giáo gọi là “thần thông” ( iddhi) về phép thôi miên cũng ở trong năng lực của phép thần thông này gọi là vijjāmaya iddhi – một tiềm tàng năng lực sẵn có trong con người do sự tích trữ của những hành vi trong kiếp quá khứ gọi là kammaj iddhi – như quyền lực của phi nhơn, Chư Thiên và năng lực bay lên hư không của loài gia cầm… đều ở trong năng lực này. Còn ông Dr.Khine thì cho những sự việc này do những sự kinh nghiệm mà ông xác nhận rằng “Loài thú vật cũng có mãnh lực của tinh thần như chim bồ câu có thể đem thư từ xa xăm rồi trở về không hề sai lạc”. Một năng lực khác sẵn có như những việc thiện trong quá khứ mà một người sanh trưởng trong một gia đình thật nghèo khó mà y sẽ trở nên giàu sang trong lúc gần già, sự ngẫu nhiên chứng tỏ cho ta thấy “Có vài việc lành trong sự ác xấu của chúng ta”, như trường hợp của một người sinh ra từ kẻ ăn xin mà sau lại trở thành tỷ phú, cái này gọi là punniddhi – năng lực phước báu.

Một biến cố hiếm có và rất quan trọng của năng lực có thể chịu đựng sự khổ và duy trì sự chết lại, như trong kinh có thuật lại một người phụ nữ đã chết mà còn thai trong bụng, khi sắp sửa thiêu xác cô thì nghe tiếng trẻ nhỏ khóc, người ta vội vã kéo tử thi ra coi thì thấy một đứa trẻ ở trong bụng mẹ vừa bể bụng banh ra nhưng đứa trẻ vẫn an toàn vô hại, lẽ dĩ nhiên những trường hợp như vậy thật là hiếm có, chỉ đặc biệt riêng cho những người có nhiều duyên lành có thể gần đến Niết-bàn. Thật vậy, đứa trẻ này sau trở thành một vị A-la-hán tên là Đại đức Sankicca. Hơn nữa có người có thể biến hóa nhiều nhân vật khác nhau như khi thì biến ra già lúc thì hóa ra trẻ, khi thì người này, lúc thì ra kẻ khác… cái này gọi là vikubbānaiddhi – có người thì dùng năng lực của tâm hóa ra người nữa giống hệt như mình, cái này gọi là mano maya iddhi – phân tâm thông.

Những tài năng bí ẩn thấy và nghe khác thường này mà ông Rhinne gọi là E.S.P. năng lực của tinh thần, còn Phật giáo thì gọi là “uy lực tự nhiên” của sự làm lành của chúng ta trong quá khứ, Đức Phật gọi uy lực đó là do sự tham thiền để phát triển cho tinh thần của mình. Như trong kinh Pháp cú có câu:

“Tâm là pháp phát sanh lên trước hết các pháp, tâm là chủ, tâm là sanh sản ra mọi vật.

Do tâm mà thế giới bị hướng dẫn và lôi cuốn mãi.

Và chính con người là chủ của tâm”.

Nhưng có người tự hỏi, cái gì ngăn cản chúng ta trong sự phát triển những năng lực huyền bí sáng suốt ấy? Chính Dr. Rhinne cũng phải bối rối trong câu hỏi này và hiện giờ họ cũng tự hỏi cái gì hạn chế sự phát triển về năng lực phi thường này? Những ông Dich, Tom và Harry nói rằng: “Không thể phát triển nổi những năng lực phi thường nằm trong tinh thần con người trừ khi con người đã cố gắng trau dồi từ nhiều kiếp trước mới có thể phát triển tài năng phi thường theo ý nguyện”.

Hơn nữa, do 10 điều phiền não làm cho con người tối mê, nhơ bẩn che lấp không cho phát triển tài năng phi thường như: sự tham lam làm cho con người dính líu vào mọi vật và không cho các vật khác cao quí hơn; sự sân hận làm cho tối tăm mù quáng không thấy các việc khác tốt đẹp hơn; si mê là ngu xuẩn tối mê nên không thể thấy gì xuyên qua sự tối tăm ấy; ngã mạn là cho rằng “ta đây cao thượng hơn người” vì vậy nên không phân biệt được điều cao thượng hay thấp hèn của người khác; tà kiến là sự hiểu biết sai lầm lại cho là đúng và cố chấp vào sự hiểu biết ấy như người mù rờ vào con voi vậy; hoài nghi là không quyết định cái nào là phải cái nào là quấy, không phân biệt được giữa cái này và cái kia; hôn trầm là lười biếng uể oải của tâm làm cho buồn ngủ hôn mê tâm tánh; phóng tâm là tâm luôn luôn vọng động không ngừng nghỉ như đống tro bụi bị gió cuốn lên nó cũng làm cho tâm thần rối loạn không thấy sự gì rõ rệt; không hổ thẹn tội lỗi là không có sự hổ thẹn trong khi làm những điều tội lỗi như con heo nằm lăn trong sình trong vũng cũng không biết nhờn gớm; không ghê sợ tội lỗi là dầu khi làm tội lỗi nào cũng không có lòng ghê sợ hậu quả, liều lĩnh làm càn như người mất trí. Mười điều phiền não trở ngại này nếu nói tóm lại thì có năm loại: sự tham lam hay tham dục trong ngũ trần làm cho con người tối mê không thấy cái chi cho rõ rệt, chính pháp này làm cho con người đi sai lạc căn bản đầu tiên của tinh thần cao cả của người tham thiền và nó sẽ dắt đưa con người đến sự mưu mô, xảo trá lừa dối kẻ khác, sau cùng họ sẽ mất khả năng cao quý rõ rệt, vì vậy mà Đức Phật thấy xa nên cấm các hàng đệ tử không cho dùng những thần thông trong chỗ quần chúng công cộng do sự tham vọng; sự sân hận sẽ làm cho con người bị khích động trong khi dùng tâm lực thôi miên có thể làm hại kẻ khác vì lòng thù oán; hôn trầm là lười biếng, hôn mê, buồn ngủ làm cho không tiến hành được việc gì; phóng tâm làm cho phóng dật bồi hồi bứt rứt do sự hành vi sai quấy hay luyến tiếc việc phải làm mà không làm; hoài nghi là sự ngờ vực không hiểu rõ rệt điều gì, luôn luôn mong sự giải thích của kẻ khác, chỗ này ông Rhinne nhận thấy tình trạng ngờ vực ấy sẽ đánh dấu hạng người rất thấp hèn vậy. Năm pháp này thường được gọi là pháp che lấp, pháp chướng ngại hay là pháp cái, có năng lực ngăn cản thiền định không cho phát triển để thấy rõ mục tiêu, cũng như hai chuyến xe lửa chạy đua song song với nhau trong một chiều. Như trong sự biến chuyển “không có gì phải thấy hoặc không có gì phải làm”. Như ông Condorcet thức hằng mấy giờ để làm một bài toán mà không xong, nhưng khi ngủ trong giấc chiêm bao lại tự giải đáp được. Trong Phật giáo, khi tâm được yên nghỉ xong có thể kiểm điểm lại những sự hành vi hay kinh nghiệm của mình những gì khó khăn không giải được trong lúc còn thức. Như khả năng biết được tâm của kẻ khác xa từ ngàn dặm hoặc tạo ánh sáng trong chỗ tối tăm, bất cứ điều phi thường này phải đòi hỏi con người có một tinh thần hoàn toàn được phát triển.

Theo tốc lực của ánh sáng thì như chúng ta biết có đến 186.000 dặm Anh trong một giây đồng hồ. Như vậy tốc lực của tâm như thế nào? Tốc lực của tâm thì vượt qua cả thời gian lẫn không gian, vì tốc lực của tâm thì vô lượng không thể biết được. Vấn đề này có nêu rõ trong câu chuyện Đức vua Milinda hỏi vị Na Tiên tỳ kheo. Tôi xin thuật lại vắn tắt như sau. Tỳ khưu Na Tiên nói: “Tâu Đại Vương, vậy chớ từ đây đến đô thị Alexandre trong bao xa?” – Đức Vua Milanda trả lời: “Hai trăm dặm?” – “Vậy Đại Vương nhớ lại vài việc làm ở đó coi.” – “Trẫm nhớ rồi.” – “Vậy Đại Vương đã đi đến đó 200 dặm quá lẹ”, rồi ngài hỏi tiếp: “tâu Đại Vương như đô thị Kasali cách đây 200 dặm nơi mà Ngài sanh trưởng và xứ Kashmir chỉ cách đây 12 dặm vậy nơi nào xa hơn nếu ngài nghĩ đến?” – “Hai nơi nếu suy nghĩ thì cũng đồng một thời gian như nhau.” – “Tâu Đại Vương tâm thức cũng nhanh lẹ như vậy.”

Hơn nữa ví hai con chim bay trên hư không sẽ đậu vào nhánh cây, một con bay cao, một con bay thấp, khi đậu vào cành cây cũng trong một lúc, con đậu nhánh cao, con đậu nhánh thấp nhưng bóng của chúng đều đến mặt đất một lượt như nhau, cũng giống như hai người ở đây cùng chết một lượt, một người thì sanh về cõi Phạm Thiên, một người nữa thì sanh ra trong xứ Kashmir này, nơi xa cách tuy khác nhau nhưng cũng đồng sanh trong một lúc như nhau, như vậy thật không biết được tốc lực của tâm. Dr. Rhinne có xác nhận rằng “Mãnh lực của tâm có thể xuyên qua thời gian và không gian thật mau lẹ”. Do nhiều sự kinh nghiệm với một gói lá bài để cách khoảng nhau mà Dr. Rhinne khám phá ra sự xa cách của thời gian và không gian có trở ngại cho khả năng tư chất để thấy, nghe và biết được những biến cố xảy ra từ xa xăm mà cơ quan thông thường không thể biết được. Ông Dr. Rhinne còn nói sự gieo con xúc xắc (6 mặt) cũng có ảnh hưởng của tinh thần làm cho kết quả theo ý muốn. Năng lực vật lý mà tinh thần có được đó gọi là “P.K. Psycho kinesis” động lực học. Như lấy một đề mục nhìn thẳng vào lá bài với sự gom cả tinh thần suy nghĩ trong khi ấy người khác lãnh lấy cảm tưởng ấy, Dr. Rhinne dám quả quyết rằng “thần giao cách cảm” ấy có thể chuyển từ đề mục này sang qua đề mục khác được.

Về lý thuyết, thần giao cách cảm làm cho người ta hỏi tới vấn đề chiêm bao, Chư Thiên và các phi nhơn vô hình khác vậy chớ những vật vô hình ấy có ảnh hưởng chi đến nhân loại không? Về vấn đề này người Tây Âu chỉ cho là “nhân vật thần thoại” mà thôi. Nhưng Phật giáo nhìn nhận những nhân vật vô hình ấy là một cảnh nào trong 31 cảnh của chúng sanh đi tái sinh. Những nhân vật này cũng có ảnh hưởng đến nhân loại. Sự ám chỉ này chỉ nhìn nhận của sự hành vi “tinh thần trong tinh thần” và có thể chứng minh một cách rộng rãi. Như người ta nói cà lăm, ấp úng khi nằm chiêm bao thấy mình nói cà lăm càng xấu tệ hơn, hoặc nằm mộng mị xấu xa thì ngày sau tánh tình không được vui vẻ. Có vài sự mộng mị làm ảnh hưởng sâu xa cho đến suốt đời người như có một người bị ảnh hưởng của chiêm bao mà bỏ nhà cửa đi mất, có người lại sửa đổi tánh tình sau khi nằm chiêm bao, có người ngủ mà vẫn đi như thường (mộng du). Thật vậy, theo khoa học Tây Âu đi đã xa mà bây giờ họ có thể đo lường được trọng lượng và luôn cả chụp những tư tưởng ngấm ngầm bên trong. Như giáo sư Baradue có dẫn chứng một sự thí nghiệm, ông ta hướng dẫn với một cây gậy mà tinh thần có thể ghi qua lắng sóng tư tưởng được ghi vào băng. Ngồi trước dụng cụ mà ông đã chế tạo ra là “cây gậy làm cho thấy rõ hình ảnh của tinh thần” (Electro Encephalagraph) rồi định thần trên cây gậy với tất cả năng lực mà y có thể sai khiến và chiếu nó vào trong kiếng chụp hình. Kế đó không lâu, khi khui kiếng ấy ra, thì hình cây gậy hiện ra giống hệt trên kiếng hình (cây gậy thiệt thì không có trong vòng kiếng hình ấy). Những tin tức khác nhau có thể thâu vào một cách rõ rệt, cao hay thấp được phát ra rất nhiều lần của sự rung động khi người đến gần máy dụng cụ bén nhạy của ông giáo sư Baradue. Bây giờ chúng ta có thể xác nhận sự tương đồng của P.K. và P.A. (Psi ability) với thần thông ( iddhi) trong Phật pháp như phương ngôn mà ta thường dùng là “Hoa hường dầu gọi là tên khác đi nhưng mùi thơm vẫn là hoa hường”.

Như vậy ở đây một lần nữa khoa học lại chứng minh kiến thức của Phật giáo về tinh thần là tột đỉnh, tất cả mọi việc được phối hợp và có thể hành vi qua tất cả sự biến hóa.

Với sự hiểu biết rõ ràng về năng lực và ảnh hưởng của tâm linh thì không có thể lý luận cho rằng “dòng tư tưởng của tâm, càng nhiều năng lực lại có thể bỏ được khi nó đang tiến hành hoặc ăn sâu vào những tế bào rồi cũng như cử chỉ và ấn tượng đã để lại trên dụng cụ bén nhạy để thu hình”. Người ta không thể ngạc nhiên khi dấu hiệu và tánh tình ngày càng trội hơn đã truyền xuống bằng cách này từ thế hệ này đến thế hệ khác, khởi sự tự mở ra càng sẵn sàng và dễ dàng hơn kẻ khác và sự sống làm cho nó tiến hóa lạ thường trong bụng mẹ. Như vậy những khuynh hướng truyền thống và đặc sắc của vật lý có thể mang qua từ đời này đến đời khác và bỏ lại những điểm bí mật trong cơ thể mới lúc tái sanh. Cũng như người con không giống cha hay mẹ, nhưng lại giống ông nội hay ông cố, ông sơ… điều đó thật không có chi là ngạc nhiên cả. Như tinh thần còn có thể bỏ lại dấu vết của nó trên cơ thể vật chất bằng sự biến cố xảy ra trong hiện tại do sự chứng minh rộng rãi. Như chúng ta biết, có một số phụ nữ, nhứt là những người có chồng lâu mà không có con, cầu nguyện với thần Ganesh cho được sanh con và khi sự ước nguyện thành tựu thì đứa con sanh ra lỗ mũi giống cái vòi con voi (giống hình vị thần ấy mình người đầu voi), lý do lạ lùng này là vì vị Thần thờ đó mặt như Chư Thiên mà mũi lại giống như cái vòi voi, đặc điểm này đã in sâu vào tinh thần người mẹ khi mang thai cho nên khi sinh đứa con ra cũng giống như vậy. Như chúng ta được nói lại, những đứa trẻ như thế ấy ít còn sống sót được. Như chúng ta biết có một số phụ nữ thờ hình treo trên tường hay đầu giường hình tốt đẹp hoặc cảnh, tự nhiên những ảnh hưởng ấy làm cho các đặc sắc của hình tượng đó trong khi sanh đứa trẻ ra sau này cũng giống những đặc điểm về vật chất ấy. Như vậy thì ảnh hưởng về hình ảnh của thần giao cách cảm và thôi miên có thể truyền sang qua bởi phương pháp của sự gom tinh thần trên sự cấu tạo về vật chất của đứa trẻ. Thôi miên học cung cấp cho chúng ta một dịp để học hỏi sự biến chuyển dưới điều kiện thực hành thử coi. Như hiện giờ một phương cách của phép trị bệnh bằng thôi miên mà phần đông các hội y học trên thế giới chánh thức nhìn nhận. Thật vậy, sự kinh nghiệm về y học dưới sự thôi miên hiện nay giúp khám phá ra những hành vi bí ẩn của tinh thần trên cơ thể vật chất này cũng giống như sự khuyên nhủ của những người phụ nữ cầu nguyện với thần Ganesh làm cho sự phản ứng vật lý có thể thành đạt được với phương châm vật lý. Khi tâm được kiểm soát đầy đủ như trong trường hợp của sự kinh nghiệm về thôi miên bất luật sự khuyến nhủ nào có thể làm trong sự tin cậy rằng: Tâm linh của đề mục sẽ áp dụng được. Điều hết sức ngạc nhiên là chẳng những tinh thần phải nghe lời theo ta mà còn thể chất này cũng hưởng ứng theo luôn. Điều này có thể chứng minh như ý nghĩ đốt trên da thịt ai một chỗ nào thì chỗ ấy liền hiện lên một dấu cháy xem y như ngay chỗ chỉ định.

Còn nói về sự “tiên tri” thì sự này có thể được vì sự bền lòng trong những bộ phận của lắng tư tưởng khác nhau mà có thể giải quyết được nhiều sự thay đổi của người “tiên tri – seer”. Tinh thần của người tiên tri không phải hoạt động trong phạm vi nhỏ hẹp tầm thường như tinh thần của người thường nhân cũng như người dùng hai máy thu thanh ở cách xa ngàn dặm mà tiếp được tin tức nhau liền – nếu không nhờ sự truyền tin bằng vô tuyến ấy thì con người có thể chờ đến già mới được tin do người đi bằng thuyền đến, cũng như thế ấy người “tiên tri” tinh thần họ hoạt động trong phạm vi khác nhau do nơi sự rung động nhiều lần liên tục như chất “tinh khí – ether” vẫn có nhưng con người chưa khám phá thấy được. Cũng như người đứng trên một chỗ nào cao có thể thấy rất xa cảnh vật chung quanh mình nhiều hơn người đứng dưới thấp. Cũng như thế ấy người “tiên tri” tinh thần họ được sáng suốt nên họ có thể thấy xa như vậy. Trước khi mãnh lực phi thường nào được sử dụng thì đồ dùng trong phòng thí nghiệm tinh thần cho trong sạch cũng phải làm xong trước.

Có vài quan niệm cho rằng làm thế nào mà tinh thần hoạt động trong làn sóng xa vời khác nhau có thể biết được, điều này rất dễ là muốn quan sát thì nên quan sát qua tư tưởng chiêm bao. Bây giờ một tư tưởng chiêm bao rõ rệt là lâu với người đang nằm chiêm bao nhưng thật ra nó chỉ ở trong vài giây đồng hồ mà thôi. Sự này rất rõ rệt là có người khi nghe tiếng nói đầu tiên của một câu chuyện rồi ngủ quên và chiêm bao thấy trong chiêm bao thật dài, nhưng khi thức lại thì câu chuyện thuật lại chưa chấm dứt. Thật vậy tư tưởng trong chiêm bao có thể đi vòng quanh thế giới như ghé Bombay, Cairo, Aden London, Rome, New York… và trở lại chỗ cũ như trước, trước khi mặt trời mọc. Một cách khác, một chiếc Jet phản lực cơ mau nhất biểu diễn như trên phải mất một thời gian thật lâu mới xong. Như vậy chúng ta ráng tìm hiểu sự nhạy bén của khả năng tư tưởng của chúng ta trên lãnh vực tâm lý khác nhau và người ta có thể vượt qua lãnh vực trí tuệ mà lý luận không thể nào hiểu được. Đó là người có tâm linh đạt đến mức siêu phàm.

Đức Phật có nói, không có cái gì thay đổi lẹ làng như tâm thức và cũng không có cái để so sánh sự biến chuyển mau lẹ của tâm. Điều này chúng ta có thể biết được bằng tự kinh nghiệm lấy mình – cũng như tôi đã có chỉ ra, con người có thể chiêm bao thấy không biết bao nhiêu việc trong một giây đồng hồ hoặc đi vòng quanh thế giới rồi trở về trong vài phút. Dầu cho phi cơ Jet siêu nhanh nhất trong thời đại cũng phải mất ít nhất trong mấy ngày, trong khi tâm thức thì không có giới hạn với tinh thần giải thoát.

Tất cả những điều mà tôi giải ra đây đều nằm trong định luật của tâm thức mà Đức Phật đã dạy ( citta niyāma).

Như trong định luật này giải về sự động đất rung chuyển vũ trụ hoặc sự lạ lùng khác phát sanh lên khi một vị Bồ tát lâm phàm giáng sanh vào lòng mẹ, khi đắc Vô thượng Chánh giác, khi chuyển pháp luân lần đầu và khi ngài nhập Niết-bàn… và như luật nhẹ bay nổi lên còn nặng chìm rớt xuống…

Những người tin vào đấng tạo hóa và tạo vậy không hiểu biết được những nguyên chất (element) của đất, nước, lửa, gió mà Đức Phật đã dạy. Các chất ấy làm việc phối hợp chung lại để gìn giữ cho năm định luật của vũ trụ mà chúng tôi đã giảng giải. Tuy nhiên chỉ có một số người rất ít về minh sát tuệ hoặc tư tưởng sâu xa của ít người Âu châu cố gắng tìm hiểu định luật mà làm cho vũ trụ điều hòa.

Những người này dầu không có tin “đấng tạo hóa” hoặc họ ở trong sự hoài nghi của những sự tin tưởng được truyền cho họ. Và thông qua sự sưu tầm mà họ chẳng những đi vòng quanh thế giới mà còn lên đến cung trăng. Thật vậy con người đã khởi sự hiểu biết năng lực thiên nhiên của vũ trụ rõ rệt mà họ có thể còn muốn nhìn xem sự hành trình lên Hỏa Tinh và Kim Tinh. Mặc dù họ đạt được kết quả hay không, đó là một việc sau này sẽ biết được. Điều quan trọng đó là một việc hết sức khó khăn mà họ tin tưởng rất dõng mãnh, như người tin vào đấng tạo hóa mà họ có thể hoàn tất được khi họ càng ngắm nhìn vào, nhưng họ không dám tự phụ xen vào với vũ trụ với sự tạo tác của họ. Vì sự phức tạp về sự thăng bằng của sức lượng của những ngôi sao hay những hành tinh vì tất cả đều phải làm việc hòa hợp và cộng tác hoàn toàn.

Theo thời trung cổ, ông bà chúng ta lấy làm lạ về sự vĩ đại của vũ trụ mà họ đang ở, làm cách nào mà nó còn sanh tồn hoài, thế nào mà có chúng sanh đến ở, cây cối sống theo thứ lớp của nó, gió thổi bốn mùa, làm sao nó lại trở nên lạnh nên nóng… Có vài người thì tin rằng đó là do sự hành vi của “thần Mặt trăng”, người khác lại cho là do sự hành động của “thần Mặt trời”, có người lại nói đó là do nơi “thần Gió”… Cuối cùng, không có sự tin tưởng nào làm cho con người vừa lòng rồi họ đặt sự cầu van và trách cứ trên một nhân vật gọi là “Đấng Chúa Trời cao cả” hay là “Đấng tạo hóa”. Dầu họ đặt sự tin tưởng vào Đấng Chúa Trời cao cả nhưng họ cũng không thỏa mãn sự giải quyết về sự rắc rối của đời sống con người. Hình như có sự bất công trong đời sống của nhân loại vì vậy mà họ dám đổ thừa cảnh cáo đến thần gió và họ cũng loại bỏ ra ngoài những vị thần mà họ tưởng tượng đến. Họ trọn vẹn lựa theo định luật mà họ đã có trong tay và thấy rõ sự không đúng của sự bí mật và những huyền bí của vũ trụ xuyên qua sự cố gắng của mình.

Sự việc này Đức Phật có nói thí dụ về Đấng Trời tạo hóa và những đau khổ của nhân loại rằng “Người có trí tuệ thấy rõ hơn người có con mắt đau (là kém trí tuệ), tại sao vị Trời Phạm Thiên hay Đấng Tạo Hóa không tạo ra chúng sanh cho đúng đắn hoàn toàn?”. Nếu Ngài có quyền năng rộng lớn vô hạn tại sao không đưa tay ra tế độ chúng sanh? Tại sao nhân loại lại bị trừng phạt đau khổ? Tại sao ông không ban hạnh phúc cho họ? Tại sao sự xảo trá, láo khoét và ngu xuẩn lại thạnh hành? Tại sao sự thắng kẻ giả dối, chân thật và sự công bằng lại bị thất bại? Vị vậy mà tôi cho Trời Phạm Thiên tạo hóa bất công đối với chúng sanh và Ông tạo ra thế giới này với nơi trú ẩn sai lầm ” bhuridatta jātaka “.

Đức Phật lại giải thêm: Nếu có vài nhân vật có toàn quyền toàn năng làm đầy đủ cho chúng sanh hạnh phúc hay đau khổ và hành vi thiện hoặc ác thì nhân vật ấy lẫn lộn với tội ác vì con người làm theo ý muốn của ông ta ( mahābodhi jātaka).

Như vậy những người thích theo khoa học thì Phật giáo là thông điệp không có chống đối xung đột với người đang tìm theo sự thật của khoa học. Vì Phật giáo rất thích hợp với khoa học hiện đại, cũng khảo sát sự việc và chứng nhận sự kết quả.

Dr. Rhinne và nhiều người khác như ông đang theo đuổi sự tìm kiếm về lãnh vực “tinh thần siêu diệt” sẽ tìm thấy trên giáo lý của Đức Phật theo ý muốn của họ, vì khi giải thích sự phức tạp của năng lực thăng bằng trong vũ trụ, Đức Phật không cần đến các vị Trời ban hạnh phúc cho chúng và những người theo gương và giáo lý của Ngài không cần vài sự mơ hồ sau này về một cõi thiên đàng tưởng tượng của một Đấng Trời Tạo Hóa – nhưng đúng thỉnh thoảng ngay bây giờ. Vì vậy Đức Phật có danh hiệu là “Thầy cả Chư Thiên và nhân loại”. Tuy vậy, những người tin theo nhân vật của “Đấng Trời tạo hóa” có thân hình và ngũ quan hay không, nhưng năng lực huyền bí không biết được của bản chất thiên nhiên người Phật tử không cần cãi cọ đến. Vì như chúng ta đã thấy và tin cái thế giới của tinh thần và vật chất hiện tại đang hướng dẫn và điều hòa chẳng phải chỉ có một năng lực như vậy đâu mà còn có cả năm định luật thiên nhiên khác nữa phụ trợ.

Sau cùng, tôi xin nhắc lại độc giả một lần nữa là năm định luật thiên nhiên ( pañca niyāma) hướng dẫn hay thống trị thế giới bên trong và thế giới bên ngoài mà chúng ta đã bàn luận tóm tắt trong quyển kinh nhỏ bé này nó làm việc biến chuyển theo hệ thống của “Lý nhân quả” và có liên hệ với nhau như người ta đã báo tin rằng “Đức vua đã đến” vậy.

Soạn xong tại Kỳ Viên tự, rằm tháng Chín – mùa thu năm Nhâm Tý nhằm 21/10/1972 – Dứt tác phẩm Định luật thiên nhiên của vũ trụ – Thư viện Phật Giáo Nguyên Thủy

Tính Chất Vật Lý Và Hóa Học Của Khí Thiên Nhiên. Nồng Độ Nổ Của Khí Thiên Nhiên Giới Hạn Nổ Của Khí Là Gì

Giới hạn nổ dưới và trên (LEL và ERL) là gì?

Để hình thành một bầu không khí dễ nổ, chất cháy phải có ở một nồng độ nhất định.

Về cơ bản, oxy cần thiết để đốt cháy tất cả các chất khí và hơi. Khi dư oxy và thiếu oxy, hỗn hợp sẽ không bốc cháy. Ngoại lệ duy nhất là axetylen, không cần oxy để đốt cháy. Nồng độ thấp và cao được gọi là “giới hạn nổ”.

Giới hạn nổ dưới (LEL): giới hạn nồng độ của hỗn hợp khí-không khí mà dưới đó hỗn hợp khí-không khí không thể bắt cháy.

Giới hạn nổ trên (UEL): Giới hạn nồng độ của hỗn hợp khí-không khí, trên đó hỗn hợp khí-không khí không thể bắt cháy.

Giới hạn nổ đối với môi trường dễ nổ:

Nếu nồng độ của một chất trong không khí quá thấp (hỗn hợp nạc) hoặc quá cao (hỗn hợp bão hòa) thì sẽ không xảy ra cháy nổ, nhưng rất có thể xảy ra phản ứng cháy chậm, hoặc hoàn toàn không xảy ra. Phản ứng bắt lửa sau một vụ nổ sẽ xảy ra giữa giới hạn nổ dưới (LEL) và trên (UEL). Giới hạn nổ phụ thuộc vào áp suất của bầu khí quyển xung quanh và nồng độ oxy trong không khí.

Ví dụ về giới hạn nổ dưới và trên đối với các loại khí và hơi khác nhau: Bụi cũng dễ nổ ở một số nồng độ nhất định:

Giới hạn nổ dưới đối với bụi: khoảng 20 đến 60 g / m3 không khí.

Giới hạn nổ trên đối với bụi: khoảng 2 đến 6 kg / m3 không khí.

Các thông số này có thể được thay đổi đối với các loại bụi khác nhau. Các loại bụi đặc biệt dễ cháy có thể tạo thành hỗn hợp dễ cháy với nồng độ nhỏ hơn 15 g / m3.

Nếu nồng độ khí trong không khí trong nhà nhỏ hơn 5% hoặc hơn 15% thì sẽ không xảy ra cháy nổ. Sẽ có lửa hoặc cháy. Khi nhỏ hơn 5% sẽ thiếu gas và ít nhiệt hỗ trợ quá trình cháy. Trong trường hợp thứ hai (nồng độ hơn 15%) sẽ có ít không khí, tức là chất oxy hóa, và một lượng nhỏ nhiệt để duy trì quá trình cháy.

Ngày 3 tháng 6 năm 2011

Một vụ nổ là một sự biến đổi hóa học tức thời, kèm theo sự giải phóng năng lượng và hình thành các khí nén.

Sự nổ của hỗn hợp khí – không khí tạo ra một lượng nhiệt lớn và một lượng lớn chất khí.

Các chất khí, do nhiệt tỏa ra, được nung nóng đến nhiệt độ cao, thể tích tăng mạnh và nở ra, ép với lực lớn lên các kết cấu bao quanh của các tòa nhà hoặc các bức tường của thiết bị trong đó xảy ra vụ nổ.

Áp suất tại thời điểm nổ hỗn hợp khí đạt 10 kgf / cm 2, nhiệt độ dao động trong khoảng 1500-2000 ° C, tốc độ lan truyền của sóng nổ đạt vài trăm mét / giây. Các vụ nổ có xu hướng gây ra tàn phá lớn và hỏa hoạn.

Tính chất dễ cháy của các chất dễ cháy được đặc trưng bởi một số chỉ tiêu: điểm chớp cháy, đánh lửa, tự bốc cháy, v.v.

Các đặc tính khác của chất cháy bao gồm áp suất nổ, hàm lượng ôxy nổ tối thiểu, dưới đó quá trình bắt lửa và đốt cháy hỗn hợp không thể xảy ra ở bất kỳ nồng độ nào của chất cháy trong hỗn hợp, bản chất của tương tác với chất chữa cháy, v.v.

“Bảo hộ lao động và an toàn trong ngành khí”, A.N. Yanovich, chúng tôi Astvatsaturov, A.A. Busurin

Chỉ số Methane Propane n-Butane Xăng hàng không Dầu máy kéo Dầu công nghiệp Điểm chớp cháy của hơi, ° С -188 – -77 -34 27 200 Nhiệt độ tự bốc cháy, ° С 537 600-588 490-569 300 250 380 Giới hạn nồng độ khi bắt lửa, % theo thể tích 6, 3-15 2,2-9,5 1,9-8,5 0,8-5,2 1,4-7,5 1-4 Giới hạn nhiệt độ bắt lửa của hơi trên chất lỏng, ° С -188 / + 180 – – (77/52) – (34 / 4) 27-69 146-191 Tốc độ …

Nồng độ nổ của khí đốt tự nhiên và hóa lỏng được hình thành trong quá trình ngừng hoạt động của đường ống, bể chứa và thiết bị, khi khí chưa được loại bỏ hoàn toàn và khi nó được trộn với không khí đi vào, một hỗn hợp nổ được tạo ra. Về vấn đề này, trước khi bắt đầu công việc, các đường ống dẫn khí và bể chứa phải được rửa sạch bằng nước, hấp và làm sạch bằng khí trơ. Để tránh khí gas bị rò rỉ ra các bồn chứa hoặc đường ống khác, …

Phân tích các vụ cháy xảy ra tại các cụm cơ sở vận hành khí đốt hóa lỏng cho thấy các dạng tai nạn chính như sau: rò rỉ khí, đứt đường ống và ống mềm, đứt các mối nối mặt bích và đứt phích cắm, vỡ niêm phong hộp nhồi khi dừng. van, van bị lỏng, phá hủy bình chứa khí đốt hóa lỏng do bị tràn; các sự cố khác nhau trên đường ống và bể chứa (phá hủy …

Khi khí bay hơi, một hỗn hợp khí nổ được tạo thành. Trong trường hợp xảy ra tai nạn trong phòng, nồng độ khí nổ trước hết phát sinh ở gần nơi rò rỉ khí, sau đó lan ra khắp phòng. Khi khí bốc hơi ở những khu vực thoáng gần chỗ rò rỉ, một vùng ô nhiễm khí sẽ hình thành, lan ra khắp nhà kho. Kích thước của vùng ô nhiễm khí trong quá trình xả khí khẩn cấp phụ thuộc vào nhiều …

Khó khăn chính trong việc dập tắt đám cháy khí là chống ô nhiễm khí và sự bùng cháy trở lại sau khi dập tắt đám cháy. Không có chất chữa cháy nào trong số các chất chữa cháy đã biết loại trừ nguy cơ nhiễm khí và bắt lửa lại. Nhiệm vụ chính trong công tác chữa cháy khí gas là khoanh vùng đám cháy. Nó nên được thực hiện bằng cách giới hạn thời gian hết hạn và khối lượng khí đi ra ngoài, cũng như bằng cách bảo vệ nhiệt …

Được biết, có một giá trị giới hạn nhất định đối với nồng độ của các chất dễ cháy trong bầu khí quyển xung quanh, được gọi là giới hạn nổ dưới (LEL). Nếu nồng độ của các thành phần dễ cháy trong không khí thấp hơn LEL, thì không thể bắt lửa: hỗn hợp không dễ cháy. Tuy nhiên, các giá trị LEL đưa ra trong tài liệu tham khảo thường được xác định đối với nhiệt độ bình thường là 20 ° C. Khi thiết kế hệ thống điều khiển khí hoạt động trong môi trường nhiệt độ cao, liệu có thể tiến hành từ giả định rằng metan, propan và các khí dễ cháy khác giữ nguyên các giá trị LEL mà chúng ta biết, ở nhiệt độ, ví dụ, 150 ° С không?

Không, bạn không thể. Thật vậy, với sự gia tăng nhiệt độ, các giá trị LEL của khí cháy giảm.

Chúng ta hãy tìm hiểu nồng độ LEL thực sự có nghĩa là gì: nó là nồng độ tối thiểu của các chất dễ cháy trong không khí ở nhiệt độ môi trường, đủ để bắt đầu quá trình cháy tự duy trì. Tất cả năng lượng cần thiết để duy trì sự cháy được giải phóng trong quá trình phản ứng oxy hóa (nhiệt của quá trình cháy). Ở nồng độ dưới LEL, không có đủ năng lượng để duy trì quá trình đốt cháy. Chúng ta có thể khẳng định rằng nhiệt của quá trình cháy là cần thiết để đốt nóng hỗn hợp khí từ nhiệt độ môi trường đến nhiệt độ ngọn lửa. Tuy nhiên, ở nhiệt độ môi trường cao, cần ít năng lượng hơn để đốt nóng hỗn hợp khí đến nhiệt độ ngọn lửa, hay nói cách khác, bạn cần ít chất dễ cháy hơn để quá trình cháy tự duy trì. Nghĩa là, khi nhiệt độ tăng, LEL giảm.

Đối với hầu hết các hydrocacbon, người ta thấy rằng LEL giảm với tốc độ 0,14% LEL mỗi độ. Giá trị tốc độ này đã bao gồm biên độ an toàn (bằng 2) để có được sự phụ thuộc vào nhiệt độ có giá trị đối với tất cả các khí và hơi dễ cháy.

Do đó, ở nhiệt độ môi trường t, LEL có thể được tính bằng công thức gần đúng sau:

LEL (t) u003d LEL (20 ° C) * (1 – 0,0014 * (t – 20))

Đương nhiên, công thức này chỉ có thể được sử dụng cho nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ bắt lửa của một loại khí nhất định.

LEL của mêtan ở nhiệt độ bình thường (20 ° C) là 4,4% thể tích. Ở nhiệt độ 150 ° C, LEL của mêtan sẽ là:

LEL (150 ° C) u003d 4,4 * (1 – 0,0014 * (150 – 20)) u003d 4,4 * (1 – 0,0014 * 130) u003d 4,4 * (1-0,182) u003d 3,6% thể tích d.

Sự phụ thuộc của giới hạn nổ dưới của khí cháy vào nhiệt độ

Sự phụ thuộc của giới hạn nổ dưới của khí cháy vào nhiệt độ Người ta biết rằng có một giá trị giới hạn nhất định của nồng độ các chất dễ cháy trong khí quyển xung quanh,

Bảo hộ lao động và an toàn

Bảo hộ lao động và an toàn tính mạng

Bảo hộ lao động trong điều kiện gia tăng nguy hiểm Cơ sở khí. Hoạt động của thiết bị khí

Vận hành thiết bị khí

Trong công nghiệp, cùng với việc sử dụng khí nhân tạo, khí thiên nhiên ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Ở dạng tinh khiết, nó không màu và không mùi, tuy nhiên, sau khi tạo mùi, khí có mùi trứng thối, điều này quyết định sự hiện diện của nó trong không khí.

Khí này, giống như nhiều chất tương tự của nó, bao gồm các thành phần sau: mêtan – 90%, nitơ – 5%, oxy – 0,2%, hydrocacbon nặng – 4,5%, carbon dioxide – 0,3%.

Nếu hỗn hợp không khí và khí được tạo thành với một lượng ít nhất là tối thiểu nhất định thì khí có thể nổ. Mức tối thiểu này được gọi là giới hạn nổ dưới và bằng 5% hàm lượng khí trong không khí.

Khi hàm lượng khí trong hỗn hợp này vượt quá lượng lớn nhất, hỗn hợp trở nên không nổ. Tối đa này được gọi. giới hạn trên của thuốc nổ và bằng 15% hàm lượng khí trong không khí. Hỗn hợp có hàm lượng khí trong khoảng quy định từ 5 đến 15%, khi có nhiều nguồn bắt lửa khác nhau (lửa hở, tia lửa, vật nóng sáng hoặc khi hỗn hợp này được nung nóng đến nhiệt độ tự cháy), dẫn đến nổ.

Nhiệt độ bốc cháy của khí tự nhiên là 700 0 C. Nhiệt độ này giảm đáng kể do hoạt động xúc tác của một số vật liệu và bề mặt được nung nóng (hơi nước, hydro, cặn cacbon muội than, bề mặt chamotte nóng, v.v.). Vì vậy, để ngăn ngừa cháy nổ, trước hết cần phải ngăn chặn sự hình thành hỗn hợp không khí với chất khí, nghĩa là phải đảm bảo kín tất cả các thiết bị khí và duy trì áp suất dương trong chúng. Thứ hai, không để gas tiếp xúc với bất kỳ nguồn phát lửa nào.

Kết quả của quá trình đốt cháy không hoàn toàn khí tự nhiên, carbon monoxide CO được hình thành, có tác dụng độc hại đối với cơ thể con người. Hàm lượng cho phép của cacbon monoxit trong không khí của các cơ sở công nghiệp không được vượt quá 0,03. mg / l.

Mỗi nhân viên của các cơ sở khí của doanh nghiệp phải được đào tạo và cấp chứng chỉ đặc biệt, biết các hướng dẫn vận hành cho nơi làm việc của mình tại doanh nghiệp. Đối với tất cả các nơi nguy hiểm về khí và công việc nguy hiểm về khí phải lập danh sách, thống nhất với Trưởng cơ sở khí của nhà máy, bộ phận an toàn, được kỹ sư trưởng phê duyệt và niêm yết tại nơi làm việc.

Trong ngành công nghiệp khí, sự thành công, không xảy ra sự cố và an toàn lao động được đảm bảo bởi sự hiểu biết sâu sắc về nghiệp vụ, tính tổ chức công việc và kỷ luật cao. Không có công việc nào không được cung cấp bởi mô tả công việc, nếu không có sự chỉ đạo hoặc cho phép của người đứng đầu và không thể thực hiện các khóa đào tạo cần thiết. Trong mọi trường hợp, nhân viên gas không được rời khỏi nơi làm việc mà không được quản đốc biết và cho phép. Họ có nghĩa vụ phải nhanh chóng, báo cáo ngay cho chủ nhân mọi ý kiến u200bu200bđóng góp, dù là trục trặc nhỏ nhất.

Trong phòng lò hơi và các đơn vị sử dụng khí đốt khác, cần dán những thông tin sau:

Một hướng dẫn xác định trách nhiệm và hành động của nhân viên cả trong hoạt động bình thường và trong các tình huống khẩn cấp.

Danh sách các nhà điều hành với số và ngày hết hạn của chứng chỉ quyền làm việc và lịch trình đi làm.

Một bản sao của đơn đặt hàng hoặc một bản trích xuất từ u200bu200bnó về việc bổ nhiệm một người chịu trách nhiệm về ngành công nghiệp khí đốt, văn phòng và số điện thoại nhà của người đó.

Tại đơn vị trong phòng dịch vụ có các nhật ký: canh gác, sửa chữa phòng ngừa và kiểm tra, hồ sơ kết quả kiểm soát.

Trước mỗi lần khởi động nồi hơi, lò nung và các thiết bị khác, lò của chúng phải được thông gió. Thời gian của hoạt động này được xác định theo hướng dẫn địa phương và được thông qua tùy thuộc vào thể tích của lò và chiều dài của các ống khói.

Kết thúc quá trình tẩy được xác định bằng cách phân tích khí thoát ra khỏi đường khí tẩy, trong đó hàm lượng oxy không được vượt quá 1%.

Trước khi đánh lửa các đầu đốt, hãy kiểm tra:

Đủ áp suất khí trong đường ống dẫn khí phía trước lò hơi hoặc thiết bị khác.

Áp suất không khí khi được cung cấp từ các thiết bị thổi.

Sự hiện diện của chân không trong hộp cứu hỏa hoặc heo (lên đến cổng).

Điều chỉnh lực kéo nếu cần.

Thiết bị cắt nguồn cung cấp khí đốt phía trước đầu đốt phải được mở trơn tru và chỉ sau khi bộ đánh lửa hoặc đèn khò đã được đưa đến thiết bị đó. Trong trường hợp này, người thực hiện công việc này phải ở bên cạnh thiết bị đốt gas tại thời điểm gas đánh lửa. Khi khí đốt cháy trên đầu đốt, lượng không khí nhỏ nhất phải được cấp vào lò, điều này sẽ đảm bảo khí đốt cháy hoàn toàn. Các đầu đốt khác được thắp sáng theo cách tương tự. Nếu trong quá trình đánh lửa, điều chỉnh hoặc vận hành, ngọn lửa tắt hoặc xảy ra hiện tượng tách, cháy bùng phát thì cần phải ngắt gas ngay, thông gió cho lò và đốt lại theo trình tự nêu trên.

Vi phạm yêu cầu này là một trong những nguyên nhân chính gây ra tai nạn.

Không được phép vận hành các thiết bị chạy bằng nhiên liệu khí trong trường hợp có trục trặc, thiếu lực kéo, và cũng không được để các thiết bị đang bật để vận hành mà không cần giám sát.

Việc tắt khẩn cấp các thiết bị sử dụng nhiên liệu khí được thực hiện ngay lập tức trong trường hợp nguồn cung cấp khí bị gián đoạn; khi quạt thổi dừng lại; trong trường hợp rò rỉ khí gas nguy hiểm vào phòng; khi có nguy cơ hỏa hoạn hoặc sự cố xảy ra.

Trong quá trình chuẩn bị sửa chữa, người quản lý chịu trách nhiệm thực hiện của họ vạch ra một kế hoạch có tính đến việc thực hiện tất cả các biện pháp để đảm bảo sự an toàn của con người. Kế hoạch cần có: sơ đồ đối tượng sửa chữa với vị trí các nơi sửa chữa và chỉ dẫn khối lượng của chúng; danh sách các cơ cấu, thiết bị và dụng cụ được phép sử dụng cho công việc sửa chữa; danh sách họ và bố trí công nhân được nhận vào sửa chữa; danh sách đầy đủ các biện pháp để đảm bảo thực hiện công việc an toàn, đã được thống nhất với trạm cứu hộ khí đốt và lưu ý về việc thực hiện các biện pháp đó. Kế hoạch sửa chữa trong từng trường hợp riêng phải có chữ ký của trưởng cửa hàng, người phụ trách sửa chữa và thống nhất với trưởng cơ sở gas.

Ngoài ra, người quản lý sửa chữa hướng dẫn nhân sự và giám sát việc thực hiện Nội quy trong quá trình chuẩn bị và thực hiện công việc sửa chữa.

Bảo hộ lao động và an toàn

Cổng thông tin – An toàn vệ sinh lao động. Mục – Bảo hộ lao động trong điều kiện gia tăng nguy hiểm. Cơ sở khí. Vận hành thiết bị khí

HƯỚNG DẪN SINH THÁI

Thông tin

Giới hạn đánh lửa

Các giới hạn về khả năng cháy thay đổi đáng kể với việc bổ sung một số chất có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của chuỗi phản ứng trước ngọn lửa. Các chất đã biết vừa mở rộng vừa thu hẹp giới hạn bắt lửa. [. ]

Các giới hạn đánh lửa bị ảnh hưởng bởi thành phần hóa học của nhiên liệu và chất oxy hóa, nhiệt độ, áp suất và độ hỗn loạn của môi chất, nồng độ và loại phụ gia hoặc chất pha loãng trơ, và công suất của nguồn đánh lửa trong quá trình đánh lửa cưỡng bức. Ảnh hưởng của loại nhiên liệu đến giới hạn cháy được nêu trong bảng 3.4. [. ]

Giới hạn cao nhất là nồng độ hơi nhiên liệu trong hỗn hợp tăng lên, trong đó quá trình đánh lửa của hỗn hợp dễ cháy sẽ không xảy ra. [. ]

Nhiệt độ bốc cháy, điểm chớp cháy cũng như giới hạn nhiệt độ bắt lửa được phân loại là các chỉ số nguy hiểm về hỏa hoạn. Bàn 22.1 trình bày các chỉ số này đối với một số sản phẩm kỹ thuật. [. ]

Vùng cháy càng rộng và giới hạn nồng độ chất cháy càng thấp thì khói xông hơi càng nguy hiểm trong quá trình bảo quản và sử dụng. . [. ]

Nhiệt độ bốc cháy của nó là 290 ° C. Giới hạn dưới và trên của nồng độ nổ của hydro sunfua trong không khí là 4 và 45,5 vol. %. Hydro sunfua nặng hơn không khí, khối lượng riêng tương đối của nó là 1,17. Với các biểu hiện của hydrogen sulfide, các vụ nổ và hỏa hoạn có thể xảy ra, có thể lan rộng trên một vùng lãnh thổ rộng lớn và gây ra nhiều nạn nhân và thiệt hại lớn. Sự hiện diện của hydrogen sulfide dẫn đến sự phá hủy nguy hiểm đối với các dụng cụ khoan và thiết bị khoan và gây ra hiện tượng nứt ăn mòn mạnh, cũng như ăn mòn đá xi măng. Hydro sunfua rất mạnh đối với bùn khoan đất sét trong nước và khí. [. ]

Thời gian trễ đánh lửa của nhiên liệu diesel được ước tính bằng số cetan. Số cetan của nhiên liệu điêzen là phần trăm (theo thể tích) hàm lượng cetan (n.hexadecan) của hỗn hợp với (α-metylnaphtalen), tương đương với nhiên liệu thử nghiệm về độ cứng của động cơ. Các giới hạn của độ trễ đánh lửa Lấy làm chuẩn (tương ứng là 100 và 0 đvC).

Hiđro và axetylen có phạm vi dễ cháy rộng nhất. Hỗn hợp hydrocacbon của các chế phẩm khác nhau có giới hạn bắt lửa gần nhau. [. ]

Các thử nghiệm đối với động cơ đánh lửa bằng chùm tia laze hội tụ tinh vi tạo ra hạt nhân plasma cho thấy rằng trong trường hợp này, sự tích tụ áp suất trong buồng đốt diễn ra mạnh hơn, giới hạn đánh lửa mở rộng, công suất và hiệu suất kinh tế của động cơ được cải thiện. [. ]

Giới hạn dễ cháy có nồng độ thấp hơn là nồng độ tối thiểu của hơi xông hơi trong không khí mà tại đó hơi bốc cháy bằng ngọn lửa trần hoặc tia lửa điện. [. ]

Việc mở rộng các giới hạn nồng độ của chất đánh lửa tạo ra các điều kiện tiên quyết để đảm bảo động cơ hoạt động ổn định trên các hỗn hợp nạc. [. ]

Tuy nhiên, không nên bỏ qua rằng các giới hạn đánh lửa được xác định trong điều kiện tĩnh, nghĩa là trong môi trường tĩnh. Kết quả là chúng1 không đặc trưng cho tính ổn định của quá trình cháy trong dòng chảy và không phản ánh khả năng ổn định của đầu đốt. Nói cách khác, một và cùng một loại khí có dằn cao có thể được đốt cháy thành công trong một thiết bị đốt khí ổn định tốt quá trình cháy, trong khi trong một thiết bị đốt khác, nỗ lực đó có thể không thành công. . [. ]

Với sự gia tăng độ hỗn loạn của hỗn hợp dễ cháy, các giới hạn bắt lửa mở rộng nếu các đặc điểm của sự hỗn loạn là do đó chúng tăng cường các quá trình truyền nhiệt và các sản phẩm hoạt động trong vùng phản ứng. Các giới hạn dễ cháy có thể bị thu hẹp nếu sự hỗn loạn của hỗn hợp, do quá trình loại bỏ nhiệt và các sản phẩm hoạt động ra khỏi vùng phản ứng, làm nguội và giảm tốc độ chuyển hóa hóa học. [. ]

Khi khối lượng phân tử của hydrocacbon giảm, giới hạn cháy mở rộng. [. ]

Ngoài các giới hạn nồng độ, còn có các giới hạn nhiệt độ (thấp hơn và cao hơn) của sự bốc cháy, được hiểu là nhiệt độ của chất hoặc vật liệu mà tại đó hơi cháy bão hòa của nó tạo thành nồng độ trong môi trường oxy hóa bằng giới hạn nồng độ dưới và trên của sự truyền ngọn lửa, tương ứng. ]

Sự cố tràn dầu do phá hủy (các) bể chứa mà không đốt cháy dầu. Đại diện cho ít nguy hiểm nhất đối với môi trường và con người nếu dầu không lan ra ngoài đường đắp. Nếu kè bị vỡ do tác động thủy động lực học của dầu thoát ra, ô nhiễm các thành phần chính của môi trường có thể xảy ra trên quy mô đáng kể. [. ]

Điều kiện thứ hai là sự tồn tại của các giới hạn nồng độ, bên ngoài không có khả năng bắt lửa và lan truyền vùng cháy ở một áp suất nhất định. [. ]

Phân biệt giữa giới hạn nồng độ trên (cao hơn) và thấp hơn (thấp hơn) của sự bắt lửa. [. ]

Tính chất hóa học. Điểm chớp cháy (cốc hở) 0 °; giới hạn khả năng cháy trong không khí-3-17 vol. %. [. ]

Trong quá trình đốt cháy trong động cơ đánh lửa bằng tia lửa, giới hạn nồng độ để hỗn hợp bắt lửa không trùng với giới hạn quy định về sự bắt đầu hình thành muội than. Vì vậy, hàm lượng muội than trong khí thải của động cơ đánh lửa bằng tia lửa điện là không đáng kể. [. ]

Sự đa dạng của các chất và vật liệu đã xác định trước các giới hạn nồng độ khác nhau của sự lan truyền ngọn lửa. Có những khái niệm như giới hạn nồng độ dưới và trên của sự lan truyền ngọn lửa (sự bắt lửa) – đây tương ứng là hàm lượng nhiên liệu tối thiểu và tối đa trong hỗn hợp “chất cháy – môi trường oxy hóa”, tại đó ngọn lửa truyền qua hỗn hợp ở bất kỳ khoảng cách nào từ nguồn đánh lửa là có thể. Khoảng nồng độ giữa giới hạn dưới và giới hạn trên được gọi là sự lan truyền ngọn lửa (sự bắt lửa). [. ]

Sự gia tăng nhiệt độ và áp suất ban đầu của hỗn hợp dễ cháy dẫn đến sự mở rộng các giới hạn bắt lửa, điều này được giải thích là do sự gia tăng tốc độ các phản ứng của quá trình biến đổi trước ngọn lửa. [. ]

Với sự gia tăng nhiệt dung, độ dẫn nhiệt và nồng độ của chất pha loãng trơ, giới hạn bắt lửa mở rộng. [. ]

Tính dễ cháy của hơi (hoặc khí) được đặc trưng bởi các giới hạn nồng độ dưới và trên của chất bắt lửa và vùng nồng độ của chất bốc cháy. [. ]

Mức nhiệt độ đo được dọc theo trục và ngoại vi của vòng đệm (Hình 6-15, b) nhỏ hơn nhiệt độ bốc cháy của hỗn hợp khí tự nhiên với không khí, bằng 630-680 ° C và chỉ ở lối ra từ lớp vỏ bọc, trong vết cắt hình nón của nó, nhiệt độ đạt 680-700 ° С, tức là vùng đánh lửa nằm ở đây. Một sự gia tăng đáng kể về nhiệt độ được quan sát thấy bên ngoài lớp phủ ở khoảng cách (1,0-g-1,6) Vgun. [. ]

Nguy cơ cháy nổ trong quá trình làm việc bằng khí tăng lên đáng kể khi tỷ lệ tiêu thụ hơi trên 1 m3 nằm trong vùng bắt lửa nồng độ. [. ]

Trong bộ lễ phục. 2.21 thể hiện các giá trị áp suất cực đại của một vụ nổ khối lượng Mg u003d 15 tấn xăng quá nhiệt. Trong trường hợp này, tốc độ ngọn lửa thay đổi trong khoảng: 103,4-158,0 m / s, tương ứng với không gian lộn xộn tối thiểu và tối đa ở nơi bắt lửa của hỗn hợp. Một vụ nổ do lượng xăng quá nóng như vậy (loại 1 của vụ tai nạn theo kịch bản A) có thể xảy ra với sự phá hủy lạnh của các xe tăng K-101 hoặc K-102. Tần suất của một sự kiện như vậy là 1,3 10 7 năm 1, vì vậy nó khó có thể xảy ra. [. ]

Nhược điểm của quá trình được xem xét là sự phun bụi trong phạm vi dài của các trầm tích nhão ở góc mở thấp, dẫn đến sự trượt của các phần tử chưa cháy ra bên ngoài lò phản ứng xyclon và cần phải xây dựng thiết bị đốt sau. Ngoài ra, các sản phẩm cháy của phần hữu cơ của cặn không tham gia vào quá trình xử lý nhiệt ban đầu – làm khô và nóng lên đến nhiệt độ bốc cháy; đối với lượng nhiên liệu bổ sung này được tiêu thụ, và nhiệt độ của khí thải vượt quá mức cần thiết cho quá trình oxy hóa hoàn toàn các chất hữu cơ. ]

Theo quy luật, dung môi hữu cơ dễ cháy; hơi của chúng tạo thành hỗn hợp nổ với không khí. Đánh giá khả năng bắt lửa của dung môi Được đặc trưng bởi điểm chớp cháy và giới hạn khả năng bắt lửa. Để tránh cháy nổ, nồng độ hơi dung môi trong không khí phải được giữ ở mức dưới giới hạn dễ cháy. [. ]

Khí cháy, hơi của chất lỏng dễ cháy và bụi dễ cháy, trong những điều kiện nhất định, tạo thành hỗn hợp nổ với không khí. Phân biệt giữa các giới hạn nồng độ dưới và nồng độ trên của khả năng nổ, bên ngoài các hỗn hợp không gây nổ. Các giới hạn này thay đổi tùy thuộc vào công suất và đặc tính của nguồn cháy, nhiệt độ và áp suất của hỗn hợp, tốc độ lan truyền của ngọn lửa, hàm lượng các chất trơ. ]

Quá trình cháy dừng khi đáp ứng một trong các điều kiện sau: loại bỏ chất cháy ra khỏi vùng cháy hoặc giảm nồng độ của chất cháy; giảm tỷ lệ phần trăm oxy trong vùng cháy đến giới hạn không thể đốt cháy được; hạ nhiệt độ của hỗn hợp cháy xuống nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ bắt cháy. [. ]

Ngoài ra, sự hình thành các quả cầu lửa hoặc sự đốt cháy của các đám mây khí trôi dạt có thể dẫn đến cái chết của tất cả những người trên lãnh thổ của cơ sở (tối đa 4 người làm việc mỗi ca), cũng như bị thương cho những người bên ngoài cây xăng. Hơn nữa, số người bị thương khi đi vào khu vực bị ảnh hưởng của con đường chủ yếu sẽ phụ thuộc vào cường độ giao thông. Những người di chuyển trên đường chỉ có thể bị thương nếu một quả cầu lửa hoặc một đám mây trôi bốc cháy. Hơn nữa, khi một đám mây đang bốc cháy, có thể xảy ra thiệt hại trong khu vực \ u200b \ u200bên đường với điều kiện là nó bốc cháy không phải trên đường trôi mà khi có phương tiện va vào nó. Ngoài ra, các chỉ số rủi ro bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc đào tạo chuyên môn và khẩn cấp của nhân viên. [. ]

Bụi của nhiều chất rắn dễ cháy lơ lửng trong không khí tạo thành hỗn hợp dễ cháy với nó. Nồng độ tối thiểu của bụi trong không khí mà nó bốc cháy được gọi là giới hạn nồng độ thấp hơn đối với bụi bốc cháy. Không áp dụng khái niệm giới hạn nồng độ dễ cháy trên đối với bụi, vì không thể tạo ra nồng độ bụi rất cao ở dạng huyền phù. Thông tin về giới hạn nồng độ thấp hơn của sự bắt lửa (LEL) của một số loại bụi được trình bày trong bảng. 22.2. [. ]

Ở một số nhà máy lọc, hóa dầu, lượng khí thải ra có khi lên tới 10.000-15.000 m3 / h. Giả sử trong vòng 5 phút, 1000 m3 khí sẽ được thải ra ngoài, trong đó giới hạn nồng độ thấp hơn của sự bốc cháy là khoảng 2% (thể tích) (tương ứng với đặc điểm nổ của hầu hết các loại khí của quá trình lọc hóa dầu) . Lượng khí này khi trộn lẫn với không khí xung quanh có thể tạo ra một bầu không khí nổ với thể tích khoảng 50.000 m3 trong khoảng thời gian ngắn. Nếu chúng ta giả định rằng đám mây nổ nằm ở vị trí sao cho độ cao trung bình của nó là khoảng 10 m, thì diện tích của đám mây sẽ là 5000 m2 hoặc bao phủ khoảng 0,5 ha bề mặt. Rất có thể trong một khu vực như vậy có thể có một số loại nguồn đánh lửa, và sau đó một vụ nổ mạnh sẽ xảy ra trên lãnh thổ rộng lớn này. Đã có những trường hợp như vậy. Vì vậy, để ngăn chặn một vụ nổ, cần phải thu gom tất cả các khí thải, ngăn không cho chúng phát tán trong khí quyển và thải bỏ hoặc thiêu hủy. [. ]

Chúng tôi sẽ đánh giá nguy cơ cháy (nguy cơ cháy) của các chất và vật liệu khác nhau, có tính đến trạng thái tập hợp của chúng (rắn, lỏng hoặc khí). Các chỉ số chính của nguy cơ cháy là nhiệt độ tự cháy và giới hạn nồng độ của chất bắt lửa. [. ]

Chất thải từ gasoline dung môi, chất chiết xuất, ete dầu mỏ, là những phần nhỏ có độ sôi thấp của quá trình chưng cất trực tiếp dầu, có điểm sôi 30-70 ° C, điểm chớp cháy -17 ° C, nhiệt độ tự cháy 224-350 ° C, giới hạn nồng độ thấp hơn của sự bắt lửa (NKP) 1,1%, trên cùng (VKP) 5,4%. [. ]

Thiết kế của bộ trung hòa phải đảm bảo thời gian lưu trú cần thiết của các khí đã xử lý trong thiết bị ở nhiệt độ đảm bảo khả năng đạt được mức độ trung hòa nhất định của chúng (trung hòa). Thời gian lưu trú thường là 0,1-0,5 s (đôi khi lên đến 1 s), nhiệt độ hoạt động trong hầu hết các trường hợp tập trung vào giới hạn thấp hơn của sự tự động của hỗn hợp khí trung hòa và vượt quá nhiệt độ bắt lửa (Bảng 1.7) 100-150 ° C . [. ]

Trong số các thiết bị làm sạch khí hiện có, những thiết bị chính để sản xuất bộ chuyển đổi là ống Venturi, bộ lọc tĩnh điện và bộ lọc vải (túi). Máy chà sàn, máy phun sương và máy lốc xoáy thường được sử dụng kết hợp với ống Venturi và thiết bị lọc bụi tĩnh điện. Hàm lượng các thành phần dễ cháy trong khí cung cấp cho bộ lọc bụi tĩnh điện phải nhỏ hơn đáng kể so với giới hạn bắt lửa thấp hơn của các thành phần tương ứng. Kết quả là, bộ lọc bụi tĩnh điện không thể hoạt động trong hệ thống khí thải nếu không đốt cháy sau. [. ]

Các tính toán được thực hiện theo phương pháp trên cho thấy một đám mây khí có nồng độ cao được hình thành tại vị trí vỡ, chúng tan ra do vận chuyển phản ứng và khuếch tán hỗn loạn trong khí quyển. Sử dụng chương trình RISK, xác suất vượt quá hai giá trị ngưỡng của nồng độ đã được tính toán: 300 mg / m3 – nồng độ tối đa cho phép của khí mê-tan trong khu vực làm việc và 35.000 mg / m3 – giới hạn bắt lửa dưới của hỗn hợp khí mê-tan . [. ]

Một dòng điện trọng lực khá phức tạp được hình thành gần bề mặt trái đất, góp phần vào sự lan truyền và phân tán hướng tâm của hơi LNG. Như một minh họa về kết quả của các phép tính số về sự tán xạ của đám mây khí mê-tan, Hình. 5 cho thấy sự phát triển của đám mây hơi đối với các điều kiện tán xạ bất lợi nhất (độ ổn định khí quyển – “B” theo phân loại Gifford – Pasquil, tốc độ gió – 2 m / s) ở dạng các mặt đẳng áp của nồng độ hơi LNG trong không khí. Các đường bao được mô tả tương ứng với giới hạn dễ cháy trên của hơi LNG trong không khí (15 vol%), giới hạn dễ cháy dưới (5 vol%) và một nửa giới hạn dễ cháy dưới (2,5 vol%). [. ]

Hợp đồng tương lai khí đốt tự nhiên tăng trong phiên họp của Mỹ

Trên New York Mercantile Exchange, hợp đồng khí đốt tự nhiên giao tháng 8 đang giao dịch ở mức $ 2,768 / MTU, tăng 0,58% tính đến thời điểm này.

Mức tối đa trong phiên là mốc USD trên một triệu BTU. Theo bài viết này, khí tự nhiên đang tìm thấy hỗ trợ ở mức $ 2,736 và mức kháng cự ở mức $ 2,832.

Chỉ số tương lai USD Index, đo lường đồng đô la Mỹ so với rổ sáu loại tiền tệ chính, đã giảm 0,17% xuống giao dịch ở mức 94,28 đô la.

Trong các mặt hàng khác giao dịch trên sàn NYMEX, giá dầu WTI giao tháng 9 giảm 3,95% xuống 67,19 USD / thùng, trong khi dầu nhiên liệu nặng giao tháng 8 giảm 3,19% xuống còn 2,0654 USD / gallon.

Nhận xét gần đây về công cụ

Ngày 25 tháng 7 năm 2018 từ 10.00 đến 13.00 GKU RK “Cục Phòng cháy chữa cháy và Bảo vệ Dân sự” sẽ thu gom chất thải có chứa thủy ngân trên lãnh thổ của ICDO “Ukhta”

Nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của trẻ em – bị người lớn bỏ mặc, incl. trong kỳ nghỉ chung của cha mẹ với con cái.

Vào ngày 16 tháng 7 năm 2018, các nhân viên của Cục Dân phòng và Các tình huống khẩn cấp thành phố đã tiến hành kiểm tra sở cứu hỏa bảo vệ trên bãi chôn lấp chất thải rắn

Vào ngày 11 tháng 7 năm 2018, các nhân viên của Cơ quan Quản lý Dân phòng và Các tình huống khẩn cấp của thành phố đã có chuyến đi đến 1, 2, 3 Vodnensky dachas và SOT Trud để thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhằm đảm bảo các biện pháp an toàn cháy nổ.

Vào ngày 11 tháng 7 năm 2017, các nhân viên của Cục Phòng thủ dân sự và Trường hợp khẩn cấp của Cục quản lý ICDO Ukhta đã tiến hành kiểm tra tình trạng của các hồ chứa lửa và các thiết bị kỹ thuật chữa cháy.

MU “Cục Phòng vệ Dân sự và Các trường hợp khẩn cấp” của chính quyền ICDO “Ukhta” khuyến nghị tuân theo pcải thiện an toàn cháy nổ trong các ngôi nhà mùa hè

Nghị quyết của Ban quản lý ICDO “Ukhta” ngày 29 tháng 6 năm 2018 số 1453 “Về việc tổ chức đảm bảo an toàn cho người dân tại các vùng nước trên lãnh thổ của ICDO” Ukhta “giai đoạn mùa hè năm 2018 đã được phê duyệt

Vào ngày 4 tháng 7 năm 2018, các nhân viên của Cục Phòng thủ dân sự và Trường hợp khẩn cấp thành phố đã đến nhà nghỉ Urozhay SOT, Yarega, để thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhằm đảm bảo các biện pháp an toàn cháy nổ

Các bác sĩ khuyến cáo không nên vội vàng mua dưa hấu, dưa hấu sớm: chúng thường bị “bội thực” nitrat và chất kích thích tăng trưởng, có thể gây ngộ độc.

Bộ Kinh tế Cộng hòa Komi thông báo địa điểm “Quản lý dự án tại Cộng hòa Komi” đã được đưa vào vận hành thương mại

Hàng năm ở Nga có vài triệu người bị bỏng do tiếp xúc với củ cải bò.

MU “Cục Phòng vệ Dân sự và Các Tình huống Khẩn cấp” của Cơ quan Quản lý ICDO “Ukhta” nhắc nhở các bậc cha mẹ cần tăng cường kiểm soát trẻ em trong kỳ nghỉ hè

Nhắc nhở cư dân của ICDO “Ukhta” về các quy tắc ứng xử trên các vùng nước vào mùa hè

Trước khi bắt đầu mùa bơi và trước kỳ nghỉ hè, Cục Phòng thủ dân sự thành phố và các tình huống khẩn cấp của Cơ quan quản lý MGOU “Ukhta” nhắc nhở học sinh về các biện pháp phòng ngừa và các quy tắc ứng xử khi tắm

Trước khi bắt đầu mùa bơi và trước kỳ nghỉ hè, Cục Phòng thủ dân sự thành phố và các tình huống khẩn cấp của Cơ quan quản lý MGOU “Ukhta” nhắc nhở các bậc cha mẹ về sự cần thiết phải trò chuyện với con cái về các quy tắc ứng xử trên mặt nước

Từ ngày 15 tháng 6 năm 2018 đến lãnh thổ của ICDO “Ukhta” giới thiệu chế độ hỏa lực đặc biệt

Phần Sosnogorsk của GIMS EMERCOM của Nga thông báo rằng với việc mở cửa điều hướng trong một thời gian ngắn, cái chết của 12 người đã được ghi nhận trong các vùng nước của Cộng hòa Komi

FBU “Avialesokhrana” đã phát hành ứng dụng di động “Chăm sóc rừng”

Giới hạn nổ của khí tự nhiên

Vào ngày 25 tháng 7 năm 2018 từ 10.00 đến 13.00 GKU RK “Cục Phòng cháy chữa cháy và Bảo vệ Dân sự” sẽ thu gom chất thải có chứa thủy ngân trên lãnh thổ của ICDO “Ukhta” Nguyên nhân chính gây tử vong

Nếu nồng độ của chất cháy trong hỗn hợp nhỏ hơn giới hạn dưới của sự lan truyền ngọn lửa, thì hỗn hợp đó không thể cháy và nổ, vì nhiệt tỏa ra gần nguồn bắt lửa không đủ để đốt nóng hỗn hợp đến nhiệt độ bắt lửa. Nếu nồng độ của chất cháy trong hỗn hợp nằm giữa giới hạn dưới và giới hạn trên của sự lan truyền ngọn lửa, thì hỗn hợp bắt lửa bốc cháy và cháy cả khi gần nguồn bắt lửa và khi nó được lấy ra. Hỗn hợp này dễ nổ. Phạm vi giới hạn lan truyền ngọn lửa càng rộng (còn gọi là giới hạn dễ cháy và giới hạn nổ) và giảm giới hạn thấp hơn, khí càng nổ. Nếu nồng độ chất cháy trong hỗn hợp vượt quá giới hạn trên của sự truyền ngọn lửa thì lượng chất oxi hóa trong hỗn hợp không đủ để đốt cháy hoàn toàn chất cháy.

Phạm vi giá trị của đồ thị sự phụ thuộc của hệ số phân bố trong hệ “chất khí cháy – chất oxi hóa”, tương ứng với khả năng bắt cháy của hỗn hợp, tạo thành vùng bắt lửa.

Các yếu tố sau ảnh hưởng đến giá trị của NKPRP và VKPRP:

Tính chất của chất phản ứng;

Áp suất (thường là tăng áp suất không ảnh hưởng đến NKPRP, nhưng VKPRP có thể tăng rất nhiều);

Nhiệt độ (sự gia tăng nhiệt độ sẽ mở rộng KPRP bằng cách tăng năng lượng hoạt hóa);

Phụ gia không cháy – chất làm tan đờm;

Thứ nguyên của KPRP có thể được biểu thị bằng phần trăm thể tích hoặc bằng g / m³.

Việc đưa chất làm tan đờm vào hỗn hợp làm giảm giá trị của VCPRP trên thực tế tương ứng với nồng độ của nó cho đến điểm hóa đờm, nơi giới hạn trên và dưới trùng nhau. Đồng thời, NKPRP tăng nhẹ. Để đánh giá khả năng bắt lửa của hệ thống “Nhiên liệu + Chất ôxy hóa + Chất tạo đờm”, cái gọi là tam giác lửa – một sơ đồ, trong đó mỗi đỉnh của tam giác tương ứng với một trăm phần trăm nội dung của một trong các chất, giảm về phía đối diện. Vùng đánh lửa của hệ thống được đánh dấu bên trong hình tam giác. Trong tam giác lửa, một vạch của nồng độ ôxy tối thiểu (MOC) được đánh dấu, tương ứng với giá trị của hàm lượng chất ôxy hóa trong hệ, dưới giá trị đó hỗn hợp không bốc cháy. Việc đánh giá và kiểm soát MCC rất quan trọng đối với các hệ thống hoạt động trong môi trường chân không, nơi không khí trong khí quyển có thể bị hút vào qua các lỗ rò rỉ trong thiết bị công nghệ.

KPRP được xác định bằng tính toán hoặc được tìm thấy bằng thực nghiệm.