Tam Quan Là Gì Nhân Sinh Quan / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

“Nhân Sinh Quan” Là Gì? Nghĩa Của Từ Nhân Sinh Quan Trong Tiếng Việt. Từ Điển Việt

nhân sinh quan

– Cách nhìn nhận đời sống, công tác, xã hội, lịch sử, dựa theo lợi ích của giai cấp mình. Nhân sinh quan cách mạng. Nhân sinh quan của giai cấp công nhân đấu tranh để cải tạo xã hội. Nhân sinh quan cộng sản. Nhân sinh quan của những người cộng sản đấu tranh để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, đầy lòng tin tưởng ở tương lai tốt đẹp của loài người và sẵn sàng hi sinh chiến đấu cho tương lai ấy.

bộ phận của thế giới quan (hiểu theo nghĩa rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: lẽ sống của con người là gì? mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? trả lời những câu hỏi đó là vấn đề NSQ. Khác với loài cầm thú, bất kì người nào cũng có quan niệm của mình về cuộc sống. Trong đời thường, đó là NSQ tự phát, “ngây thơ” của đại chúng; các nhà tư tưởng khái quát những quan điểm ấy, nâng lên thành lí luận, tạo ra NSQ tự giác, mang tính nguyên lí triết học. NSQ phản ánh tồn tại xã hội của con người. Nội dung của nó biểu hiện những nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hoài bão của con người trong mỗi chế độ xã hội cụ thể. Trong xã hội có giai cấp, NSQ có tính giai cấp. Giai cấp đang đi lên trong lịch sử có NSQ lạc quan, tích cực, cách mạng; NSQ của giai cấp đang đi xuống thường mang tính bi quan, yếm thế. NSQ có tác dụng lớn đến hoạt động; những quan niệm về NSQ trở thành niềm tin, lối sống, tạo ra phương hướng, mục tiêu cho hoạt động (lí tưởng sống). Nếu phản ánh đúng khuynh hướng khách quan của lịch sử thì nó là nhân tố mạnh mẽ để cải tạo xã hội một cách hợp lí; nếu phản ánh không đúng thì nó có tác dụng ngược lại, cản trở xã hội tiến lên.

Trong lịch sử xã hội trước đây, hoạt động của con người bị tha hoá. Từ đó sinh ra những loại hình NSQ lạc hậu hoặc phản động, phản khoa học: hoặc mang tính tôn giáo, chuyển ý nghĩa cuộc đời ra bên ngoài cõi đời, sang thế giới bên kia; hoặc có xuất phát từ tính người, nhưng hiểu nó một cách trừu tượng, định hướng hoạt động vào những nhu cầu và lợi ích cá nhân (chủ nghĩa khoái lạc; chủ nghĩa hạnh phúc; chủ nghĩa vị lợi). Có thứ NSQ yếm thế, lánh đời (ẩn dật); có thứ NSQ tích cực, nhập thế (giúp đời, cứu nước), song vẫn mang ít nhiều màu sắc cá nhân chủ nghĩa (lập thân, lập công danh sự nghiệp).

Chủ nghĩa Mac là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử, chỉ rõ hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, và qua đó mà tự cải tạo, tự nâng mình lên, đó là nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc đẩy những quá trình phát triển xã hội đã chín muồi, những hoạt động lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã hội tốt đẹp tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời qua đó mà hoàn thiện những năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình. Đó là NSQ cách mạng, mang tính khoa học của giai cấp vô sản và của con người mới trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Để làm cho NSQ cách mạng chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống xã hội, phải cố gắng về nhiều mặt, trong đó giáo dục chiếm một vị trí quan trọng. Ngoài những giờ học chính khoá, nhà trường còn phải phối hợp với gia đình và xã hội trau dồi NSQ cách mạng (NSQ cộng sản) cho học sinh, hình thành cho học sinh một hệ thống tư tưởng, tình cảm hướng tới chân, thiện, mĩ, cùng cộng đồng xây dựng cuộc sống dân chủ, công bằng, văn minh, giàu tính nhân văn, mang lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi gia đình và cả xã hội.

hd. Quan niệm về cuộc đời, về ý nghĩa, mục đích cuộc sống. Nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa.

Cây Dừa Vàng Tam Quan:

Cây Dừa Vàng Tam Quan – Trung Tâm Cây Giống Đại Học Nông Nghiệp

Cây Dừa Vàng Tam Quan:

Previous

Next

Một vài hình ảnh về Cây Dừa Vàng Tam Quan

1 – Giới Thiệu:

Cây Giống Dừa Vàng Tam Quan là giống dừa uống nước, vỏ mỏng, vị ngọt thanh, tuy năng suất không cao như các loại dừa uống nước khác nhưng giá trị trái rất cao do màu sắc đẹp và có nhiều ý nghĩa trong phong thủy, thờ cúng. Quả dừa tam quan có màu vàng đẹp mắt, rất tươi sáng và sang trọng, tàu lá cũng hơi vàng, đây là nét đặc trưng giúp ta dễ dàng nhận biết giống. Tuy năng suất quả không cao như các giống dừa uống nước hiện nay, nhưng với màu sắc hấp dẫn đã bù đắp lại giá trị cho dừa Tam Quan, quả dừa này đặc biệt có giá trị cao vào ngày Tết nhưng không bao giờ đủ cung.

2 – Tiêu Chuẩn Chọn Giống:

Trồng dừa trước tiên phải chọn được cây giống khoẻ mạnh, xanh tốt, chu vi cổ thân to, không bị sâu bệnh và dị dạng, nhiều lá và tách lá chét sớm, lá có màu xanh sậm, cao trên 20 cm và cây có đeo thẻ kiểm nghiệm chất lượng của đơn vị sản xuất.

3 – Thời Vụ và Mật Độ Trồng:

Chủ yếu tuỳ thuộc vào chế độ mưa mỗi vùng, thích hợp nhất là ngay sau vài cơn mưa đầu mùa, lúc này thời tiết thuận lợi giúp cho cây con mau bén rễ, sớm phục hồi và phát triển nhanh. Thời điểm trồng thường vào đầu mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 7 dương lịch (dl). Tuy nhiên, ở những nơi chủ động được nguồn nước tưới thì dừa có thể trồng quanh năm. Khoảng cách và mật độ trồng tùy theo thiết kế vườn trồngsao cho khi cho trái ổn định (trên 5 năm tuổi) thì cây không giáp tán với nhau.Khoảng cách trồng cây cách cây 7m x 7m, trồng thâm canh thì 6m x 6m. Nếu trồng xen các loại cây khác thì khoảng cách có thể thưa hơn khoảng 1m và cây trồng xen cách gốc dừa ít nhất là 2m.

4 – Làm Đất Và Đào Hố Trồng:

Trước tiên phải chuẩn bị hố với kích thước ngang 0,6m x rộng 0,6m x sâu 0,6m; trộn 10 – 15 kg phân hữu cơ hoai mục với đất đã được đào lên (sử dụng lớp đất mặt không nên sử dụng đất sét bên dưới), trộn xong lấp hỗn hợp này trở lại hố và đắp thêm đất tạo mô thấp khoảng 10 đến 20 cm so với mặt liếp là vừa

5 – Phân Bón Lót:

Sau khi đã chuẩn bị mô và hố trồng xong, trước khi xuống giống khoảng 15-20 ngày tiến hành bón lót mỗi mô: phân hữu cơ khoảng 20-30 kg+100g super lân+200gram kali, trộn đều và lấp kín lại bằng mặt mô.

6 – Kỹ Thuật Trồng Cây Dừa Vàng Tam Quan:

Đào hốc hình tròn có đường kính 40cm, sâu 40cm ngay giữa mô, bón lót thêm 0,5 kg phân lân rãi đều xuống hố (đối với vùng đất xấu có thể bón 1kg), đặt cây giống vào hốc (cây giống phải được tháo bỏ phần vỏ bầu bằng nylon, đặt gáo dừa hướng vào trong liếp và thân cây ra hướng mương) sau đó lấp đất lại, ém đất xung quanh vừa phải, cắm cọc giữ cho cây khỏi ngã hoặc gió lay làm đứt rễ. Sau khi trồng nên che phủ xung quanh gốc cây bằng các vật liệu hữu cơ sẵn có như rơm khô, cỏ khô không hạt, rễ cây lục bình…để giữ ẩm và hạn chế xói mòn đất khi tưới.

7 – Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Dừa Vàng Tam Quan:

7.1 – Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:

Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

7.2 – Kỹ thuật Cắt tỉa, tạo hình:

Hàng năm nên bồi bùn cho cây 1 lần vào đầu mùa nắng, hoặc nếu có điều kiện nên bón cho cây từ 30-50 kg phân hữu cơ hoai mục/gốc, tỉa dần cây trồng xen và giữ cỏ dại hợp lý sao cho cây có đầy đủ ánh sáng để quang hợp, tránh việc để cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng với dừa hay dây leo chằng chịt trên cây làm cây giảm quang hợp.

7.3 – Kỹ thuật Bón phân Cho Cây Dừa Vàng Tam Quan:

Đối với cây từ 1 đến 3 năm tuổi thì mỗi năm bón 2 lần vào đầu và gần cuối mùa mưa, lần đầu vào tháng 5-6 dl và lần sau gần cuối mùa mưa, khoảng tháng 10 dl. Phân được trộn đều, cuốc bốn lỗ quanh gốc theo hình chiếu tán, cách gốc 0,5 đến 1,2 m tùy độ tuổi của cây, bón đều lượng phân rồi lấp đất lại. Đối với dừa từ 3,5 năm đến 5 năm sau khi trồng, cây bắt đầu cho trái ổn định ta có thể chia lượng phân ra bón 3 đến 4 lần/năm, lần đầu bón 30% lượng phân vào đầu mùa mưa, lần 2 và 3 bón mỗi lần 20% lượng phân, lần cuối bón 30% trước khi dứt mưa khoảng 1 tháng. Phân được trộn đều, xới đất xunh quanh gốc và cuốc một đường rảnh đường kính cách gốc khoảng 1,5 đến 2m, sâu 10 cm, rộng 40cm sau đó bón đều lượng phân vào rảnh rồi lấp đất phủ kín bề mặt, lần bón phân tiếp theo xới đất liền kề và nới rộng ra hơn lần trước. Ngoài ra, cũng có thể rải phân xunh quanh gốc dừa sau đó bồi bùn vào đầu mùa mưa. Trên vùng đất phèn bón thêm vôi từ 1 đến 3 kg cho một gốc tùy thuộc vào mức độ nhiễm phèn của đất (bón vôi trước, sau vài cơn mưa đầu mùa thì tiến hành bón phân vô cơ).Đối với những vùng đất cao nên tưới nước cho dừa vào mùa khô (tưới 1-2 lần/tuần).

8 – Phòng Trừ Sâu Bệnh Cho Cây Dừa Vàng Tam Quan:

Cây mới trồng 1 đến 2 tuổi hàng tháng phải phun một lần thuốc trừ bọ cánh cứng hại dừa, có thể dùng Vitako hay Regent phun trực tiếp lên ngọn dừa, nếu không chúng cắn phá gây thiệt hại, mất sức dừa. Để hạn chế chuột, kiến vương, đuông phá hại nên thường xuyên dọn nhen dừa, rửa sạch sẽ những lá già, những buồng không đậu trái hoặc đã thu hoạch xong cần chặt bỏ. Dùng 300g mạt cưa trộn với 300g Basudin 10H rải lên các kẻ nách lá từ trên đọt xuống định kỳ 3 tháng/1 lần hoặc dùng vải mùng bọc túi thuốc đã được trộn mùn cưa treo trên ngọn cây hoặc nách lá.Sau khi trồng từ 3,5 đến 4 năm dừa sẽ ra trái, bình quân mỗi năm cây dừa có khả năng cho từ 100 đến 120 trái/cây.

9 – Thu Hoạch và Bảo Quản:

Đối với dừa dùng để uống nước thông thường nhà vườn thu hoạch trái ở quày thứ 6 (chưa được 6 tháng tuổi); tuy nhiên, để xác định được quày dừa 6 tháng tuổi ta có thể tuân thủ theo nguyên tắc như sau: khi quan sát các sẹo lá dừa ta thấy chúng phát triển theo hình xoắn, có cây xoắn theo vòng phải có cây theo vòng trái và một vòng xoắn như thế có 5 xẹo lá ta gọi cây dừa có diệp tự 2/5. Như vậy khi quan sát các quày dừa còn trên ngọn ta có thể quy định quày mới nở là quày số 0, nằm phía dưới quày số 0 là quày số 5, dưới quày số 5 là quày số 10; nếu là dừa ta, dừa dâu đó là tháng tuổi của trái vì hai giống dừa này mỗi tháng trổ một quày, nhưng đối với dừa xiêm thì khác vì nhóm dừa này hai tháng trổ được 3 quày nên quày số 5 chỉ được 4 tháng tuổi mà thôi, vì vậy để thu hoạch dừa xiêm nạo đạt tiêu chuẩn, có phẩm chất ngon ta nên thu hoạch ở quày số 8 trên cây dừa là trái có chất lượng ngon nhất.

10 – Kinh nghiệm và Thị Trường:

 CHÚC QUÝ KHÁCH CÓ MỘT VƯỜN CÂY CHO NĂNG SUẤT CAO!

Nhân Sinh Quan Và Thế Giới Quan Theo Cách Nhìn Của Duy Thức Học

Từ thuở xa xưa cho đến bây giờ khi trí thức của con người đã được nẩy nở, đứng trước vũ trụ bao la, người ta bắt đầu bàng hoàng đánh dấu hỏi:

Và chung kết của nhân sinh như thế nào?

Đó là những vấn đề đã làm cho tất cả các tôn giáo, các thánh nhân, hiền triết từ xưa đến nay, phải dùng hết tâm tư để tìm tòi nghiên cứu

Tuỳ theo nhận thức của mỗi người, sẽ có sự giải đáp khác nhau, và vấn đề nhân sinh bao giờ cũng được giải thích nhịp nhàn theo thuyết vũ trụ.

Như ta biết vũ trụ vạn hữu từ trong một bản thể rộng lớn sinh ra thì nhân sinh cũng là một hiện tượng trong vũ trụ, cũng từ trong bản thể đó mà sinh. Song vạn hữu chân thật hay giả huyễn? – vạn hữu chỉ là cảnh tượng của bản thể, của Tâm Chí Chơn. Tức khi nhân sinh đã đến một trình độ tuyệt đích, thấu rõ thực tướng của vũ trụ, lý trí hợp nhất, đem trí ấy mà chiếu vào sự vật sự vật đều Chân. Ngoài ra, giữa cuộc biến chuyển vô thường muôn vàn cảnh tượng sai khác, vạn hữu chỉ là giả huyễn, khác nào bọt nước, bóng gương.

Từ bao giờ nhân sinh đã quên mình là một phần tử của cái Tâm thể, nhận lấy cái thể riêng biệt là mình, dùng tâm lý sai lầm nhận thức các hiện tượng, nhân đó sinh ra mê vọng điên đảo, do tư tưởng phát động ra hành vi, trong cuộc sống hàng ngày sanh ra ba nghiệp (thân, khẩu, ý) từ ba nghiệp này ảnh hưởng phản lại, cảm thành tập quán, thành kiến tạo nên nguồn sống dục vọng di truyền từ kiếp này sang kiếp khác gọi là dẫn nghiệp (nghiệp lực) mà Đạo Phật gọi là nghiệp thức – những hiện tượng của thế giới nhân loại, từ thân tâm cho đến cảnh vật, đều là phản ảnh trung thành của nghiệp thức ấy do đó mà số chung chúng sinh, đồng nghiệp cảm ứng ra. Hiện ta có thân thể như thế này, do đời trước tạo nghiệp mà sinh. Thân tâm của ta là do một cuộc tập hợp mà có thân tâm tập hợp này là quả thuộc về nhân quá khứ, quả này lại mê lầm, tạo nghiệp làm nguyên nhân cho cuộc tập họp về sau, cứ như thế đời này hết đời sau nối tiếp nhân quả biến chuyển như vòng dây xích, nhân sinh cứ quanh quẩn trong đó chịu lấy vô lượng khổ đau.

Đức Phật Thích Ca đã xuất hiện nơi cõi đời trên 25 thế kỷ, trải qua bao trang sử biến đổi thăng trầm, bước đường truyền giáo không ít gian nguy khó nhọc! Nhưng người xưa đã làm tròn sứ mệnh đem đạo vào đời, thắp sáng đuốc tuệ ở nhân gian. Như thế, xuyên qua dòng lịch sử chúng ta nhận thấy rằng Đạo Phật đi vào đời có cả ba tính chất đó là bi, trí, dũng. Trong đó Duy Thức Học biểu trưng sự vững chải từ thời Đức Phật cho đến ngày nay, là một môn triết học Phật Giáo có chiều dày lịch sử rất quan trọng.

Vì vậy, Duy Thức Học, nếu như người nào nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động, có giá trị thời gian và không gian trong mọi lĩnh vực xây dựng con người tiến bộ cũng như kiến tạo xã hội văn minh theo chiều hướng tâm linh. Ngoài sự thỏa mãn phần nào vấn đề thắc mắc của lý trí, Duy Thức Học còn hướng dẫn con người cải tạo bản thân và biến đổi hoàn cảnh theo nhu yếu của nhận thức để họ sống được hạnh phúc an vui chân thật.

Duy Thức Học dựa trên nguyên lý cấu tạo vũ trụ và nhân sinh theo chủ thuyết Duyên Sinh của Đức Phật Thích Ca chủ trương. Chủ thuyết Duyên Sinh này chính Đức Phật Thích Ca đã tuyên ngôn đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển để độ năm Anh Em ông Kiều Trần Như, sau khi thành đạo nơi cội Bồ Đề. Căn cứ theo chủ thuyết Nhân Duyên Sinh, Duy Thức Học phân tích tính chất, giá trị, ý nghĩa và vai trò của mỗi tâm thức, cũng như tìm hiểu thấu đáo sự quan hệ lẫn nhau giữa các biểu thức (6 thức trước), Tiềm thức (Matna) và siêu thức (Alaya) trong mọi lĩnh vực sinh hoạt, hỗ trợ nhận thức cũng như sự sáng tạo vũ trụ và nhân sinh.

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TIỂU SỬ VÀ Ý NGHĨA SỰ HÌNH THÀNH DUY THỨC HỌC:

1.1. Tiểu sử tác giả và sự truyền thừa:

Như chúng ta biết, đức Phật là người khai sáng và trình bày lý nghĩa Duy thức đầu tiên ở trong các kinh. Do đó, ngài được tôn xưng là thỉ tổ của môn Duy thức học này. Tuy nhiên, đứng về mặt hệ thống hóa, triển khai và tập thành thì Bồ Tát Di Lặc, Vô Trước và Thế Thân là những vị có công rất lớn trong giáo môn này, nên được gọi là các vị tổ sư…

Sau khi Đức Phật nhật diệt khoảng 900 năm có hai bậc đại luận sư nổi tiếng đó là Ngài Vô Trước (Asanga) và Ngài Thế Thân (Vasubandhu) kế thừa tư tưởng truyền bá và phát huy Duy Thức Học thành một hệ thống triết học siêu đẳng, có khả năng định hướng đích thực cho tư tưởng con người và cũng là ý sống thiết yếu của con người trên lĩnh vực thăng hoa. Do đó, Duy Thức Học được gọi là Tâm lý Học thực nghiệm. Ngài Thế Thân là người ở Bắc Ấn sinh vào đầu thế kỷ thứ V Tây lịch, thuộc dòng dõi Bà La Môn. Ngài có ba anh em đều xuất gia theo Phật. Ban đầu Thế Thân tu học theo truyền thống Hữu Bộ sau đó đến Ca Thấp Di La học giáo nghĩa Đại Tỳ Bà Sa Luận, trở về bản gốc là Gandhara soạn bộ Câu Xá Luận tổng hợp giáo nghĩa của Hữu Bộ. Ngài theo lời khuyên của người anh là Vô Trước chuyển qua tu tập theo giáo nghĩa Đại Thừa. Ngài trước tác nhiều bộ luận xiển dương giáo nghĩa Đại Thừa. Trong đó gồm có Duy Thức Tam Thập Tụng, Duy Thức Nhị Thập Tụng, Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận… và nhiều bộ luận nổi tiếng khác. Ngài mất tại nước A Du Đà thọ 80 tuổi.

1.2. Sự Hình Thành Duy Thức Học:

Duy Thức Học là một trong những môn học về Luận Tạng, bắt đầu sự nhận thức hiểu biết về tâm linh nên gọi là Thức. Người trước tác ra môn học này phần đông là các vị Bồ Tát.

Đầu tiên, Đức Phật Thích Ca còn tại thế thường giảng Duy Thức trong nhiều bộ kinh như: Kinh Lăng Già, Hoa Nghiêm, Giải Thâm Mật, Mật Nghiêm, Lăng Nghiêm, Công Đức Trang Nghiêm… cho các hàng Đại Bồ Tát. Trong các pháp hội Ngài Di Lặc (Maitreya) là một vị Bồ Tát đã lĩnh hội được tôn chỉ của môn học này.

Sau khi Phật nhập diệt khoảng 900 năm. Ngài Vô Trước cũng là vị Bồ Tát ra đời, thọ giáo với Bồ Tát Di Lặc tại cung trời Đâu Suất về môn Duy Thức này. Sau khi đắc pháp, Bồ Tát Vô Trước đứng ra khởi xướng thuyết Duy Thức tại Ấn Độ. Em Ngài là Thế Thân cũng theo anh học đạo. Đầu tiên Ngài Thế Thân sáng tác quyển “Duy Thức Tam Thập Tụng”. Quyển sách này được truyền bá khắp nơi trên toàn cõi Ấn Độ. Hệ phái tư tưởng Duy Thức được thành lập từ đây.

Đến thế kỷ thứ VI tây lịch, có nhiều vị Đại Luận Sư lỗi lạc, nổi tiếng về môn học Duy Thức đã xuất hiện tại Ấn Độ như: Thân Thắng, Hỏa Biện, Đức Tuệ, Trần Na, An Tuệ, Nan Đà… mỗi vị đều có sáng tác và chú thích nhiều bộ luận nhằm để phát huy tư tưởng Duy Thức Học.

Đến đời nhà Đường (Trung Hoa) niên hiệu Trinh Quán thứ 3 (636 TL) có Ngài Pháp Sư Huyền Trang du học ở Ấn Độ, tại đại học Na Lan Đa, Ngài thọ giáo với Luận Sư Giới Hiền về môn Duy Thức Học hơn 10 năm. Sau khi về nước, Ngài Huyền Trang đứng ra phát huy tư tưởng Duy Thức khắp Trung Hoa với tác phẩm Thành Duy Thức Luận do Ngài sáng tác. Ngoài ra Ngài Huyền Trang còn dịch nhiều bộ luận rất liên hệ về môn Duy Thức Học, chuyển ngữ từ chữ Phạn ra chữ Hán. Đệ tử của Ngài Huyền Trang có các Ngài như: Khuy Cơ, Tuệ Chiếu, Trí Châu,… thay nhau truyền bá môn học này.

Mãi đến Dân Quốc năm 1912 có cư sĩ Phương Nhơn Sơn ở Nhật Bản, mang môn học Duy Thức về Trung Hoa phát huy trở lại và thành lập Nội Học Viện China để làm cơ sở nghiên cứu môn học Duy Thức cho những học giả trí thức trong nước, nhờ đó môn học Duy Thức tại Trung Hoa được phục hưng trở lại và mở rộng sang Việt Nam.

Riêng ở Việt Nam, môn học Duy Thức cũng được phổ biến từ lâu. Những Luận Sư nổi tiếng về môn học này như: Thiện Hoa, Tuệ Nhuận, Thạc Đức, Nhất Hạnh… đây là sự tiến trình môn học Duy Thức thành một hệ thống tư tưởng siêu đẳng và đã được lan tràn khắp nơi trên toàn thế giới.

1.3. Định Nghĩa Duy Thức Học:

Duy: Tiếng Pali gọi là Matratã, nghĩa là Chỉ Có.

Thức: Tiếng Pali gọi là Vijnãna (Consciousness) nghĩa là hiểu biết.

Duy thức có nghĩa là: Chỉ có thức, vạn vật do thức biến hiện. Có thể dịch là sự biểu hiện hay liễu biệt. Có nghĩa là sự vật là sự biểu hiện của thức, hay vạn pháp chỉ là sự biểu hiện của sự phân biệt.

Duy là duy cái biết, do cái biết, hoặc y nơi cái biết (bỉ y thức sở biến). Muôn sự muôn vật không tự hiện hữu, chỉ hiện hữu khi đủ duyên, chỉ hiện hữu giữa mọi mối quan hệ, lớp này lớp khác trùng trùng vô tận.

Duy Thức còn có nghĩa là các pháp bằng cách này hay cách khác luôn luôn liên hệ với thức, sắc là biểu lộ ngoại tại của thức. Tâm Bất Tương Hành là tên gọi của tiến trình từng phần của thức hiện hành. Vô Vi là tánh tỉnh lặng của thức. Do đó không có pháp nào tách biệt khỏi thức. Duy Thức cũng có nghĩa là tất cả sự vật phải nhờ duyên Thức mà có tên có tướng. Thức tánh là Pháp Giới Tánh, Pháp Giới Tánh duyên khởi ra sự vật thì cũng là thức duyên khởi ra sự vật. Do đó lấy thức là trung tâm chi phối các sự vật trong pháp giới nên gọi là Duy Thức.

Duy Thức Học: Là môn học về tâm thức, nghiên cứu thực tại trên phương diện hiện tượng để từ đó thấy thực tại tuyệt đối. Duy Thức Học chú trọng đến giá trị tâm linh làm nền tảng để mở bày nguyên lý của vạn pháp để đạt đến giải thoát tối hậu.

1.4. Mục Đích Của Duy Thức Học:

Duy Thức Học bắt đầu từ nơi thức để tìm hiểu nguồn gốc của tâm. Nguyên do tâm chính là thể của thức mà thức lại là tác dụng của tâm thể. Tâm thể nếu như không có thì không có thức tác dụng. Thế nên, các nhà Duy Thức căn cứ trên tác dụng của tâm thể mà đặt tên cho nó là thức. Nhưng thức ở đây chính là thức tạng (Alaya). Thức Tạng là một loại tâm thức có giá trị làm căn bản cho sự sanh khởi vũ trụ và nhân sinh. Nghĩa là vạn pháp và con người trong vũ trụ đều phát sinh từ nơi tâm thức này. Đó là lời khẳng định của các nhà nghiên cứu Duy Thức Học. Duy Thức Học còn có nhiệm vụ nữa là tìm hiểu vạn pháp và loài người trong vũ trụ từ đâu sinh ra và ai sinh ra chúng, sinh bằng cách nào ? Các nhà Duy Thức đi đến kết luận rằng: “Vạn Pháp đều do Thức biến hoặc tất cả đều do tâm tạo”. Để chứng minh những lời kết luận trên, chúng ta nên dựa theo những tiêu chuẩn của các nhà Duy Thức để nhận định như sau:

* Thể (Dynamic State): Nghĩa là thể tánh hay bản thể của vạn pháp và con người. Đứng trên lập trường nhân quả mà nhận xét thể ở đây là chỉ cho nguyên nhân (cause) nghĩa là nguồn gốc để phát sinh ra vạn pháp và con người.

* Tướng (Form): Nghĩa là hình tướng, tướng trạng của các pháp và con người, vạn pháp có nhiều hình tướng khác nhau thì nơi thể tính nhất định cũng có nhiều nguyên nhân và chủng loại khác nhau. Nguyên do hình tướng của các pháp và loài người thảy đều phát sinh từ nơi thể tánh của mỗi chủng loại. Cũng như con vịt thì sinh ra từ trứng vịt chứ không thể sinh ra từ trứng chim, trứng ngỗng… được. Tướng ở đây là chỉ cho quả tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

* Dụng (Action): Tức là phần tác dụng của những nguyên nhân đã được phát sinh từ nơi thể tánh. Các pháp trong vũ trụ, có loại có hình nhìn thấy được, có loại không có hình tướng mà người nhận xét chỉ biết qua sự tác dụng của chúng. Cũng như tâm lý của con người hay năng lượng của dòng điện không gian. Dụng ở đây cũng là chỉ cho quả tướng, nghĩa là hình tướng thuộc loại kết quả của những nguyên nhân.

Các nhà Duy Thức căn cứ trên tướng, dụng của các pháp và con người mà khảo sát bằng cách quán chiếu theo phương pháp thiền quán và nhờ đó tìm ra bản thể của chúng, đồng thời biết được chúng từ đâu sinh ra một cách chính xác. Duy Thức Học còn dựa trên thức chi, một chi trong mười hai nhân duyên của Đức Phật đã chỉ dạy là trung tâm khảo sát, nhằm mục đích biện minh cho nguyên lý: “Vạn pháp trong vũ trụ đều do nhân duyên sinh” của Đức Phật chủ trương qua trạng thái Duy Thức biến.

1.5. Lợi Ích Của Duy Thức Học:

Nghiên cứu về Duy Thức Học chúng ta sẽ cảm nhận được rằng đây là một môn học nhằm nghiên cứu những hình tướng duyên sinh của các pháp nhằm tìm hiểu nguồn gốc sinh khởi của chúng. Từ đó giúp cho học giả có thể hiểu rõ về nguyên lý chính tà, chơn vọng để không bị mê hoặc, lầm lẫn bởi những chủ thuyết ảo tưởng, những chủ nghĩa giả tạo. Đồng thời cũng có thể tẩy trừ được những kiến chấp về ngã pháp và giải thoát khỏi nguồn gốc sinh tử luân hồi trong ba cõi. Hơn nữa, Duy Thức còn liên kết được mọi yếu tố cần thiết trong chiều hướng trở về nguồn tâm trí căn bản của chúng sinh để làm nền tảng cho sự chứng ngộ mà những học giả có thể nhận thức được rằng: Ngoài những hiện tượng giả tạo đã được kết hợp bởi hình thức duyên sinh, con người còn có tâm trí ở trong và tâm trí này được chuyển hóa từ tâm thức. Tâm trí này là tâm chân thật không sinh diệt, không nhơ sạch, không tăng giảm… và nó chính là yếu tố vô cùng trọng đại trong mọi lĩnh vực sinh tồn của chúng sinh.

Ngoài ra với tính cách phân tích, mổ xẻ chi li các sự vật phức tạp hiện có mặt trên thế gian này để nhận thức về tính chất, giá trị và ý nghĩa của vạn pháp. Duy Thức Học còn làm thỏa mãn phần nào những dữ kiện mà các nhà khoa học cần đến như nguyên tử, phân tử học cũng không ngoài chủng tử học của Duy Thức. Đồng thời nó còn là mấu chốt quan trọng để giúp cho những nhà học giả Phật Học đi vào kho tàng giáo lý Đại Thừa.

1.6. Điển Tịch Của Duy Thức học:

Qua phần lịch sử chúng ta thấy được Duy Thức Học đã có từ khi Phật Giáo ra đời và liên tục phát huy thành hệ thống hoàn chỉnh. Nhìn trên phương diện tổng quát thì ta thấy tư tưởng Duy Thức tản mác hầu hết trong kinh tạng.

Tuy nhiên dựa trên lịch sử hình thành Duy Thức Tông các Luận Gia Phật Giáo ghi nhận rằng: Duy Thức Học trực tiếp dựa trên cơ sở học lý của 6 bộ kinh và 12 bộ luận sau đây để chứng minh giáo nghĩa Duy Thức của mình. Từ đó về sau các học giả căn cứ vào đấy mà cho là điển tịch chủ yếu của Duy Thức Tông.

* Sáu bộ kinh:

1. Hoa Nghiêm Kinh. 2. Giải Thâm Mật Kinh. 3. Như Lai Xuất Hiện Công Đức Trang Nghiêm Kinh. 4. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Kinh. 5. Lăng Già Kinh. 6. Hậu Nghiêm Kinh.

1. Du Già Sư Địa Luận. 2. Hiển Dương Thánh Giáo Luận. 3. Đại Thừa Trang Nghiêm Luận. 4. Tập Lượng Luận. 5. Nhiếp Đại Thừa Luận. 6. Thập Địa Kinh Luận. 7. Phân Biệt Du Già Luận. 8. Biện Trung Biên Luận. 9. Nhị Thập Duy Thức Luận. 10. Quán Sở Duyên Duyên Luận. 11. A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận.

CHƯƠNG 2: SỰ VẬN HÀNH CỦA TÁM TÂM THỨC:

Năm sự hiểu biết sinh hoạt hiển bày ra ngoài nơi thân thể con người gọi là năm thức trước.

* Nhãn Thức: Cái biết của con mắt, vì thức này nương nơi nhãn căn khởi lên tác dụng phân biệt sắc trần, nên gọi là nhãn thức.

* Nhĩ Thức: Cái biết của lỗ tai, thức này nương nơi nhĩ căn khởi ra tác dụng phân biệt về thinh trần nên gọi là nhĩ thức.

* Thiệt Thức: Cái biết của lưỡi, thức này nương nơi thiệt căn khởi ra tác dụng phân biệt vị trần, nên gọi là thiệt thức.

* Tỷ Thức: Cái biết của mũi. Thức này nương nơi tỷ căn khởi ra tác dụng phân biệt về hương trần, nên gọi là tỷ thức.

* Thân Thức: Cái biết của thân. Thức này nương nơi thân căn mà khởi ra tác dụng phân biệt xúc trần nên gọi là thân thức.

Trong tám thức, vì năm thức này ở bên ngoài và trước nên các nhà Duy Thức mượn các hiện tượng và ý nghĩa của những sự vật bên ngoài do chúng sinh hoạt để đặt tên. Các hiện tượng và ý nghĩa của những sự vật bên ngoài đều là đối tượng của tám thức.

Đầu tiên, Duy Thức Học mượn các giác quan (các căn) nơi thân thể con người để đặt tên cho năm thức ở trước. Vì thế, năm thức cảm giác phát sinh khi căn tiếp xúc với cảnh. Căn là giác quan thuộc về sinh lý (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân). Cảnh là năm đối tượng của năm giác quan gồm có: cái được thấy, cái được nghe, cái được ngữi, cái được nếm, cái được xúc chạm. Căn còn gọi là cơ quan cảm giác có hai phần: phần lộ rõ bên ngoài gọi là Phù Trần Căn như con mắt…; phần tế nhị bên trong gọi là Thắng Nghĩa Căn hay là Tịnh Sắc Căn như: thần kinh thị giác….

Khi thức phát sinh thì luôn bao gồm chủ thể và đối tượng. Nghĩa là cảm giác luôn luôn là cảm giác về một cái gì, tri giác luôn luôn là tri giác về một cái gì. Như vậy, nơi năm căn (năm giác quan) và năm trần cảnh bản chất của chúng thì hoàn toàn là vật chất và chúng được tạo thành bởi bốn nguyên lý gọi là tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Cho nên 5 căn và năm trần cảnh gọi chung là sắc pháp (Form). Sắc pháp là những pháp thuộc về hình sắc của vật chất. Ngược lại 5 tâm thức ở trước thì thuộc về tâm linh và chúng được phát sinh từ nơi hạt giống (chủng tử) riêng biệt của mỗi loại trong tạng thức. Cho nên 5 tâm thức này được gọi chung là tâm pháp (consciousnesses) tổng cộng: năm căn, năm trần, năm thức thành 15 giới (constituents), nghĩa là năm lĩnh vực khác nhau.

Năm thức đều nương nơi năm căn tịnh sắc và nhờ có các duyên mới sinh ra được. Như nhãn thức nhờ chín duyên, nhĩ thức chỉ còn tám duyên, tỷ, thiệt, thân mỗi thức chỉ còn 7 duyên. Ba thức tỷ, thiệt, thân phải hiệp với trần cảnh mới duyên được cảnh; còn hai thức: Nhãn và nhĩ, cách hở trần cảnh mới duyên được. Chúng phàm phu và hàng Nhị Thừa vì chấp pháp nặng nề nên có phân biệt giữa thức và căn. Vì thế mà cả hai đều bị gọi là “Ngu giả”.

“Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn Cửu duyên, bát thất hảo tương lân Hiệp tam ly nhị quán trần thế Ngu giả nan phân thức dữ căn”.

Dịch:(Năm thức đồng nương tịnh sắc căn Chín, tám, bảy duyên ưu gần nhau Ba hiệp, hai rời duyên trần cảnh Người ngu khó biết thức và căn).

Ý thức được xếp vào vị trí thứ sáu đứng sau năm thức trước. Bởi vì tâm thức này có khả năng hiểu biết khá sâu rộng, khá tinh vi hơn so với năm thức trước. Tâm thức có khả năng hiểu biết cả hai phương diện: Khả năng hiểu biết những sự vật có chất lượng duyên sinh, có hiện tướng bên ngoài (Ngũ Câu Ý Thức) và lại còn có khả năng hiểu biết những sự vật không chất lượng duyên sinh, không hiện tướng bên ngoài mà chúng vẫn có mặt đang nằm phía bên trong nội tâm (Độc Đầu Ý Thức). Ý Thức thứ sáu của con người chẳng những có thể hiểu biết lại còn có thể ghi nhớ một cách rõ ràng về tính chất, giá trị, ý nghĩa của một sự vật mà 5 thức trước hoàn toàn bất lực trong sự hiểu biết giống như sự hiểu biết của thức thứ sáu.

Để minh họa cho lập luận này chúng ta hãy nghiên cứu với thực tại bản thân xem, như: Nhãn thức thì có khả năng nhìn thấy hình sắc của một sự vật nhưng không thể nghe được âm thanh của sự vật đó. Ngược lại nhĩ thức thì có khả năng nghe được âm thanh của một sự vật nhưng không thể nhìn thấy hình sắc của một sự vật đó… như thế, năm tâm thức ở trước chỉ có khả năng hiểu biết về tướng của sự vật qua 5 khía cạnh, lãnh vực khác nhau của mỗi loại (sắc, thinh, hương, vị, xúc) và không thể nhận biết được về chiều sâu tính chất, giá trị, hay ý nghĩa của sự vật đó. Sau khi năm thức trước ngưng hoạt động những hình ảnh của sự vật vừa nêu trên nếu như không được ý thức nhận thức thì lập tức sẽ bị mờ đi và biến dạng mất.

Vì thế, trong tám thức chỉ có thức thứ sáu này rất lanh lẹ. Do nó nương nơi ý căn mà khởi tác dụng phân biệt pháp trần nên gọi là ý thức. Ý thức rất khôn ngoan lanh lẹ nên trong bài tụng của Duy Thức có câu: “Độc hữu nhất cá tối linh ly” (riêng có cái thức này rất lanh lẹ). Suy nghĩ hay làm việc phải thức này đứng đầu, còn tính toán làm việc ác thì nó cũng hơn cả, bởi thế nó được mệnh danh là: “Công vi thủ tội vi khôi” (Công cán thì hơn hết, tội lỗi cũng đứng đầu). Thức này cũng có công năng chấp ngã và chấp pháp.

Một điều mà học giả thường thắc mắc là tại sao thức thứ sáu gọi là ý thức, mà thức thứ 7 cũng gọi là ý thức. Trong Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận Chuế Ngôn có giải thích như sau: thức thứ 6 mà gọi là Ý Thức bởi vì thức này nương nơi Ý Căn mà khởi ra phân biệt nên gọi là Ý Thức. Nghĩa là Thức của Ý Căn: Thức là năng y, còn ý là bị y, hai phần khác nhau, cũng như nói nhãn thức, tức là thức của nhãn căn, thế là căn với thức khác nhau.

Còn thức thứ 7 mà gọi là ý thức: Chữ Ý là sinh diệt tương tục không gián đọan. Vì thức này sinh diệt tưong tục không gián đọan nên gọi là ý thức. Thế là thức tức là ý, không khác. Cũng như tàng thức, chữ tàng là chứa đựng. Vì thức này chứa các pháp (chủng tử) nên gọi là tàng thức. Thế, thức tức là Tàng không khác.

Mạt na là gọi theo nguyên âm tiếng Phạn, nó còn được gọi là ý căn, vì thức này là căn của ý thức, ý thức nương nơi thức này mà phát sinh; lại còn gọi là thức thứ 7 hay là Truyền Tống Thức. Bởi vì nó có công năng truyền các pháp hiện hành vào Tàng thức và tống đưa các pháp chủng tử ra khởi hiện hành. Còn có tên là ý thức, bởi vì nó sinh diệt không gián đoạn nên gọi là ý. Song sợ người lầm lẫn với ý thức thứ 6 nên thức thứ 7 này chỉ gọi là ý mà không thêm chữ thức. Thức này chỉ nương vào kiến phần của Alaya mà chấp thật ngã và thật pháp. Theo Duy Thức Học, thức thứ 7 là một loại tâm thức có bản chất so đo thương ghét, tính toán thiệt hơn, chấp trước và quản lý vạn pháp một cách kiên cố, vì nó chấp ngã một cách ích kỷ. Tâm thức này không bao giờ tỉnh thức trước những hành động so đo và chấp trước của nó. Cũng nhờ vào sự chấp trước và quản lý vạn pháp thật kiên cố nên nó có thể cung cấp bất cứ hình ảnh nào mang tính cách tiềm năng (Memories) từ trong thức tạng mỗi khi thức thứ 6 muốn nhớ lại một cách chính xác không lầm lẫn. Chính vì thế nó luôn luôn chấp chặt vào những ngã ái, ngã si, ngã kiến, ngã mạn và pháp chấp:

“Tứ phiền não thường câu Vị ngã si ngã kiến Tịnh ngã mạn ngã ái Cập dữ xúc đẳng câu”

Thức Alaya thuộc thức thứ 8. Tâm thức này hoạt động hoàn toàn rất sâu thẳm và rất tinh tế trong phạm vi nội tâm. Chúng ta rất khó phân biệt sự sinh hoạt của Alaya thức một cách rõ ràng. Hình tướng của Alaida thức không biểu lộ ra bên ngoài vật chất giống như sự biểu lộ của các tâm thức khác. Tâm thức Alaya chỉ hoạt động tiềm ẩn bên trong. Cho nên người khảo sát khó nhận diện được Alaya thức trên bình diện khoa học. Nhưng theo sự chỉ dẫn của các vị Tổ sư Duy Thức Học thì thức Alaya không thể thiếu trong sự xây dựng nên một hình tướng chúng sinh được tồn tại. Bởi vì thức nầy được mệnh danh là tàng thức, có 3 khả năng duy trì và chứa nhóm:

* Năng Tàng: Có khả năng chứa nhóm mọi chủng tử (hạt giống) của các pháp.

* Sở Tàng: Là chổ để chứa các pháp. Nói cách khác là tất cả mọi hạt giống thiện ác của các pháp trong thế gian phải nương vào tâm thức Alaya làm tâm địa để sinh khởi.

* Ngã Ái Chấp Tàng: Thức này bị Mạt Na thức chấp làm ngã một cách luyến ái, không chịu buông tha. Bởi vì thức Mạt na mỗi khi hoạt động phải nhờ đến Alaya thức làm giác quan (căn) để hiểu biết và chấp trước. Vì vậy, Mạt Na nhất định phải chấp Alaya làm ngã .

Như vậy, sự kiện sau đây đã cho chúng ta thấy được khả năng tối hậu của Alaya thức. Vị thần đồng Pascal mới lên 7 tuổi đã giải đáp được bài toán Kỷ Hà Học khó nhất của các nhà bác học. Như thế do đâu mà Pascal có khả năng siêu quần thế? Trong khi ông còn rất bé thì làm sao đã học qua nào? Hay sự kiện ở thành phố Santa Cruz, có một cậu bé tên là Adragon de Mello, con của ông Augustin de Mello mới 11 tuổi đã đậu Cữ Nhân toán học vào tháng 6 năm 1988 tại học đường Santa Cruz thuộc tiểu ban California.

Từ những sự kiện và ý nghĩa trên chúng ta thấy rằng: Tâm thức Alaya thật sự là nền tảng căn bản không thể thiếu mặt để cho các pháp sinh trưởng và tồn tại. Bởi vì tất cả mọi hiện tượng đều có hạt giống riêng của chúng. Những hạt giống này được gọi là Ảnh Tử và nghiệp tập khí với hình thức tiềm năng được ẩn chứa trong thức thể Alaya.

Song thức thể Alaya sinh hoạt bằng hai chiều: Chiều hướng thứ nhất là duy trì thân mạng của chúng sinh (thân căn) cũng như duy trì thân mạng của vũ trụ (duy trì khí thế gian); và chiều hướng thứ hai là pháp sinh mọi hiện tượng từ nơi những hạt giống của chúng sanh trong bản thể. Sự chuyển hóa của những hạt giống nói trên trong giai đoạn sanh khởi đều phải tuân theo nguyên tắc nhân duyên sinh và nhân quả nghiệp báo để tạo thành nhiều hiện tượng khác nhau. Như thế thức Alaya đóng vai trò rất quan trọng và là thức căn bản của chủ thể mọi chúng sanh.

CHƯƠNG 3: SỰ CÓ MẶT CỦA CÁC TÂM SỞ

Sao gọi là Tâm Vương và Tâm Sở?

* Tâm vương: Là những tâm thức, như trên đã trình bày luôn luôn làm chủ tất cả mọi sự hiểu biết về các pháp nên gọi là Tâm Vương.

Là những hiện tượng tâm lý phụ thuộc vào tâm vương, chỉ yểm trợ và giúp đỡ Tâm Vương trong sự hiểu biết về các pháp. Nói cách khác, tâm sở theo nghĩa Duy Thức là những tâm lý lệ thuộc Tâm Vương, thừa hành và yểm trợ cho các Tâm Vương trong mọi lĩnh vực hiểu biết về các pháp, nên gọi là Tâm Sở.

Thí Dụ: Nhãn thức thì làm chủ sự nhìn thấy các pháp và ngoài nhãn thức ra không tâm thức nào có thể thay thế để hiểu biết về sự nhìn thấy. Tuy nhiên nhãn thức nếu không có Tâm Sở “Dục” (muốn nhìn) thì cũng không thể thấy được pháp.

3.2. Quan Hệ Giữa Tâm Vương và Tâm Sở:

Qua định nghĩa trên, các Tâm Vương tuy làm chủ tất cả mọi sự hiểu biết, nhưng phải nhờ đến các Tâm Sở giúp đỡ thì mới có thể sinh hoạt với các pháp trần. Các Tâm Vương không thể tự động sinh hoạt để có nhận thức và tạo nghiệp nếu như các Tâm Sở không chịu hướng dẫn và hỗ trợ. Đối với các pháp, các Tâm sở thường xuyên ràng buộc, điều khiển tất cả mọi sự sinh hoạt của Tâm Vương. Các Tâm Sở không cho các Tâm Vương sinh hoạt trực tiếp và hiểu biết đúng nghĩa, lý về các pháp.

Thí dụ: Ý thức Tâm Vương tuy đã hiểu biết sự sân hận là điều tội lỗi, nhưng luôn bị Tâm Sở sân điều khiển, không thể tự chủ và cũng không thể tự xóa bỏ hết sự trói buộc của Tâm Sở Sân mỗi khi gặp phải những điều trái ý.

Vì liên hệ quá nhiều với các Tâm Sở, thành thử các Tâm Vương hình như không còn trung thực trong mọi lĩnh vực nhận thức về các pháp. Các Tâm Vương hầu hết bị các Tâm Sở lôi cuốn và xúi giục, thường xuyên gây tạo các nghiệp nhân thiện ác để rồi tự mình chuốt lấy những quả báo khổ vui bất an trong thế gian. Các Tâm Sở thì điều khiển gây nhân và các Tâm Vương thì lại thọ hưởng quả báo. Sự quan hệ giữa các Tâm Vương và Tâm Sở được ghi nhận qua hai đặc điểm sau:

* Các Tâm Vương thường xuyên bị các Tâm Sở như: Tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn, đố kỵ, ác kiến… thay nhau xúi giục gây tạo các nghiệp ác như: Sát hại, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ… những nghiệp báo này trở lại lôi kéo các Tâm Vương sa đọa vào những con đường tội ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh).

* Ngược lại, các Tâm Vương nếu như lãnh đạo sáng suốt, tự chủ trong mọi hoạt động hiểu biết của mình thì đồng thời lại được các thiện Tâm Sở như: Tín, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si… ra tay giúp đỡ. Từ đó có thể phát sinh trí tuệ và dần dần giải thoát được khổ đau sinh tử giữa nhân gian.

3.3. Số Lượng Của Các Tâm Sở:

Do tính chất và giá trị khác nhau của các Tâm Sở, nên Duy Thức Học phân chia những trạng thái tâm lý này thành sáu nhóm, gồm có 51 loại như sau:

a. Biến Hành Tâm Sở có 5 loại. b. Biệt Cảnh Tâm Sở có 5 loại. c. Thiện Tâm Sở có 11 loại. d. Căn Bản Phiền Não có 6 loại. e. Tùy Phiền Não có 20 loại. f. Bất Định Tâm Sở có 4 loại.

– Biến Hành Tâm Sở: Năm tâm lý này có mặt cùng khắp ở bốn vị trí đó là: Không gian, thời gian, thức và địa vị (xứ ). Xúc, Tác Yù, Thọ, Tưởng, Tư.

– Biệt Cảnh: Năm loại tâm lý này, mỗi loại sinh hoạt riêng lấy một cảnh giới riêng biệt nhau và tạo nghiệp không giống nhau. Mỗi loại sinh hoạt không quan hệ với nhau và cũng không thể giúp đỡ lẫn nhau chung một hoàn cảnh, năm loại là: Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Tuệ.

– Thiện Tâm Sở (Vistuous Mental Factors): Bản tánh ưa thích và chuyên cần làm việc lợi ích, tất cả những pháp lành ở thế gian đều nương nơi 11 món Tâm Sở này mà sinh trưởng, nó cũng là nền tảng cho sự tu tập giải thoát. Mười một món là: Tín, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si, khinh an, bất phóng dật, tinh tấn, hành xả và bất hại.

– Căn Bản Phiền Não Tâm Sở (Root aflictions): Những Tâm Sở này luôn luôn mê lầm chấp trước và bám lấy những ngã tướng giả dối, những pháp tướng không chân thật, cho là thật thể. Nó còn có tên là “Câu Sinh Phiền Não” nghĩa là những phiền não cùng sanh ra một lúc với con người. Nó là gốc rễ của vô minh. Gồm có sáu loại: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi,Ác Kiến.

– Tùy Phiền Não: Là những tâm lý luôn luôn tùy thuộc vào căn bản phiền não. Phạm vi sinh hoạt không giống nhau nên được chia ra làm ba nhóm.

+ Tiểu Tùy: Mỗi loại riêng mình tự sinh hoạt một cách độc lập, không liên hệ với các Tâm Sở khác trong cùng một nhóm. Và mỗi loại chỉ hoạt động trong phạm vi nhỏ hẹp của chính nó. Tiểu Tùy có 10: Phẩn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu.

+ Trung Tùy: Sinh hoạt thường hiển lộ ra bên ngoài rất dễ nhận thấy, thường hợp tác với Tâm Sở cùng loại mỗi khi hoạt động để tạo thêm thế lực. Gồm có 2 loại: Vô Tàm, Vô Quí.

+ Đại Tùy: Hoạt động trong phạm vi rộng lớn và quan hệ khắp các Tâm Sở Bất Thiện để cùng hoạt động. Gồm có 8 loại: Trạo Cử, Hôm Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, Bất Chánh Tri.

– Bất Định Tâm Sở: Nghĩa là Tâm Sở thuộc loại không nhất định là thiện hay ác, chỉ khi nào liên kết với Tâm Sở khác mới nhận định được là thiện hay ác. Bất định có 4 loại: Hối, Miên, Tầm, Tư.

CHƯƠNG 4: TÍNH CHẤT VÀ GIÁ TRỊ CỦA THỨC TRONG YẾU TỐ TẠO THÀNH VẠN PHÁP: (Tạo thành thế giới hiện tượng – nhân sinh và vũ trụ)

4.1. Thành phần của Tâm thức:

Căn cứ trên sự sinh hoạt để hiểu biết về các pháp. Duy Thức Học phân chia mỗi tâm thức thành bốn phần khác nhau để khảo sát. Bốn phần đó là:

4.1.1/ Kiến Phần: Là phần chủ thể của sự hiểu biết hoặc gọi là phần hiểu biết của tâm thức (năng tri) cũng gọi là phần tác dụng của tâm thức tiếp xúc (năng duyên) với sự vật để có hiểu biết.

4.1.2/ Tướng Phần: Là phần đối tượng để hiểu biết hoặc gọi là nơi chốn của sự hiểu biết (Sở Tri) và cũng gọi là sự vật đối tượng khiến cho tâm thức tiếp xúc để hiểu biết. Đây là phần hình tướng (Images) của các pháp làm đối tượng cho tâm thức hiểu biết.

4.1.3/ Tự Chứng Phần: Là phần thể chất của Tâm Thức, phần này có khả năng kiểm soát và chứng thực sự hiểu biết về các pháp hoặc đúng hoặc sai của Kiến Phần nói trên. Đây là chỉ cho khối năng lượng nguyên thể của tâm thức ở trạng thái chủng tử (hạt giống).

4.1.4/ Chứng Tự Chứng Phần: Là phần tướng trạng của mỗi tâm thức. Phần này có khả năng xác định sau cùng cho sự kiểm soát và chứng thực đúng hoặc sai của Tự Chứng Phần. Đồng thời bảo vệ và duy trì phần thể chất của mỗi tâm thức luôn tồn tại với hình thức là Tự Chứng Phần không bị biến thể. Phần này cũng thuộc về căn thức (tính chất) của mỗi tâm thức có nhiệm vụ bảo trì hạt giống tâm thức và hỗ trợ Tự Chứng Phần làm nền tảng cho Kiến Phần nương tựa để sinh hoạt.

Nói chung, Kiến Phần là phần chủ thể, tướng phần là phần đối tượng. Tất cả đều do Tự Chứng Phần của mỗi tâm thức sinh ra. Riêng Chứng Tự Chứng Phần với mục đích là chứng nhận và minh định sự kiểm soát của Tự Chứng Phần trên lĩnh vực nhận thức, đồng thời bảo vệ lấy Tự Chứng Phần của mỗi tâm thức được tồn tại ở vị trí chủng tử riêng biệt không cho biến thể.

Chúng ta thử quan sát hạt đậu xem: ruột đậu tương tợ như Tự Chứng Phần của tâm thức. Vỏ đậu bảo vệ hạt đậu không cho bị hư, tương tợ như Chứng Tự Chứng Phần của tâm thức, bảo trì Tự Chứng Phần không cho biến đổi. Hạt đậu nẫy mầm cũng giống như Kiến Phần của tâm thức tác dụng từ nơi Tự Chứng Phần. Hạt đậu thành hình cây đậu cũng tương tợ như Tướng Phần của các pháp do Kiến Phần của mỗi tâm thức tác dụng sanh khởi.

4.2. Vấn Đề Ngã Tướng và Pháp Tướng:

Con người thường nhìn nhận sự việc bằng kiến chấp nên chẳng những không thông suốt mà còn bị vướng mắc sai sót, chẳng hạn như quan sát địa ốc. Phần đông có thói quen thông thường chỉ nhìn đến những dụng cụ trang bị và những vật liệu xây cất hơn là chú ý đến hai yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc xây dựng nên một ngôi nhà. Hai yếu tố đó chính là ông thợ xây cất và mô hình sơ đồ của cái nhà. Cũng như thế, những nhà nghiên cứu mỗi khi quan sát con người hay vạn pháp vũ trụ. Phần đông cũng chỉ biết nghĩ đến những thành phần thuộc vật liệu như: đất, nước, gió, lửa, nghiệp lực… là những nguyên nhân tạo nên chúng hơn là quan tâm lưu ý đến hai yếu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu trong công việc xây dựng nên con người hay vạn hữu vũ trụ. Hai yếu tố đó chính là Alaya Thức và ngã – pháp. Bởi vì Alaya Thức là chủ nhơn ông, chủng tử của vạn pháp như ông thợ xây cất. Còn ngã tướng và pháp tướng chính là sơ đồ mô hình kiểu vẽ dùng để tạo dựng thành con người hay vũ trụ. Riêng về Ngã Tướng và Pháp Tướng Phật Giáo thường gọi tắc là Ngã Pháp.

4.2.1/ Ngã: Atman. Nghĩa là ta, là tôi [1, qII, 351]. Tức là chỉ cho cá nhân của một vật thể, một chúng sinh có đặc tính tự chủ trong mọi hành động, có khả năng phân biệt để hiểu biết các pháp nên gọi là ngã.

4.2.2/ Pháp: Dharma – Dhamma: Bất kỳ việc chi dầu nhỏ dầu lớn, hữu hình hay vô hình, tốt hoặc xấu, hữu vi hay vô vi, chơn thật hay hư vọng đều có thể gọi là Pháp. Nó cũng có nghĩa là quy chế, phép tắc tức là chỉ cho những sự vật tự nó duy trì được đặc tính, khuôn khổ riêng biệt của chúng, để cho ý thức của con người nhận biết nó là vật gì, nên gọi là pháp “Nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải”. [1, qII, 553]

4.2.3/ Ngã Tướng: Là hình tướng riêng biệt của mỗi con người, mỗi chúng sanh hữu tình đứng vào địa vị làm chủ về phương diện phân biệt hiểu biết, cũng như làm chủ về phương diện hành động sáng tạo những nhu cầu cần thiết cho sự sống còn của mọi loài chúng sanh nói chung, của mỗi cá nhân nói riêng.

4.2.4/ Pháp Tướng: Là hình tướng khác biệt của mỗi pháp trong thế gian, chỉ đứng vào địa vị làm đối tượng cho sự phân biệt hiểu biết của con người hay của chúng sanh hữu tình. Pháp tướng đây chính là chỉ vào các sự vật hiện có mặt trong thế gian, đang bị quan sát (khách quan), đang bị sử dụng để làm bối cảnh trang trí cho con người và các chúng sanh hữu tình nương tựa để sinh hoạt.

Vạn vật trong vũ trụ, mỗi pháp đều có hình tướng riêng biệt, không có pháp nào giống hoàn toàn với pháp nào. Nhờ hình tướng khác biệt này, con người không bị lầm lẫn mỗi khi nhận thức một hiện tượng nào. Cũng như trường hợp hai người sinh đôi cùng phái với nhau gọi là đồng tính, cùng một dòng máu huyết sinh ra. Nhưng nếu chúng ta nhìn cho kỹ vẫn thấy hai đứa bé có một hình tướng khác biệt không giống nhau hoàn toàn. Cho nên, hình tướng chúng sanh thuộc loại hữu tình thì gọi là Ngã Tướng, còn chúng sanh thuộc loại vô tình thì gọi là Pháp Tướng. Nhưng thực tế, vạn pháp trong vũ trụ chỉ có một tên gọi chung đó là Pháp. Theo Duy Thức thì gồm có 100 pháp và chia thành 5 nhóm:

– Tâm Pháp. – Tâm Sở Hữu Pháp. – Sắc Pháp. – Bất Tương Ưng Hành Pháp. – Vô Vi Pháp.

Thế nào gọi là chúng sanh hữu tình và chúng sanh vô tình ?

4.2.5/ Hữu tình chúng sanh: Là những chúng sanh có sự sống tình cảm thương ghét và có phân biệt hiểu biết, có xúc chạm nóng lạnh, sướng khổ, ham sống sợ chết… như các loài động vật, sinh vật, bao gồm cả con người. Để xây dựng một hình tướng cho các loại chúng sanh hữu tình nói trên và mục đích nghiên cứu nên Phật Giáo đặt tên là Ngã Tướng.

4.2.6/ Vô Tình Chúng Sanh: Là những loài sống không có tình cảm thương ghét, không có phân biệt hiểu biết, không có cảm giác nóng lạnh, khổ vui,… nhưng chúng vẫn có sự sống để duy trì và phát triển nên gọi là Pháp Tướng.

Ngã Tướng và Pháp Tướng vừa nói trên là căn cứ nơi nguyên lý cấu tạo vạn pháp mà thành lập, chứ không phải căn cứ nơi triết học suy luận để định danh. Còn đứng về khía cạnh khác mà nhận xét; nếu như căn cứ trên quan niệm về chủ thể và khách thể để định danh vạn pháp trong vũ trụ về phương diện danh xưng thì luôn luôn không cố định; có khi gọi là ngã tướng, có khi gọi là nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng và có khi gọi pháp tướng… các pháp sở dĩ có những danh xưng khác nhau vừa kể trên được thành lập là do căn cứ trên triết học suy luận để phân loại. Nghĩa là triết học suy luận dựa trên quan niệm chủ thể và khách thể để nhận thức và chấp trước chúng sanh hữu tình mà qui định danh xưng.

Tóm lại, ngã tướng và pháp tướng là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu mặt cho việc xây dựng vũ trụ và con người. Bởi vì nó được phát sinh từ nơi ý thức, ý thức còn gọi là nguyên nhân để phát sinh ra hạt giống nghiệp lực từ nơi hành động (thân nghiệp) từ nơi lời nói (khẩu nghiệp), từ nơi ý tưởng (ý nghiệp). Nghiệp lực này sau khi được ý thức thứ sáu tạo nên liền cô đọng lại thành tiềm năng với hình thức hạt giống nằm trong thức thể (Alaya). Ngã tướng và pháp tướng nếu như không có hình thức hạt giống để làm nhân tố chính thì nhất định vạn pháp và con người không thể thành hình trong vũ trụ. Vũ trụ có bao nhiêu hình tướng khác nhau thì ở vị trí trạng thái hạt giống trong thức thể (Alaya) lại có bấy nhiêu ngã tướng và pháp tướng không giống nhau. Ngã tướng và pháp tướng được thành lập căn cứ trên hai phương diện: Sáng tạo xây dựng và quan sát nhận thức. Cho nên chúng sanh chấp ngã hay chấp pháp đều là vọng chấp những mô hình ảnh tử này cho là thực thể.

4.3. Vấn Đề Dị Thục thức:

Dị Thục Thức là một loại tâm thức được căn cứ nơi hình tướng quả báo mà định danh. Nghĩa là Duy Thức Học căn cứ nơi hình tướng quả báo của tâm thức mà gọi là Dị Thục. Thật ra Dị Thục hay Nhất Thiết Chủng đều gọi là tên riêng của Alaya Thức. Dị Thục chính là Alaya đã bị biến tướng và bị an trụ vào các hạt giống thuộc loại ngã tướng hay pháp tướng để biến thành hình tướng quả báo cho mai sau. Để nhận xét vấn đề được rõ ràng hơn chúng ta hãy căn cứ trên ba khía cạnh của Duy Thức phân định như sau:

4.3.1/ Tự Tướng: Là hình tướng riêng biệt của thức thể Alaya mà các tâm thức khác không thể giống và cũng không có khả năng như thế, nên gọi là tự tướng. Đây là căn cứ nơi tính chất (tàng trữ, duy trì) của Alaya mà xác định. Nói cách khác Tự Tướng của Alaya chính là cái kho tàng trữ tất cả mọi hạt giống của các pháp.

4.3.2/ Nhân Tướng: Là chỉ cho Nhất Thiết Chủng Thức. Nghĩa là tất cả hạt giống của vạn pháp đều được thức thể Alaya dung chứa để làm nhân cho sự sinh khởi về sau. Nhân tướng là hình tướng của tất cả hạt giống của vạn pháp ở trạng thái nguyên nhân. Khi quán chiếu con người biết được tâm thức Alaya qua hình tướng các hạt giống của vạn pháp. Ngoài hình tướng các hạt giống này ra, người ta không thể nhận biết được tâm thức Alaya một cách rõ ràng. Nên Duy Thức đặt tên cho Alaya là Nhất Thiết Chủng Thức.

4.3.3/ Quả Tướng: Là hình tướng đã được kết thành quả báo, căn cứ nơi nguyên lý nhân quả của những chủng tử mà thành lập. Tất cả hạt giống của các pháp đều gọi là nguyên nhân và những hạt giống đó mỗi khi nảy mầm để hiện thành hình tướng quả báo thì gọi là quả tướng. Kiến Phần của thức Alaya khi chung vào biến những hạt giống đó nảy mầm để sinh khởi thì gọi là thức Dị Thục. Thức Dị Thục là tên riêng của Kiến Phần Thức Alaya trên lãnh vực tác dụng.

Dị: Là khác biệt, không còn ở trạng thái ban đầu.

Thục: Chín muồi, là chu trình để cho hạt giống từ lúc nẩy mầm sinh trưởng đến hư hoại.

Dị Thục là sự biến đổi cần có thời gian để cho chu trình phát triển lâu hay mau còn tùy thuộc ở từng chủng tử.

Sự khác nhau giữa hạt giống và nhân Dị Thục: Hạt giống của Nhất Thiết Chủng là kết quả của những nguyên nhân đã được nội kết thành tiềm năng nằm im trong thức thể. Những hạt giống đều mang tính chất Lạc Tạ Ảnh Tử nên có sức sống ở trong. Nghĩa là không có Kiến Phần của Alaya thức chun vô và để xây dựng mặc dù chúng vẫn giữ nguyên bản chất là hạt giống. Lạc Tạ Ảnh Tử với danh nghĩa hạt giống nói trên chỉ là một mô hình của ngã tướng và pháp tướng không di động trong thức thể Alaya. Chúng chờ đợi khi gặp đủ duyên sẽ nảy mầm để hình thành kết quả. Sự kết quả này được gọi là quả Dị Thục, quả này nhằm thọ nhận những quả báo khổ vui của kiếp nhân sinh; còn nhân Dị Thục là một trong những hạt giống nào đó đã đủ duyên và đã được Kiến Phần của Alaya chun vô để hình thành. Một hạt giống được gọi là nhân Dị Thục khi nào nó hàm chứa của Kiến Phần Alaya Thức; và nảy mầm biến tướng chứ không giữ nguyên ở trạng thái hạt giống ban đầu, rồi dần dần kết thành quả Dị Thục.

Đặc tính của Dị Thục là luôn luôn chuyển biến theo luật nhân quả nghiệp báo quyết định và hướng dẫn. Bất cứ một pháp nào trong thế gian, từ nhân Dị thục muốn đến quả Dị thục đều phải trải qua một thời gian biến đổi trạng thái trong sự phát triển và lớn lên. Đặc tính của Dị Thục được phân làm ba loại: Dị Thời nhi thục, Dị loại nhi thục và Biến dị nhi thục.

Tóm lại, thức Dị Thục là tên riêng của Kiến Phần Alaya. Khi Kiến phần của Alaya Thức bị lôi cuốn vào hạt giống ngã tướng và pháp tướng, để xây dựng thế giới nghiệp báo của quả dị thục. Thức Dị Thục tuy không phải là hạt giống nhưng phát xuất từ nơi hạt giống làm căn bản. Thức Dị Thục chuyển biến không ngừng theo thời gian, hình tướng, chủng loại. Nên thức này bị quấy đục, ô nhiễm bởi nghiệp lực, lại sinh hoạt theo nghiệp lực và tồn tại do nghiệp lực quyết định. Nghiệp lực nếu không tồn tại thì thức Dị Thục cũng bị giải thể, nên vì căn cứ trên nhân quả nghiệp báo mà định mức giá trị, Kiến Phần Alaya được Duy Thức Học gọi là Dị Thục Thức.

4.4. Ba Đặc Tính Của Thức (Tam Tánh và Tam Vô Tánh):

Do mỗi pháp đều có một hình tướng riêng biệt không pháp nào giống pháp nào. Ngay cả con cháu trong một gia đình còn không giống nhau mặc dù chúng cùng một cha mẹ sinh ra. Nhưng sự khác biệt về hình tướng của các pháp đều do ngã tướng và pháp tướng của những pháp đó làm kiểu mẫu để xây dựng nên. Qua hình tướng đặc biệt không giống nhau của các pháp nên Duy Thức học chia làm ba nhóm tính chất như sau:

4.4.1/ Tam Tánh:

4.4.1.1/ Biến Kế Sở Chấp Tánh: Là tự tánh của các pháp trong vũ trụ do bởi ý thức dựa theo các duyên bên ngoài rồi suy tính và xét nghiệm để sáng tạo hình tướng các pháp dưới sự điều khiển của Mạt na thức so đo, vọng tưởng và chấp trước nên gọi là Biến Kế Sở Chấp. Những pháp thuộc Biến Kế Sở Chấp còn được gọi là “vô thể tùy hình pháp”[7, qI,196] hay “Hư Vọng Duy Thức” [22, 122] nghĩa là những pháp được hình thành hoàn toàn không có thể chất chân thật, chúng chỉ do tình cảm mê vọng của ý thức phân biệt xây dựng như lâu đài thành phố, máy bay, xe hơi…chúng được góp nhặt trong thế gian ở tư thế bị động tự chúng không có tri giác. Tuy nhiên chúng vẫn có mặt một cách thực tại khách quan.

4.4.1.2/ Y Tha Duyên Khởi Tánh: Tất cả sự vật trong thế gian có sức sống đều phải nương tựa vào kiến phần Alayda để sinh khởi, để lớn lên và tồn tại nên gọi là Y Tha Duyên Khởi Tánh đây là tính chất đặc biệt của các pháp, vạn pháp trong vũ trụ vốn không có pháp nào hiện diện một cách độc lập mà không liên hệ với các vật khác, cũng như không có pháp nào không nương tựa vào kiến phần Alayda mà có thể sinh khởi, có thể lớn lên và có thể tồn tại những pháp trong vũ trụ do kiến phần Alayda quyết định sự sống và sự chết thì được mệnh danh là: “hữu thể thi thuyết pháp” hay “hữu thể chất pháp” [7, qI, 191] nghĩa là những pháp hiện có mặt ở thế gian thuộc loại có thể chất chân thật đều do kiến phần thức Alayda thiết lập và xây dựng theo nghiệp lực chỉ định. Các pháp này được nhận thức qua hai lãnh vực: Giai đoạn sinh khởi và giai đoạn trưởng thành của chúng.

4.4.1.3/ Viên Thành Thật Tánh: Là tự tánh tất cả pháp về mặt chân lý chính là thể tánh chân thật đã thành tựu một cách viên mãn tròn sáng. Tự tánh này nguyên thể vốn là thể tánh chân thật, là nguồng năng lực không biến hoại, không sinh diệt, không tăng giảm, không đến đi… nguồn năng lực đây chính là nền tảng căn bản để cho vạn pháp sinh trưởng theo chiều hướng duyên sinh. Còn đứng về phương diện nhận thức mà xét nghiệm thì phải quán chiếu bằng trí tuệ trực tiếp, phải loại bỏ vọng tưởng phân biệt của ý thức dưới sự ràng buộc của Mạt na thức mới có thể nhận thức được tự tánh Viên Thành Thật của thế giới chân như. Trí tuệ quán chiếu này được gọi là “diệu quan sát trí”.

Như vậy, Y Tha Khởi Tánh nếu xa lìa Biến Kế Sở Chấp, thì Y Tha Khởi trở thành tánh tịnh, tịnh tánh đó gọi là Viên Thành Thật Tánh. Viên Thành Thật Tánh xuất hiện khi nào chuyển được phần nhiễm của Y Tha Khởi Tánh. Như thế Viên Thành Thật và Y Tha Khởi không phải một mà cũng không phải khác. Không phải một là vì Y Tha Khởi là tánh từ nhơn duyên phân biệt sanh. Còn Viên Thành Thật là chơn tánh không từ tha duyên sanh. Song, không phải khác là vì ngoài Y Tha Khởi Tánh, không có Viên Thành Thật Tánh. Như sóng không phải ngoài nước mà có. Hay ngược lại, nước không phải đứng riêng ngoài sóng. Khi biển động thì nước có sóng, khi biển yên lặng thì sóng đó là nước. Nên Thiên Tân Bồ Tát nói: ” cố thử dữ y tha, phi dị phi bất dị” [11, 121]

Tóm lại, trong ba tánh, Y Tha Khởi là chỉ cho các pháp có sức sống, có thể chất, có sự sinh trưởng theo hình thức nhân duyên hòa hợp qua sự xây dựng của kiến phần Alayda thức. Biến Kế Sở Chấp là chỉ cho các pháp không có thật thể, tuy nó cũng được xây dựng theo hình thức nhân duyên hòa hợp nhưng các pháp này không có sức sống, cũng không có sự sinh trưởng. Riêng Thành Thật Tánh là chỉ cho thể tánh chân như của các pháp trong trạng thái tĩnh lặng, thường trú, hoàn toàn không bị chi phối bởi các nguyên lý nhân duyên sinh diệt. Tự tánh Viên Thành Thật chính là pháp tánh chân như thuộc trạng thái nguyên thể, luôn luôn đơn thuần và không biến động. Đây là giá trị của ba tánh để làm phương thức cho sự nhận thức các pháp trong thế gian.

4.4.2/ Tam Vô Tánh:

4.4.2.1/ Tướng Vô Tánh: Là những hình tướng của các pháp hoàn toàn không có thể tánh chân thật. Các pháp Biến kế sở chấp do tâm mê lầm chấp trước mà thành lập, không có thể tướng chân thật, tánh nó vẫn không nên gọi là Tướng Vô Tánh. Hình tướng ở đây tức là chỉ cho Ngã Tướng và Pháp tướng. Cũng như hình tướng của ngôi nhà. Nó không có cái ngã (Ta) để gọi là nhà và cũng không có cái sở hữu (Pháp) của cái nhà. Cho nên tướng ngôi nhà là không có thực thể, chỉ do giả lập mà thành hình, thành danh.

4.4.2.2/ Sanh Vô Tánh: Các pháp đều do duyên sanh, hoàn toàn không có thể tánh chân thật. Một khi duyên tan thì không còn tồn tại một pháp hay một vật. Các pháp do nhân duyên sanh thuộc Y Tha Khởi, không có tự tánh chân thật nên gọi là sanh vô tánh. Lại các pháp này do nhiều nhân duyên sanh ra, không phải tự nhiên mà có, nên cũng gọi là “Vô Tự Nhiên Tánh”[10,124] .Tuy nhiên ở điểm này có nhiều chủ thuyết sai lầm cho là các pháp do biệt tánh tự nhiên sanh ra như đạo Lão nói: ” Muôn vật do lý tánh vô cực tự nhiên sanh ra đạo” hay Nho Giáo nói: “Vạn pháp do lý tánh thái cực tự nhiên sanh ra”. Các luận sư Ấn Độ cho rằng: “Vạn pháp do thật tánh thuần ngã (Phạm Thiên) sanh ra” [7, 139]. Đây là những chủ thuyết sai lệch. Bởi vì, theo Duy Thức vạn pháp đều do Nhân Duyên sanh. Ví như cái nhà không tự nhiên có mà nó phải hội đủ điều kiện (Duyên) như kèo, cột, đòn tay, lá,… và cả ông thợ nữa mới thành hình cái nhà được.

4.4.2.3/ Thắng Nghĩa Vô Tánh: Là chỉ cho những năng lực tiềm ẩn vô cùng quan trọng trước khi sinh khởi ra các pháp. Cũng như những năng lực nguyên thể của Tứ Đại (nói ở trên) nó vượt trội hơn hết những nguyên nhân cùng hòa hiệp với nó để thiết lập vạn pháp, nên nó được gọi là thắng nghĩa. Nghĩa là sau khi hành giả dứt cả ngã chấp và pháp chấp của tâm Biến Kế, chứng được lý Nhị Không, liền thể nhập vào Chân Duy Thức, thấy khắp mười phương tự tướng của các pháp xưa nay vẫn hằng vắng lặng. Đây là Nghĩa đế, tức chân lý tuyệt đối, cũng gọi là Viên Thành Thật Tánh. Thắng nghĩa thuộc về Viên Thành Thật này vì không có tánh chấp Ngã và Pháp, nên gọi là Thắng Nghĩa Vô Tánh.

Có hai căn bịnh của chúng sanh vốn là “chấp trước”. Vì thế, sau khi đã thuyết minh Ba Tự Tánh để cho học giả biết đường ngộ nhập vào Chân Duy Thức rồi, lại e có người chấp ba tánh ấy là chân thật có nên đây mới nói về Ba Vô Tánh.

Ba Vô Tánh được thiết lập cốt để đối trị mối chấp Ba Tự tánh. Trong đây Tướng Vô tánh đối trị mối chấp Biến Kế; Sanh Vô tánh đối trị mối chấp Y Tha; và Thắng Nghĩa vô tánh đối trị mối chấp Viên Thành Thật.

“Tuy nhiên, học giả cũng cần lãnh hội mật ý của Phật nói Ba Vô Tánh là để phá chấp về có Tự Tánh, và nói Ba Tự Tánh là để đối trị mối chấp không thuộc Ba Vô Tánh. Nếu trừ chấp có mà lạc vào chấp không, tất không thể ngộ nhập Chân Duy Thức” [22, 125]. Chính vì để phá trừ cái vọng chấp ấy mà đức Thế Tôn đối với cái “có” của Y Tha và Viên Thành và cái “không” của Biến Kế Ngài nói là Không Tánh [19, 390].

4.5. Sự Khác Biệt Giữa Nghiệp Và Hành:

Theo Phật Học Tự Điển cũng như theo các sách vở đã giải thích, Nghiệp và Hành tuy là khác nhau về danh từ nhưng rất giống nhau về tính chất và ý nghĩa. Nghiệp là năng lực, là hành động tạo tác; Hành cũng là năng lực, cũng là hành động tạo tác. Như thế nghiệp tức là hành và ngược lại không khác. Xét về mặt tính chất danh từ Nghiệp và Hành được giải thích như thế rất hợp lý. Nhưng xét về mặt giá trị, Nghiệp và Hành không hẳn như thế. Cũng như các nhà Bác học thường mang kính trắng, nhưng những người mang kính trắng chưa hẳn là nhà Bác học. Thế nên phải cẩn thận trong việc nhận xét.

Khảo Nghiệm Duy Thức Học nói: “Nghiệp là danh từ chung nhằm diễn tả kết quả về những hành động của một chúng sanh, một con người qua thân nghiệp, khẩu nghiệp hay ý nghiệp. Ngược lại, Hành là danh từ riêng nhằm diễn tả năng lực tác dụng của Vô Minh trong ba cõi(dục giới, sắc giới, vô sắc giới)và cũng là động lực thúc đẩy chẳng những thức thể Alaya bị biến động mà lại còn thúc đẩy những hạt giống nghiệp lực sanh khởi để lôi cuốn Kiến Phần Alaya trong việc ra tay xây dựng mỗi chúng sanh, xây dựng mỗi con người sớm kết thành nghiệp quả…

Nghiệp là một năng lực bao gồm cả thiện nghiệp, ác nghiệp và vô ký nghiệp. Nhưng Hành thì mang bản chất hoàn toàn xấu ác, không có một chút thiện nào trong đó cả. Nguồn gốc phát sinh ra nghiệp chính là ý thức (ý thức là chủ tạo tác: (công vi thủ tội vi khôi) còn “nguồn gốc phát sinh ra Hành chính là căn bản vô minh” [7, qI, 202 – 203].

Thế nào gọi là nghiệp?

Theo Duy Thức Học, nghiệp: karma hay kamma là một loại tập khí, nghĩa là một tiềm năng đã được kết tụ của những hành động. Tiềm năng là khối năng lượng được nội kết và ẩn chứa trong thức thể Alaya, gọi là tập khí. Nghiệp là khối năng lượng thuộc loại biến động và chúng một khi biến động thì khiến cho các pháp bị sinh diệt, biến hóa liên tục trong Tam giới. Sự có mặt của các pháp là do sự thúc đẩy của nghiệp lực và các nhân tố khác cũng vì bị ảnh hưởng bởi nghiệp này nên mới kết hợp lẫn nhau để hiện thành tướng trong thế gian. Đứng trên lập trường Duy nghiệp mà nhận xét; các pháp có mặt ở thế gian đều xuất phát từ nghiệp nhân và bị biến thành nghiệp quả để hưởng thọ quả báo khổ hoặc vui trong thế gian .

Giống như những người có thói quen coi phim, lâu ngày thành tập khí (ghiền) nên mỗi khi rạp có chiếu phim thì những con nghiện có mặt ở đó để rồi khóc cười theo màn ảnh…

Nghiệp có hai loại:

Biệt Nghiệp: Thói quen (tập khí) của một cá thể.

Cộng nghiệp: Thói quen (tập khí) của một nhóm tập thể.

Trong Biệt Ngiệp và Cộng Nghiệp của chúng sanh đều có 3 loại Nghiệp.

4.5.1/ Nghiệp Nhân: Nhân duyên của Nghiệp. Đối nghĩa là Nghiệp quả, quả báo của Nghiệp. Chúng sanh tuỳ thân, ngư,õ ý mà làm lành hoặc dữ. Việc lành hoặc dữ đã thi hành xong thành ra Nghiệp nhân.

4.5.2/ Nghiệp Tướng: Cái tướng của Nghiệp, khi một chúng sanh thọ sự khổ vui trong thế gian nơi Nghiệp quả được biểu hiện ra bên ngoài gọi là Nghiệp tướng.

4.5.3/ Nghiệp Quả: Quả báo của Nghiệp. Cũng viết Nghiệp báo. Cái Nghiệp có hai giai đoạn. Giai đoạn đầu khi chúng sanh vừa làm xong việc lành hoặc dữ bằng thân, miệng, ý sự việc ấy gọi là Nghiệp nhân hay Nghiệp duyên. Tức là gieo giống Nghiệp, đã tạo duyên cớ nghiệp. Giai đoạn sau, khi hạt giống đã mọc lên và sanh trái chín, khi các duyên cớ đã đầy đủ rồi, thì chúng sanh phải thọ lấy quả báo là sự khổ vui… sự việc ấy gọi là Nghiệp quả hay Quả báo. Vậy, thế nào gọi là hành?

Hành là một năng lực có tính cách giống như Nghiệp nhưng nó không phải là Nghiệp. Hành là một năng lực phát sinh từ căn bản vô minh, bản chất hoàn toàn xấu ác. nó chỉ chung cho ba cõi. Hành là động lực của nghiệp lực, thúc đẩy khiến cho các nghiệp lực tự động phát khởi tác dụng, Hành của Vô minh nghiệp tướng tác dụng hai chiều, chiều dẫn nộp và chiều dẫn phát, chính là trục căn bản của vô minh nghiệp tướng. Các điểm sinh mạng của mỗi cá thể chúng sinh cứ liên tục sống chết, chết sống trong cái vòng tròn bánh xe luân hồi. Thể chung của vũ trụ ba cõi là do năng lực Hành quay mãi không dừng và tác dụng mãi không dứt.

Nghiệp sẽ bị hóa giải khi một chúng sinh của nghiệp đó bị tiêu diệt. Trái lại Hành một khi bị hóa giải thì tất cả vạn pháp trong vũ trụ ba cõi đều bị tiêu diệt hoàn toàn. Bởi vì nó có khả năng duyên thức thể Alaya một cách trực tiếp và thúc đẩy thức thể này biến thành thức tác dụng.

Vì giá trị khác biệt giữa Nghiệp và Hành trên lãnh vực nguồn gốc sanh khởi cũng như trên lãnh vực tác dụng, Nghiệp thì phát sing từ nơi ý thức và Hành thì lại phát sinh từ nơi Căn Bản Vô Minh, cho nên Phật Giáo mới dùng danh từ khác nhau để biểu thị giá trị sai biệt của mỗi loại, ngỏ hầu giúp cho người nghiên cứu dễ dàng nhận thức. Xuyên qua những yếu tố sai biệt giữa Nghiệp va Hành đã được trình bày ta có thể xác định rằng Nghiệp không phải là Hành.

4.6. Tính Chất Chủng Tử:

Như đã trình bày ở trên chủng tử là những hạt giống được kết tụ bằng những tiềm năng và tồn tại nơi Alaya thức. Nó mang tính mang tính chất riêng biệt, đa dạng nhưng đại thể Duy Thức Học phân ra làm hai loại:

4.6.1/ Bản Hữu Chủng Tử: là những hạt giống có nguồn gốc, có năng lực nguyên thể. Những hạt giống này phát sinh từ nơi tâm và cũng là nguyên liệu thiết yếu để khởi sinh ra vạn hữu vũ trụ. Bản hữu chủng tử còn có tên là Bản Tánh Trụ Chủng, nghĩa là bản tánh của những hạt giống có nguồn gốc đều an trụ nơi chân tâm để thành hình.

4.6.2/ Thỉ Khởi Chủng Tử: là những hạt giống mới được bắt đầu sinh khởi, mới nội kết thành hình tướng. Nó còn có tên là Tập Sở Thành Chủng Tử, nghĩa là những hạt giống do huân tập kết thành từ nơi hình tướng của các pháp bên ngoài, chúng cũng được tàng trữ và duy trì nơi thức thể Alaya.

Tính chất của hai loại chủng tử này đều riêng biệt, thuần chất không có ảnh hưởng với nhau và không bị các hạt giống liên hệ khác làm biến chất khi còn trong trạng thái nguyên thể. Bản chất của hạt giống Bản Hữu thì hoàn toàn thuộc về năng lực của trí tuệ, mặc dù những năng lực đó đã bị ô nhiễm bởi chất liệu vô minh. Còn bản chất của những hạt giống thỉ khởi thì có hai loại: Một thuộc về nghiệp lực, một thuộc về nghiệp tướng. Hai loại này đều được nội kết từ nơi thế giới nghiệp duyên mà có. Chúng không thể thiếu trong bất cứ trường hợp nào trong việc kiến lập thế giới nghiệp duyên sau này. Ngoài ra còn có một loại Bất Định Chủng Tánh, loại này không liên hệ gì với hai loại trên. Nó không thuộc vào hạt giống sẵn có của chúng sinh không nhất định thuộc hạng Nhị Thừa hay Đại Thừa Bồ Tát.

CHƯƠNG 5: NHỮNG NGUYÊN LÝ QUAN HỆ CỦA THỨC VÀ SỰ HÌNH THÀNH VẠN PHÁP. (Hình thành thế giới hiện tượng – nhân sinh và vũ trụ)

Gọi là Tứ Đại là bởi vì nó có tính cách phổ biến. Có nghĩa là khi ở trạng thái nguyên thể, bốn nguyên lý này có thể biến khắp không gian và bao trùm cả ba cõi. Chúng không thể thiếu mặt trong bất cứ hiện hữu nào của những sự vật. Theo quyển Duy Thức Học của Thạc Đức giải thích: Bốn nguyên lý này gồm có: năng lực chướng ngại, năng lực lưu nhuận, năng lực phiêu động và năng lực viêm nhiệt. Bốn nguyên lý này có tác dụng phối hợp tạo nên vật thể của các pháp trong vũ trụ theo sự điều khiển của Thức Thể. Bốn nguyên lý này là: Đất, nước, gió, lửa.

Theo Duy Thức Học, nguồn gốc phát sinh ra Tứ Đại chính là Alaya thức. bởi vì thức này cũng là một năng lực. Thức Alaya nếu như không kết hợp thì năng lực Tứ Đại không nơi nương tựa để phát sinh. Sự phát sinh năng lực Tứ Đại của Thức Alaya được nhận định bằng những lập luận như sau:

“Trước hết, thức Alaya bị thành nghiệp thúc đẩy và kích động liền biến tướng để tạo thành dòng sinh mạng, thể chung của vũ trụ. Khi biến tướng, năng lượng tác dụng của thức Alaya lại gặp phải những chướng ngại bởi vô số tập khí của cộng nghiệp, là những phiền não có mặt khắp không gian làm ngăn ngại. Thế nên năng lực thức Alaya tác dụng hấp dẫn nghiệp tập khí của khối cộng nghiệp cô đọng thành năng lực chướng ngại của đất. Đồng thời, nhiệt lực của thức Alaya tỏa ra sau khi bị vật cản của nghiệp tập khí liền biến thành năng lượng viêm nhiệt của lửa. Trường hợp này cũng giống như những tia nắng mặt trời bị vật cản của kính lúp xem chữ, liền hội tụ và và cô đọng thành khối nhiệt lượng có thể đốt cháy sự vật.

Trong lúc đó, nhuận lực của thức Alaya ( sức hấp dẫn) tỏa ra biến thành năng lực lưu nhuận và tươi mát của nước. Nhuận lực ở đây tức là chỉ cho sức sống của thức Alaya có mặt trong vạn vật thì vạn vật có sức sống tỏa ra trở nên tươi nhuận. Hành nghiệp kích động và dẫn phát (hướng dẫn để phát khởi), nguồn năng lực của thức Alaya chuyển biến để tạo thành năng lực phiêu động của gió” [7, qI, 226]

Đây là nguyên nhân tạo thành Tứ Đại và chính Tứ Đại là nhân tố giúp cho Alaya thức phát khởi nên vạn pháp trong vũ trụ. Cũng như nguyên liệu và người tạo mẫu của thế giới khách quan.

5.2. Vấn Đề Tự Biến Và Cộng Biến:

Vấn đề này thành lập căn cứ trên tính chất của các pháp để phân biệt, mục tiêu nhằm làm rõ lập trường “vạn pháp do thức biến”. Nghiên cứu về thuyết nghiệp báo của Phật Giáo chúng ta thấy ở đó có phân định ra cộng nghiệp và biệt nghiệp thì tương tự ở đây Duy Thức Học cũng chủ trương chia thành tự biến và cộng biến.

Tự biến là những pháp chỉ do Kiến phần của thức Alaya ở mỗi chúng sanh riêng biệt tự biến thành hình tướng bằng cách xây dựng hệ thống sinh lý riêng biệt cho những pháp đó để tự sử dụng và không liên hệ với những kiến phần trước Alaya khác. Tự biến có hai hình tướng họat động.

– Hoàn toàn tự biến.

– Một phần cộng biến với trong tự biến.

cộng biến là những pháp được hình thành nhờ nhiều kiến phần Alaya thức của các chúng sanh hữu tình liên hệ cùng nhau biến hiện. Cộng biến cũng có hai hình thức như tự biến.

Như thế chúng ta nhận thấy rằng tất cả các pháp hiện có trong vũ trụ, dù lớn như núi, hay nhỏ như vi trần cát bụi. Dù có hình tướng hay không có hình tướng… đều là kết quả của thức biến hiện. Kết quả này đứng trên lập trường nghiệp báo thì đấy là những nghiệp nhân được kết thành nghiệp quả. Những nghiệp báo này được chia thành hai loại: Y báo là hoàn cảnh gánh chịu của chúng san; Chánh báo là thân mạng sinh loại của chúng sanh. Chúng được thọ nhận qua bốn hình thức: Noãn, thai, thấp, hóa để mang một hình tướng của quả báo.

5.3. Vấn Đề Lượng và cảnh: Lượng là tính toán, cân nhắc so lường. Sự phân biệt các pháp có cân nhắc, tính tóan, có khả năng phân biệt so đo hiểu biết. Lượng còn gọi là Năng phân biệt, nghĩa là tâm thức có khả năng phân biệt các pháp. Lượng gồm có ba.

5.3.1/ Hiện lượng: Là hình thái nhận thức trực tiếp, cảm nhận không suy luận tính toán. Nhận thức bằng năm thức cảm giác ( thuần túy cảm nhận). Đối tượng là thế giới tánh cảnh (thế giới thực tại)

5.3.2/ Tỷ lượng: Là hình thái nhận thức gián tiếp qua suy luận, tư duy, tính toán. Đối tượng là đới chất cảnh. Do ý thức nhìn sự vật rồi phân biệt trắng đen, đẹp xấu…

5.3.3/ Phi Lượng: Là hình thái nhận thức luôn luôn sai lầm về các pháp. Hình thái nhận thức do Mạtna điều khiển.

Cảnh là những đối tượng của giác quan hay tâm thức, là những cảnh giới trên mặt hiện tượng của các pháp xây dựng nên. Nó còn được gọi là tướng phần sở duyên. Gồm có ba:

5.3.4/ Tánh Cảnh: Là cảnh thực của sự vật, nó do kiến phần của Alaya xây dựng nên, đay là hình thái thực tại của thế giới hiện tượng, làm đối tượng cho Hiện lượng …

5.3.5/ Đới Chất Cảnh: Là những hiện tượng được tạo thành từ nơi cảnh giới có tính chất chân thật. Nó do thức mê vọng mà tạo nên. Vì thế Đới chất cảnh luôn luôn là ảo tướng không thật (dựa theo cảnh giới khác mà tạo ra hình tướng). Nó làm đối tượng cho Tỷ lượng.

5.3.6/ Độc Ảnh Cảnh: Là những cảnh tượng được tưởng tượng ra bằng tư tưởng chứ thật tế những cảnh này không có mặt trên thế gian. Và nó không tồn tại ở bất cứ nơi nào ngoại trừ ý thức. Cảnh này hoàn toàn thuộc về Phi lượng.

Từ đó cho chúng ta thấy rằng lượng và cảnh là hai: chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức bao gồm tổng thể về mặt hiện tượng giới. Duy thức Học nêu ra là để giải quyết những thắc mắc mà đời thường của con người hay diễn ra trong thực tế. Nó vừa ở lĩnh vực trừu tượng và vừa ở ngay trước mắt bằng những chứng minh cụ thể và thực nghiệm cụ thể. Thí dụ như: Cảnh giới Thiên Đường, Địa Ngục, hay Thổ Địa, Táo Quân … ngoài những lý thuyết ra, có ai đã thấy những thứ ấy bao giờ chưa? Chính vì vậy, chỉ toàn nằm trong tưởng tượng và lẽ dĩ nhiên là nó thuộc về Độc Ảnh Cảnh (Đối tượng của độc đầu ý thức).

Qua những vấn đề nhận thức về hình tướng, thể tánh này Duy Thức Học đã nêu ra để giúp chúng ta thấy được sự sai lầm trong nhận thức thông thường của con người. Từ đó nâng cao nhận thức về duyên sanh của vạn vật, rũ bỏ các vướng mắc chấp thủ của ngôn từ, khái niệm, danh tướng … từ đó thăng hoa tâm thức của mình ngày càng thanh thoát hơn.

5.4. Vấn Đề Có – Không, Đầu tiên và Cuối cùng:

Kiếp sống con người chỉ hạn hẹp trong cái thế giới nhỏ bé của chính mình và chuổi sinh diệt (tuổi thọ) thì lại quá ngắn ngủi, nên rất nhiều những hiện tượng, những thắc mắc ngoài khả năng của họ thì làm sao họ suy hiểu được các pháp một cánh tột cùng. Cũng như xưa kia có người hỏi Đức Phật rằng: “Con người từ đâu sinh ra và vũ trụ do ai tạo? Khi hoại diệt đi về đâu?”… Hàng loạt những câu hỏi như thế. Đức Phật không trả lời mà chỉ khuyên họ tu hành cầu giải thoát hơn là tìm hiểu về nguyên nhân đầu tiên, cuối cùng của vạn pháp.

Như thế, vấn đề có – không cũng ngoài tầm nhận xét của nhân sinh. Như ngài Từ Đạo Hạnh có câu:

“Có thì có tự mảy may Không thì cả thế gian này cũng không Có, không trăng đáy nước. Đừng mắc có cùng không.”[20, 106]

Cho nên, vấn đề này cũng tương tợ như vấn đề đầu tiên và cuối cùng. Tuy Đức Phật không trả lời trực tiếp về những câu hỏi nhưng trong hầu hết các kinh điển chúng ta đã tìm thấy lời khẳng định của Ngài là: Vạn pháp trong vũ trụ không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết thúc cuối cùng.

Sự không trả lời cũng như sự trả lời của Đức Phật cho vấn đề trên. Duy Thức Học đã tìm hiểu và nhận thức được nhiều nguyên nhân:

– Đứng trên tiến trình sinh diệt của vạn pháp chúng ta hãy nhìn nhận chuổi tuần hoàn như: Con gà sinh ra trứng, trứng nở thành gà và gà sinh ra trứng…chuổi tuần hoàn tiếp diễn không có điểm dừng cũng như vòng xiềng xích của 12 nhân duyên từ vô minh đến lão tử và từ lão tử trở lại vô minh. Như thế nó không có điểm dừng hay nói khác hơn là không có đầu tiên và cuối cùng.

– Bởi vì chúng sanh trong vòng sanh diệt thì chỉ dựa trên khả năng chi phối và sáng tạo của ý thức để nhận thức. Nhưng ý thức luôn luôn bị giới hạn bởi hệ thống sinh lý: Thần kinh và não bộ. Vì nó được thiết lập sau sự thiết lập của năm giác quan, theo tinh thần của Duy Thức nghiên cứu về chu trình của thân trung ấm. Như thế, ý thức làm sao vượt khỏi được vòng lưu chuyển để nhận chân được giá trị đầu tiên hay cuối cùng.

– Để nhận định được vấn đề này, chúng ta chỉ còn cách dựa nơi Vô Sư Trí của người xưa để tìm ra giải đáp. Kinh Lăng Già có viết:

” Như hải ngộ phong duyên khởi chủng chủng ba lãng”

Tạm dịch: “Như biển bị gió xao Nhấp nhô sóng nổi dậy”[ 15,78]

Như thế, lượt sóng đầu tiên nổi lên do gió (trần duyên) chính là điểm đầu tiên của vô minh phát khởi. Như thế các pháp có đầu tiên mà không có cuối cùng. Bởi vì từ vô minh phát khởi nên chu tình sinh diệt như một vòng quay (vô minh duyên hành, hành duyên thức,…).

Theo tinh thần Duy Thức căn cứ trên căn bản Vô minh nghiệp chướng và tứ đại thì xác định được các pháp không có nguyên nhân đầu tiên mà có điểm cuối cùng, chính là hai nguồn năng lực trên.

Qua ba hình thái phân định trên cho chúng ta thấy rằng thức Alaya là thể chung của các pháp trong thế gian. Tâm thức này xưa nay như thật không bị sinh diệt và chi phối bởi bất cứ pháp nào. Vạn pháp sở dĩ được sinh khởi là do Alaya xây dựng. Các pháp chỉ hiện hữu phía trong tàng thức và dùng không gian của thức này (cũng như loài cá sinh trong nước và lấy không gian của nước làm môi trường sinh hoạt) làm không gian cho chính mình sinh hoạt. Sự sinh khởi của các pháp được Alaya xây dựng bằng cách khiến cho thể tánh của mỗi pháp từ nơi hạt giống sẵn có nơi thức thể tự động phát sinh thành hình tướng và chúng không phải do Alaya sinh ra trong thế gian. Cho nên hình tướng của các pháp phát sinh thì có sinh diệt, nhưng thể tánh của các pháp thì vẫn tồn tại và không bị sinh diệt biến hoại. Thể tánh của vạn pháp vẫn được thức Alaya tàng trữ và bảo trì, vì thế tâm thức Alaya mới chính là loại Không có nguyên nhân đầu tiên sinh ra và không có điểm cuối cùng để chấm dứt. (Vô thỉ vô chung). Vì theo như chúng ta đã khảo sát thì tất cả pháp đều sanh ra từ Alaya thức này. Vậy, tất cả pháp đều không có nguyên nhân đầu tiên hay điểm chấm dứt cuối cùng.

5.5. Quan Niệm về thế giới của Phật Giáo:

Quan niệm này đã có rất nhiều chủ thuyết mổ xẻ và phân tích mỗi một quan điểm khác nhau. Ở đây đứng trên phương diện của lập trường thiền quán Duy Thức. Xin đưa ra hai phương diện nhận thức về thế giới như sau:

5.5.1/ Lý tưởng thế giới quan: (quan niệm về thế giới lý tưởng): Theo tinh thần Phật giáo, đây là một thế giới thường trụ, thuần túy chân thiện mỹ, an lạc không hư vọng, không sinh diệt biến hoại. Hay còn gọi là thế giới chân như tịch tĩnh. Thế giới này được thành tựu trải qua những giai đoạn loại trừ ngã chấp, pháp chấp. Duy Thức Quán và chuyển từ tám thức thành bốn trí như thật của một chúng sanh. Nói về thế giới này dường như là sự mơ tưởng, nhưng thật ra nó là kết quả hoàn hảo nhất của hành giả đạt được cảnh giới rốt ráo. Cho nên gọi là thế giới lý tưởng.

5.5.2/ Hiện Tượng Thế Giới Quan (quan niệm về thế giới hiện tượng): Thế giới hiện tượng là những cảnh giới vô thường sinh diệt, biến hóa không ngừng. Theo Duy Thức Học thế giới này được thiết lập từ cơ sở của vô minh vọng thức, kết hợp với nguyên liệu tứ đại tạo thành. Còn gọi là thế giới nghiệp duyên. Thế giới này được nhận xét qua hai loại:

Hữu tình thế gian: Là thế giới dung chứa tất cả chúng sanh có sự sống, có nhận thức, và cảm giác nóng lạnh khổ vui… được thiết lập trên cơ sở của ngũ uẩn từ nơi tứ đại thanh khí trong một thân thể của chúng sinh gọi là sắc ấm. Sự tái sinh của chúng sinh trong thế giới này được duy trì bởi thân trung ấm. Thế giới này chính là chánh báo của mỗi chúng sanh.

Khí thế gian: Là thế giới thuộc về y báo của chúng sanh hữu tình. Khí thế gian có loại được thiết lập bằng chất liệu khí quyển (năng lực chuyển động của phong luân và sức hút của cọâng nghiệp qua hệ thống kiến phần của Alaya thức), có loại được xây dựng bằng chất liệu ngũ ấm, có loại được xây dựng bằng chất liệu vọng thức. Khí thế gian gồm có các cảnh giới như sau:

– Dục giới: Bao gồm Ngũ Thú Tạp Cư Địa (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhơn, thiên).

– Sắc giới: Sơ thiền ly sanh hỷ lạc địa, Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa, Tam thiền ly hỷ diệu lạc địa, Tứ thiền xả niệm thanh tịnh địa.

– Vô sắc giới: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Vậy bản thể vũ trụ hay nhân sinh là gồm đủ các công năng huyền diệu siêu tuyệt Thức ấy hình thành. Công năng siêu tuyệt ấy cũng chính là Không. Vì tất cả đều do thức biến hiện. Sự biến hóa ra vạn hữu vũ trụ là moọt hoạt động dĩ nhiên dô các công năng ấy tự nó làm nhân duyên nhân quả lẫn nhau mà sinh hóa, chứ không “đấng” nào làm chủ cả. Nên đối với vấn đề Vũ trụ quan Phật giáo bao giờ cũng chủ trương thuyết Duyên khởi. Muôn vật đều do “nhân duyên” mà có. Ơũ trong hiện tượng giới ta thấy nuôn vật có sinh có diệt, có thỉ có chung, biến chuyển vô thường. Nhưng nếu xét toàn thể vũ trụ đứng về bản thể Thực Tại thì vượt ra ngoài sinh, diệt, thỉ, chung mà vạn hữu là thường trụ, trong chuỗi nhân quả nối tiếp không ngừng, nhân của cái này là quả của cái nọ, quả của cái nọ là nhân của cái kia, triển diễn cùng khắp, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai, ngược về trước tìm đâu thấy có thỉ, ngó lại về sau chẳng thấy có chung, sự biến chuyển vô thường chẳng qua là sự thay đổi về trạng thái mà thôi. Hoặc lại làm cái nhân cho tái sinh, mất rồi lại có, nhân quả tuần hoàn, nhân duyên trùng điệp, ấy là nhân quả tương quan của nhân sinh và vũ trụ, mà đức Phật đã thấy rõ, chứng rõ, thuyết minh ra, chứ không phải suy luận hay ức đoán.

Vạn hữu vũ trụ đã do nhân duyên nhân quả mà có, thì giữa cái hiện tượng là một dây quan hệ, mật thiết chằng chịt lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau, nên Phật giáo bao giờ cũng xem vũ trụ là một khối duy nhất, nhịp nhàng, chứ không phải từng cá thể riêng biệt mà ” người ta hay muôn vật” là những phần tử của cái toàn thể, nhưng phần tử ấy có một xã hội tính triệt để, tức là tính Duyên khởi. Muôn vàn cảnh tượng biến hiện trên thế gian như những làn sóng trùng trùng điệp điệp trên biển cả. Sóng tức nước, hiện tượng tức bản thể, to như vầng thái dương, nhỏ như vi trần, đều là hiện thân của chân lý. Đức Phật là đấng sáng suốt Từ Bi rộng lớn, các đệ tử Phật luôn luôn sống bên người, gần vật, để sang sẽ lòng thương, chia vui bớt khổ, đặng sống nhịp nhàng theo bản thể vô biên và tuyệt đích.

5.6. Phương pháp quán Vạn pháp vốn không để đạt đến giải thoát

Theo đạo Phật thì không có khổ đau với người không có sở hữu. Vô sở hữu có nghĩa là không chấp thủ, bám víu vào các pháp. Có nghĩa là hành giả phải sống tuỳ duyên không cố chấp, thì mới không có khổ đau và hợp với đạo. Như sơ tổ Trúc Lâm nói trong Cư Trần Lạc Phú:

“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.

Dịch:“Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên Đói đến thì ăn nhọc ngủ liền Trong nhà có báu thôi tìm kiếm Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền” [20, 308]

Vậy, cái “vô sở hữu” ở đây phải hiểu thế nào theo phương pháp quán vạn pháp vốn không? Theo người viết, đây là người đã phá được Ngã và Pháp. Tức là đã thấy được Ngã không và Pháp không. Nay người viết xin giới thiệu một pháp quán tâm đắc, mong có lợi ích đến với các độc giả.

Khi đã nói “vạn pháp vốn không” có nghĩa là Ngã không và Pháp không, cũng có nghĩa là Nhân sinh không mà Thế giới cũng không. Bởi vì như đã nói ở trên các pháp đều do Thức biến, do Nhân duyên hòa hợp mà sanh. Cho nên, dù là các pháp hữu lậu hay vô lậu đều từ thức biến chuyển sinh ra, do tâm phân biệt cố chấp mà có. Cũng như nói Vô minh và Chơn như; Địa ngục và Niết bàn… bởi vì khi có Vô Minh Phiền Não thì mới phân biệt có Chơn Như.

Hay nói khác hơn là lập ra Chơn như để đối trị với Vô minh Phiền não, để chúng sanh thấy rõ mà tu hành chứ Chơn như và Phiền não là lập ra hai pháp đối lập khi còn là chúng sanh; khi hết Phiền não thì Chơn như cũng không còn, nó chỉ là một thể nhất như không nhơ không sạch không danh không tự. Cũng như khi chúng sanh còn mê muội thì mới có nói Niết bàn để chúng sanh hướng tới và đi về. Vì Niết bàn là chỗ hết phiền não trong tâm chúng sanh, khi hết phiền não thì liền có Niết bàn chứ đâu cần phải đi tới Niết bàn. Như vậy, Vô minh như những đợt sóng trồi lên sụt xuống nhưng kì thực nó cũng vẫn là nước nằm trong đại dương bao la không thêm không bớt. Nếu có thêm chẳng qua ta thêm cho nó một danh từ là “sóng” mà thôi, nhưng tánh của nó cũng vẫn là tánh của nước không gì khác.

Vì thế, ta biết không cần gây nhân vô lậu gì cả, vì các chủng tử vô lậu trong Alaya là chánh nhân để thành Phật, gọi là Phật tánh, cũng gọi là Chơn như đã có sẵn rồi, nếu còn gây nhân tức là còn hữu lậu. Chỉ cần không gây nhân thì những chủng tử vô lậu tự phát sinh. Tự phát sinh đây có nghĩa là đã có sẵn không cần tìm kiếm, không cần gây nhân gì nữa cả. Do đó, ta phải biết Chơn như là một thể trong sáng bất biến không một sự ô nhiễm, không một sự phân biệt, có sẵn và thuần túy. Còn Vô minh là phiền não chấp trước có cùng một lúc với Chơn như tức là từ vô thỉ. Tức là nó có phân biệt khi Chơn như không giữ được thể tánh trong sáng của chính mình (vì có vô minh). Vì có Chơn như cùng ở chung với Vô minh nên bất giác sanh nhiễm pháp nên huân tập lại Chơn như, vì có sự huân tập lại này nên có vọng tâm, vì có vọng tâm nên có vọng cảnh (chỉ vì ta cho rằng huân tập lại nên có vọng tâm và vọng cảnh nhưng thực tế thì vạn pháp đều có đủ nơi Alaya không cần phải huân tập lại). Nên ta xác nhận rằng Chơn như và Vô minh đồng thời có, có từ vô thỉ nhưng bất giác vọng động Vô minh phát khởi và hiện hành ta thấy Vô minh có sau Chơn như, thật ra nó chỉ hiện khởi trong một giai đoạn mà Chơn như không giữ thể tánh của mình được trọn vẹn nên Vô minh phát khởi (vì Vô minh ở chung với Chơn như). Vô minh và Chơn như cùng nằm trong Alaya thức, những chủng tử hữu lậu gọi là Vô minh, những chủng tử vô lậu gọi là Chơn như. Tuy hai mà một, tuy một mà hai. Vô minh phiền não vốn đủ từ xưa đến nay chứ không phải nay mới huân tập. Cái nay mới huân tập (tạm gọi là huân tập) đó chỉ làm cho lớn mạnh cái sẵn có trong Alaya thức mà thôi. Cho nên ta biết cái huân tập này chẳng qua là cái Vô minh phiền não từ vô thỉ trồi lên sụt xuống như làn sóng không dừng từ đời này qua đời khác tạo cho ta có cảm giác còn huân tập hoặc phát ra, nhưng kỳ thực nó đầy đủ không thêm không bớt từ xưa đến nay. Chỉ có thể nói là Chuyển các chủng tử hữu lậu thành chủng tử vô lậu mà thôi. Muốn dứt trừ Vô minh, nói dứt trừ chứ thật ra không phải dứt trừ mà là Chuyển. Tức là Alaya thức sẽ được ngăn ngừa không cho phát triển chủng tử hữu lậu nhiễm ô và dần dần Chuyển nó trở thành vô lậu chủng tử. Lúc đó trong Alaya thức hoàn toàn thanh tịnh trong sáng một thể nhất như gọi là Alaya thức chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, khi thức này chuyển thành trí thì bảy thức trước cũng chuyển thành trí hết, lúc đó hành giả thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Để phân biệt rõ các pháp nên người viết đã trình bày về Duy Thức, mà khi đã nói về Duy Thức tức là nói về “năng” và “sở”. Năng là cái “hay biết”; sở là cái “bị biết”. Nếu không có cái “hay biết” thì cái “sở biết” cũng không có. Và ngược lại, nếu không có cái “sở biết” thì cái “năng biết” kia cũng không tồn tại. Tại vì có “sở biết” thì “năng biết” mới phát sinh. Vì chia ra thời gian như vậy chứ thật ra hai cái cùng phát sinh một lần, mà phát sinh này do thức phát sinh, nếu không có thức thì “năng, sở” đều không có mặt mà vạn pháp đều do “năng, sở” này mà có nên ta biết vạn pháp do thức biến hiện ra. Vì thế, ta gọi vạn pháp vốn không(không thực có).

“Thị chư thức chuyển biến, phân biệt sở phân biệt do thử bỉ giai vô”

Khi chúng ta biết vạn pháp vốn không vì vạn pháp đều do sự biến hiện của thức thì ta biết vạn pháp phải do Duyên sanh mà có, mà tồn tại. Có nghĩa là sự hiện hữu của một chúng sanh hay vũ trụ là một chuổi dài duyên khởi của thức. Hay nói cách khác là sự hiện hữu của vạn pháp chính là vòng nhân duyên nhân qủa xuyên qua mười hai Nhân Duyên Sinh.

Theo lý Duyên Khởi, thế giới hiện tượng là do duyên mà sanh, là vô ngã và rỗng không; con người chỉ là tập họp của năm thủ uẩn, là vô ngã và rỗng không, con người và thế giới thì trường tồn bất khả phân ly. Tại đây vũ trụ hiện ra như một phần cơ thể của con người cần được bảo vệ.

Từ đó, nhân sinh hay vũ trụ là huyễn, là vô thường, do mê vọng mà có. Như thế nguồn gốc của nhân sinh hẵn không có giá trị, thì tưởng cuộc sống của nhân sinh cũng chẳng có nghĩa lý gì . Chính thế, nếu nhân sinh cứ mãi vô tư sống triền miên trong mê vọng, thâu vũ trụ vào trong gang tất, nhìn hạnh phúc đời người không ngoài sự cơm ăn, áo mặc chơi bời cho sung sướng thì một ngày nào đó tuổi già lụm khụm, tinh thần uể oải, bấy giờ chỉ thấy cuộc đời lãnh đạm, buồn thiu. Nhìn lại tước, than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? Trông về sau, chỉ thấy lan man vớ vẩn không một lý tưởng gì cao xa, không một nhận định gì xác thực, thì rồi chỉ dần dà đợi đến ngày tắt thở, cho là liễu cuộc đời.

Ôi! Nếu nhân sinh chỉ có thế, và không còn gì hơn nữa, thì thử hỏi cuộc sống của nhân sinh còn có ý nghĩa gì ! Vì thế người hiểu rõ cuộc đời giả huyễn này mà tập trung cố gắng quán chiếu vào lý Duyên Khởi để thấy rõ sự vận hành của Duyên Khởi và các pháp bị tác thành đều vận hành theo vô ngã, vô thường và khổ đau. Con người là một pháp hữu vi là sự vận hành của 12 chi phần nhân duyên sẽ dẫn đến khổ đau nếu tư duy bị chế ngự bởi chấp thủ tự ngã, hay nếu bị tư duy hữu ngã chế ngự. Nếu tỉnh giác vô ngã và tư duy vận hành trong thế giới vô ngã thì sự vận hành tâm lý sẽ dẫn đến sự đoạn diệt khổ đau. Bấy giờ, thế giới (hay tam giới) vẫn còn nguyên ở đó, nhưng lại hiện diện trong vận hành vô ngã của các pháp. Bấy giờ giấc mơ dài của sự an lạc và hạnh phúc trở thành hiện thực.

Mà chúng ta đã biết rằng thức Alaya là thể chung của các pháp trong thế gian. Tâm thức này xưa nay như thật không bị sinh diệt và chi phối bởi bất cứ pháp nào. Vạn pháp sở dĩ được sinh khởi là do thức Alaya xây dựng. Các pháp chỉ hiện hữu phía trong tàng thức và dùng không gian của thức này làm không gian cho chính mình sinh hoạt. Sự sinh khởi của các pháp được Alaya xây dựng bằng cách khiến cho thể tánh của mỗi pháp từ nơi hạt giống sẵn có nơi thức thể tự động phát sinh thành hình tướng và chúng không phải do Alaya sinh ra trong thế gian. Cho nên hình tướng của các pháp phát sinh thì có sinh diệt, nhưng thể tánh của các pháp thì vẫn tồn tại và không bị sinh diệt biến hoại. Thể tánh của vạn pháp vẫn được thức Alaya tàng trữ và bảo trì, vì thế tâm thức Alaya mới chính là loại Vô thỉ vô chung. Vì theo như chúng ta đã khảo sát thì tất cả các pháp đều sanh ra từ Alaya thức này. Vậy, tất cả pháp đều không có nguyên nhân đầu tiên hay điểm chấm dứt cuối cùng.

Vậy biết bản thể của vũ trụ là gồm đủ các công năng nguyên liệu siêu tuyệt ấy chính là Không. Vì tất cả pháp đều do Thức biến hiện. Sự biến hóa ra vạn hữu vũ trụ qua những chi tiết trình bày trên, chúng ta thấy rằng nguồn tư tưởng Duy Thức học do Đức Phật khai thị trước đây đã ảnh hưởng đến đời sống nhận thức và tu tập của chúng sanh. Nó được truyền thừa và tích trữ từ những kinh nghiệm thực tu thực chứng của chư Phật, chư Tổ. Cho nên, kho tàng giáo lý của Phật Giáo rất sống động, thực tế, không mang tính chất giáo điều gò bó hay những thứ triết lý suông, mà nó mang tinh thần bao dung cởi mở thích hợp với thời cơ, căn tánh và quốc độ của mỗi chúng sanh. Tư tưởng triết lý Phật Giáo chỉ đơn thuần là phương tiện nhằm giúp ích cho chúng sanh như thang thuốc, hay chiếc thuyền, mục đích chính là để trị lành bệnh cho chúng sanh và đưa chúng sanh đến bờ giải thoát. Chính vì thế mà trên 25 thế kỷ qua, triết lý Phật Giáo vẫn tồn tại và mỗi ngày một phát triển mạnh. Trong đó tư tưởng Duy Thức Học cũng đã đóng góp một phần rất đáng kể cho sự nghiệp phát triển của Phật Giáo cũng như truyền bá lời Đức Phật dạy làm lợi ích quần sanh.

Đặc điểm của Duy Thức Học là giúp cho chúng sanh xác lập tư tưởng, nhìn về giới hiện tượng bằng nhận thức khách quan chân chính. Từ đó có thể lột trần tự tánh của các pháp để hướng đến thiền quán tu tập giải thoát. Bởi vì thế giới tâm linh phải được soi rõ bằng Chánh Trí mà trí thì không ngoài Thức. Người tu tập muốn phát sinh Chánh Trí thì phải hiểu rõ hành trạng của Thức để rồi dụng công chuyển thức thành trí mới có thể khám phá ra nguyên lý của vũ trụ và nhân sinh.

Nói chung, tất cả các pháp thiên hình vạn trạng, hữu hình, vô hình cụ thể hay trừu tượng đều là đối tượng nhận thức của tâm thức và từ thức biến hiện. Ngoài thức không có pháp nào thiết lập hiện hữu nên gọi là “tam giới duy tâm vạn pháp duy thức”.

Nhân Sinh Quan Phật Giáo Với Cái Nhìn Duyên Khởi

Nhân sinh quan là gì?

Nhân sinh là đời người, QUAN là cái nhìn, quan điểm hay quan niệm của người đời. Nhà Phật gọi chung những thứ này là KIẾN. Như vậy NHÂN SINH QUAN là cái nhìn hay quan niệm của mỗi người về con người ở mọi phương diện.

Từ xưa đến nay, thế giới và nhân sinh là vấn đề luôn được các triết gia Tây phương lẫn Đông phương quan tâm. Các quan điểm này được hình thành tùy theo mức độ phát triển tâm linh, một số lệ thuộc vào nền văn hóa, chính trị, xã hội và sự tiến triển khoa học trong từng thời kỳ. Vì thế có rất nhiều cái nhìn khác nhau về vấn đề này.

Với triết học phương tây, dù khác biệt thế nào chúng vẫn không vượt khỏi hai trường phái là Duy vật và Duy tâm. Duy Tâm là trường phái quyết định ý thức có trước hay ý thức là phần chủ đạo trong sự liên hệ giữa ý thức và vật chất. Duy Vật thì ngược lại, cho vật chất là cái có trước hay cái quyết định trong mối liên hệ đó.

Nền triết học Đông phương mang tính đạo học nhiều hơn triết học. Phần lớn được hình thành từ những thực nghiệm trong quá trình thiền định hơn là được suy tìm thông qua tri thức do suy luận và góp nhặt từ các hiện tượng trong thiên nhiên. Song những cái nhìn này vẫn còn bị hạn chế vì chúng chưa phải là cái nhìn thấu triệt về cội nguồn của pháp.

Những cái nhìn về thế giới và con người khác nhau tạo nên những quan điểm nhân sinh trong các lãnh vực đạo đức, giáo dục, xã hội, chính trị v.v… cũng khác nhau.

Đối với Phật giáo, thế giới quan và nhân sinh quan không phải là những học thuyết mang tính cách giả thuyết nằm trong vòng tri thức như của phương Tây, cũng không mang tính đạo học thiên lệch như ở phương Đông, mà nó là một cái nhìn toàn triệt xuất phát từ sự chứng ngộ của đức Thích ca Mâu Ni. Kinh Thánh Cầu ghi sự chứng ngộ ấy như sau: ” Này các Tỳ khoe, Pháp này do ta chứng đắc sâu xa, là khó thấy, khó hiểu, tịch lặng, tuyệt vời, suy lý luận, vi diệu, chỉ những người trí mơi hiểu thấu. Nhưng chúng sanh thì thích thú trong dục lạc, ưa thích dục lạc, ham thích dục lạc, nên thật sự khó thấy được sự thật của các pháp là do duyên mà khởi sinh” và ” Này các Tỳ kheo, Duyên khởi là gì? Do duyên sanh, lão tử có mặt. Này các Tỳ Kheo! Dù chư Như Lai có xuất hiện ở đời này hay không xuất hiện ở đời, bản chất này của các pháp vẫn thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫ theo duyên như thế. Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng Lý Duyên Khởi “. Như vậy, với cái nhìn của nhà Phật thì Duyên khởi chính là thực lý chi phối toàn bộ thế gian, trong đó có con người.

Theo cách diễn giải của đức Phật về Duyên khởi trong hai đoạn kinh trên, ta có thể định nghĩa Duyên khởi một cách tổng quát như sau: “Duyên khởi là do duyên mà khởi. Nghĩa là vạn pháp ở thế gian không pháp nào có thể xuất hiện một cách riêng lẻ độc lập mà phải nhờ vào duyên pháp mới sanh khởi. Pháp ở đây là chỉ cho tất cả mọi hiện tượng, mọi sự vật trên thế gian, dù đó là một ý tưởng, một nét chữ, một hơi thở, một cọng cỏ hay một con người… Vì Duyên Khởi là thực lý chi phối vạn pháp nên không một pháp nào ở thế gian không là pháp Duyên Khởi. Pháp nhờ duyên mới khởi chứng tỏ pháp không có tự tánh. Vì nếu có một tự tánh thì không cần đến Duyên Pháp vẫn có thể tự khởi. Từ đó ta có các hệ quả sau:

1/ Vì không có tự tánh nên một khí pháp xuất hiện thì phải xuất hiện cùng với duyên của nó. Duyên và pháp đồng hiện trong quan hệ nhân duyên.

Khi Đức Phật nói: ” Duyên khởi là gì? Do duyên sanh, lão tử có mặt” tức sanh và lão tử là pháp Duyên Khởi – Không Tánh thì sanh và lão tử phải xuất hiện đồng thời. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận Trực Giải, ngài Hám Sơn nói: ” Nếu được vô niệm thì thấy tứ tướng đồng thời“. Tứ tướng là Sanh, trụ, dị và diệt.. Vô niệm hay vô sanh hay tánh không… là chỉ cho thực tánh và vạn pháp. Khi ta thể nhập được tánh không của vạn pháp thì ta sẽ thấy bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt xuất hiện đồng thời. Tánh không chính là pháp trong ” pháp này do ta chứng đắc sâu xa, là khó thấy, khó hiểu, khó dịch, tịch lặng, tuyệt vời, siêu lý luận, vi diệu, chỉ những người trí mới hiểu thấu “. Chúng xuất hiện đồng thời vì sanh, trụ, dị, diệt là nhân duyên của nhau. Vì duyên của nhau nên có thì đồng có, không thì đồng không. Chính vì vậy, Đức Phật đã nói các pháp ở thế gian chỉ do tự tâm bất giác vọng hiện không có thực thể. Vì có thực thể thì Sanh và Diệt không thể đồng thời. Thấy có sanh diệt trước sau như hiện nay là do cái mê lầm từ vô thủy mà ra.

Tương tự với các cặp Nhân – quả, sanh – tử, sắc – không, thời gian – không gian v.v… khi xuất hiện thì cũng phải xuất hiện đồng thời.

2/ Vì không tự tánh nên pháp không có một tướng cố định nào mà luôn dời đổi, chuyển biến trong từng sát na. Đây là cắt nghĩa cho luật Vô Thường ở thế gian.

Từ Duyên khởi triển khai thành Nhân duyên và Nhân quả.

, là lý chi phối tất cả vạn pháp ở thế gian. Tất cả pháp hữu vi đều do nhân duyên sinh. Ngài Long Thọ định nghĩa nhân duyên tổng quát như sau: ” Nhân Duyên là cái mà pháp từ đó sinh ra trong cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai “. Trong đó, Nhân là duyên chính trong các Duyên dùng để tạo ra một Pháp mới. Pháp này gọi là Quả. So với Quả này thì tất cả các Duyên tạo ra quả ấy gọi là Nhân, ta có Lý Nhân Quả. Như vậy, Duyên khởi, Nhân duyên và Nhân quả không phải khác nhau nhưng không phải một.

Với một chúng sinh hữu tình thì Nhân duyên được triển khai theo vòng Thập nhị nhân duyên là: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái,thủ, hữu, sanh, lão tử. Vô mình là nhân, hành là quả. Hành là nhân, thức là quả v.v…

Tất cả phiền não đời quá khứ gọi là Vô Minh. Kinh Đại Bửu Tích nói: ” Chẳng biết chẳng thấy Tứ Đế và Thập nhị nhân duyên gọi là vô minh“. Từ Vô Minh sanh nghiệp có thể tạo thành quả một thế giới gọi là Hành. Ngoài ra, Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới nghiệp hay thân, khẩu, ý nghiệp đều gọi là Hành. Trong đời hiện tại lúc sơ khởi thọ thai gọi là Thức. Có tâm, ý, ý thức cũng gọi là Thức. Thức này cùng sinh với bốn uẩn vô sắc và sắc gọi là Danh Sắc. Kinh Đại Bửu Tích nói: “Nếu có thọ, tưởng, tư xúc, tư duy thì gọi là danh. Nếu có tứ đại năng tạo, có sắc sở tạo từ Ca-la-lã đến hóa sanh, hoặc tác sắc hoặc chẳng phải tắc sắc thì gọi là Sắc. Vì Danh, Sắc hiệp nhau nên gọi là Danh Sắc “.

Từ Danh sắc có sáu căn mắt, tai, mũi… gọi là lục nhập. Căn, trần, thức hòa hiệp gọi là Xúc. Từ Xúc có Thọ. Trong Thọ có tâm đắm trước gọi là Ái. Do Nhân duyên khát Ái nên tìm cầu gọi là Thủ. Từ Thủ mà có nghiệp làm nhân cho đời sau gọi là Hữu. Kinh Đại bát Niết-bàn nói: ” Vì sự trong ngoài mà khởi thân, khẩu, ý gọi là Hữu “. Từ Hữu lại chịu ngũ ấm của đời sau gọi là Sinh. Từ Sinh cho đến khi ngũ uẩn chín muồi rồi diệt gọi là Lão Tử.

Nói về nguồn cuội đầu tiên của chúng sinh thì Vô minh là một niệm Bất giác tối sơ của tâm. Do Bất giác tâm động. Ngay khi tâm động này, chân tâm thanh tịnh liền biến thành thức Alaida. Thức Alaida do niệm huân tập thành chủng tử nghiệp lực làm chuyển biến thức Alaida thành Dị thục thức. Thức đây chính là Dị thục thức. Khi đã có năng là cái biết, sở là thế giới và thân căn thì căn lại làm nhân, trần làm duyên cho ra quả là Xúc… Cứ như bậy mà vòng nhân duyên được tiếp nối.

Đây là chu kỳ sinh hóa của một chúng sinh, trong đó nói về con người là chính. Thập nhị nhân duyên cho thấy mặt vô thường của pháp. Từ nhân đến quả là một quá trình sinh diệt nối tiếp không dừng nghỉ. Nhân trước tạo ra quả sau rồi chính quả này lại làm nhân cho quả sau nữa…

, là do tánh các pháp là không, cái không này không thuộc phạm trù có – không, nên bất kỳ một tướng trạng biểu hiện cho một pháp nào đó đều phải do tạo tác mới thành. Vì lý do này, tất cả các pháp có tướng, gọi là pháp hữu vi. Với một chúng sinh hữu tình thì lý Nhân quả vận hành như sau: Một tác động nào đó của ta – gọi là nhân – đủ duyên sẽ sinh ra một quả tương ứng. Nó được chia ra làm hai loại chính:

1/ Nhân quả thế gian: Nhân và quả luôn đồng tính. Nghĩa là nhân lành thì gặp quả lành. Nhân ác thì gặp quả xấu.

2/ Nhân quả xuất thế: Được trình bày qua Tứ Đế là Khổ – Tập – Diệt – Đạo. Trong đó Tập là nhân, Khổ là quả, Đạo là nhân, Diệt là quả.

Tập hay còn gọi là tập nghiệp, là thói quen được huân tập từ đời này qua đời khác. Đó là những kinh nghiệp được lặp đi lặp lại. Có thói quen về hành động, có thói quen về cách suy nghĩ. Thế giới quan và nhân sinh quan cũng là một loại tập về suy nghĩ. Tập nghiệp là nguyên nhân sinh ra khổ cũng là nguồn gốc đẩy con người luân hồi trong sinh tử. Vì tập mà bị trói buộc, hết Tập thì giải thoát.

Con người, thần thánh, ma quỷ hay loài vật… gọi chung là chúng sinh trong lục đạo, đều là kết quả của tập nghiệp đã được huân tập. Từ người thành súc vật hay thành một vị thánh là do tập nghiệp của chính mình. Tập uất giận là nhân đẩy chúng sanh vào đường ngạ quỷ. Tập buông xả thanh tịnh… là nhân làm thành một vị thánh v.v… Hết tập nghiệp thì giải thoát. Tùy mức độ hết tập (từ thô tới tế) mà có các quả giải thoát khác nhau: A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và cuối cùng là A-La-Hán chánh đẳng chánh giác tức thành Phật.

Đạo chính là tiến trình loại trừ các tập nghiệp. Với Đại thừa, Niết-bàn rốt ráo là ” Pháp này do ta chứng đắc sâu xa, là khó thấy, khó hiểu, khó dịch, tịch lặng, tuyệt vời, siêu lý luận, vi diệu, chỉ những người trí mới hiểu thấu” hay như ngài Long Thọ nói ” Không sinh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn… “, nghĩa là không những phải vượt qua những tập nghiệp thuộc bất thiện mà còn phải vượt cả những tập nghiệp thuộc thiện thì mới có thể nhập được loại Niết-bàn này.

Tóm lại, thế gian và con người dưới cái nhìn của Đức Phật chỉ là những thứ huyễn ảo không thực. Nhưng dù là huyễn ảo, nó vẫn có tác dụng “như thực” nếu chúng ta chưa nhận ra được chúng là huyễn ảo. Một khi chúng ta còn chấp thủ vào chúng thì khổ sẽ như thực, hạnh phúc sẽ như thực v.v…. Ta lả chủ nhân của nghiệp và thừa tự quả của nghiệp ấy.

Do tánh của pháp là không nên hiện tướng của nó luôn chuyển biến, chuyển biến nên vô thường, vô thường nên khổ. Do các pháp là pháp Duyên khởi nên hạnh phúc và đau khổ không bao giờ lìa nhau. Vì vậy, khi còn chấp vào hạnh phúc thì cũng có nghĩa là đau khổ vẫn còn lẫn vẫn quanh đó. Chỉ khi ta sống được với cái mà từ đó ta có thể nhận thấy đau khổ và hạnh phúc chỉ là những thứ huyễn ảo không thực, cuộc đời chỉ là một giấc mộng không hơn không kém, thì ta mới có thể đạt được thứ hạnh phúc thực sự. Hạnh phúc này không thuộc phạm trù hạnh phúc và đau khổ đối đãi của thế gian. Đó chính là lúc ta thể nhập được hoàn toàn với Tánh không của vạn pháp. Lúc ấy ” Thế gian cùng niết bàn/ Không một chút phân biệt/…/Không hào ly sai biệt “.

Vì vậy đức Phật dạy: ” Này các đệ tử! Ta nói với các ông, nước ngoài biển khơi chỉ có một vị mặn, đạo của ta dạy cũng chỉ có một vị là giải thoát “. Đó là mục đích cuối cùng cũng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ giáo lý nhà Phật: Giải thoát chúng sanh thoát khỏi kiếp sống huyễn ảo nhưng đầy trầm luân đau khổ.

Khi đề cập đến nhân sinh quan, không thể không đề cập đến vấn đề nhân tính. Dưới cái nhìn Duyên khởi thì tất cả các pháp, trong đó có con người, là không tự tánh. Vì thế, Nhân tính qua lý Duyên khởi chỉ có giá trị tương đối trên mặt hiện tượng. Nhân tính này có được, là do so sanh với các loài khác và có khả năng thay đổi được, nó không có giá trị trên mặt bản thể phổ quát và bất biến. Như vậy, nhân tính chỉ có nghĩa là những tính chất nổi trội nơi một con người, được tìm thấy qua sự so sánh giữa con người và con vật, giữa con người và con người, giữa con người và các vị thánh mà thôi. Và thứ mà chúng ta vẫn cho là tôi, còn được gọi là ngã, được biểu trưng bằng những mặt nổi trội ấy hay bằng những thứ như vui buồn, đau khổ, suy nghĩ v.v… chẳng qua chỉ là những sản phẩm của tập nghiệp. Không tập nghiệp thì Tôi cũng không. Vì thế đức Phật nói: “Ngũ ấm là vô ngã”.

Con người là một chúng sinh ở trên súc vật và ở dưới các vị thánh. Đây là những chúng sinh mà bản ngã của nó vừa là thân xác vừa là tâm linh. Sở dĩ có được điều trên vì chúng sinh này đã có khả năng tự giác, tự biết về mình, có thể kiềm chế các ham muốn của thân xác để phần tâm linh có điều kiện phát triển.

Những thứ gọi là tốt hay xấu, lành hay dữ… nói chung là những biểu trưng cho tính cách riêng của một con người, chỉ là mặt hiện tượng do so sánh với cái ngược lại mà nên và chúng là những thứ do huân tập mà có, chớ không phải là những thứ có sẵn cố định như vậy. Do đó, cái nhìn của ta bị hạn buộc trong một kiếp hoặc trong một khoảng thời gian nào đó, nên ta thấy những thứ được huân tập này như những thứ có sẵn và gắn cho chúng một chữ tánh: tánh sân, tánh hiền v.v… chữ tánh ở đây chỉ biểu hiện tính cách nổi trội và mang tính quyết định trong ý nghĩ và hành động của một người, chứ không có nghĩa tánh ấy là một thứ cố định không thể thay đổi và người ấy hoàn toàn không có những mặt ngược lại. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi thấy một người gọi là tốt, lắm lúc lại có những hành động rất xấu, và một người xấu bất chợt lại có hành động như một vị Bồ-tát. Hoàn cảnh và môi trường sống chính là duyên làm khơi dậy những mặt ẩn tàng trong mỗi con người: Đủ duyên tập sẽ sinh khởi. Do đó hoàn cảnh và môi trường sống chung quanh là một trong các duyên ảnh hưởng rất nhiều đến nhân cách sống của một con người. Song với các vị thánh hay các vị đang đi trên con đường hướng về thánh, thì tùy mức độ phát triển tâm linh mà việc lệ thuộc vào cảnh theo đó có khác, vì họ làm chủ được ý nghĩ và hành động của mình, không bị ràng buộc bởi cảnh. Việc làm chủ này cũng là một loại tập nghiệp đã được huân tập trước đây.

Trong một con người bình thường, ta thấy có hai điểm nổi bật. Một là mặt tình cảm thuộc ái dục và một là mặt lý trí thuộc tri thức. Đó là hai mặt có vẻ đối nghịch trong một con người, chúng là một cặp Duyên khởi – không tánh. Khi mặt tình cảm tăng thượng thì mặt lý trí bị hạn hẹp và ngược lại khi mặt lý trí tăng thượng thì mặt tình cảm sẽ lu mờ. Đối với một vị thánh thì mặt tình cảm thuộc ái dục sẽ chuyển thành đại bi khi phần lý trí trở thành đại trí. Tùy mức độ trí mà có mức độ bi. Trí tuệ càng mở rộng thì lòng bi càng bao la rộng lớn. Đây là một trong các lý do khiến cho một vị Bồ-tát, dù biết cảnh giới và chúng sinh là những thứ huyễn hóa không thực, vẫn xả thân làm tất cả các việc công đức không nhàm mỏi với lời nguyện: “Hóa độ tất cả chúng sanh tận đến vị lai chẳng sót một ai” để mong làm vơi đi những đau khổ trầm luân cho những người mà đối với họ, khổ là một thứ hiện thực.

Con người và xã hội dưới cái nhìn Duyên khởi

Theo những gì đã trình bày thì thân căn và thế giới mà một chúng hữu tình đang thọ nhận, chính là do nội thức của chính chúng sanh đó biến ra. Kinh Lăng-già nói: “Đại Huệ! Bất tư nghì huân và bất tư nghì biến là nhân của hiện thức”. Nghĩa là, chân tâm không tánh niệm niệm bất giác huân thành vô minh. Do đây Nghiệp tướng, Năng kiến tướng và Cảnh giới tướng đồng thời biến hiện. Năng kiến chính là cái biết, Cảnh giới chính là căn, thân và thế giới.

Vì không biết do mê chân tâm mà nội thức biến dường như hiện tiền, lại chấp vào cái hiện tiền này mà tiếp tục phát huy hư vọng, huân rồi lại biến, biến rồi lại huân, cứ vậy mà nối tiếp… Do đó con người, gia đình, xã hội và thế giới không tách rời nhau được.

Trên mặt nhân quả, với những suy nghĩ và hành động có khuynh hướng thiện, ta sẽ có một cảnh giới tốt. Tức chánh báo tốt thì y báo tốt. Cảnh giới tốt, là đời sống về vật chất, các mối quan hệ thân thuộc, hoàn cảnh xã hội và thế giới ta đang thọ nhận đều đem lại cho ta sự tốt đẹp như ý. Đương nhiên sự tốt đẹp nói đây phụ thuộc vào quan niệm xã hội và từng kiếp trong hiện tại, không có một tính chất cố định nào ấn định cho sự tốt đẹp ấy, nên chỉ mượn tạm chữ như ý để nói.

Cũng như nói về hành động thiện, bản thân nó cũng không ấn định dứt khoát một tướng nào gọi là thiện, mà tùy hoàn cảnh tùy sự việc mà có thiện hay bất thiện. Chỉ tạm lấy tiêu chuẩn, những việc gì lợi người lợi mình, hoặc lợi người hại mình hoặc hại ở hiện tại mà lợi ở tương lai, hoặc lợi ngàn người mà hại một vài người thì việc ấy gọi là thiện. Còn căn cứ trên một hình tướng cố định nào đó mà cho là thiện thì điều đó không hẳn đúng. Đây là mặt Duyên khởi của pháp.

Với cái hiện tại ta thấy như thực đây, thì mỗi con người là một nền tảng của gia đình và xã hội. Những thành viên tốt sẽ tạo nên một gia đình tốt và một xã hội tốt Như vậy trên mặt nhân quả hay mặt hiện tại thì còn người cũng là tác nhân chính chịu trách nhiệm về mối quan hệ giữa mình với gia đình, xã hội và thế giới. Vì vậy không nên than vãn về những mối quan hệ mình đang gặp, cũng không nên than vãn về đất nước mình đang cư trú mà hãy nhìn lại chính bản thân mình. Muốn thay đổi một hoàn cảnh xấu hay những mối quan hệ không tốt chỉ có một cách là chúng ta phải tự xem xét lại bản thân, điều chỉnh những lệch lạc ngay nơi thân tâm mình theo chiều hướng thiện. Không phải tìm cách thay đổi cảnh giới hiện tại bằng những hành động bất thiện. Điều này dù có thành công trong hiện tại cũng chỉ là nhất thời, nhưng nó là cái nhân chồng chất thêm những oan nghiệt và khổ não về sau.

Để một người bình thương có thể xây dựng nên một gia đình hạnh phúc và góp phần làm thành một xã hội tốt đẹp, Đức Phật đưa ra năm giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không uống rượu. Rõ ràng các thứ như giết người, cướp bóc rượu chè, mại dâm… là những thứ làm suy đồi và đảo lộn trật tự của xã hội. Vì vậy, để gìn giữ cho quả báo đời sau được tốt đẹp và ngay hiện tại cũng được lợi ích cho gia đình và xã hội thì Đức Phật khuyên mọi người nên giữ năm giới.

Mặc dù giữ được năm giới đã là lợi ích cho bản thân, gia đình, xã hội, nhưng chỉ với năm giới thôi chư đủ để mình xả thân vì người – là yếu tố để con người đạt được sự an lạc thực sự và hình thành nên một thế giới tốt đẹp như thế giới Hoa Nghiêm – vì khuynh hướng vị ngã được huân tập rất sâu trong mỗi con người. Vì thế có thêm Thập thiện. Mười điều thiện này là nền tảng cho tất cả các quả vị từ Nhân, Thiên thừa cho đến Bồ-tát thừa. Gồm có: không sát sanh, không trộm cướp, không tà hạnh, không vọng ngữ, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữ, không tham dục, không sân nhuế và không tà kiến.

Không tà kiến, không tham dục và không sân nhuế là ba điều tối cần thiết để một con người có thể sống vì người khác không biết nhàm mỏi. Rõ ràng khi chúng ta không có cái nhìn thấu đáo về cuộc đời này thì chúng ta không thể dứt tham dục và sân nhuế. Nếu còn tham dục thì không những ta không thể mang lại lợi ích cho ai mà còn tìm cách thủ lợi, thủ danh cho bản thân và những người thân thuộc. Sân nhuế biểu hiện cho bản ngã bị đụng chạm. Còn bản ngã thì sự lợi ích cho người còn bị hạn buộc. Vì vậy dù đưa ra một học thuyết về một cộng đồng xã hội lý tưởng tốt đẹp chăng nữa, nếu học thuyết ấy đặt nền tảng trên những con người đầy tham dục và sân nhuế thì đó chỉ là một học thuyết không tưởng, không thể thực hiện có kết quả.

Duyên khởi với vấn đề đạo đức và giáo dục

Như đã nói, nhân cách của con người hình thành từ sự huân tập mà có. Ý nghĩ và hành động nào được huân tập lâu, tức được lặp đi lặp lại càng nhiều, thói quen càng mạnh, thì ý nghĩ hành động ấy càng kiên cố vững vàng. Những thứ gọi là định kiến là những thứ không phải chỉ mới huân tập trong một đời mà nên. Nhưng dù kiên cố hay vững bền bao nhiêu bản thân chúng chỉ là một pháp Duyên khởi – không tánh. Nghĩa là, vẫn có thể sửa đổi san bằng được. Tuy nhiên thứ gì kiên cố thì việc sửa đổi cần nhiều thời gian và kiên trì. Vì cái có thể thay đổi ấy mà một chúng sinh mới có thể thành một vị Phật.

Vấn đề đạo đức, văn hóa, nghệ thuật… cũng vậy, tất cả đều do huân tập mà có. Một đứa bé với những đức tính nhẫn nhịn, hiền hòa hay chanh chua, khắc nghiệt là do chúng đã được huân tập từ những kiếp trước. Những đức tính này sẽ nẩy sinh phát triển hay ẩn đi và tàn lụi là do môi trường và hoàn cảnh mà chúng đang và sắp trải qua. Đây cắt nghĩa tại sao có những thần đồng về âm nhac, hội họa, toán học hoặc tình trạng thích xuất gia của những đứa bé mới bảy, tám tuổi. Chẳng qua là chúng đã huân tập “điêu luyện” những thứ đó.

Thói quen là yếu tố chi phối đời sống của con người, thì vấn đề giáo dục cũng bắt nguồn từ thói quen mà đi. Cố gắng tạo những thói quan tốt phát triển và hạn chế dần những thói quen xấu mà chủ yếu là từ ý nghĩ. Vì ý nghĩ là cái chi phối mọi hành động. Ngoài ra môi trường và hoàn cảnh là một duyên làm nảy sinh những chủng tử tốt hoặc xấu trong mỗi con người, nên nó là một duyên rất quan trọng đối với một người chưa làm chủ được bản thân mình. Nên nhớ, không có một con người nào hoàn toàn không có một ý niệm bất thiện, mà chỉ có những con người biết làm chủ những ý niệm ấy khi chúng xuất hiện. Khi những thói quen về thiện được vững vàng có sức mạnh, trở thành tính cách của mỗi con người, thì những ý niệm bất thiện dù có cũng chỉ là những cái bóng lướt qua trong tâm họ, không có gì quan trọng.

Vì vậy, một xã hội dù pháp luật có vững mạnh nghiêm khắc bao nhiêu cũng không ngăn ngừa được tội phạm, mại dâm, rượu chè, cờ bạc… nếu như những bài học về đạo đức đới với bản thân, gia đình, xã hội, gói gọn trong năm giới, không được dạy ngay từ môi trường tiểu học, không được huân tập để trở thành ý thức, bổn phận tối thiểu của một con người ngay khi vừa có sự hiểu biết. Đó là vì thói quen xấu một khi đã được huân tập thì con người chỉ còn là tôi tớ của những thói quen xấu ấy mà thôi. Vì vậy, án tử hình hay tù tội là những cái “để đó tính sau” khi mà thói quen có điều kiện bọc phát mạnh.

Phát triển về tri thức nhiều chừng nào thì nền tảng đạo đức càng phải cũng cố nhiều chừng ấy. Chúng là hai mặt không thể rời nhau. Nếu không, nó sẽ là mối nguy hại cho gia đình và xã hội. Vì thói quen vị ngã và tham dục được huân tập quá sâu trong mỗi con người.

Các pháp ở thế gian đều là pháp nhân duyên, vì vậy chỉ cần thay đổi một số duyên trong mớ duyên hiện tại thì ta sẽ có một cái quả mới. Điều này được áp dụng cho mọi lãnh vực trong đời sống này, như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giáo dục v.v… khiến hoàn cảnh sống thêm phong phú. Đời người cũng không thoát khỏi quy luật đó. Đây là chỗ khác biệt giữa đạo Phật và các đạo giáo khác: Không chấp nhận một vận mệnh định sẵn do một đấng tối cao an bài rồi buông tay tới đâu thì tới, cũng không nhận mình là “tác nhân và hưởng quả của chính mình” bằng cách tạo ra những hành động bất thiện để thay đổi số phận của mình. Với người con Phật, nhẫn nhịn chịu đựng hay phấn phát tiến bước chỉ vì lấy nhân quả làm gốc, lấy thiện làm nền tảng. Vì vậy, chúng ta phải có cái nhìn trí tuệ. Việc học Phật là cần thiết để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về thực chất của cuộc sống con người. Từ đó có thể vận dụng chúng vào cuộc sống của mình.

Đức Phật đã nói: “Đạo của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Nghĩa là đạo Phật không phải là một thứ triết học mà là một thứ đạo học. Tức học và hiểu chỉ là bước đầu trong việc học Phật. Quan trọng là thực hành những điều đã học ấy như thế nào. Tư tưởng chủ đạo và mục đích chủ đạo của đạo Phật là giải thoát. Vì vậy không thể chỉ học suông mà phải nương vào những điều đã học ấy mà tu hành. Có tu hành mới có giải thoát. Hòa thượng Khánh Anh nói: “Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là cái đãy đựng sách”. Chúng ta không thể tu mù vì chúng ta có học, nhưng chúng ta cũng không phải là cái đãy đựng sách vì chúng ta là con cháu của Đức Phật.