Mô Là Gì Chức Năng Của Các Loại Mô / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Các Loại Biểu Mô Và Chức Năng Của Loại Mô Sinh Học Này / Y Học Và Sức Khỏe

Biểu mô, còn được gọi là mô biểu mô, là một hợp chất của các tế bào thiếu nội dung giữa các tế bào ngăn cách chúng và được tìm thấy trong tất cả các màng bao phủ cả bề mặt bên trong và bên ngoài của sinh vật.

Cùng với các mô khác, tập hợp các tế bào này đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của phôi thai và trong sự hình thành của các cơ quan khác nhau. Tiếp theo chúng ta sẽ xem biểu mô là gì, chức năng của nó đáp ứng là gì và một số đặc điểm chính của nó là gì.

Biểu mô là gì?

Thuật ngữ có trước “biểu mô” trong lịch sử là “biểu mô”, trong đó Nó được đặt ra bởi nhà thực vật học và nhà giải phẫu học người Hà Lan Frederik Ruysch trong khi mổ xẻ một xác chết. Với thuật ngữ “biểu mô”, Ruysch đã chỉ định các mô bao phủ các khu vực khác nhau trong cơ thể mà ông mổ xẻ. Mãi đến thế kỷ 19, nhà giải phẫu học và nhà sinh lý học Albrecht von Haller mới lấy từ biểu mô và đặt cho nó cái tên “biểu mô” mà chúng ta hiện đang sử dụng.

Do đó, trong bối cảnh sinh lý học và sinh học hiện đại, biểu mô là một loại mô được tạo thành từ các tế bào lân cận (cái này cạnh cái kia, không có các yếu tố nội bào tách chúng ra), tạo thành một loại đĩa.

Những tế bào này, còn được gọi là “tế bào biểu mô”, chúng được gắn vào một màng mỏng. Từ sau được hình thành đến các bề mặt của khoang và các cấu trúc đi qua cơ thể, cũng như các tuyến khác nhau.

Nó ở đâu?

Biểu mô nằm trên hầu hết các bề mặt của cơ thể. Nó bao phủ từ lớp biểu bì (lớp ngoài cùng của da), đến màng bao phủ các kênh và khoang lớn của cơ thể (đường tiêu hóa, đường hô hấp, đường niệu sinh dục, khoang phổi, khoang tim và khoang bụng) ).

Khi nói đến lớp tế bào lót các hốc, biểu mô được gọi là “mesothelium”. Mặt khác, khi nói đến bề mặt bên trong của các mạch máu, biểu mô được gọi là “nội mạc”. Tuy nhiên, không phải tất cả các bề mặt bên trong được bao phủ bởi biểu mô; ví dụ, khoang khớp, vỏ gân và túi nhầy không (Genesser, 1986).

Điều mà tất cả các loại biểu mô đều có điểm chung là, mặc dù là mạch máu, chúng phát triển trên một mô liên kết rất giàu mạch. Biểu mô được tách ra khỏi mô liên kết đã nói thông qua một lớp ngoại bào hỗ trợ chúng, được gọi là màng đáy..

Biểu mô bắt nguồn trong quá trình phát triển phôi cùng với một loại mô khác gọi là mesenchyme. Cả hai mô đều có chức năng hình thành hầu hết các cơ quan của cơ thể, từ tóc đến răng và đường tiêu hóa.

Ngoài ra, các tế bào biểu mô đóng góp một cách quan trọng để phát triển phôi từ giai đoạn đầu, chúng đặc biệt có vai trò quan trọng trong sự phát triển của các tuyến trong quá trình này. Các hoạt động được thực hiện cùng nhau bởi biểu mô và trung mô được gọi là tương tác biểu mô-trung mô.

Chức năng của bạn

Nói cách khác, theo cấu trúc cụ thể của một biểu mô, điều này sẽ thực hiện các chức năng bài tiết, bảo vệ, bài tiết hoặc vận chuyển. Sau đó chúng ta có thể thấy các chức năng của biểu mô theo vị trí của chúng:

1. Trên bề mặt tự do

Trên các bề mặt tự do, biểu mô có mục tiêu chung là bảo vệ cơ thể. Nói bảo vệ là chống lại thiệt hại cơ học, trước sự xâm nhập của vi sinh vật hoặc trước khi mất nước do bay hơi. Tương tự như vậy, và đối với các kết thúc cảm giác mà nó chứa, nó chịu trách nhiệm điều chỉnh cảm giác của xúc giác.

2. Trên bề mặt bên trong

Trên hầu hết các bề mặt bên trong, biểu mô có chức năng hấp thụ, tiết ra và vận chuyển; mặc dù ở một số người khác, nó chỉ đóng vai trò là rào cản.

Các loại tế bào biểu mô

Biểu mô được phân loại theo nhiều cách, theo sự phân bố, hình dạng và chức năng của nó. Điều đó có nghĩa là, một số loại biểu mô có thể được phân biệt theo các tế bào tạo ra nó, theo vị trí cụ thể mà chúng nằm hoặc theo loại lớp mà chúng hình thành.

Ví dụ, theo Genesser (1986), chúng ta có thể chia biểu mô thành các loại khác nhau từ số lượng các lớp ngoại bào mà nó chứa, và theo hình thái của nó:

Biểu mô đơn giản, bao gồm một lớp tế bào.

Biểu mô phân tầng, nếu có hai hoặc nhiều lớp.

Đổi lại, cả eìtelio đơn giản và phân tầng có thể được phân chia theo hình dạng của chúng trong biểu mô hình khối hoặc hình trụ, như chúng ta sẽ thấy tiếp theo:

1. Biểu mô phẳng đơn giản

Bao gồm các tế bào phẳng và dẹt, biểu mô này Nó được tìm thấy, ví dụ, ở thận và trong các khoang lớn như tim, cũng như trong tất cả các mạch máu.

2. Biểu mô khối đơn giản

Bao gồm các tế bào gần như vuông với lõi hình cầu và trong tuyến giáp, trong ống thận và buồng trứng.

3. Biểu mô trụ đơn giản,

Với các tế bào cột và nhân hình bầu dục, nằm trong các cơ sở của các tế bào.

4. Biểu mô phân tầng

Nó là hiếm nhưng được tìm thấy trong các lớp trình điều khiển tuyến mồ hôi.

5. Biểu mô trụ

Với các lớp tế bào sâu và bạn đang trong trình điều khiển bài tiết của các tuyến lớn.

6. Biểu mô chuyển tiếp

Nó được gọi như vậy bởi vì trước khi nó được coi là nằm giữa phân tầng và hình trụ, nó là trong đường tiết niệu và trong bàng quang, vì vậy nó còn được gọi là urotelio.

McCord, K. (2012). Biểu mô. Dự án bách khoa toàn thư phôi. Truy cập ngày 24 tháng 8. Có sẵn tại http://embryo.asu.edu/handle/10776/3946.

Genlie, F. (1986). Mô học Biên tập Panamericana: Barcelona.

Mô Hình Tcp/Ip Là Gì? Chức Năng Của Các Tầng Trong Mô Hình Tcp/Ip

Mô hình TCP/IP là gì?

TCP/ IP (Transmission Control Protocol/ Internet Protocol – Giao thức điều khiển truyền nhận/ Giao thức liên mạng), là một bộ giao thức trao đổi thông tin được sử dụng để truyền tải và kết nối các thiết bị trong mạng Internet. TCP/IP được phát triển để mạng được tin cậy hơn cùng với khả năng phục hồi tự động.

Ý tưởng hình thành mô hình TCP/IP được bắt nguồn từ Bộ giao thức liên mạng trong công trình DARPA vào năm 1970. Trải qua vô số năm nghiên cứu và phát triển của 2 kỹ sư Robert E. Kahn và Vinton Cerf cùng sự hỗ trợ của không ít các nhóm nghiên cứu. Đầu năm 1978, giao thức TCP/ IP được ổn định hóa với giao thức tiêu chuẩn được dùng hiện nay của Internet đó là mô hình TCP/IP Version 4.

Vào năm 1975, cuộc thử nghiệm thông nối giữa 2 mô hình TCP/IP được diễn ra thành công. Cũng bắt đầu từ đây, cuộc thử nghiệm thông nối giữa các mô hình TCP/IP được diễn ra nhiều hơn và đều đạt được kết quả tốt. Cũng chính vì điều này, một cuộc hội thảo được Internet Architecture Broad mở ra, với sự tham dự của hơn 250 đại biểu của các công ty thương mại, từ đây giao thức và mô hình TCP/IP được phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới.

Cách thức hoạt động của mô hình TCP/IP

Phân tích từ tên gọi, TCP/IP là sự kết hợp giữa 2 giao thức. Trong đó IP (Giao thức liên mạng) cho phép các gói tin được gửi đến đích đã định sẵn, bằng cách thêm các thông tin dẫn đường vào các gói tin để các gói tin được đến đúng đích đã định sẵn ban đầu. Và giao thức TCP (Giao thức truyền vận) đóng vai trò kiểm tra và đảm bảo sự an toàn cho mỗi gói tin khi đi qua mỗi trạm. Trong quá trình này, nếu giao thức TCP nhận thấy gói tin bị lỗi, một tín hiệu sẽ được truyền đi và yêu cầu hệ thống gửi lại một gói tin khác. Quá trình hoạt động này sẽ được làm rõ hơn ở chức năng của mỗi tầng trong mô hình TCP/IP.

Chức năng của các tầng trong mô hình TCP/IP

Một mô hình TCP/IP tiêu chuẩn bao gồm 4 lớp được chồng lên nhau, bắt đầu từ tầng thấp nhất là Tầng vật lý (Physical) → Tầng mạng (Network) → Tầng giao vận (Transport) và cuối cùng là Tầng ứng dụng (Application).

Tầng 4 – Tầng Ứng dụng (Application)

Đây là lớp giao tiếp trên cùng của mô hình. Đúng với tên gọi, tầng Ứng dụng đảm nhận vai trò giao tiếp dữ liệu giữa 2 máy khác nhau thông qua các dịch vụ mạng khác nhau (duyệt web, chat, gửi email, một số giao thức trao đổi dữ liệu: SMTP, SSH, FTP,…). Dữ liệu khi đến đây sẽ được định dạng theo kiểu Byte nối Byte, cùng với đó là các thông tin định tuyến giúp xác định đường đi đúng của một gói tin.

Chức năng chính của tầng 3 là xử lý vấn đề giao tiếp giữa các máy chủ trong cùng một mạng hoặc khác mạng được kết nối với nhau thông qua bộ định tuyến. Tại đây dữ liệu sẽ được phân đoạn, mỗi đoạn sẽ không bằng nhau nhưng kích thước phải nhỏ hơn 64KB. Cấu trúc đầy đủ của một Segment lúc này là Header chứa thông tin điều khiển và sau đó là dữ liệu.

Trong tầng này còn bao gồm 2 giao thức cốt lõi là TCP và UDP. Trong đó, TCP đảm bảo chất lượng gói tin nhưng tiêu tốn thời gian khá lâu để kiểm tra đầy đủ thông tin từ thứ tự dữ liệu cho đến việc kiểm soát vấn đề tắc nghẽn lưu lượng dữ liệu. Trái với điều đó, UDP cho thấy tốc độ truyền tải nhanh hơn nhưng lại không đảm bảo được chất lượng dữ liệu được gửi đi.

Gần giống như tầng mạng của mô hình OSI. Tại đây, nó cũng được định nghĩa là một giao thức chịu trách nhiệm truyền tải dữ liệu một cách logic trong mạng. Các phân đoạn dữ liệu sẽ được đóng gói (Packets) với kích thước mỗi gói phù hợp với mạng chuyển mạch mà nó dùng để truyền dữ liệu. Lúc này, các gói tin được chèn thêm phần Header chứa thông tin của tầng mạng và tiếp tục được chuyển đến tầng tiếp theo. Các giao thức chính trong tầng là IP, ICMP và ARP.

Là sự kết hợp giữa tầng Vật lý và tầng liên kết dữ liệu của mô hình OSI. Chịu trách nhiệm truyền dữ liệu giữa hai thiết bị trong cùng một mạng. Tại đây, các gói dữ liệu được đóng vào khung (gọi là Frame) và được định tuyến đi đến đích đã được chỉ định ban đầu.

Với nội dung đã trình bày, TOTOLINK mong muốn người dùng sẽ có thêm kiến thức về quá trình truyền tải một gói tin trong mạng. Quan trọng hơn là có cái nhìn khái quát hơn về mô hình TCP/IP, cũng như chức năng riêng của mỗi tầng.

Các Mô Hình Ra Quyết Định Của Tổ Chức Công

Ngày đăng: 03/06/2018 03:09

– Mô hình ra quyết định

Mô hình là sự mô tả cụ thể một hệ thống và được dùng để giải thích hiện tượng, làm cơ sở để rập khuôn theo(3). Mô hình ra quyết định chính là sự mô tả cách thức ra quyết định một cách hệ thống. Có hai mô hình ra quyết định khác nhau phụ thuộc vào chủ thể và tính chất ra quyết định: mô hình ra quyết định cá nhân nếu chủ thể là cá nhân và vì lợi ích cá nhân; mô hình ra quyết định tổ chức nếu chủ thể là tổ chức hoặc cá nhân thay mặt cho tổ chức và vì lợi ích, mục tiêu của tổ chức.

– Mô hình ra quyết định của tổ chức công:

Mô hình ra quyết định của tổ chức là sự mô tả cách thức tổ chức, thực hiện quá trình ra quyết định của bất kỳ tổ chức nào, tổ chức công, tư nhân, hay dân sự. Mô hình ra quyết định của tổ chức công là mô hình mô tả quá trình ra quyết định của các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, ra quyết định về những vấn đề thuộc thẩm quyền quy định nhằm hoàn thiện sứ mệnh được nhà nước giao. Có các mô hình ra quyết định tổ chức công khác nhau, bao gồm: mô hình duy lý, mô hình tiệm tiến, mô hình chính trị, mô hình quy trình tổ chức, mô hình thùng đựng rác.

2. Khung lý thuyết các mô hình ra quyết định

Tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà tổ chức công áp dụng các mô hình ra quyết định khác nhau. Trong khuôn khổ nghiên cứu khoa học quản lý và tổ chức, cụ thể nghiên cứu về tổ chức thuộc khu vực công, hai cách tiếp cận chính được xem xét trong quá trình ra quyết định, đó là cách tiếp cận quản lý và cách tiếp cận chính trị. Dựa trên mỗi cách tiếp cận lại có các mô hình ra quyết định khác nhau. Việc sử dụng mô hình ra quyết định nào phụ thuộc vào từng tổ chức với các yếu tố ảnh hưởng khác nhau.

Bảng 1.

Cách tiếp cận quản lý trong quá trình ra quyết định nhấn mạnh đến sự cần thiết về tính duy lý trong ra quyết định, bởi vì duy lý giúp các nhà quản lý công đưa ra được các quyết định một cách kinh tế, hiệu quả, hiệu lực nhất(4). Quan điểm duy lý cho rằng người ra quyết định có đủ thông tin và có thể đưa ra quyết định duy lý. Mô hình duy lý có ưu điểm ở tính hữu hiệu khi giải quyết vấn đề và ra quyết định của chính quyền, mô hình này khuyến khích người ra quyết định xem xét vấn đề một cách thấu đáo và áp dụng chuyên môn của mình để xác định giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, không phải lúc nào mô hình này cũng phù hợp với đặc điểm ra quyết định của chính quyền do những hạn chế của mô hình, đó là: thứ nhất, hạn chế về thời gian. Trên thực tế không có đủ thời gian để xác định tất cả các phương án có thể cũng như xác định phương án nào đáp ứng tốt nhất các tiêu chí hiệu quả, kinh tế, hiệu lực. Thứ hai, hạn chế về chuyên môn. Yêu cầu duy lý và sự toàn diện về chuyên môn vượt quá khả năng của người ra quyết định. Giới hạn về khả năng xem xét tất cả các phương án buộc người ra quyết định xem xét và lựa chọn phương án dựa trên hệ tư tưởng hoặc chính trị mà không cân nhắc tính hiệu quả của phương án(5). Thứ ba, thiếu phù hợp với thực tiễn hiện tại của cơ quan nhà nước. Người ra quyết định, trên thực tế không có toàn bộ thông tin. Thậm chí, một số trường hợp (khủng hoảng hoặc áp lực chính trị, xã hội) cần phản ứng nhanh – quyết định nhanh vì không có thời gian để thu thập đủ dữ liệu và đánh giá tất cả các phương án; hoặc một số trường hợp cần phải tập trung vào các giải pháp được đề xuất(6).

2.2 Mô hình tiệm tiến

Lindbloom phản đối quan niệm cho rằng phần lớn các quyết định được đưa ra một cách duy lý (có toàn bộ thông tin)(7) khi cho rằng quá trình ra quyết định chịu ảnh hưởng lớn từ bối cảnh hơn là từ ý chí của người ra quyết định. Ông đưa ra mô hình ra quyết định tiệm tiến, theo đó các thay đổi mang tính tiệm tiến so với trạng thái ban đầu. Mô hình tiệm tiến mô tả tốt nhất thực tiễn ra quyết định trong chính quyền(8). Mô hình tiệm tiến trong ra quyết định thể hiện cách tiếp cận chính trị khi mô hình này nhấn mạnh các nhà hành chính cần đáp ứng yêu cầu của các nhà chính trị và chịu trách nhiệm giải trình trước các đại biểu dân cử. Mô hình này đòi hỏi sự tham gia của người dân và sự đồng thuận chính trị, cho phép các chính trị gia không những định hướng mà còn ảnh hưởng tới việc ra quyết định của các nhà hành chính(9). Tính chính trị của mô hình còn thể hiện ở việc thương lượng và thỏa hiệp giữa người ra quyết định, những người có lợi ích tự thân và quyết định được đưa ra do sự khả thi về chính trị chứ không phải là quyết định mong đợi(10). Nếu như mô hình ra quyết định duy lý đòi hỏi các nhà hành chính xác định các mục tiêu một cách toàn diện thì theo mô hình tiệm tiến, các nhà hành chính sẽ tiến hành dần từng bước hướng tới cải thiện tình hình, có lúc lùi lại, thay đổi mục tiêu và phương tiện thực hiện. Không hướng tới đạt mục tiêu ngay như trong mô hình duy lý, mô hình tiệm tiến sẽ bắt đầu từ thay đổi trạng thái ban đầu, tiến tới giải quyết vấn đề hiện tại, thực hiện những thay đổi nhỏ có tính khả thi(11). Thay vì cố gắng khảo sát toàn diện và đánh giá tất cả các phương án như trong mô hình duy lý, người ra quyết định tiệm tiến chỉ tập trung vào những gì tạo khác biệt tiệm tiến so với quyết định hiện tại. Số lượng các phương án và yếu tố cần xem xét trong mô hình tiệm tiến giảm nhiều so với mô hình duy lý.

Mô hình tiệm tiến trong ra quyết định có những điểm mạnh như thúc đẩy tính đại diện và đáp ứng (đáp ứng yêu cầu của nhà chính trị, chịu trách nhiệm trước đại biểu dân cử, đòi hỏi sự tham gia của người dân). Tuy nhiên, mô hình cũng có những hạn chế. Thứ nhất, do mô hình tiệm tiến dựa trên thực hiện từng bước điều chỉnh nhỏ mà không có mục tiêu rõ ràng hoặc một kế hoạch toàn diện, kết quả cuối cùng có thể không lường trước và không mong đợi(12). Thứ hai, mô hình này không thúc đẩy đưa ra các quyết định mang tính căn bản mà chỉ dẫn đến những thay đổi lòng vòng. Thứ ba, chính quyền khó ứng phó hiệu quả trước sự thay đổi trong xã hội do không tạo được sự phối hợp khi có quá nhiều sự tham gia, đặc biệt trong những tình huống cấp bách khi thời gian mang tính sống còn. Thứ tư, mô hình bị chỉ trích không mang tính dân chủ do ra quyết định chỉ là kết quả thương lượng trong một nhóm nhất định giữa những người ra quyết định cấp cao(13). Thứ năm, mô hình tiệm tiến củng cố tư tưởng trì trệ và chống đổi mới, những tư tưởng này rất phổ biến trong các tổ chức nhà nước. Thứ sáu, mô hình này không phù hợp với những xã hội có tốc độ kinh tế phát triển nhanh; không thể áp dụng trong bối cảnh bộ máy hành chính rối loạn; không giải quyết vấn đề hiệu quả tối đa trong những bối cảnh tăng trưởng dân số nhanh, tăng cao nhu cầu sử dụng dịch vụ, phát triển mạnh mẽ khoa học kỹ thuật vì khi đó cần phải phân tích duy lý toàn diện(14).

2.3 Mô hình quy trình tổ chức

Mô hình quy trình tổ chức còn được gọi là mô hình hành chính(15). Quyết định của tổ chức là sự lựa chọn duy lý và là sản phẩm đầu ra của hành vi tổ chức – áp dụng những quy trình vận hành theo chuẩn mực và hướng tới đạt mục tiêu đề ra(16). Quy trình vận hành chuẩn mực là những quy tắc, chương trình, thông lệ được hệ thống hóa, thể chế hóa từ những trải nghiệm và quá trình ra quyết định trước đó của tổ chức, được áp dụng trong những lần ra quyết định các vấn đề tương tự. Cơ cấu hệ thống cấp bậc, thông lệ, các quy trình vận hành chuẩn mực là những yếu tố ảnh hưởng cơ bản tới quá trình ra quyết định. Mô hình quy trình tổ chức có đặc điểm là các quy định và quy trình của tổ chức sẽ hạn chế quá trình cho-nhận trong đàm phán và thương lượng chính trị. Các quy định và quy trình cũng giải thích phần lớn các quyết định của chính quyền thường mang tính thông lệ và có tính lặp lại(17). Huber gọi mô hình này bằng một tên khác là mô hình lập trình khi cho rằng các quyết định được lập trình từ trước vì có thể suy ra được quyết định từ các quy trình hiện hành cũng như từ cách suy nghĩ quen thuộc của những người tham gia(18).

Theo mô hình quy trình tổ chức, những người ra quyết định không cố gắng tối ưu hóa mục tiêu (chọn phương án với giá trị cao nhất) mà chỉ đáp ứng đủ mục tiêu (chọn phương án đầu tiên có giá trị chấp nhận được – phương án có giá trị cao hơn mức chấp nhận tối thiểu đối chiếu với mục tiêu đề ra). Chiến lược đáp ứng đủ trong ra quyết định có thể giảm chất lượng quyết định nhưng tiết kiệm được thời gian và nỗ lực. Căn cứ nền tảng của mô hình này là tính hiệu quả. Tuy nhiên, không phải lúc nào mô hình này cũng tiết kiệm được thời gian trong ra quyết định.

2.4 Mô hình chính trị

2.5 Mô hình thùng đựng rác

Mô hình thùng đựng rác của March và Olsen là mô hình về sự lựa chọn của tổ chức khi ra quyết định. Trong mô hình này có bốn dòng chảy riêng rẽ: vấn đề, giải pháp, người tham gia và cơ hội lựa chọn. Dòng chảy vấn đề tìm kiếm giải pháp và cơ hội để được thừa nhận vấn đề; dòng chảy giải pháp tìm kiếm vấn đề để được cung cấp câu trả lời; dòng chảy người tham gia gặp nhau trong các cơ hội lựa chọn; dòng chảy lựa chọn đang tìm kiếm vấn đề; những người ra quyết định đang tìm kiếm cơ hội để thực hiện vai trò ra quyết định. Các giải pháp được đưa ra không phải để đáp ứng một vấn đề nào đó hoặc chuẩn bị cho một sự lựa chọn sắp tới mà vì lợi ích tự thân của những người xây dựng giải pháp này. Các thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định không phải vì vấn đề, giải pháp hoặc sự lựa chọn đang diễn ra mà vì có những vấn đề và giải pháp ưa thích của mình. Khi trong tổ chức nổi lên cơ hội lựa chọn, các thành viên với những nguồn lực của mình bắt đầu tham gia, các vấn đề được đưa vào để lựa chọn, và các giải pháp được xem xét. Cơ hội lựa chọn khi đó như một thùng đựng rác được các thành viên trút vào đó các loại vấn đề và giải pháp khác nhau. Kết quả sẽ là sự kết hợp và xử lý các thành phần rác (vấn đề, giải pháp, thành viên và nguồn lực của thành viên) trong thùng đựng rác(24). Sự kết hợp này một phần phụ thuộc vào nội dung vấn đề, sự phù hợp của giải pháp, năng lực của người ra quyết định, thời điểm, hệ thống(25). Sau khi quyết định được đưa ra, thùng đựng rác sẽ bị bỏ đi dù chưa giải quyết hết tất cả các vấn đề có trong đó. Do người tham gia tạo ra thùng đựng rác, tạo ra vấn đề và giải pháp nên quyết định được đưa ra phụ thuộc hoàn toàn vào sự kết hợp thành phần người tham gia trong thùng đựng rác(26).

Mô hình này khác với mô hình ra quyết định duy lý ở chỗ các thành viên không bắt tay vào giải quyết vấn đề mà ở đây các giải pháp sẵn có đang đi tìm kiếm vấn đề để giải quyết. Giải quyết vấn đề chỉ được thực hiện khi có sự kết hợp giữa vấn đề, giải pháp, thành viên trong một tình huống lựa chọn nhất định. Nghĩa là không có hoạt động lôgic thường thấy với các giai đoạn kế tiếp nhau: xác định vấn đề, thiết kế các giải pháp, đánh giá các phương án, lựa chọn phương án tối ưu. Giải pháp và vấn đề có vị thế ngang nhau như những dòng chảy riêng rẽ trong hệ thống. Quá trình này không tạo ra sự thay đổi mang tính tiệm tiến. Trong tình huống quyết định, sự kết hợp giữa các dòng chảy (vấn đề, giải pháp, thành viên, cơ hội lựa chọn) mà trước kia chưa từng được kết hợp, đặc biệt vào những thời điểm gay cấn, có thể tạo ra sự thay đổi đột ngột, sự thay đổi lớn trong chương trình nghị sự(27). Giống như mô hình chính trị, mô hình thùng đựng rác đưa ra một môi trường đa chủ thể, đa mục đích và đa quan điểm. Nếu mô hình chính trị nhấn mạnh sự ảnh hưởng của chính trị đến việc thương lượng ra quyết định, thì mô hình thùng đựng rác nhấn mạnh đến sự phân tán và tính hỗn loạn của quá trình ra quyết định trong các tổ chức. Mô hình thùng đựng rác bị chỉ trích là cường điệu hóa thực tiễn vì quá trình không phải lúc nào cũng hỗn loạn mà trái lại, mang tính trật tự và có tổ chức(28).

2. Yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn mô hình ra quyết định của tổ chức công

Bối cảnh, các áp lực bên ngoài (yếu tố chính trị), tính phức tạp của vấn đề, thiết kế tổ chức, môi trường tổ chức, nguồn lực, thông tin, áp lực thời gian, số lượng chủ thể tham gia, cá nhân người ra quyết định là những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn mô hình và quá trình ra quyết định. Smith đã đưa ra điều kiện để áp dụng các mô hình ra quyết định dựa trên hai biến số chính: biến số hệ thống (gồm chủ thể và bối cảnh) và biến số hạn chế (vấn đề, thông tin, thời gian)(29). Việc áp dụng mô hình quyết định nào phụ thuộc vào sự xuất hiện các điều kiện của mô hình đó – các thông số điều kiện (xem Bảng 2).

Bảng 2

Để giải quyết cùng một vấn đề, trong các tình huống khác nhau thậm chí có thể sử dụng các mô hình ra quyết định khác nhau(30). Các tổ chức lựa chọn mô hình ra quyết định dựa trên căn cứ thực tế (năng lực tổ chức và môi trường tổ chức) và căn cứ về giá trị (mục đích, khuôn khổ đạo đức, pháp luật). Môi trường tổ chức gồm có lịch sử phát triển tổ chức, phong cách lãnh đạo, văn hóa tổ chức. Văn hóa tổ chức dẫn dắt các hành động của tổ chức và ảnh hưởng đến các quyết định của tổ chức. Năng lực chuyên môn của tổ chức ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định vì năng lực chuyên môn giúp tổ chức đưa ra những quyết định duy lý nhất. Cho dù tổ chức có các quy định về thẩm quyền và quy trình ra quyết định nhưng những người ra quyết định vẫn có quyền đáng kể trong lựa chọn phương án hành động tốt nhất trong những tình huống nhất định. Sự khác nhau về trình độ chuyên môn và nhu cầu khiến những người ra quyết định diễn giải vấn đề và giải pháp khác nhau. Thậm chí, trong bối cảnh thể chế giống nhau và với cùng một vấn đề nhưng người ra quyết định khác nhau có những ứng phó khác nhau khi giải quyết.

Do chính trị và hành chính không thể tách rời nên trong môi trường cơ quan nhà nước khó áp dụng mô hình duy lý toàn diện(31). Trong các tổ chức được thiết kế theo mô hình hành chính quan liêu với hệ thống thứ bậc và chức năng quyền hạn nhất định cùng tính chuyên môn hóa, những người ra quyết định sẽ giảm số lượng các phương án cần xem xét, giảm số lượng các tiêu chí cần phải đối chiếu khi lựa chọn các phương án, và nhận vừa đủ thông tin để có thể lựa chọn phương án, đảm bảo đưa ra sự lựa chọn duy lý(32).

Trong tổ chức công, áp dụng mô hình ra quyết định nào phụ thuộc vào yếu tố, điều kiện mà tổ chức đang có. Việc nghiên cứu các mô hình là cần thiết đối với các nhà quản lý, những người ra quyết định của tổ chức công để các quyết định công ngày càng hiệu lực, có chất lượng và góp phần nâng cao chất lượng tổ chức công, sử dụng tốt nguồn lực công, nhằm đáp ứng và phục vụ người dân tốt hơn.

Nguyễn Thị Thu Cúc – Học viện Hành chính Quốc gia

Ghi chú:

(1) Simon, H. A. & Associates (1986), Decision making and problem solving, Report of the Research Briefing Panel on Decision making and problem solving, National Academy of Sciences, National Academy Press, Washington, DC.

(2) Mintzberg, H., Raisinghani, D., Theoret, A., (1976), The structure of “unstructured” decision processes, Administrative Science Quarterly, 21, June 1976, 246-275.

(4),(9),(12),(14),(32) Rosenbloom, D. H., Kravchuk, R. S., Clerkin, R. M. (2009), Public administration: understanding management, politics, and law in the public sector, 7th ed., McGraw-Hill Higher Education.

(5),(8),(10),(13),(17),(28),(29) Howlett, M., Ramesh, M. (1995), Studying public policy: policy cycles and policy subsystems, Oxford University Press, Oxford.

(6),(31) Nigro, F. A., Nigro, L. G. (1973), Modern public administration, 3rd ed., Harper & Row, Publishers.

(7),(20) Shafritz, J. M., Russell, E. W., Borick, C. P. (2011), Introducing public administration, 7th ed., Longman.

(11),(21),(26) Turbin, SM., Marais, MA (2004), Decision making: theory and practice, ORiON, 20 (2), 143-160.

(15),(19),(23) Chaffee, E. E. (1983), Rational decision making in higher education, National Center for Higher Education Management Systems, Colorado.

(16),(22) Hill, M. (1997), The policy process in the modern state, 3rd ed., Prentice Hall.

(18) Huber, G. (1981), The nature of organizational decision making and the design of Decision Support Systems, Management Information Systems Quarterly, June 1981, 1-10.

(24),(27) Kingdon, J. W. (1995), Agendas, alternatives, and public policies, 2nd ed., Longman.

(25) Cohen, M. D., March, J. G, Olsen, J. P. (1972), A gabage can model of organizational choice, Administrative Science Quarterly, 17(1), 1-25.

(30) Kuwashima, K. (2014), How to use models of organizational decision making?, Annals of Business Administrative Science, 13 (2014), 215-230.

tcnn.vn

Kinh Tế Là Gì? Các Loại Mô Hình Kinh Tế?

Trong đời sống hàng ngày “kinh tế” là một thuật ngữ quá quen thuộc và được sử dụng rất phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống. Tuy nhiên để đưa ra được định nghĩa về kinh tế thì không phải bất cứ ai cũng làm được.

Mục đích chính của kinh tế cũng nhằm thu được những lợi ích nhất định về lợi nhuận, phục vụ cho nhu cầu của cá nhân.

Kinh tế với nghĩa rộng bao gồm nhiều ngành nghề kinh doanh trong những lĩnh vực khác nhau được nhà nước thừa nhận như: công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, tài chính ngân hàng, logistic…

Hiện nay là thời đại công nghệ số 4.0, mọi thứ đều diễn ra trên nền tảng công nghệ thông tin, chính vì vậy mà khái niệm về “kinh tế số” cũng xuất hiện và dần lớn mạnh. Có nhiều quan điểm cho rằng kinh tế số chính là một nền kinh tế được vận hành chủ yếu dựa trên nền tảng công nghệ số.

Về bản chất thì kinh tế số chính là một mô hình tổ chức và thực hiện hoạt động dựa trên nền tảng và các ứng dụng công nghệ điện tử. Do đó mà ta có thể dễ dàng bắt gặp chúng thường xuyên trong đời sống hàng ngày.

– Mô hình kinh tế thị trường: Đây là mô hình kinh tế mà cho phép tất cả các hàng hóa được pháp luật cho phép kinh doanh đều được tự do lưu thông trong thị trường, hoàn toàn dựa trên yếu tố cung và cầu. Đây là loại mô hình kinh tế có xu hướng tự cân bằng, điều tiết mà không cần quá nhiều sự tác động điều chỉnh.

– Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung: Loại mô hình này sẽ chịu nhiều sự tác động, điều chỉnh của nhà nước trong việc điều tiết giá cả hay phân phối hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Theo đó trong mô hình kinh tế này thì yếu tố cung – cầu không quá được chú trọng và cũng không được diễn ra theo tự nhiên do có sự can thiệp quá nhiều phía nhà nước vào hoạt động kinh tế.

– Mô hình kinh tế xanh: Đây là mô hình kinh tế mới chỉ được thực hiện ở một số nước có nền khoa học công nghệ phát triển mạnh. Mô hình kinh tế này phụ thuộc chủ yếu vào các dạng năng lượng tái tạo, nhằm thân thiện với môi trường, hạn chế tối đa lượng khí thải đưa vào không khí.

Đồng thời tiến hành nghiên cứu để tạo ra các nguồn năng lượng mới thay thế cho những nguồn năng lượng có nguy cơ cạn kiệt, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sống.

CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC

1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”