Khái Niệm Xã Hội Học Văn Hóa / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Khái Niệm Văn Hóa Trong Xã Hội Học

Văn hóa hạn được đặc trưng bởi sự mơ hồ và được sử dụng để xác định các quá trình của tinh thần, trí tuệ, phát triển thẩm mỹ; hình thức và các sản phẩm của hoạt động tinh thần, trí tuệ và nghệ thuật; mô tả trạng thái của xã hội, dựa trên thứ tự của nhân loại và luật pháp.

Khái niệm về văn hóa trong xã hội học là rất rộng, nó bao hàm việc nghiên cứu nó trong sự đa dạng của những khía cạnh này.

Khái niệm về văn hóa trong xã hội học từ các nhà nghiên cứu khác nhau khác nhau về một số đặc điểm, mà tạo ra điều kiện tiên quyết cho việc phân bổ trong những phương pháp sau đây để định nghĩa của nó.

Cách tiếp cận công nghệ xem xét văn hóa theo nghĩa rộng là một mức độ riêng biệt của sản xuất, cũng như tất cả các cấp của đời sống xã hội trong tất cả các proivleniyah sinh sản của nó. cách tiếp cận hoạt động – như một bộ sưu tập các hình dạng và loại hoạt động vật chất và tinh thần và kết quả của hoạt động này khác nhau. cách tiếp cận giá trị – như một quả cầu đời sống tinh thần, trong đó văn hóa là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực và niềm tin, cũng như các phương tiện biểu hiện của những giá trị này. cách tiếp cận tích hợp cho thấy rằng nền văn hóa bao gồm các mô hình tiềm ẩn và rõ ràng của hành vi con người, được tạo ra và truyền đi bằng các phương tiện của các biểu tượng, bản chất của nó bao gồm ý tưởng giá trị truyền thống, việc lựa chọn cuối cùng của thời gian lịch sử.

Khái niệm về văn hóa trong xã hội học và vai trò của nó, diễn ra trong đời sống nhân dân có một định hướng khác nhau của hai dòng. Cách tiếp cận đầu tiên về vấn đề này – tiến hóa (Johann Gottfried Herder). Trong đó, văn hóa được xem là một yếu tố quyết định trong việc cải thiện và tiến hóa của con người, là người có thể biến nó thành một con sáng tạo và hài hòa. Cách tiếp cận thứ hai – quan trọng. Ông giải thích văn hóa như một phương tiện đặc biệt của nô lệ của con người và biến đổi tiến bộ của mình vào một công cụ của thế lực thù địch đối với con người.

xã hội học hàng đầu đã xem xét các khái niệm về văn hóa như sau. Zhan Zhak Russo tin rằng cuộc sống trong lòng của thiên nhiên là người duy nhất đúng, và nó hư hỏng nền văn hóa. Fridrih Nitsshe viết rằng con người là yếu vô văn, và văn hóa dành cho nô lệ và áp bức của sức mạnh thiên nhiên của mình.

Oswald Spengler tin rằng mỗi nền văn hóa có số phận riêng của mình, mà kết thúc với sự phát triển của nền văn minh. Tennis Ferdinand đưa lý thuyết về việc không thể phản đối các nền văn hóa và văn minh. José Ortega y Gasset là tác giả của truyền thống văn hóa bi quan, có nghĩa là một người là thành viên của quần chúng và hành vi thích giao du của nó. Cuộc khủng hoảng của nền văn minh hiện đại được liên kết với massivization văn hóa.

văn hóa Nga, các nhà nghiên cứu đã giải thích các khái niệm về văn hóa trong xã hội học mâu thuẫn. Một mặt, nó đã phát triển một truyền thống của lý thuyết tiến hóa, theo đó sự tiến bộ của xã hội được xác định bởi sự phát triển của văn hóa), và mặt khác – chỉ trích.

Các yếu tố của văn hóa trong xã hội học nổi bật bao gồm: giá trị, ngôn ngữ, định mức, tập quán, truyền thống và phong tục. Các yếu tố hiệu quả nhất của văn hóa – một khái niệm hay khái niệm (mà tổ chức thế giới của nam giới), tỷ lệ (phân bổ các liên kết giữa con người), các giá trị (hiển thị tín ngưỡng của người dân) và các quy tắc (điều chỉnh hành vi của người dân).

Các loại văn hóa trong xã hội học như sau, tùy thuộc vào tiêu chí nhất định được đánh dấu.

Trên một khu vực hoặc địa lý: văn hóa phương Tây, Đông, Châu Âu, Châu Phi, Mỹ, vv

Trong cơ sở tự thời gian: nền văn hóa cổ, văn hóa của thời Trung cổ, Phục hưng, hiện đại và đương đại.

Khái Niệm Văn Hóa, Nền Văn Hóa Và Nền Văn Hóa Xã Hội Chủ Nghĩa

a) Khái niệm văn hóa và nền văn hóa

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí, nguyên tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói riêng, chi phối hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và những phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.

Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.

Tuy nhiên, với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con người nên sự phát triển của văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của mỗi chế độ xã hội nhất định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế và chính trị ấy sẽ không thể hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Do đó, văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Đây cũng là quy luật của xã hội có giai cấp, vì rằng phương thức sản xuất tinh thần, văn hóa không thể không phản ánh và không bị chi phối bởi phương thức sản xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau, đặc biệt là của giai cấp thống trị, là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác nhau.

Nói đến văn hóa là nói đến khía cạnh ý thức hệ của văn hóa, tính giai cấp của văn hóa và trên cơ sở đó hiều rõ sự vận động của văn hóa trong xã hội có giai cấp. Với cách tiếp cận như vậy, có thể quan niệm: nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế – chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn hóa.

Mọi nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền. Văn hóa luôn có tính kế thừa, sự kế thừa trong văn hóa luôn mang tính giai cấp và được biểu hiện ở nền văn hóa của mỗi thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh tế, chính trị của nó.

Một nền kinh tế lành mạnh được xây dựng trên những nguyên tắc công bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là điều kiện để xây dựng một nền văn hóa tinh thần lành mạnh, và nguợc lại, một nền kinh lế được xây dựng trên cơ sở bất bình đẳng của chế độ tư hữu với sự phân hóa sâu sắc thì sẽ không có được nền văn hóa lành mạnh.

Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa, thì chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một nền văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn hóa.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của nó trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của xã hội đó.

b) Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền) và tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập). Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành, phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương hưởng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có giai cấp, ý thức hệ giai cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền văn hóa. Trong mọi thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành tư tưởng thống trị của thời đại đó. Chính vì vậy, sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.

Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất giai cấp công nhân của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân đều nhất định dẫn đến kết cục là không thể xây dựng được nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đặc trưng này thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình xây dựng xã hội mới. Trong các xã hội cũ, giai cấp thống trị bóc lột độc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và trên cơ sở đó cùng độc quyền chi phối đời sống tinh thần, nền văn hóa của xã hội.

Chúng độc quyền mọi phương tiện sáng tạo và sản phẩm của hoạt động tinh thần nhằm, một mặt, tạo ra cái gọi là “văn hóa thượng lưu” phục vụ giai cấp thống trị, áp bức bóc lột; mặt khác, nhằm nô dịch tinh thần, ý thức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giam hãm họ trong tình trạng ngu tối và nô lệ.

Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa không còn là đặc quyền đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội từng buớc tạo ra tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa mới. Chính trong quá trình đó, văn hóa hướng tới nhân dân, dân tộc và mọi thành tựu văn hóa trở thành tài sản của nhân dân.

Văn hóa luôn có sự kế thừa. Trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử, văn hóa đều đồng thời bao gồm việc kế thừa, sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra những giá trị mới. Sự kế thừa và sáng tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc. Đông đảo nhân dân và cả dân tộc là chủ thể của văn hóa. Do đó, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng sản, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành và phát triển một cách tự phát. Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quàn lý của nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất phương hướng chính trị.

chúng tôi

Tọa Đàm Giới Thiệu Sách Khái Niệm Văn Hóa Trong Khoa Học Xã Hội

Đăng ngày: 31/12/2020 10:52

“Cuốn sách này tất nhiên là dành cho các sinh viên, nhưng tất cả những ai quan tâm đến các vấn đề như đa văn hóa, văn hóa của người nhập cư, văn hóa doanh nghiệp… cũng cần đọc nó”.

TỌA ĐÀM GIỚI THIỆU SÁCH KHÁI NIỆM VĂN HÓA TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI

(La notion de culture dans les sciences sociales) (Tác giả: Denys Cuche; Dịch giả: Lê Minh Tiến) Nhà xuất bản Tri Thức phát hành tháng 1/2021

I – THÔNG TIN VỀ CHƯƠNG TRÌNH

Đơn vị tổ chức: Nhà xuất bản Tri Thức & Trung tâm Văn hóa Pháp

Diễn giả: Dịch giả Lê Minh Tiến

Thời gian: 18:00, thứ Hai, ngày 04/01/2021

Địa điểm: Thư viện, Trung tâm Văn hóa Pháp, 24 Tràng Tiền, Hà Nội

Có thể nói, quyển sách nhỏ này sẽ mang lại những hiểu biết căn bản nhất về khái niệm văn hóa, các trường phái nghiên cứu về văn hóa, đặc biệt là trường phái Nhân học văn hóa Bắc Mỹ, các lĩnh vực nghiên cứu văn hóa như văn hóa nhập cư, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa bình dân…

Nội dung trong cuốn sách gồm có: Nguồn gốc xã hội của từ “văn hóa” và ý niệm “văn hóa”, Sự ra đời của khái niệm khoa học về văn hóa, Thắng lợi của khái niệm văn hóa, Nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn hóa và việc cách tân khái niệm văn hóa, Thứ bậc xã hội và thứ bậc văn hóa, Văn hóa và căn tính, Mở rộng khái niệm văn hóa sang các lĩnh vực ứng dụng mới, Văn hóa doanh nghiệp và văn hóa nghề nghiệp, Di dân quốc tế và biến chuyển văn hóa.

“Khái niệm văn hóa gắn liền với tư duy của các ngành khoa học xã hội. Bằng cách nào đó, các ngành khoa học cần nó để suy tư về tính thống nhất trong sự đa dạng xét về mặt sinh học của loài người. Có vẻ văn hóa mang lại câu trả lời thỏa đáng nhất cho câu hỏi về sự khác biệt giữa các dân tộc, câu trả lời “mang tính chủng tộc” ngày càng tỏ ra mất giá trị trước sự tiến triển về di truyền học nơi các nhóm người.

Xét về bản chất, con người là một hữu thể văn hóa. Quá trình dài tiến hóa thành người, được bắt đầu trên dưới 15 triệu năm, đã chuyển từ sự thích nghi di truyền với môi trường tự nhiên sang sự thích nghi văn hóa. Trong quá trình tiến hóa này, đã dẫn đến loài Người tinh khôn (Homo sapiens), loài người đầu tiên, diễn ra một sự thoái triển tuyệt vời về bản năng, dần dần “được thay thế” bằng văn hóa, tức là qua sự thích nghi có chủ ý và có kiểm soát của con người thể hiện sự thích nghi mang tính chức năng nhiều hơn là sự thích nghi mang tính di truyền, bởi vì sự thích nghi này linh hoạt hơn, chuyển giao dễ hơn và nhanh hơn. Văn hóa không chỉ cho phép con người thích nghi với môi trường mà còn làm cho môi trường thích nghi với con người, với những nhu cầu, những dự án của con người, nói cách khác, văn hóa làm cho việc biến đổi tự nhiên trở nên khả dĩ.

Nếu mọi “quần thể” người sở hữu cùng một khối di truyền, các quần thể này phân biệt với nhau qua những lựa chọn văn hóa, mỗi quần thể sáng tạo ra các giải pháp độc đáo cho những vấn đề mà họ đối diện. Tuy nhiên, những khác biệt ấy không phải là không thể thỏa hiệp với nhau, vì xét đến sự thống nhất về mặt di truyền của loài người, những khác biệt ấy thể hiện cách sử dụng các nguyên tắc văn hóa phổ quát có khả năng tiến hóa và kể cả biến đổi.

Vì thế, khái niệm văn hóa tỏ ra là một công cụ thích hợp để kết thúc lối giải thích mang tính tự nhiên đối với các hành vi của con người. Nơi con người, tự nhiên được giải thích hoàn toàn bằng văn hóa. Những khác biệt có vẻ ít nhiều được gắn với các đặc tính sinh học như, sự khác biệt về giới tính, tự nó không bao giờ được quan sát ở “tình trạng thô” (tự nhiên), bởi vì có thể nói văn hóa được nhìn thấy “cách tức thì” trong sự khác biệt đó. Sự phân công vai trò giới và trách nhiệm trong xã hội loài người chủ yếu xuất phát từ văn hóa, và vì thế nó thay đổi từ xã hội này sang xã hội khác.

Khái niệm văn hóa, được hiểu theo nghĩa rộng, hướng đến lối sống và tư tưởng, ngày nay đã được chấp nhận một cách rộng rãi, dù đôi khi cũng dẫn đến những mơ hồ nào đó. Nhưng đó không phải là vấn đề. Kể từ khi xuất hiện vào thế kỉ XVIII, ý niệm hiện đại về văn hóa đã không ngừng gây ra những tranh luận rất gay gắt. Dù cho có được định nghĩa rõ ràng như thế nào – và không thiếu các định nghĩa – những bất đồng vẫn luôn tồn tại trong cách hiểu về văn hóa cho thực tại này hay thực tại khác. Đó là việc sử dụng khái niệm văn hóa vào trong lĩnh vực biểu tượng, vào cái chạm đến ý nghĩa, tức là cái khó đồng thuận nhất.

Các ngành khoa học xã hội, mặc cho có sự lo ngại về tính tự trị nhận thức luận, không bao giờ hoàn toàn độc lập với các bối cảnh học thuật và ngôn ngữ học mà trong đó chúng tạo dựng những lược đồ lí thuyết và khái niệm của mình. Do đó, khảo cứu khái niệm văn hóa hàm chứa việc nghiên cứu tiến hóa lịch sử của nó, mà bản thân sự tiến hóa này cũng được gắn trực tiếp với nguồn gốc xã hội của ý niệm hiện đại về văn hóa.

Trong khuôn khổ cuốn sách này, không thể trình bày hết mọi cách dùng khái niệm văn hóa có thể có trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Ở đây, xã hội học và nhân học được ưu tiên, nhưng các lĩnh vực khác cùng dùng đến khái niệm văn hóa: tâm lí học và nhất là tâm lí học xã hội, phân tâm học, ngôn ngữ học, lịch sử, kinh tế, v.v. Ngoài các ngành khoa học xã hội, khái niệm này cũng được các nhà triết học sử dụng theo cách riêng biệt. Vì không thể nào bao hàm toàn bộ được, nên thật chính đáng khi chỉ tập trung vào một số hiểu biết nền tảng trong phân tích văn hóa”.

(Trích Dẫn nhập – Khái niệm văn hóa trong khoa học xã hội)

***

“Cuốn sách này tất nhiên là dành cho các sinh viên, nhưng tất cả những ai quan tâm đến các vấn đề như đa văn hóa, văn hóa của người nhập cư, văn hóa doanh nghiệp… cũng cần đọc nó”. (CNDP).

“Nội dung cuốn sách bàn về khái niệm văn hóa và mặc dù tựa đề quy chiếu vào các ngành khoa học xã hội, tác giả đã tập trung chủ yếu vào Dân tộc học, Nhân học và Xã hội học trong bối cảnh của bốn quốc gia là Pháp, Mỹ, Anh và Đức. Chính chiều kích mang tính so sánh ấy là một trong những điểm nổi bật nhất của cuốn sách này”. (Jean-Pierre Hassoun, Phòng nghiên cứu Nhân học đô thị – CNRS)

Tác giả Denys Cuche là Giáo sư Xã hội học và Nhân học tại Trường Đại học Sorbonne (Phân khoa Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Paris-Descartes) và là nhà nghiên cứu tại Trung tâm Dân số và Phát triển (CEPED), UMR Paris-Descartes/INED/IRD. Lĩnh vực nghiên cứu của ông gồm di dân quốc tế, quan hệ liên tộc người và tiếp xúc văn hóa. Khách thể nghiên cứu là châu Mỹ Latin, Péru và Palestines.

Dịch giả Lê Minh Tiến hiện là giảng viên Xã hội học tại Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Ông từng tốt nghiệp hạng thủ khoa ngành Xã hội học khóa 1 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, tốt nghiệp Cao học chuyên sâu Xã hội học (Diplôme d’Études Approfondies) tại Đại học Công giáo Louvain (Université Catholique de Louvain) của Vương quốc Bỉ.

Ông đã dịch, biên soạn một số đầu sách như: Xã hội học Mỹ – Những nghiên cứu thực nghiệm điển hình (Nxb Trẻ, 2009); Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (đồng dịch giả, Nxb Tri Thức, 2009); Cẩm nang xây dựng dự án nghiên cứu trong Khoa học Xã hội (Nxb Tri Thức, 2013); Tư tưởng Max Weber (Nxb Hồng Đức, 2016); Phương pháp thống kê trong nghiên cứu xã hội (Nxb ĐHQG chúng tôi 2016), Phương pháp luận dân dã (Nxb Tri Thức, 2018).

Tên sách: Khái niệm văn hóa trong khoa học xã hội

Khổ sách: 13×20,5

Số trang: 400

Loại bìa: Bìa mềm, tay gập

Giá sách: 125.000 VNĐ

Xã Hội Hóa Các Hoạt Động Văn Hóa

Xã hội hóa càng phát triển thì nhu cầu văn hóa của con người càng cao. Văn hóa có tác động lớn trong sự phát triển, trong chiến lược xây dựng con người.

Qua thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy, trong phát triển nếu như không cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa thì sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng trong đời sống tinh thần của xã hội.

Không phải ngẫu nhiên mà UNESCO đề ra thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa và Việt Nam là nước hưởng ứng tích cực. Ðiều quan trọng hiện nay là chúng ta phải biến những nhận thức này trở thành hiện thực trong cuộc sống.

Xã hội hóa các hoạt động văn hóa là một trong những biện pháp tích cực để đưa văn hóa vào mọi lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội, thúc đẩy vai trò của nó trong phát triển.

Lịch sử của công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa đã có trong các xã hội trước đây, như trong các ngày hội làng nhân dân thường đóng góp tiền của và tích cực tham gia các hoạt động trong ngày hội – phường tuồng, phường chèo được mời về làng diễn, được nhân dân nuôi dưỡng. Ai hát hay đàn giỏi thì được thưởng tiền… nhân dân vừa hưởng thụ vừa sáng tạo, tuy các hoạt động văn hóa mới ở mức sơ khai, chưa có sự tổ chức, hướng dẫn chặt chẽ.

Trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp, chúng ta cũng đã đề ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, song nhiều nơi ỷ lại vào bao cấp nên chưa phát huy được hiệu quả. Cơ chế thị trường thôi thúc chúng ta sáng tạo ra nhiều hình thức để xã hội hóa. Nhiều địa phương như Cần Thơ, Quảng Nam, Ðà Nẵng, Thanh Hóa, TP Hồ Chí Minh… đã xuất hiện nhiều hình thức phong phú trong lĩnh vực này.

Hoạt động văn hóa trong cơ chế thị trường có hai mặt tích cực và tiêu cực: Mặt tích cực của thị trường là đòi hỏi các hoạt động văn hóa phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nó phải cạnh tranh giữa các mặt hoạt động, buộc nó phải năng động, sáng tạo, luôn luôn đổi mới.

Mặt tiêu cực của thị trường là dễ đẩy các hoạt động văn hóa vào con đường thương mại hóa. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa cũng diễn biến phức tạp theo hai hướng đó, đòi hỏi chúng ta, các nhà nghiên cứu và quản lý văn hóa phân định rõ ràng ranh giới hai mặt của một vấn đề này.

Ðổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa trong quá trình xã hội hóa là sự đòi hỏi phát triển nội tại của hoạt động này. Hoạt động văn hóa chỉ trở thành của toàn xã hội, có vai trò thật sự trong các lĩnh vực của đời sống khi nó có chất lượng cao và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Ở đây thể hiện rất rõ quy luật cung và cầu của cơ chế thị trường.

Hoạt động văn hóa chất lượng thấp không đáp ứng được nhu cầu của toàn xã hội thì không thể tồn tại và cũng không bao giờ xã hội hóa được. Trong thời kỳ mở cửa, nhiều hình thức hoạt động văn hóa của chúng ta và thế giới cùng tồn tại, cạnh tranh nhau để phát triển, thì việc đổi mới và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa là vấn đề sống còn, là tiền đề của xã hội hóa các hoạt động văn hóa.

Thí dụ, trong hoạt động nghệ thuật một số người có tiền đứng ra làm “đầu nậu” đưa các sản phẩm sân khấu, điện ảnh, ca nhạc chạy theo thị hiếu tầm thường, hạ thấp giá trị nghệ thuật. Một số người biến các di tích văn hóa, thắng cảnh thành nơi kinh doanh kiếm lời cho cá nhân.

Trong văn hóa truyền thống cũng như sự du nhập của văn hóa nước ngoài cũng có hai mặt tích cực tiêu cực. Hiện nay, xã hội hóa được thể hiện rất rõ nét trong việc tổ chức các lễ hội truyền thống. Ðịnh hướng tốt sẽ phát huy những mặt tốt đẹp của lễ hội truyền thống. Song một số nơi thiếu định hướng, thiếu quản lý chặt chẽ đã làm cho các yếu tố tiêu cực như mê tín dị đoan kèm theo các tệ nạn xã hội khác phát triển. Vì vậy, xã hội hóa càng mạnh thì việc định hướng càng nghiêm ngặt, cụ thể để cho các hoạt động văn hóa đều hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Làm thế nào để tạo điều kiện mở rộng xã hội hóa các hoạt động văn hóa mà vẫn bảo đảm định hướng? Trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp, các hình thức hoạt động văn hóa thường ít thay đổi, ít sáng tạo. Việc quản lý cũng theo kiểu hành chính, trì trệ cản trở sự năng động của hoạt động văn hóa.

Trong cơ chế thị trường, rõ ràng cần phải thay đổi các cách thức quản lý làm sao có tác động thúc đẩy các hoạt động văn hóa nhạy cảm hơn, năng động hơn theo kịp nhu cầu của xã hội.

Một vấn đề quan trọng là nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ văn hóa. Ngay trước đây, khi còn trong thời kỳ bao cấp, cán bộ luôn luôn quyết định các hoạt động văn hóa ở cơ sở có hiệu quả hay không. Ðược bao cấp như nhau, có nơi phong trào khá, có nơi phong trào kém.

Trong cơ chế thị trường, càng đòi hỏi những cán bộ văn hóa giỏi, năng động, luôn luôn bám sát cuộc sống bằng tất cả tâm trí của mình vì sự nghiệp.

Sự quan tâm của Ðảng và Nhà nước, đặc biệt là lãnh đạo các địa phương đối với văn hóa là yếu tố quyết định để các hoạt động văn hóa phát triển. Nhà nước cần có chính sách và cơ chế quản lý thích hợp để việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa có điều kiện phát triển tốt.

Các hoạt động văn hóa muốn nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu của xã hội không thể thiếu sự đầu tư của Nhà nước. Càng xã hội hóa mạnh càng cần sự đầu tư của Nhà nước. Nhưng sự đầu tư đó dựa trên cơ sở phân loại xác đáng thích hợp.

Nhà nước cần có chính sách và pháp luật làm cho tất cả các ngành, các địa phương và toàn xã hội nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa trong phát triển, phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.

Xã hội hóa các hoạt động văn hóa là việc làm còn mới mẻ, song lại rất thiết thực, nhằm giải quyết những khó khăn mà hoạt động văn hóa đang vấp phải trong cơ chế thị trường, đồng thời cũng tạo ra những nhân tố mới trong việc xây dựng nền văn hóa mới của chúng ta.

Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa ở cơ sở. Trước hết phải nói cơ sở là nơi chứa đựng nhiều nhất những giá trị văn hóa của dân tộc trên hai bình diện vật thể và phi vật thể; nước ta có hơn một nghìn di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh được Nhà nước xếp hạng, có một kho tàng văn hóa dân gian đồ sộ không phải tập trung ở một nơi mà là ở rải rác khắp nơi trong cả nước.

Tinh hoa văn hóa của dân tộc, những giá trị tinh thần bất diệt như: lòng yêu nước, yêu đồng bào, thuần phong mỹ thục, tình làng nghĩa xóm… không phải từ trên trời rơi xuống mà khơi nguồn từ làng xã Việt Nam, từ cuộc đấu tranh hàng nghìn năm để chiến thắng thiên tai và giặc ngoại xâm. Vốn nghệ thuật dân gian cũng đều xuất phát từ đồng quê, từ lũy tre làng không phải là nơi nào khác.

Ở trong xã hội hiện đại, khi đô thị phát triển nhanh chóng thì những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc vẫn là nền tảng tinh thần của các đô thị, tạo nên bản sắc riêng của đô thị Việt Nam. Bản thân việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã mang tính xã hội hóa cao, vì ở đấy các phong trào, các hình thức hoạt động, các nguồn nhân lực đều bắt đầu từ sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân.

Tuy nhiên điều trăn trở nhất hiện nay khi mà kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường thì nguồn kinh phí lấy ở đâu ra và ai sẽ tham gia vào quá trình xã hội hóa các hoạt động văn hóa? Và tham gia như thế nào?

Trước tiên chúng ta phải xác định mục đích xã hội hóa là gì và hiệu quả cuối cùng của nó như thế nào? Có nghĩa là không phải xã hội hóa một cách tùy tiện với bất cứ giá nào.

Mục đích xã hội hóa hoạt động văn hóa là nhằm biến việc xây dựng nền văn hóa mới của chúng ta trở thành công việc toàn xã hội, ở đó tất cả các ngành, đoàn thể, cơ quan xí nghiệp, trường học… và tất cả mỗi chúng ta đều ghé vai gánh vác, đóng góp. Hiệu quả cuối cùng của công việc này lại đòi hỏi đạt được mục tiêu chung là: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Suy cho cùng khó khăn trở ngại lớn nhất khi tiến hành xã hội hóa hoạt động văn hóa là nguồn tài chính và nguồn nhân lực, phải thường xuyên trả lời câu hỏi: ai là người đứng ra khuấy động phong trào và nguồn tài chính lấy ở đâu ra?

Bởi vậy chúng ta không ảo tưởng cho rằng cứ hô một tiếng là mọi người ào ào đi theo. Cần có sự nghiên cứu thực tiễn một cách khoa học rồi từ đó có những bước đi thích hợp. Từng bước, từng bước đi vững chắc và có hiệu quả.

Nhiều năm qua, việc xã hội hóa các lễ hội truyền thống là đạt hiệu quả cao nhất. Tại sao vậy? Trước hết đó là do nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng và tâm linh rất lớn, không thể thiếu được của quảng đại quần chúng nhân dân. Cho nên “nhất hô bá ứng”. Có nhiều vùng quê nghèo nhưng mọi người sẵn sàng bỏ công sức, tiền của để tôn tạo đình chùa, miếu mạo, để có nơi thờ cúng, tế lễ thành hoàng làng mình, để chăm sóc những giá trị tinh thần của cuộc sống gắn bó thiết thân với mỗi người, mỗi gia đình. Bên cạnh sự hỗ trợ kinh phí của Nhà nước, nguồn tài chính to lớn từ trong nhân dân mà ra.

Theo chúng tôi phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể rất khó làm nhưng lại ít tốn kém. Thí dụ: Xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa… chỉ cốt mọi người hiểu rõ vấn đề và tích cực tham gia đâu cần có nhiều tiền mới xây dựng được nhưng để “mọi người hiểu rõ” quả thật không đơn giản chút nào. Cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hóa chính là để giải quyết khâu then chốt này. Chỉ có dân hiểu, dân bàn và dân làm thì mọi phong trào mới dẫn đến kết quả tốt đẹp.

Xã hội hóa chỉ là một trong những biện pháp để xây dựng một nền văn hóa bền vững. Nhà nước cần đầu tư ngày càng nhiều hơn cho văn hóa cùng với đà phát triển kinh tế.

Ngay bây giờ, chúng tôi nhận thấy: nhiều nơi không có địa điểm sinh hoạt cộng đồng. Ngày xưa đình làng là nơi sinh hoạt cộng đồng. Còn bây giờ thì sao?

Ðể phát huy dân chủ ở cơ sở thì trước hết phải có địa điểm hội họp. Nên chăng mỗi làng, mỗi thôn, mỗi bản có một nhà văn hóa. Nơi đó vừa là chỗ sinh hoạt văn hóa, vừa là chỗ tập hợp cộng đồng bàn những việc mà nhân dân quan tâm. Kinh phí chắc chắn không phải chỉ do dân đóng góp, cần có sự đầu tư của chính quyền địa phương và tốt nhất là có quy chế từ trung ương.

Ðó chỉ là một việc cụ thể thôi, còn có muôn vàn việc cụ thể khác nữa. Có sự quan tâm đầy đủ của Nhà nước, từ trung ương đến địa phương, chắc chắn bộ mặt văn hóa của đất nước sẽ đổi thay. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: Sự nghiệp xây dựng đời sống văn hóa là của toàn dân, song muốn đạt mục tiêu định hướng, Nhà nước là người quyết định.

TRUNG ÐÔNG

Ông Hà Văn Tăng, Cục trưởng văn hóa – thông tin cơ sở:

Xã hội hóa hoạt động văn hóa là để mọi người, tổ chức và các cá nhân tham gia. Trong đó các nhà quản lý hướng dẫn nhân dân thực hiện. Xã hội hóa tạo điều kiện cho giá trị văn hóa được nhân lên đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của nhiều người. Xã hội hóa như thế nào rất cần có chủ trương để người dân thực hiện. Những nhà quản lý cần phải soạn thảo những văn bản để thực hiện hành lang pháp lý văn bản dưới luật.

Lúng túng trên đường triển khai xã hội hóa hoạt động sân khấu là do đâu? Nên tiến hành xã hội hóa sân khấu từng bước như thế nào?

Thực tình, đối với đơn vị chúng tôi, khái niệm “xã hội hóa” không phải là một điều quá xa lạ. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, ngay sau khi ra đời, Hãng phim truyện I đã có nhiều bộ phim được sản xuất mang dáng dấp của hình thức đó.

Xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật, diễn viên có nhiều cơ hội khẳng định mình, nhưng cũng đồng thời phải đối mặt nhiều thử thách. Việc xóa bỏ hay giảm bớt ngân sách bao cấp cho các nhà hát, đơn vị nghệ thuật là một chủ trương cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Ðiều này đòi hỏi sự chủ động vượt khó, suy nghĩ tìm tòi những hướng đi mới.