Khái Niệm Về Văn Hóa Học Là Gì / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Văn Hóa Là Gì? Khái Niệm Về Văn Hóa

Văn hóa là gi? Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Từ “văn hoá” có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm “văn hoá” bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.

Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…)…

Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [Hồ Chí Minh 1995: 431].

Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise” [UNESCO 1989: 5].

Theo Đoàn Văn Chúc cho rằng: Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa – không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa, nơi nào có con người nơi đó có văn hóa.

Khi nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng cho sự phát triển của loài người qua các thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống văn hóa là một đất nước giàu có về tinh thần.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt – Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam. Bộ GD-ĐT, NXB Văn hóa Thông tin – 1999 [tr. 1796] thì là (1) những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử: nền văn hóa các dân tộc; kho tàng văn hóa dân tộc. (2) Đời sống tinh thần của con người: phát triển kinh tế và văn hóa; chú ý đời sống văn hóa của nhân dân. (3) Tri thức khoa học, trình độ học vấn: trình độ văn hóa; học các môn văn hóa. (4) Lối sống, cách ứng xử có trình độ cao: người có văn hóa; gia đình văn hóa mới. (5) Nền văn hóa một thời kì lịch sử cổ xưa, xác định được nhờ tổng thể các di vật tìm được có những đặc điểm chung: văn hóa Đông Sơn; văn hóa rìu hai vai.

Trong từ điển học sinh do NXB Giáo dục ấn hành năm 1971 viết: “Văn hóa” là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần (như trình độ sản xuất, khoa học, văn học nghệ thuật, nếp sống, đạo đức, tập quán…) mà loài người sáng tao ra nhằm phục vụ những nhu cầu của mình trong quá trình lịch sử. Hay là: “Trình độ hiểu biết về những giá trị tinh thần thuộc về một thời kì lịch sử nhất định”.

Văn hóa là gì? Khái niệm về văn hóa

Admin Mr.Luân

Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. Liên hệ: 092.4477.999 – Mail : luanvanaz@gmail.com ✍✍✍ Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ ✍✍✍

Khái Niệm Văn Hóa Trong Xã Hội Học

Văn hóa hạn được đặc trưng bởi sự mơ hồ và được sử dụng để xác định các quá trình của tinh thần, trí tuệ, phát triển thẩm mỹ; hình thức và các sản phẩm của hoạt động tinh thần, trí tuệ và nghệ thuật; mô tả trạng thái của xã hội, dựa trên thứ tự của nhân loại và luật pháp.

Khái niệm về văn hóa trong xã hội học là rất rộng, nó bao hàm việc nghiên cứu nó trong sự đa dạng của những khía cạnh này.

Khái niệm về văn hóa trong xã hội học từ các nhà nghiên cứu khác nhau khác nhau về một số đặc điểm, mà tạo ra điều kiện tiên quyết cho việc phân bổ trong những phương pháp sau đây để định nghĩa của nó.

Cách tiếp cận công nghệ xem xét văn hóa theo nghĩa rộng là một mức độ riêng biệt của sản xuất, cũng như tất cả các cấp của đời sống xã hội trong tất cả các proivleniyah sinh sản của nó. cách tiếp cận hoạt động – như một bộ sưu tập các hình dạng và loại hoạt động vật chất và tinh thần và kết quả của hoạt động này khác nhau. cách tiếp cận giá trị – như một quả cầu đời sống tinh thần, trong đó văn hóa là một hệ thống các giá trị, chuẩn mực và niềm tin, cũng như các phương tiện biểu hiện của những giá trị này. cách tiếp cận tích hợp cho thấy rằng nền văn hóa bao gồm các mô hình tiềm ẩn và rõ ràng của hành vi con người, được tạo ra và truyền đi bằng các phương tiện của các biểu tượng, bản chất của nó bao gồm ý tưởng giá trị truyền thống, việc lựa chọn cuối cùng của thời gian lịch sử.

Khái niệm về văn hóa trong xã hội học và vai trò của nó, diễn ra trong đời sống nhân dân có một định hướng khác nhau của hai dòng. Cách tiếp cận đầu tiên về vấn đề này – tiến hóa (Johann Gottfried Herder). Trong đó, văn hóa được xem là một yếu tố quyết định trong việc cải thiện và tiến hóa của con người, là người có thể biến nó thành một con sáng tạo và hài hòa. Cách tiếp cận thứ hai – quan trọng. Ông giải thích văn hóa như một phương tiện đặc biệt của nô lệ của con người và biến đổi tiến bộ của mình vào một công cụ của thế lực thù địch đối với con người.

xã hội học hàng đầu đã xem xét các khái niệm về văn hóa như sau. Zhan Zhak Russo tin rằng cuộc sống trong lòng của thiên nhiên là người duy nhất đúng, và nó hư hỏng nền văn hóa. Fridrih Nitsshe viết rằng con người là yếu vô văn, và văn hóa dành cho nô lệ và áp bức của sức mạnh thiên nhiên của mình.

Oswald Spengler tin rằng mỗi nền văn hóa có số phận riêng của mình, mà kết thúc với sự phát triển của nền văn minh. Tennis Ferdinand đưa lý thuyết về việc không thể phản đối các nền văn hóa và văn minh. José Ortega y Gasset là tác giả của truyền thống văn hóa bi quan, có nghĩa là một người là thành viên của quần chúng và hành vi thích giao du của nó. Cuộc khủng hoảng của nền văn minh hiện đại được liên kết với massivization văn hóa.

văn hóa Nga, các nhà nghiên cứu đã giải thích các khái niệm về văn hóa trong xã hội học mâu thuẫn. Một mặt, nó đã phát triển một truyền thống của lý thuyết tiến hóa, theo đó sự tiến bộ của xã hội được xác định bởi sự phát triển của văn hóa), và mặt khác – chỉ trích.

Các yếu tố của văn hóa trong xã hội học nổi bật bao gồm: giá trị, ngôn ngữ, định mức, tập quán, truyền thống và phong tục. Các yếu tố hiệu quả nhất của văn hóa – một khái niệm hay khái niệm (mà tổ chức thế giới của nam giới), tỷ lệ (phân bổ các liên kết giữa con người), các giá trị (hiển thị tín ngưỡng của người dân) và các quy tắc (điều chỉnh hành vi của người dân).

Các loại văn hóa trong xã hội học như sau, tùy thuộc vào tiêu chí nhất định được đánh dấu.

Trên một khu vực hoặc địa lý: văn hóa phương Tây, Đông, Châu Âu, Châu Phi, Mỹ, vv

Trong cơ sở tự thời gian: nền văn hóa cổ, văn hóa của thời Trung cổ, Phục hưng, hiện đại và đương đại.

Một Số Khái Niệm Khái Quát Về Văn Hóa

Published on

1.

2. Định nghĩa của Tổ chức văn hóa thế giới UNESCO ( UNESCO Mexico City Declaration on Cultural PoliciesWorld Conference on Cultural Polici Mexico City Declaration on Mexico City, 26 July – 6 August 1982 Định nghĩa của Danh Nhân văn hóa thế giới Chủ tịch Hồ Chí Minh (NXB Chính trị Quốc gia tập II) Định nghĩa của một giáo trình đại học Giáo trình Cơ sở Văn hóa Việt Nam (NXB Giáo dục)

3. Đặc trưng Chức năng 1 HỆ THỐNG TỔ CHỨC XÃ HỘI 2 GIÁ TRỊ ĐIỀU CHỈNH XÃ HỘI 3 NHÂN SINH GIAO TIẾP 4 LỊCH SỬ GIÁO DỤC

4. Cấu trúc của hệ thống văn hóa 4 thành tố cơ bản (tiểu hệ): 1. Văn hóa nhận thức 2. Văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng 3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên 4. Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội Cấu trúc của văn hóa 3 bộ phận: 1. Văn hóa sản xuất 2. Văn hóa vũ trang 3. Văn hóa sinh hoạt

5. Môi trường tự nhiên & con người Thích nghi & biến đổi Môi trường xã hội & con người Cá nhân & Cộng đồng Môi trường văn hóa & con người Gia đình & xã hội , doanh nghiệp & nhà nước

7. Bản sắc văn hóa l à cái cốt lõi, đặc trưng riêng có của một cộng đồng văn hóa trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống – ý thức của một cộng đồng, bao gồm: cội nguồn, cách tư duy, cách sống, dựng nước, giữ nước, sáng tạo văn hóa, khoa học – nghệ thuật… Khái niệm Bản sắc văn hóa có hai quan hệ cơ bản: quan hệ bên ngoài là dấu hiệu để phân biệt các cộng đồng với nhau quan hệ bên trong chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng phải có.

8. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trở thành những nét đặc sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu óc thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống ( Nghị quyết Trung ương IV của Đảng )

10. LUẬT DI SẢN VĂN HÓA CỦA CHXHCN VIỆT NAM Điều 4 1. Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác .

11. LUẬT DI SẢN VĂN HÓA CỦA CHXHCNVN Điều 4 2 . Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

12. LUẬT DI SẢN VĂN HÓA CỦA CHXHCN VIỆT NAM Điều 4 chúng tôi tích lịch sử – văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. 4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. 5. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.

13. LUẬT DI SẢN VĂN HÓA CỦA CHXHCN VIỆT NAM Điều 4 6. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên . 7. Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học. 8. Bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là sản phẩm được làm giống như bản gốc về hình dáng, kích thước, chất liệu, màu sắc, trang trí và những đặc điểm khác.

14. LUẬT DI SẢN VĂN HÓA CỦA CHXHCN VIỆT NAM Điều 4 9. Sưu tập là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản văn hoá phi vật thể, được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội. 10. Thăm dò, khai quật khảo cổ là hoạt động khoa học nhằm phát hiện, thu thập, nghiên cứu di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và địa điểm khảo cổ.

15. LUẬT DI SẢN VĂN HÓA CỦA CHXHCN VIỆT NAM Điều 4 11 . Bảo quản di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là hoạt động nhằm phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. 12. Tu bổ di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm tu sửa, gia cố, tôn tạo di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh. 13. Phục hồi di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm phục dựng lại di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh đã bị huỷ hoại trên cơ sở các cứ liệu khoa học về di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh đó.

16. Tangible Heritage Intangible Heritage

17. Tangible Heritage Intagible Heritage 1. The “intangible cultural heritage” means the practices, representations, expressions, knowledge, skills – as well as the instruments, objects, artefacts and cultural spaces associated therewith – that communities, groups and, in some cases, individuals recognize as part of their cultural heritage. This intangible cultural heritage, transmitted from generation to generation, is constantly recreated by communities and groups in response to their environment, their interaction with nature and their history, and provides them with a sense of identity and continuity, thus promoting respect for cultural diversity and human creativity. For the purposes of this Convention, consideration will be given solely to such intangible cultural heritage as is compatible with existing international human rights instruments, as well as with the requirements of mutual respect among communities, groups and individuals, and of sustainable development.

18. Tangible Heritage Intagible Heritage 2. The “intangible cultural heritage”, as defined in paragraph 1 above, is manifested inter alia in the following domains: (a) oral traditions and expressions, including language as a vehicle of the intangible cultural heritage; (b) performing arts; (c) social practices, rituals and festive events; (d) knowledge and practices concerning nature and the universe; (e) traditional craftsmanship.

19. Tangible Heritage Intagible Heritage 3. “Safeguarding” means measures aimed at ensuring the viability of the intangible cultural heritage, including the identification, documentation, research, preservation, protection, promotion, enhancement, transmission, particularly through formal and non-formal education, as well as the revitalization of the various aspects of such heritage. 4. “States Parties” means States which are bound by this Convention and among which this Convention is in force. 5. This Convention applies mutatis mutandis to the territories referred to in Article 33 which become Parties to this Convention in accordance with the conditions set out in that Article. To that extent the expression “States Parties” also refers to such territories.

20. Tangible Heritage Intagible Heritage 3. “Safeguarding” means measures aimed at ensuring the viability of the intangible cultural heritage, including the identification, documentation, research, preservation, protection, promotion, enhancement, transmission, particularly through formal and non-formal education, as well as the revitalization of the various aspects of such heritage. 4. “States Parties” means States which are bound by this Convention and among which this Convention is in force. 5. This Convention applies mutatis mutandis to the territories referred to in Article 33 which become Parties to this Convention in accordance with the conditions set out in that Article. To that extent the expression “States Parties” also refers to such territories.

21. 1 Kinh đô Hu ế là di sản văn hóa vật thể tại Vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Trong g ầ n 400 năm (1558-1945), Hu ế đã t ừ ng là th ủ ph ủ c ủ a 9 đ ờ i chúa Nguy ễ n ở x ứ Đàng Trong, c ủ a vua Quang Trung và 13 đ ờ i vua Nguy ề n . Là kinh đô m ộ t th ờ i c ủ a Vi ệ t Nam, Hu ế n ổ i ti ế ng v ớ i m ộ t h ệ th ố ng nh ữ ng đ ề n, chùa, thành quách, lăng t ẩ m, ki ế n trúc nguy nga tráng l ệ g ắ n li ề n v ớ i c ả nh quan thiên nhiên núi sông thơ m ộ ng. Hu ế còn là trung tâm văn hóa c ủ a c ả nư ớ c b ở i ở đây v ẫ n b ả o t ồ n đư ợ c nh ữ ng giá tr ị văn hóa truy ề n th ố ng h ế t s ứ c đ ặ c trưng c ủ a đ ấ t kinh k ỳ . Qu ầ n th ể di tích c ố đô và lăng t ẩ m các vua tri ề u Nguy ễ n Hu ế đã đư ợ c T ổ ch ứ c Giáo d ụ c, Khoa h ọ c và Văn hóa Liên hi ệ p qu ố c (UNESCO) công nh ậ n là Di s ả n văn hoá th ế gi ớ i năm 1993

22. 2 Khu di tích M ỹ Sơn là m ộ t di s ả n t ọ a l ạ c ở xã Duy Phú, huy ệ n Duy Xuyên, t ỉ nh qu ả n Nam thuộc Vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam Đây là m ộ t t ổ h ợ p kiến trúc với hơn 70 đ ề n tháp Chămpa n ằ m trong m ộ t thung lũng có đư ờ ng kính kho ả ng 2 km đư ợ c bao b ọ c b ở i đ ồ i núi. Năm 1999 Khu di tích M ỹ Sơn đã đư ợ c UNESCO công nh ậ n là Di s ả n văn hoá th ế gi ớ i ở Việt Nam

23. 3. Ph ố c ổ H ộ i An thu ộ c th ị xã H ộ i An, t ỉ nh Qu ả ng Nam thuộc Vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam . Đây là m ộ t khu ph ố c ổ thương cảng đư ợ c hình thành t ừ th ế k ỷ XVI-XVII . Đ ế n nay khu ph ố c ổ H ộ i An v ẫ n b ả o t ồ n g ầ n như nguyên tr ạ ng m ộ t qu ầ n th ể di tích ki ế n trúc g ồ m nhi ề u lo ạ i hình như: nhà ở , h ộ i quán, đình chùa, mi ế u, gi ế ng, c ầ u, nhà th ờ t ộ c, b ế n c ả ng, ch ợ … k ế t h ợ p v ớ i đư ờ ng giao thông ngang d ọ c t ạ o thành các ô vuông ki ể u bàn c ờ , mô hình ph ổ bi ế n c ủ a các đô th ị thương nghi ệ p phương Đông th ờ i Trung đ ạ i. Cùng cu ộ c s ố ng thư ờ ng ngày c ủ a cư dân v ớ i nh ữ ng t ậ p quán, sinh ho ạ t văn hóa lâu đ ờ i đang đư ợ c duy trì m ộ t cách khá b ề n v ữ ng, H ộ i An hi ệ n là m ộ t b ả o tàng s ố ng v ề ki ế n trúc và l ố i s ố ng đô th ị th ờ i phong ki ế n. Ph ố c ổ H ộ i An đã đư ợ c UNESCO công nh ậ n là Di s ả n văn hóa th ế gi ớ i năm 1999.

24. 4 Nhã nh ạ c Cung đình Hu ế là một loại hình nghệ thuật đặc sắc thuộc Vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam. Nhã nh ạ c là nghệ thuật ” tao nhã”, nghệ thuật cung đình: chỉ đư ợ c trình di ễ n t ạ i các l ễ k ỷ ni ệ m, l ễ tôn giáo hoặc phục vụ các s ự ki ệ n đ ặ c bi ệ t như: L ễ đăng quang, l ễ tang hoặc lễ tiếp đón … Nhã nh ạ c Cung đình Hu ế đã đư ợ c UNESCO công nh ậ n là “Ki ệ t tác di s ả n văn hóa phi v ậ t th ể và truy ề n kh ẩ u c ủ a nhân lo ạ i” năm 2003 .

25. 5 ” Không gian văn hóa C ồ ng chiêng Tây Nguyên” tr ả i dài trên 5 t ỉ nh : Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đ ồ ng. C ồ ng chiêng là nghệ thuật , là đời sống, là tâm linh c ủ a các dân t ộ c chủ thể Vùng văn hóa Tây Nguyên Việt Nam. Năm 2005 “Không gian văn hóa C ồ ng chiêng Tây Nguyên” đã chính th ứ c đư ợ c UNESCO công nh ậ n là ” Ki ệ t tác di s ả n văn hoá phi v ậ t th ể và truy ề n kh ẩ u c ủ a nhân lo ạ i

Bàn Về Khái Niệm Đời Sống Văn Hóa Và Môi Trường Văn Hóa

Tin tức – Sự kiện / Nghiên cứu trao đổi

Bàn về khái niệm đời sống văn hóa và môi trường văn hóa

Qua phân tích các văn bản định hướng của Đảng và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, bài viết đưa ra thời điểm xuất hiện và quan niệm về các cụm từ đời sống văn hóa, môi trường văn hóa. Nội hàm môi trường văn hoá rộng hơn đời sống văn hoá. Đời sống văn hoá đề cập đến những điều kiện, những hành vi văn hoá của con người xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong từng hoàn cảnh cụ thể của đời sống. Môi trường văn hoá đề cao vai trò chủ động của con người trong các mối quan hệ ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Xây dựng đời sống văn hoá là một nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nằm trong chiến lược xây dựng môi trường văn hoá. Môi trường văn hoá bao gồm các yếu tố văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể, môi trường tự nhiên và trên hết là những con người hiện diện văn hoá.

Những năm gần đây, trong nhiều bài viết, giới nghiên cứu văn hoá có nói tới hai cụm từ đời sống văn hoá và môi trường văn hoá. Nội hàm hai cụm từ trên như thế nào đang là vấn đề đặt ra, cần sự thống nhất về nhận thức, đồng thời làm rõ sự khác biệt của hai cụm từ trên chính là tạo sự thuận lợi cho nhận thức và hành động trong triển khai xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.

thái độ ứng xử với cái cũ, cái mới trong đời sống của nhân dân một cách hợp tình, hợp lý: ” Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết. Không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng nhiều phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì phải làm…“.

Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta còn thấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ “mới” thay cho từ “văn hoá” để cho dân dễ hiểu về xây dựng đời sống văn hoá. Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Cho mãi tới những năm 80 của thế kỷ XX, trong chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá, Đảng, Nhà nước vẫn sử dụng từ “mới” được hiểu là kết tinh hàm lượng văn hoá, tri thức, cách tổ chức, giá trị mới trong xây dựng nếp sống, nền văn hoá và con người. Ví dụ ngày 15/1/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 214/CT-TW về việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội. Văn kiện Đại hội IV (1976) của Đảng: “Ra sức xây dựng nền văn hoá mới, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hóa cao”. Năm 1980, Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương được thành lập ở các cấp để chỉ đạo vận động xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới.

Cụm từ đời sống văn hoá xuất hiện trong văn kiện của Đảng từ Đại hội IV, đoạn viết: “Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hoá (tác giả nhấn mạnh) ở các vùng kinh tế mới, các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân

tộc, ở miền núi và hải đảo”. Đến Đại hội V (1982), Đảng ta xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá, nhất là đời sống văn hoá ở cơ sở, coi đó là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng văn hoá và con người: Sau Đại hội V, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trở thành một phong trào phát triển sâu rộng trên địa bàn dân cư, đơn vị sản xuất, công tác, học tập tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hoá trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó, khái niệm về đời sống văn hoá ngày một sáng tỏ. Năm 1987, cuốn sách Năm 2007, cuốn “ Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa”. Đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Namđã luận giải: “Đời sống văn hoá chính là những hành vi sống biểu hiện một trình độ văn hoá, bao gồm các hoạt động của xã hội, của tập thể, của từng cá nhân, nhằm mục đích văn hóa hoá tức là hoàn thiện con người”. Năm 2000, cuốn Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng hoạt động văn hóa của nó). Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cho rằng đời sống văn hoá bao gồm 4 yếu tố: văn hoá vật thể và phi vật thể; cảnh quan văn hoá; văn hoá cá nhân; văn hoá của các “tế bào” trong mỗi cộng đồng, từ đó đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng thể những yếu tố hoạt động văn hoá vật chất và tinh thần, những tác động qua lại lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hoá trong cộng đồng, trực tiếp hình thành nhân cách và lối sống của con người”.

Con người sinh ra và trưởng thành, muốn cho đời sống cá nhân được phong phú, lành mạnh thì tất yếu người đó có quan hệ đến:

– Đời sống vật chất: đảm bảo yếu tố cho người đó sinh tồn.

– Đời sống tinh thần: nhằm thỏa mãn nhu cầu ý thức về tình cảm, lý trí, nghị lực, tư tưởng của người đó.

– Đời sống xã hội: xã hội hình thành nhân cách con người. Bản thân mỗi người đều muốn sống với cộng đồng, thông qua cộng đồng để chứng minh, khẳng định phẩm chất, năng lực của mình và hoàn thiện bản thân.

Đời sống văn hóa có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội để hướng con người vươn lên theo qui luật của cái đúng, cái đẹp, cái tốt, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mĩ, đào thải những biểu hiện tiêu cực tha hoá con người. Đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là quá trình các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu được tác động vào đời sống vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động vào đời sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng các yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho cá nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời mình.

Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính kế thừa. Kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định và tiền đề khẳng định những giá trị mới.

Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người luôn luôn có khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh dạn cải đổi mới mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần của con người.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng: Đời sống văn hóa là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo các sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng sống của chính con người.

do A.I. Ác-môn-đốp chủ biên, dịch từ tiếng Nga và được Nhà xuất bản Văn hoá xuất bản đưa ra quan niệm: ” Cơ sở lý luận văn hoá Mác – Lênin Môi trường văn hoá là một tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hoá, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hoá không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hoá vật thể mà còn có những con người hiện diện văn hoá“.

Quan niệm trên chỉ cho rõ hai thành tố quan trọng của môi trường văn hoá:

1. Những yếu tố vật thể (vật thể tự nhiên và vật thể nhân tạo).

2. Nhân cách (có thể hiểu là hành vi văn hoá biểu hiện ở cộng đồng người và cá thể người).

Hai thành tố này ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo, hưởng thụ, phổ biến các giá trị văn hoá và ý chí vươn lên của con người hướng tới chuẩn mực giá trị nhất định.

Ở một góc nhìn khác, tác giả Đỗ Huy cho rằng ” Môi trường văn hoá chính là môi trường nhân hóa” và từ góc nhìn giá trị học nhấn mạnh vai trò của con người: ” Môi trường văn hoá chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình“.

Từ định hướng trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng và từ thực tiễn sinh động của các phong trào văn hóa những năm đầu 90 (thế kỷ XX): phong trào xây dựng gia đình văn hóa; làng, bản, ấp văn hóa; khu dân cư tiên tiến; môi trường văn hóa trong quân đội…, Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) đã đề ra 10 nhiệm vụ cơ bản xây dựng nền văn hóa Việt Nam, xếp nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa ở vị trí thứ hai sau nhiệm vụ xây dựng con người. Nghị quyết đặt ra mục tiêu của việc xây dựng môi trường văn hóa là: ” Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội…), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi…) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân“. Đồng thời Nghị quyết trên cũng chỉ ra những vấn đề quan tâm cụ thể của xây dựng môi trường văn hóa là: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai

trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh. Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị và nông thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.

Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật “.

– Xây dựng đời sống văn hoá ở các đơn vị cơ sở

– Xây dựng gia đình, cộng đồng dân cư văn hoá

– Xây dựng nếp sống văn minh

– Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá.

– Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, phong trào văn hoá, văn nghệ.

Nội dung nêu trên chưa làm rõ thành tố nhân cách và môi trường tự nhiên trong xây dựng môi trường văn hoá. Những thiếu sót này đã được bổ sung trong nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh nêu trong Nghị quyết Trung ương 9, khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (2014). Đảng ta đã tiếp thu lý luận về phát triển bền vững của tổ chức UNESCO, bao gồm 3 trụ cột cơ bản: kinh tế bền vững, xã hội bền vững và môi trường bền vững hướng tới mục tiêu làm cho con người phát triển toàn diện. Nghị quyết Trung ương 9 đã nêu hẳn một quan điểm chỉ đạo: “Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng” và trong nội dung xây dựng môi trường văn hóa đã nhấn mạnh vấn đề nhân cách văn hóa, bảo vệ môi trường tự nhiên: “Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội.

Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau. Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ”.

Như vậy, thông qua việc khảo sát các văn bản thể hiện quan điểm của Đảng về môi trường văn hoá, có thể nhận ra rằng tư duy của Đảng về môi trường văn hoá ngày một sáng rõ. Nội hàm môi trường văn hoá rộng hơn đời sống văn hoá. Đời sống văn hoá đề cập đến những điều kiện, những hành vi văn hoá của con người xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong từng hoàn cảnh cụ thể của đời sống, nhằm thoả mãn khát vọng hưởng thụ và sáng tạo văn hoá. Môi trường văn hoá đề cao vai trò chủ động của con người với tư cách là sản phẩm của văn hoá đồng thời là chủ thể sáng tạo văn hoá trong các mối quan hệ ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, tạo sự ổn định, phát triển, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ, không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng sống của con người. Xây dựng đời sống văn hoá là một nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nằm trong chiến lược xây dựng môi trường văn hoá. Môi trường văn hoá bao gồm các yếu tố văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể, môi trường tự nhiên và trên hết là những con người hiện diện văn hoá.

Tóm lại , môi trường văn hoá được hiểu với nghĩa rộng nhất của nó là sự hiện hữu các yếu tố văn hoá vật thể, phi vật thể do con người tái tạo ra; sự hiện hữu của cả những yếu tố vật thể tự nhiên bao quanh con người, trở thành khung cảnh và điều kiện tồn tại của con người; sự hiện diện của các nhân cách văn hóa trong không gian, thời gian xác định, quan hệ, tác động lẫn nhau hướng con người tới những chuẩn mực giá trị xã hội./.