Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm pháp lí áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức do vi phạm kỉ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ hoặc vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các biện pháp trách nhiệm kỉ luật gồm: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc. Thời hiệu xử lí vi phạm kỉ luật là 3 tháng kể từ ngày phát hiện vi phạm, trường hợp cần điều tra, xác minh thì có thể kéo dài nhưng không quá 6 tháng.
Khi xử lí kỉ luật cán bộ, công chức, viên chức nhất thiết phải thành lập hội đồng kỉ luật. Thành phần hội đồng kỉ luật gồm có chủ tịch hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị; đại diện ban chấp hành công đoàn cùng cấp; đại diện công chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị có người vi phạm kỉ luật (do tập thể công chức cử ra).
Hội đồng kỉ luật làm việc theo chế độ tập thể, công khai, dân chủ, biểu quyết theo đa số bằng phiếu kín và chỉ họp khi có đầy đủ các thành viên hội đồng.
Sau 12 tháng kể từ ngày có quyết định kỉ luật, nếu công chức không tái phạm và không có vi phạm đến mức phải xử lí kỉ luật thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hiệu lực kỉ luật.
Sắc lệnh số 76/SL ngày 20.5.1950 cũng đã để cập trách nhiệm kỉ luật đối với công chức. Tuy nhiên, khái niệm trách nhiệm kỉ luật và các hình thức kỉ luật đối với cán bộ, công chức bắt đầu được sử dụng chính thức trong Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 và tiếp tục được quy định trong Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2003… Trước đây, trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trách nhiệm kỉ luật được áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức nói chung, nghĩa là không chỉ đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp mà đối với cả người lao động trong các xí nghiệp, công nông trường…
Bạn thấy nội dung này thực sự hữu ích?
Bạn thấy nội dung này chưa ổn ở đâu?