Khái Niệm Văn Hóa Của Unesco Đưa Ra Năm 1982 / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | 2atlantic.edu.vn

Văn Hóa Là Gì? Khái Niệm Chuẩn Mực Văn Hóa Theo Unesco

Mỗi đất nước, quốc gia, hay vùng lãnh thổ sẽ có nền văn hóa, phong tục tập quán mang bản sắc riêng. Trong đó, có lẽ văn hóa là điều quan trọng nhất. Văn hóa là gì? Thế nào là chuẩn mực văn hóa theo Unesco? Nếu bạn đang quan tâm đến khái niệm này, chúng tôi sẽ giúp bạn giải đáp qua bài viết ngay sau đây.

Văn hóa là gì?

Văn hóa được chia làm 2 loại: Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện qua các sản phẩm. Còn văn hóa tinh thần là tổng thể các lý luận và giá trị được con người sáng tạo trong các hoạt động, những tiêu chí, nguyên tắc chi phối các hoạt động ứng xử, kỹ năng của con người tích lũy theo từng giai đoạn lịch sử.

Ngoài cách giải nghĩa văn hóa là gì như trên, theo giáo sư tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm giải thích ý nghĩa khái niệm văn hóa như sau. Văn hóa được hiểu theo 2 cách chính là nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, từ văn hóa được giới hạn theo chiều sâu là giá trị tinh hoa của nó qua nghệ thuật, nếp sống.

Còn theo chiều rộng, nó được dùng để chỉ giá trị trong từng lĩnh vực như giao tiếp, kinh doanh. Giới hạn theo không gian thì cụm từ này dùng để chỉ giá trị đặc thù của từng vùng như Bắc bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ… Giới hạn theo thời gian, văn hóa chỉ giá trị trong từng giai đoạn lịch sử như văn hóa Hòa Bình…

Văn hóa là gì theo nghĩa rộng được hiểu là bao gồm tất cả những gì con người làm ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rằng: ” Vì lẽ sinh tồn, loài người đã sáng tạo ra ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, cách sống… Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa “.

Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu của con người và đòi hỏi của sự sinh tồn. Định nghĩa về văn hóa của chủ tịch Hồ Chí Minh giúp ta hiểu rõ hơn về khái niệm này. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người, trước hết là vì lẽ sinh tồn.

Nhưng sau một thời gian dài lặp đi lặp lại, những thói quen đó đã được chắt lọc thành chuẩn mực, tích lũy từ đời này qua đời khác. Cuối cùng thành một kho tàng quý giá của mỗi cộng đồng và góp lại thành di sản văn hóa.

Một định nghĩa khác về văn hóa, theo tổng giám đốc UNESCO giải thích như sau: “Đối với một số người, văn hóa chỉ là những kiệt tác trong lĩnh vực tư duy sáng tạo. Còn những người khác thì cụm từ này có nghĩa là sự khác biệt giữa các dân tộc, từ phong tục tập quán, lối sống và tín ngưỡng”.

Thế nào là chuẩn mực văn hóa theo Unesco?

UNESCO đã đưa ra định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là tổng tể các hoạt động cũng như sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Trải qua các thể kỷ, những hoạt động đó đã tạo nên một giá trị truyền thống riêng – đó là yếu tố xác định các đặc tính của từng dân tộc.”

Định nghĩa này nhấn mạnh vào chuẩn mực văn hóa theo Unesco là sự sáng tạo của con người luôn gắn liền với quá trình lịch sử của mỗi dân tộc trong một thời gian dài. Điều này đã tạo nên những giá trị nhân văn chung, tính đặc thù của mỗi nơi và bản sắc riêng của dân tộc.

Định Nghĩa Văn Hóa Của Unesco

Định Nghĩa Văn Hóa Của Unesco, Định Nghĩa Unesco Về Tin Tức, Tiêu Chí Của Unesco, Các Tiêu Chí Đánh Giá Di Sản Của Unesco, Quan Niệm Của Unesco Về Văn Hóa, Quan Niệm Văn Hóa Của Unesco, Nghị Quyết Unesco Về Hồ Chí Minh, Quan Niệm Của Unesco Về Công Nghiệp Văn Hóa, Tiêu Chí Được Unesco Công Nhận, chúng tôi ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Định Nghĩa Vật Chất Của Lênin, Định Nghĩa âm Tiết Và Định Nghĩa Hình Vị, Định Nghĩa Và ý Nghĩa Của Đạo Hàm Tiết 2, Định Nghĩa Nhân Nghĩa, Tại Sao Việc Xác Định Động Cơ Vào Đảng Đúng Đắn Được Đặt Lên Hàng Đầu Và Có ý Nghĩa Quyết Định, Định Nghĩa 4 Kiểu Dinh Dưỡng ở Vi Sinh Vật, Định Nghĩa Và ý Nghĩa Đạo Hàm, Định Nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa, Định Nghĩa Và ý Nghĩa Của Đạo Hàm, Định Nghĩa Ròng Rọc Cố Định, Định Nghĩa Cảm ơn, Định Nghĩa Irr, Định Nghĩa 2 Góc Kề Bù, Định Nghĩa Rác, Nêu 1 Số Định Nghĩa Về Văn Hóa, Định Nghĩa Iso, Định Nghĩa Cái Tôi, Định Nghĩa R&b, Định Nghĩa 3d, Định Nghĩa 3 Que, Định Nghĩa Phụ Nữ, Định Nghĩa 3, Định Nghĩa Y Đức, ý Nghĩa Của Quy Định 55, Định Nghĩa Bồ, Định Nghĩa 2 Từ Bạn Thân, Định Nghĩa It, Định Nghĩa C, Định Nghĩa C/o, ý Nghĩa Của Quy Định Số 08-qĐi/tw, Định Nghĩa 3g, Định Nghĩa Cảm ơn Và Xin Lỗi, Định Nghĩa Cảm ứng Từ, Định Nghĩa I, ăn Định Nghĩa, Định Nghĩa 1 Chữ Bạn, Định Nghĩa 0 Là Gì, Định Nghĩa, Định Nghĩa Số 0, Định Nghĩa Số 0 Hải Đồ, Định Nghĩa Số Hữu Tỉ, Định Nghĩa Iq, Từ Định Nghĩa Là Gì, 8/3 Định Nghĩa, Định Nghĩa Ete, Định Nghĩa E Hóa Trị, Định Nghĩa 1 Kg, Định Nghĩa 1 Mét, ý Nghĩa Của Quy Định 08, Đất ở Định Nghĩa, Định Nghĩa Ip, Định Nghĩa 2 Chữ Bạn Bè, Định Nghĩa 1m, Định Nghĩa 14/2, Định Nghĩa 14 2, Định Nghĩa Iot, Bài 1 Các Định Nghĩa, Định Nghĩa Rủi Ro, Định Nghĩa 1 Từ, Định Nghĩa S M, Từ Quy Định Có Nghĩa Là Gì, ý Nghĩa Quy Định 08, Định Nghĩa Sốt, Định Nghĩa ăn Tạp, Định Nghĩa ất ơ, Định Nghĩa E=mc2, Định Nghĩa âm On Và âm Kun, Định Nghĩa âm Đệm, Định Nghĩa Bạn Bè, Định Nghĩa Lim, Định Nghĩa 9x, Định Nghĩa 80/20, Định Nghĩa 8/3, Định Nghĩa Bạn Thân, ý Nghĩa Quy Định 55-qĐ/tw, Định Nghĩa 8 3, Định Nghĩa Số 9, Định Nghĩa Art, Định Nghĩa Lời Cảm ơn, Định Nghĩa Máy 99, Định Nghĩa Ma Túy, Định Nghĩa An Lạc, Định Nghĩa ân Hạn Nợ, Định Nghĩa ân Hạn, Định Nghĩa M&a, Định Nghĩa ăn Vặt, Định Nghĩa M/s, Định Nghĩa ăn, Định Nghĩa âm Vị, Định Nghĩa N*,

Định Nghĩa Văn Hóa Của Unesco, Định Nghĩa Unesco Về Tin Tức, Tiêu Chí Của Unesco, Các Tiêu Chí Đánh Giá Di Sản Của Unesco, Quan Niệm Của Unesco Về Văn Hóa, Quan Niệm Văn Hóa Của Unesco, Nghị Quyết Unesco Về Hồ Chí Minh, Quan Niệm Của Unesco Về Công Nghiệp Văn Hóa, Tiêu Chí Được Unesco Công Nhận, chúng tôi ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Định Nghĩa Vật Chất Của Lênin, Định Nghĩa âm Tiết Và Định Nghĩa Hình Vị, Định Nghĩa Và ý Nghĩa Của Đạo Hàm Tiết 2, Định Nghĩa Nhân Nghĩa, Tại Sao Việc Xác Định Động Cơ Vào Đảng Đúng Đắn Được Đặt Lên Hàng Đầu Và Có ý Nghĩa Quyết Định, Định Nghĩa 4 Kiểu Dinh Dưỡng ở Vi Sinh Vật, Định Nghĩa Và ý Nghĩa Đạo Hàm, Định Nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa, Định Nghĩa Và ý Nghĩa Của Đạo Hàm, Định Nghĩa Ròng Rọc Cố Định, Định Nghĩa Cảm ơn, Định Nghĩa Irr, Định Nghĩa 2 Góc Kề Bù, Định Nghĩa Rác, Nêu 1 Số Định Nghĩa Về Văn Hóa, Định Nghĩa Iso, Định Nghĩa Cái Tôi, Định Nghĩa R&b, Định Nghĩa 3d, Định Nghĩa 3 Que, Định Nghĩa Phụ Nữ, Định Nghĩa 3, Định Nghĩa Y Đức, ý Nghĩa Của Quy Định 55, Định Nghĩa Bồ, Định Nghĩa 2 Từ Bạn Thân, Định Nghĩa It, Định Nghĩa C, Định Nghĩa C/o, ý Nghĩa Của Quy Định Số 08-qĐi/tw, Định Nghĩa 3g, Định Nghĩa Cảm ơn Và Xin Lỗi, Định Nghĩa Cảm ứng Từ, Định Nghĩa I, ăn Định Nghĩa, Định Nghĩa 1 Chữ Bạn, Định Nghĩa 0 Là Gì, Định Nghĩa, Định Nghĩa Số 0, Định Nghĩa Số 0 Hải Đồ,

Khái Niệm Văn Hóa Và Các Khái Niệm Văn Hóa Khác

Đây là những công cụ – khái niệm hay công cụ – nhận thức dùng để tiếp cận những vấn đề nghiên cứu. Chúng thường hay bị, hay được sử dụng lẫn lộn, dù mỗi một khái niệm đều có những đặc trưng riêng của mình. Bạn đang xem bài viết Khái niệm Văn Hóa và các khái niệm khác trong chuyên mục Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam tại website của mr Tâm Pacific. Chúc cho bạn nghiên cứu thành công tất cả các bài viết về Văn Hóa Việt Nam trên website.

Khái niệm Văn Hóa

Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thưở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa : Xem dáng về con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng ( năm 77-6 trước công nguyên), thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người – văn trị giáo hóa. Văn hóa ở đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì không phục tùng, dùng văn hóa mà không sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết).

Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Anh có từ Culture, người Đức có từ Kultur, người Nga có từ Kultura. Những từ này lại có chung gốc La Tinh, là chữ Cultus Animi, là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ Cultus là văn hóa với hai khía cạnh : trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng, để không còn là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp. Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hóa không đơn giản, và thay đổi theo thời gian thuật ngữ văn hóa với nghĩa “Canh Tác Tinh Thần” được sử dụng vào thế kỷ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lý canh tác nông nghiệp.

Vào thế kỷ XIX, thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng, bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh. Ông E.B Taylor là người diện của họ. Theo ông, văn hóa và toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.

Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo F. Boas ý nghĩa văn hóa được quy định do khung giải thích riêng, chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”. Vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa”. Văn hóa không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt. Theo A.L Kroeber và C.L Kluckhohn quan niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng, và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó hình thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra.

Khái niệm Văn Minh

Văn Minh là danh từ Hán – Việt (văn là vẻ đẹp minh là sáng) chỉ tia sáng của đạo đức, thể hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp từ Civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc La Tinh là Civitas với nghĩa gốc là đô thị, thành phố và các nghĩa phát sinh là thị dân, công dân. theo W. Durrant sử dụng khái niệm văn minh để chỉ sự sáng tạo văn hóa, nhờ một trật tự xã hội gây ra, và kích thích. Văn minh được dùng theo nghĩa tổ chức xã hội, tổ chức luân lý, và hoạt động văn hóa. Văn minh trong tiếng Đức là để chỉ các xã hội đã đạt được tới giai đoạn tổ chức đô thị và chữ viết.

Theo F. Ăngghen thì văn minh là chính trị khoanh văn hóa lại, và sợi dây liên kết văn minh là Nhà nước. Như vậy, khái niệm văn minh thường bao hàm bốn yếu tố cơ bản là đô thị, nhà nước, chữ viết, các biện pháp kỹ thuật cải thiện, xếp đặt hợp lý, tiện lợi cho cuộc sống của con người. Tuy vậy, người ta vẫn hay sử dụng thuật ngữ văn minh đồng nghĩa với văn hóa. Các học giả Anh và Pháp thường sử dụng lẫn lộn hai khái niệm văn hóa (culture) và văn minh (civilisation) để chỉ toàn bộ sự sáng tạo và các tập quán tinh thần và vật chất riêng cho mọi tập đoàn người. Thực ra, văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại. Như vậy, văn minh khác với văn hóa ở ba điểm.

– Thứ nhất : trong khi văn hóa có bề dày của quá khứ thì văn minh chỉ là một lắt cắt đồng đại.

– Thứ hai : trong khi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kỷ thuật.

– Thứ ba : trong khi văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt, thì văn minh thường mang tính siêu dân tộc – quốc tế.

Ví dụ nền văn minh tin học hay văn minh hậu công nghiệp và văn hóa Việt Nam, văn hóa Nhật Bản, văn hóa Trung Quốc, … Mặc dù, giữa văn hóa và văn minh có một điểm gặp gỡ nhau, đó là do con người sáng tạo ra.

Khái niệm Văn Hiến

Ở phương Đông, trong đó có Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm Văn Hiến. Có thể hiểu văn hiến là văn hóa theo cách dùng, cách hiểu trong lịch sử. Từ đời Lý (1010) người Việt Nam đã tự hào nước mình là một “văn hiến chi bang”. Đến đời Lê (thế kỷ XV) Nguyễn Trãi viết : “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang” – (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ văn hiến mà Nguyễn Trãi dùng ở đây là một khái niệm rộng rãi, chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng.

Văn hiến ( hiến = hiền tài ) – truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. Giáo Sư Đào Duy Anh khi giải thích từ “văn hiến” khẳng định : “là sách vở” và nhân vật tốt trong một đời. Nói cách khác là văn hóa, hiến là hiền tài, như vậy Văn Hiến thiên về những giá trị tinh thần, do những người có tài đức chuyền tải, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt.

Khái niệm Văn Vật ( vật = vật chất )

Truyền thống văn hóa tốt đẹp biểu hiện ở nhiều nhân tài trong lịch sử, và nhiều di tích lịch sử. “Hà Nội nghìn năm văn vật”. Văn vật còn là khái niệm hẹp để chỉ những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, khái niệm văn vật, cũng thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc, và tính lịch sử. Khái niệm văn hiến, văn vật, thường gắn với phương Đông nông nghiệp, trong khi khái niệm văn minh thường gắn với phương Tây đô thị. Như vậy, cho đến nay, chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định nghĩa của văn hóa.

Từ năm 1952, hai nhà dân tộc học Mỹ là A.L Kroeber và C.L Kluckhohn đã trích lục được trên dưới ba trăm định nghĩa, mà các tác giả khác nhau của nhiều nước từng phát ra từ trước nữa cho đến lúc bây giờ. Từ đó đến nay, chắc chắn số lượng định nghĩa tiếp tục tăng lên và đương nhiên, không phải lúc nào các định nghĩa đưa ra cũng có thể thống nhất, hay hòa hợp, bổ sung cho nhau. Chúng tôi xin dẫn một số định nghĩa đã được công bố trong những giáo trình và công trình nghiên cứu về Văn hóa học hay Cơ sở văn hóa Việt Nam. Theo một số học giả Mỹ là “Văn hóa là tấm gương nhiều mặt, phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc”. Ở trung tâm của văn hóa quyển, là hệ tư tưởng cũng được xem là một hệ văn hóa.

Ở Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Vì lẻ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở, và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Trích trong Hồ Chí Minh toàn tập, in lần 2, của Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội năm 1995 ở tập thứ 3, trang 431.

Phó Giáo Sư Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hóa mang tính chất thao tác luận, khác với những định nghĩa trước đó, theo ông đều mang tính tinh thần luận, “Không có cái vật gì gọi là văn hóa cả, và ngược lại bất kỳ vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác”.

Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hóa, Phó Giáo Sư , TSKH Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau : “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy ra quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này đã nêu bật 4 đặc trưng quan trọng của văn hóa là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. Chúng tôi cho rằng, trong vô vàn cách hiểu, cách định nghĩa về văn hóa, ta có thể tạm quy về hai loại. Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử, … Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn, … và tùy theo từng trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ như xét từ khía cạnh tự nhiên, thì văn hóa là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người” hay “tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa”. Gần đây nhất, trong một bài viết của mình, Phó Giáo Sư Nguyễn Từ Chi đã quy các kiểu nhìn khác nhau về văn hóa vào hai góc độ :

– Góc rộng hay góc nhìn dân tộc học, đây là góc chung của nhiều ngành khoa học xã hội.

– Góc hẹp, góc thông dụng trong cuộc sống hằng ngày, còn gọi là góc báo chí.

Theo cách hiểu góc rộng – văn hóa là toàn bộ cuộc sống (nếp sống, lối sống) cả vật chất và tinh thần của từng cộng đồng. Ví dụ như nghiên cứu văn hóa Việt Nam là nghiên cứu lối sống của các dân tộc Việt Nam. Văn hóa từ góc nhìn “báo chí” tuy cũng có những cách hiểu rộng hơn, hay hẹp hơn, nhưng trước đây thường gắn với kiến thức của con người, của xã hội. Ngày nay, văn hóa dưới góc báo chí đã hướng về lối sống hơn là về kiến thức mà theo tác giả, là lối sống gấp, đằng sau những biến động nhanh của xã hội.

Trần Quốc Vượng, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ Dung, Trần Thúy Anh

*** Bạn đang xem bài viết : Khái niệm Văn Hóa và các khái niệm Văn Hóa khác Link https://tampacific.com/khai-niem-van-hoa-va-cac-khai-niem-van-hoa-khac.html

Đưa Ra Quyết Đinh: Khái Niệm Cơ Bản (P1)

Nhà quản trị luôn luôn ra quyết định, và ra quyết định là một trong những kỹ năng chủ yếu của nhà quản trị. Bạn luôn luôn được mời ra quyết định và thực hiện quyết định. Chất lượng và kết quả của quyết định của bạn có khả năng ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nhân viên và tổ chức của bạn. Điều chủ yếu là bạn phải biết tối đa hóa khả năng ra quyết định của bạn nếu bạn muốn trở thành một thà quản trị thực sự có hiệu quả.

– Quyết định theo chuẩn : các quyết định có tính hằng ngày, dựa vào qui trình có sẵn, đã hình thành tiền lệ.

– Quyết định cấp thời.

– Quyết định có chiều sâu : cần suy nghĩ, ra kế hoạch.

Chuyến bay đến trễ. Giám đốc hãng hàng không Vietnam Airlines phải gặp hành khách và quyết định xem nên để họ chờ / cho họ về nhà. (cấp thời)

Mua 1 máy in cho cô thư ký đánh máy vi tính. (theo chuẩn)

Mua 10 máy vi tính cho các nhân viên gồm 6 kỹ sư & 4 cô thư ký. (có chiều sâu)

2.1 Quyết định theo chuẩn

Quyết định theo chuẩn bao gồm những quyết định hàng ngày theo lệ thường và có tính chất lặp đi lặp lại. Giải pháp cho những quyết định loại này thường là những thủ tục, luật lệ và chính sách đã được quy định sẵn. Quyết định loại này tương đối đơn giản do đặc tính lặp đi lặp lại của chúng. Bạn có khuynh hướng ra những quyết định này bàng cách suy luận logic và tham khảo các qui định có sẵn. Vấn đề có thể phát sinh nếu bạn không thực hiện theo đúng các qui tắc sẵn có.

Dĩ nhiên là có những quyết định theo chuẩn không được trực tiếp giải quyết bằng những qui trình của tổ chức. Nhưng bạn vẫn có khuynh hướng ra những quyết định loại này gần như một cách tự động. Vấn đề thường chỉ nẩy sinh nếu bạn không nhạy cảm và không biết tác động đúng lúc. Một lời cảnh giác cho bạn : không nên để những quyết định theo chuẩn trở thành những chứng cứ biện hộ cho những quyết định cẩu thả hoặc tránh né.

Quyết định cấp thời là những quyết định đòi hỏi tác động nhanh và chính xác và cần phải được thực hiện gần như tức thời.

Đây là loại quyết định thường nảy sinh bất ngờ không được báo trước và đòi hỏi bạn phải chú ý tức thời và trọn vẹn.

Tình huống của quyết định cấp thời cho phép rất ít thời gian để hoạch định hoặc lôi kéo người khác vào quyết định.

Quyết định có chiều sâu bao gồm quá trình chọn lọc, thích ứng, và sáng tạo hoặc đổi mới. Việc chọn lọc từ những phương án của quyết định cho phép đạt được sự thích hợp tốt nhất giữa quyết định sẽ được thực hiện và một số giải pháp đã được đem thực nghiệm. Tính hiệu quả của bạn tùy thuộc vào việc bạn chọn quyết định, quyết định này phải được chấp thuận nhiều nhất, sinh lợi và hiệu quả nhất.

II. MÔ HÌNH RA QUYẾT ĐỊNH

– Đưa ra các phương án / giải pháp

– Chọn giải pháp tối ưu.

– Đánh giá quyết định.

Giai đoạn đầu tiên khi ra quyết định là phải nhận ra được rằng vấn đề đang tồn tại đòi hỏi một quyết định.

Trước khi bạn bắt đầu quá trình ra quyết định, hãy chắc chắn là quyết định mà bạn sắp đưa ra thật sự là quyết định mà bạn phải làm. Nếu không là như vậy thì bạn hãy để mặc vấn đề.

Bạn thường nghĩ rằng đã là một nhà quản trị thì mọi người rất rộng lượng chia sẽ các vấn đề cùng với bạn, và nếu có thể, họ sẽ cất dỡ gánh nặng của những vấn đề ấy!

– Tìm xem có những khác biệt nào giữa thực tế đang tồn tại và điều mà bạn cho là “tiêu biểu”.

– Xem xét nối quan hệ nhân – quả.

– Hỏi ý kiến những người trong cương vị để đưa ra được những triển vọng khác nhau hoặc để hiểu biết đúng bản chất của tình huống ra quyết định.

– Xem xét tình huống từ những góc độ khác nhau.

– Phải cởi mở khi chấp nhận rằng thậm chí bạn có thể là một phần của nguyên nhân gây ra vấn đề.

– Quan tâm theo dõi kết quả công việc nếu như nó không diễn ra như kế hoạch.

– Chú ý các vấn đề xảy ra có tình chất lặp đi lặp lại. Điều này thường cho thấy là chúng ta chưa hiểu vấn đề một cách đầy đủ

Vấn đề có thể được nhận biết sớm hơn nhờ :

– Lắng nghe và quan sát nhân viên để biết được những lo ngại của họ đối với công việc, công ty và những cảm nghĩ của họ đối với các đồng nghiệp và ban quản lý.

– Để ý đến hành vi không bình thường hoặc không nhất quán; điều này phản ánh một số vấn đề còn che đậy bên dưới.

– Nếu được, tiếp tục nắm bắt các thông tin về những việc mà đối thủ hoặc người khác đang làm.

Một khi bạn nhận biết được vấn đề hoặc tình huống “thực”, và hiểu những nguyên nhân của nó thì bạn phải đưa ra một trong những quyết định đầu tiên của bạn.

– Không làm gì cả hay không (việc quyết định “không đưa ra quyết định gì cả” cũng là một quyết định).

– Chỉ quan sát vấn đề và trở lại vấn đề vào một ngày khác.

– Cứ tiến tới tìm kiếm một giải pháp và đưa ra nhiều quyết định hơn.

1.2 Những khó khăn trong giai đoạn xác định vấn đề

– Thành kiến thiên lệch do nhận thức :

+ Ảnh hưởng chính trị bởi người khác

+ Mô hình trí năng : mỗi người nhận thức vấn đề với một khía cạnh khác nhau.

– Kỷ năng phân tích kém :

+ Không rõ những gì đang xảy ra  hay gán cho cho nó 1 vấn đề gì đó.

+ Tình huống phức tạp.

+ Coi giải pháp là vấn đề.

1.3 Xác định vấn đề một cách hiệu quả

– Ý thức được những hạn chế về mặt nhận thức.

– Xem xét các mối quan hệ nhân quả.

– Xem xét vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau.

– Có đầu óc cởi mở, thậm chí chấp nhận rằng đôi khi chính bạn là một phần nguyên nhân của vấn đề.

– Theo dõi kết quả công việc, kịp thời phát hiện những bất thường khi việc không diễn ra theo như kế hoạch.

– Sử dụng công nghệ thông tin.

2. Phân tích các nguyên nhân

– Tập hợp các dữ liệu về tình huống.

– Xác định phạm vi vấn đề.

– Ước lượng hậu quả của vấn đề.

– Xem xét những hạn chế có thể có ảnh hưởng đến các giải pháp của vấn đề.

2.1. Tập hợp dữ liệu về tình huống

Điều này đòi hỏi khả năng phân biệt giữa sự kiện và ý kiến. Đặc biệt trong các vấn đề giữa các cá nhân với nhau, ý kiến của mọi người có thể rất mạnh mẽ và bị ảnh hưởng bởi xúc cảm.

Bạn cần phải thu thập và tổ chức dữ liệu thích hợp cho vấn đề. Trên thực tế bạn sẽ không thể nào tập hợp được mọi thông tin mà bạn muốn, do đó bạn phải biết ưu tiên chọn cái gì là quan trọng nhất.

Đó là một vấn đề giữa các cá nhân với nhau, một vấn đề về hệ thống hoặc một vấn đề thuộc nhóm ? Các nhân tố như vậy có thể có ảnh hưởng tới nguồn lực mà bạn cấp cho việc tìm kiếm giải pháp.

2.3. Xác định hậu quả của vấn đề

Quyết định những hậu quả có thể có của vấn đề để thấy có phải phân tích thêm nữa hoặc nhận thêm nguồn lực nữa hay không ?

2.4. Xem xét những hạn chế có thể có ảnh hưởng đến giải pháp của vấn đề

Có những yếu tố nào có thể ngăn cản một giải pháp đạt kết quả tốt hay không ? Nếu lãnh đạo đã thiết lập một chương trình đặc biệt và phân tích ban đầu chỉ vào tính không hiệu quả, thì việc này không đáng để bạn phải mất thời gian, nguồn lực, năng lượng (hoặc công việc) vào việc cố gắng giải quyết vấn đề này.

Khái Niệm Văn Hóa Của Hồ Chí Minh

Trong ngôn ngữ của nhân loại, khái niệm văn hóa có nhiều định nghĩa, có nhiều cách hiểu nhất. Hiện có đến vài trăm định nghĩa về văn hóa trong đó có định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh đưa ra năm 1943.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hoá được hiểu theo cả ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp:

Theo nghĩa rộng- Hồ Chí Minh nếu văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra. “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” 1.

Theo nghĩa hẹp, văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8- 1945).

Theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người được đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thông, thể hiện ỏ việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”…

Đặc biệt, năm 1943 Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” 1. Đây có thể coi là định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh. Và đây cũng là lần duy nhất, không thấy Hồ Chí Minh trở lại định nghĩa văn hóa này.

Song, trong định nghĩa này. Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu được:

– Văn hóa là những sáng tạo và phát minh của con người.

– Nguồn gốc của văn hóa là lẽ sinh tồn của con người.

– Văn hóa là mục đích và động lực của cuộc sống, nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.

– Cấu trúc của văn hóa: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo, văn học – nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.

– Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt (ứng xử, giao tiếp).

Điều thú vị là định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh có nhiều điểm gần giống với quan niệm hiện đại của UNESCO về văn hóa theo các khía cạnh sau: Phức thể, tổng thể nhiều mặt: nét riêng biệt, đặc trưng riêng về tinh thần và vật chất, khắc họa nên bản sắc; nghệ thuật, văn chương, và những quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị: cách ứng xử và sự giao tiếp.