Khái Niệm Quan Hệ Pháp Luật Đất Đai / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Quan Hệ Pháp Luật Đất Đai?

Công ty Luật Hồng Bàng xin gửi tới quý khách hàng bài viết về Quan hệ pháp luật đất đai? Để được giải đáp những vướng mắc về các vấn đề pháp lý cũng như tiết kiệm thời gian và công sức của bản thân, xin quý khách liên hệ với chúng tôi qua tổng đài 1900.6575.

Quan hệ pháp luật đất đai là những quan hệ xã hội do các quy phạm pháp luật đất đai điều chỉnh, trong đó các bên tham gia quan hệ đều có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý mà quyền và nghĩa vụ này được Nhà nước đảm bảo quyền thực hiện.

Yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật đất đai

*Chủ thể quan hệ pháp luật đất đai

Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai là các chủ thể dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật mà tham gia vào một quan hệ pháp luật đất đai để hưởng quyền và làm nghĩa vụ trong quan hệ đó. Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai gồm có Nhà nước và người sử dụng đất.

Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua các cơ quan nhà nước.

Theo Điều 5 Luật Đất đai 2013 thì: Chủ thể sử dụng đất là người đang thực tế chiếm hữu đất đai do Nhà nước giao, cho thuê, cho phép nhận quyền sử dụng đất hoặc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Các chủ thể sử dụng đất này gồm các tổ chức trong nước; cá nhân, hộ gia đình trong nước; cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

Chủ thể đang thực tế chiếm hữu đất đai được phân chia thành: chủ thể đã có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất (đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); chủ thể có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất (chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, những đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận); và chủ thể không đủ giấy tờ theo quy định nhưng được công nhận quyền sử dụng đất.

*Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai

Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai là tổng thể quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai. Các quyền hạn, nghĩa vụ này được pháp luật quy định và bảo vệ.

*Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai

Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai là cái mà các chủ thể nhằm hướng tới, đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai.

Khái Niệm Quan Hệ Pháp Luật Hành Chính

Trong khoa học pháp lí, quan hệ pháp luật hành chính được xác định là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật, là kết quả của sự tác động của quy phạm pháp luật hành chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương tới các quan hệ quản lí hành chính nhà nước.

Ngoài những đặc điểm chung như các quan hệ pháp luật khác, các quan hệ pháp luật hành chính có những đặc điểm riêng biệt sau đây:

– Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh theo yêu cầu hợp pháp của chủ thể quản lí hay đối tượng quản lí hành chính nhà nước.

Việc điều chỉnh pháp lí đối với các quan hệ quản lí hành chính nhà nước không chỉ nhằm mục đích bảo đảm lợi ích của nhà nước mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi nhiều mặt của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội. Thẩm quyền quản lí hành chính của nhà nước chỉ có thể được thực hiện nếu có sự tham gia tích cực từ phía các đối tượng quản lí. Mặt khác, nhiều quyền lợi của đối tượng quản lí hành chính nhà nước chỉ có thể được bảo đảm nếu có sự hỗ trợ tích cực của các chủ thể quản lí bằng những hành vi pháp lí cụ thể.

– Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ pháp lí hành chính của các bên tham gia quan hệ đó.

Các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính có thể là cơ quan nhà nước , tổ chức hay cá nhân; có thể nhân danh nhà nước, vì lợi ích của nhà nước hoặc nhân danh chính mình nhưng họ đều thực hiện các quyền và nghĩa vụ do quy phạm pháp luật hành chính quy định. Việc quy định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ này là cần thiết đối với việc xác lập và duy trì trật tự quán lí hành chính nhà nước.

– Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phái được sử dụng quyền lực nhà nước.

Như đã nêu, quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ quản lí hành chính nhà nước được điều chỉnh bới các quy phạm pháp luật hành chính. Vì vậy, về tư cách và cơ cấu chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính phải phù hợp với tư cách và cơ cấu chủ thể của quan hệ quản lí hành chính nhà nước tương ứng. Nếu một bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước được sử dụng quyền lực nhà nước (chủ thể quản lí hành chính nhà nước) thì chủ thể đó trong quan hệ pháp luật hành chính tương ứng sẽ dược xác định là chủ thể đặc biệt. Mặt khác, trong quan hệ quản lí hành chính nhà nước, đối tượng quản lí là bên chủ thể không được sử dụng quyền lực nhà nước và có nghĩa vụ phục dùng việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thế quản lí thì trong quan hệ pháp luật hành chính tương ứng, các đối tượng này được xác định là chú thể thường.

Như vậy, các chủ thế của quan hệ pháp luật hành chính được phân chia thành chủ thể đặc biệt và chủ thể thường. Trong đó, chú thể đặc biệt là các cơ quan, tổ chức, cá nhân được nhân danh và sử dụng quyền lực nhà nước trong quan hệ ấy. Từ đó có thể nhận định quan hệ pháp luật hành chính không thể phát sinh và tốn tại nếu thiếu chủ thể đặc biệt.

Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của bên này ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.

Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “quyền lực – phục tùng”, quan hệ bất bình đẳng về vị trí giữa các bên tham gia. Chủ thể đặc biệt tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính trên cơ sở quyền lực nhà nước và chủ thể thường có nghĩa vụ chấp hành việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, không có nghĩa là trong quan hệ pháp luật hành chính, chủ thể đặc biệt chì có quyền và chủ thể thường chí có nghĩa vụ.

Việc thực hiện thẩm quyền của chủ thể đặc biệt vừa là quyền vừa là trách nhiệm của chủ thể này. Bên cạnh đó, chủ thể thường tuy có nghĩa vụ chấp hành các mệnh lệnh của chú thể đặc biệt song cũng có những quyền nhất định xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật của các hành vi quản lí hành chính nhà nước hoặc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, như: Quyền yêu cầu, đề nghị, khiếu nại, tố cáo,…

Việc thực hiện thẩm quyền của chủ thể đặc biệt chỉ có hiệu lực khi nó làm phát sinh nghĩa vụ chấp hành của chủ thể thường. Mặt khác, việc thực hiện quyền của chủ thể thường trong quan hệ pháp luật hành chính chí có ý nghĩa thực sự nếu nó làm phát sinh trách nhiệm tiếp nhận, xem xét giải quyết của chủ thể đặc biệt.

– Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được giải quyết theo thủ tục hành chính.

Cũng như các công việc khác trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước, các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính cần phải được giải quyết theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, do tính chất và yêu cầu giải quyết một số tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính mà việc giải quyết chúng có thể được thực hiện bằng cách kết hợp thủ tục hành chính với thủ tục tố tụng. Ví dụ: Toà án có quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính theo thủ lục tố tụng hành chính trong trường hợp người khởi kiện trước đó đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.

– Bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính vi phạm yêu cầu của pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước. Vì:

+ Chủ thể đặc biệt tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính trên cơ sở quyền lực nhà nước nên phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước khi sử dụng quyền lực ấy.

+ Chủ thể thường thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trước bên đại diện cho Nhà nước, do đó phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tính hợp pháp của hành vi do mình thực hiện trong quan hệ pháp luật hành chính;

+ Những vi phạm trên đều xâm hại đến trật tự quản lí hành chính nhà nước. Do đó, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước về hành vi vi phạm của mình.

Như vậy, cho dù người vi phạm là chủ thể đặc biệt hay chủ thể thường thì họ đều có nguy cơ phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước. Tất nhiên, khống phải trong mọi trường hợp chủ thể vi phạm yêu cầu của pháp luật hành chính đều phải chịu cùng một loại trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước. Tuỳ thuộc vào việc hành vi trái pháp luật hành chính cấu thành loại vi phạm pháp luật nào mà Nhà nước sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự, hành chính, kỉ luật nhà nước đối với người vi phạm, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Tóm lại, quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lí hành chính nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.

Luật Đất Đai Là Gì ? Tìm Hiểu Quy Định Pháp Luật Về Luật Đất Đai

1. Lịch sử hình thành và phát triển của luật đất đai

Trong lịch sử xây dựng hệ thống pháp luật về đất đai ở nước ta, Nhà nước đã ban hành Luật đất đai năm 1988; Luật đất đai năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998; Luại sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001 và Luật đất đai năm 2003.

Ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước bạn hành nhằm điều chỉnh các quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất đai vì lợi ích của Nhà nước và của người sử dụng đất.

Luật đất đai năm 1993 là văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật được sắp xếp theo một trình tự nhất định, quy định về chế độ quản lí, sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Luật đất đai được Quốc hội Khoá IX, kì họp thứ 3 thông qua ngày 14.7.1993; Luật này thay thế Luật đất đai năm 1988 và có hiệu lực kể từ ngày 15.10.1993.

Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật đất đai là chế độ quản lí, sử dụng đất đai trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chế định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt động, kinh doanh tại Việt Nam. Về chế độ sở hữu, Luật đất đai năm 1993 tiếp tục xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lí, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền quyết định, giám sát tối cao đối với việc quản lí và sử dụng đất đai, Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về đất đai trong cả nước, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lí nhà nước về đất đai trong địa phương mình theo thẩm quyền. Về chế độ sử dụng đất, Luật đất đai quy định: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong nước, tổ chức và cá nhân nước ngoài thuê đất. Người sử dụng đất ổn định được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được hưởng thành quả lao động trên đất được giao, được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi, được góp quyền sử dụng đất vào các hoạt động kinh doanh…, đồng thời, họ có trách nhiệm bảo vệ, cải tạo, bồi bổ và sử dụng đất hợp lí, có hiệu quả, chấp hành tốt các quy định của pháp luật về việc sử dụng đất.

Đất đai được coi là một nguồn tài nguyên quý hiếm, là tư liệu sản xuất chính không thể thay thế của các ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng của môi trường sống, nhưng trong một thời gian dài, việc quản lí đất đai có phần buông lỏng, có nơi đất đai không được sử dụng đúng mục đích, không khai thác được tiềm năng của đất và người sử dụng đất còn thiếu trách nhiệm trong việc cải tạo, bồi bổ đất. Nhằm bảo đảm để đất đai – một loại tài sản đặc biệt, thực sự có giá trị, có lợi đối với nền kinh tế quốc dân, nhằm bảo đảm trật tự, kỉ cương trong quản lí và sử dụng đất đai, đồng thời, nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 về đất đai, Quốc hội đã thông qua Luật đất đai mới, năm 1993. Bố cục và nội dung cơ bản: Luật đất đai năm 1993 gồm 7 chương với 89 điều.

Chương l – Những quy định chung, xác định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí; quy định về việc Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất, quy định các nghĩa vụ của họ trong quá trình sử dụng đất; quy định về nguyên tắc và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lí đất đai; phân loại đất đai.

Chương II quy định về quản lí nhà nước đối với đất đai.

Chương III quy định về chế độ sử dụng các loại đất, bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng.

Chương IV quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Chương V quy định về việc tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế thuê đất của Việt Nam.

Chương VI quy định về xử lí vi phạm và

Chương VI quy định điều khoản thi hành.

So sánh Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam và các quy định của Luật đất đai một số nước trên thế giới cho thấy, chế độ quản lí và sử dụng đất đai của Việt Nam có những đặc thù khác biệt. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Việt Nam không thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. Tuy nhiên, người được giao đất để sử dụng được pháp luật về đất đai quy định nhiều quyển năng, từ quyển chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, tặng cho, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phù hợp với quy chế từng loại đất, đồng thời có nghĩa vụ bảo vệ, tôn tạo và phát triển, bồi bổ đất để sử dụng hợp lí và hiệu quả. Cho đến nay, Luật đất đai năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung thêm 3 lần vào các năm 1996, 1998, 2001 và đã được thay: thế bằng Luật đất đai mới được Quốc hội Khoá XI, kì họp thứ 4 thông qua ngày 26.11.2003, đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về đất đai của Việt Nam.

2. Luật đất đai là gì ?

Khi nói và viết về khái niệm Luật đất đai, học viên và người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy sẽ hiểu khái niệm này với tính cách là một ngành luật, toong khi đó các nhà quản lí, người xây dựng chính sách, đa số doanh nghiệp và người dân sẽ hiểu khái niệm này với tính cách là văn bản luật. Vì vậy, tuỳ từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để hiểu khái niệm luật đất đai với tính cách là một ngành luật toong hệ thống ngành luật của nhà nước ta hoặc là văn bản pháp luật quan trọng nhất toong hệ thống các văn bản pháp luật về đất đai. Do đó, chúng ta sẽ tìm hiểu từng khía cạnh cụ thể của nó theo hai mặt sau đây:

2.1 Ngành luật đất đai

Dưới góc độ là một ngành luật, Luật đất đai trước đây còn có tên gọi là Luật ruộng đất. Cách hiểu như vậy là thiếu chính xác, vì khái niệm “đất đai” hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các loại đất như: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng, toong mỗi nhóm đất lại được chia thành từng phân nhóm đất cụ thể theo quy định tại Điều 10 Luật đất đai năm 2013. Khái niệm “ruộng đất” theo cách hiểu của nhiều người thường chỉ loại đất nông nghiệp, đất tạo lập nguồn lương thực, thực phẩm nuôi sống con người. Vì vậy, nói Luật ruộng đất tức là chỉ một chế định của ngành luật đất đai, cụ thể là chế độ pháp lí đất đai được quy định là: chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và định danh vai trò của Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thống nhất quản lí đất đai trong phạm vi cả nước.

Quan hệ đất đai hiện nay không thể hiện mối quan hệ truyền thống giữa các chủ sở hữu đất đai với nhau mà được xác lập trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Nói cách khác, các quan hệ này xác định trách nhiệm và quyền hạn của Nhà nước trong vai trò người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lí đất đai. Từ vai trò và trách nhiệm đó, Nhà nước không ngừng quan tâm đến việc bảo vệ, giữ gìn, phát triển một cách bền vững nguồn tài nguyên đất đai cho hiện tại và tương lai. Với đặc trưng cơ bản là xác lập quyền cho người chủ sử dụng đất cụ thể nhằm tránh tình trạng vô chủ trong quan hệ đất đai như trước đây, việc chuyển giao quyền sử dụng cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân là thiên chức cơ bản trong hoạt động của Nhà nước phù hợp với vai trò là người đại diện chủ sở hữu và người quản lí. Quan hệ đất đai ở Việt Nam trên nền tảng đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu được thiết kế có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Quá trình hợp tác giữa người sử dụng đất với nhau trên cơ sở sự bảo hộ của Nhà nước khi thực hiện đầy đủ các quyền của người sử dụng là yếu tố linh hoạt nhất và đa dạng nhất trong quan hệ đất đai.

Vì vậy, có thể định nghĩa Luật đất đai với tư cách ngành luật như sau: Luật đất đai là tổng hợp các quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành nhằm thiết lập quan hệ đất đai trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và sự bảo hộ đầy đủ của Nhà nước đối với các quyền của người sử dụng đẩt tạo thành một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.

2.2 Các văn bản Luật đất đai

Cần có sự phân biệt giữa văn bản Luật đất đai với hệ thống văn bản pháp luật về đất đai. Luật đất đai với tính cách là một văn bản 02/12/1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1993 đã được Quốc hội khoá X, kì họp thứ 4 thông qua. Luật này được gọi tắt là Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998 và nội dung chủ yếu nhằm luật hoá các quyền năng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, đồng thời xác định rõ các hình thức giao đất và cho thuê đất để làm căn cứ quy định các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất.

Tuy nhiên, lần sửa thứ nhất vào năm 1998 chỉ đề cập một số vấn đề về hình thức sử dụng đất và tiền tệ hoá quyền sử dụng đất. Vì vậy, kì họp thứ 9, Quốc hội khoá X đã thông qua việc sửa đổi lần thứ hai tập trung vào việc hoàn thiện chế độ quản lí Nhà nước về đất đai, góp phần cải cách thủ tục hành chính trong giao đất, cho thuê đất, phân công, phân cấp trong quản lí đất đai. Văn bản luật này được gọi tắt là Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 2001 và có hiệu lực chính thức từ ngày 01/10/2001.

Các luật đất đai nêu trên đã góp phần to lớn trong việc khai thác quỹ đất, việc quản lí đất đai đã đi vào nền nếp, tạo sự tăng trưởng ổn định cho nền kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống pháp luật đất đai trong thời gian qua cũng như việc sửa đổi, bổ sung nhiều lần như vậy cho thấy hệ thống pháp luật đất đai có tính chắp vá, không đồng bộ, nhiều quy định tỏ ra lạc hậu so với thời cuộc và gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Vì vậy, việc xây dựng Luật đất đai mới để thay thế Luật đất đai năm 1993 và các Luật đất đai sửa đổi, bổ sung là rất cần thiết.

Trên tinh thần đó, quá trình xây dựng các dự thảo của Luật đất đai mới rất công phu, qua nhiều lần chỉnh sửa và lấy ý kiến nhân dân rộng rãi trong cả nước, ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Khoá XI, kì họp thứ 4 đã thông qua toàn văn Luật đất đai mới với 7 chương và 146 điều, gọi là Luật đất đai năm 2003. Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004, nhằm đáp ứng giai đoạn phát triển Đây là những văn kiện của Đảng đề cập một cách toàn diện những quan điểm cơ bản về xây dựng chính sách và pháp luật đất đai trong giai đoạn mới. Luật đất đai năm 2013 là sự thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng về van đề đất đai.

Thứ hai, việc xây dựng Luật đất đai năm 2013 dựa trên nền tảng đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước trong vai trò là người đại diện chủ sở hữu và người thống nhất quản lí đất đai trong phạm vi cả nước.

Thứ ba, trên cơ sở kế thừa và phát triển các Luật đất đai trước đây, Luật đất đai năm 2013 góp phần pháp điển hoá hệ thống pháp luật đất đai với tinh thần giảm thiểu tối đa những văn bản hướng dẫn dưới luật khiến cho hệ thống pháp luật đất đai trước đây vô cùng phức tạp, nhiều tầng nấc và kém hiệu quả. Trong văn bản luật này, nhiều quy định của Chính phủ và các bộ, ngành qua thực tế đã phù hợp với cuộc sống được chính thức luật hoá, vừa nâng cao tính pháp lí của quy định, vừa giảm thiểu các quy định không cần thiết để Luật đất đai hoàn chỉnh có hiệu lực và hiệu quả cao.

Như vậy, khái niệm Luật đất đai hiểu theo phương diện thứ hai xuất phát từ các văn bản Luật đất đai được ban hành trong thòi gian vừa qua và là nguồn cơ bản của ngành luật đất đai.

Trân trọng./.

Quản Lý Đất Đai Là Gì? Khái Niệm Đất Đai Và Các Yếu Tố Liên Quan

Quản lý đất đai

1. Đất đai

Để hiểu được khái niệm về”Quản lý đất đai” trước hết ta cần hiểu được khái niệm “đất đai”. Vậy đất đai là gì?

Đất đai có rất nhiều định nghĩa:

-Đối với nhà địa lý nó là cảnh quan, một sản phẩm của quá trình địa chất địa mạo.

-Đối với nhà kinh tế nó là nguồn tài nguyên cần được khai thác hoặc cần được bảo vệ để đạt được những phát triển kinh tế tối ưu.

-Đối với hầu hết mọi người hiểu theo một cách đơn giản nó là khoảng không gian cho các hoạt động con người được thể hiện ở nhiều dạng sử dụng đất khác nhau.

2. Quản lý đất đai

Cuối cùng trong sự phân loại theo tính chất, quản lý đất đai có thể tham gia thực hiện các quyết định chính trị cơ bản về tự nhiên và mở rộng các đầu tư đối với đất đai. Ở một giai đoạn khác, nó bao gồm các quyết định thực hiện thường xuyên được thực hiện mỗi ngày bởi các nhà quản lý đất đai như các nhà khảo sát, các chuyên gia định giá, và đăng kí đất đai. Nó tập hợp những thành phần sau:

Sự chuyển nhượng bất động sản; bao gồm các quyết định về các bất động sản và sự đầu tư

Đánh giá và định giá bất động sản

Quản lý và phát triển các dịch vụ và các tiện ích

Quản lý các tài nguyên đất đai như rừng, thổ nhưỡng hay nông nghiệp

Sự hình thành và hoàn thiện các chính sách sử dụng đất

Các đánh giá tác động môi trường

Giám sát tất cả các hoạt động trên đất để chúng ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai tốt nhất

Vậy thế nào là quản lý đất đai? Quản lý đất đai là một phương pháp mà nhờ đo tài nguyên đất đai được sử dụng hiệu quả.

2.5

/

5

(

8

bình chọn

)