Khái Niệm Khuynh Hướng Sử Thi / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Khuynh Hướng Sử Thi Là Gì? Định Nghĩa, Khái Niệm

Khuynh hướng sử thi là gì?

Tương tự: tính sử thi Khuynh hướng sử thi (tính sử thi): thường là những vấn đề lớn lao, những sự kiện, biến cố quan trọng có ý nghĩa sống còn với cả dân tộc, ngợi ca những vị anh hùng, chiến sĩ yêu nước,..   Tác phẩm viết theo huynh hướng sử thi là những tác phẩm đề cập đến những đề tài có ý nghĩa lịch sử và mang tính dân tộc. Nhân vật chính thg tiêu biểu cho lí tưởng, khát vọng, luôn hướng tới ánh sáng, luôn gắn số phận của cá nhân và số phận của cộng đồng, là kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của một tập thể, cộng đồng. Lời văn sử thi thường mang vẻ đẹp ngợi ca, trang trọng, ngôn từ mang tính cách điệu, hào hùng.

Đặc điểm của khuynh hướng sử thi

Đề cập đến nhưng vấn đề chung của cộng đồng, của xã hội, của đất nước, những sự kiện mang tính lịch sử. Ngôn ngữu thường mang tính chất trang trọng, giàu hình ảnh, mang tính tưởng tượng cao. Các nhân vật, hình tượng trong tác phẩm mang tính chất sử thi, dù là con người bình dị thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi, thành phần dân tộc.. Cá tác phẩm mang tính sử thi luôn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng củ dân tộc, vào thắng lợi của đất nước. Một số thủ pháp nghệ thuật khác: thủ pháp cường điệu, so sánh, lặp… nhằm khắc họa nổi bật đối tượng. Người đăng: trang Time: 2020-07-20 12:39:06

Khuynh Hướng Sử Thi Và Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Nền Văn Học 1945

Trước hết cần giải thích được về khái niệm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Khuynh hướng sử thi được hiểu là những tình cảm, cảm xúc tự hào, ngợi ca của tác giả về những vấn đề lớn lao quyết định vận mệnh chung của cộng đồng. Đây là cảm hứng chi phối mạnh mẽ đến các sáng tác của các thi nhân trong thời kỳ kháng chiến , đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi là tác phẩm đề cập đến những đề tài có ý nghĩa lịch sử và mang tính dân tộc. Nhân vật chính là những người tiêu biểu cho lí tưởng và phẩm chất cộng đồng,và chiến đấu vì cộng đồng.Sử thi thì mang ý nghĩa lịch sử còn cảm hứng lãng mạn lại mang nội dung trữ tình sôi nổi, dạt dào và hướng về lý tưởng, hướng về tương lai.Cảm hứng lãng mạn không chỉ sôi nổi trong thơ mà cả trong văn xuôi.Từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến bút kí,tuỳ bút và cả kịch bản sân khấu đều rất giàu chất thơ.Hướng vận động của cốt truyện, số phận nhân vật, dòng cảm nghĩ của tác giả hầu như đều đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại đến tương lai đầy hứa hẹn. Cảm hứng lãng mạn đó là cách nhìn thế giới mang đậm dấu ấn chủ quan, đầy mơ ước.Có khi đó là sự mơ ước bay bổng hướng tới cái chưa có trong thực tế bằng niềm tin,sự lạc quan.Có khi đó là những rung động về lí tưởng cao đẹp,khát vọng lớn lao của những con người có chí hướng, hoài bão cao cả…Văn học 1945-1975 đã thể hiện những cảm xúc lãng mạn tích cực đó.Hiện thực chiến tranh khốc liệt, phải đương đầu với hai kẻ thù hùng mạnh, một nửa đất nước tiến lên con đường Chủ nghĩa xã hội từ đôi tay trắng, phải “Dọn tí phân rơi nhặt từng mẩu lá” để “dựng cơ đồ”(Tố Hữu). Con người muốn đứng vững,vượt qua hiện thực ấy cần phải có niềm tin và tâm hồn lãng mạn.

Nền văn học 1945-1975 phát triển, vận động theo chặng đường lịch sử của dân tộc. Chính khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã làm cho văn xuôi tự sự gần với thơ ca và thơ ca giàu yếu tố tự sự. Vì vậy văn học bám sát vào cuộc sống hiện thực hơn.Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được biểu hiện ở các phương diện sau:

Thứ hai: trong việc xây dựng hình tượng.

Các nhân vật, hình tượng trong các tác phẩm mang cả hứng sử thi, dù là những con người bình dị, thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi, thành phần dân tộc… đều mang trong mình những phẩm chất anh hùng, thể hiện tầm vóc lớn lao, kết tụ sức mạnh, ý chí chung của cả cộng đồng. Đó là những Tnú, cụ Mết và dân làng Xô man, là hình ảnh đoàn quân hừng hực khí thế trong Việt Bắc: “Những đường Việt Bắc của ta…Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”. Cảm hứng chủ đạo khi xây dựng những hình tượng, nhân vật này là cảm hứng khẳng định, ngợi ca, tự hào… thường kết hợp với thủ pháp cường điệu hóa.Các nhân vật thường được đặt trong bối cảnh không gian rộng lớn, kì vĩ để tôn nổi tấm vóc của nhân vật…

Thứ ba: Ngôn ngữ tác phẩm

Ngôn ngữ thường có tính chất trang trọng, giàu hình ảnh, có tính biểu tượng cao và giàu giá trị gợi cảm. Giọng điệu tác phẩm thường mang âm hưởng hùng tráng, lay động và khích lệ mạnh mẽ tình cảm người đọc…

Thứ tư: Một số thủ pháp nghệ thuật.

Các thủ pháp nghệ thuật thường được tác giả sử dụng là thủ pháp cường điệu, so sánh nhằm khắc họa nổi bật hình ảnh những nhân vật tượng trưng cho phẩm chất cao đẹp và ý chí, khát vọng của cả cộng đồng. Trong truyện Rừng xà nu, cách tổ chức kết cấu kiểu truyện trong truyện, đầu cuối tương ứng (kết cấu vòng tròn) cũng góp phần chuyển tải tư tưởng và cảm hứng sử thi của tác phẩm

Từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ chống Pháp của đất nước. Văn học gắn liền với khuynh hướng sử thi, tập trung phản ánh không khí hồ hởi, vui sướng khi đất nước giành độc lập và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn học gắn bó với cuộc sống kháng chiến. Cho nên mới có những lời mừng vui:

“Mẹ ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng đầy như củi” ( Dọn về làng_Nông Quốc Chấn)

Đó là thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, là niềm vui của nhân dân Cao – Bắc – Lạng. Văn học cũng tập trung khám phá sức mạnh và những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân. Cảm hứng chủ đạo của giai đoạn này là cảm hứng lãng mạn. Các nhà văn, nhà thơ luôn hướng vào tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con đường cách mạng. Dù gian khổ,dù khó khăn nhưng trong trái tim các chiến sĩ luôn là niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng : “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”

Hơn nửa văn học còn ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng Xã hội chủ nghĩa với cảm hứng lãng mạn. Đó là sự đổi đời của con người, miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách nhân vật trong môi trường xã hội mới qua bài thơ “Đất nước”:

“Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa” (Đất nước_Nguyễn Đình Thi)

Văn học giai đoạn 1945-1975 đề cao tinh thần yêu nước và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tập trung phản ánh cuộc sống lao động, khắc họa thành công hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường, bất khuất. Tác phẩm”Những đứa con trong gia đình” kể chuyện chiến trường mà giống như tái hiện chuyện trong gia đình. Đó là chiến sĩ trẻ Việt với ý chí chiến đấu mạnh mẽ và tình yêu thương hồn nhiên, trong sáng. Đó là chị Chiến biết bao lo toan, nhường nhịn và khôn ngoan. Chị từng khẳng định với Việt:”nếu giặc còn thì tao mất”. Và “Quán rượu người câm” của Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa cuộc chiến đấu khóc liệt trong trận Đồng Khởi. Nhân vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó sản phẩm mình với sản phẩm đất nước, kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng. Lời văn mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ.Cái đẹp của cá nhân là ở ý thức công dân, lẽ sống lớn và tình cảm lớn.

Khuynh hướng sử thi giai đoạn này là khuynh hướng vươn tới những cái lớn lao, phi thường qua những hình ảnh tráng lệ. Ở Tố Hữu, cái tôi trữ tình ban đầu là cái tôi chiến sĩ, về sau là cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân dân Đảng và đất nước. Tuy đứng giữa thực tại đầy đau khổ, mất mát, đau thương nhưng tâm hồn họ luôn hướng về tương lai, về lí tưởng.

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. (Tố Hữu_theo chân Bác)

Trong việc biểu hiện tâm hồn thơ, Tố Hữu luôn hướng đến cái ta chung:

Hồn thơ Tố Hữu luôn hường đến cái ta chung, lẽ sống lớn, niềm vui lớn của dân tộc và của Cách mạng. Cái tôi nếu có là cái tôi của người chiến sĩ, cái tôi nhân danh Đảng và dân tộc. Vì thế có ý nghĩa khái quát, rộng lớn. Cảm hứng thơ Tố Hữu thường bắt đầu từ cảm hứng chính trị, từ những tình cảm lớn cao cả, tiêu biểu: tình yêu lý tưởng, lãnh tụ, đồng bào đồng chí,…. Trong việc miêu tả đời sống, thơ ông luôn mang đậm chất sử thi:

Đối tượng thể hiện chủ yếu trong thơ Tố Hữu là những sự kiện lớn của dân tộc, những vấn đề có ý nghĩa lịch sử, có tình chất toàn dân, những biến cố quan trọng tác động đến vận mệnh dân tộc cảm hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc, là vận mệnh của cộng đồng. Các nhân vật trữ tình thường mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc: anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân, người mẹ Việt Nam anh hùng….

Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của “nền văn học sử thi” trong văn học Việt Nam 1945 – 1975, tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô Man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ.

Tính sử thi của Rừng xà nu còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa.

Sống giữa chiến tranh khốc liệt,luôn phải đối mặt với hy sinh mất mát song những người chiến sĩ vẫn ngời sáng phẩm chất anh hùng cách mạng,họ tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng và tìm thấy niềm vui,sự lạc quan từ chính thực tại cuộc sống như nhà văn Anh Đức đã nói:”nơi dòng đời chảy xiết, nơi máu đổ, nơi tình huống khó khăn gian khổ nhưng lại là nơi có thể viết nên những trang đẹp nhất”.

Cảm hứng lãng mạn đã khẳng định cái tôi đầy cảm xúc và hướng tới lí tưởng, ca ngợi con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn làm cho văn học giai đoạn này thấm nhuần tinh thần lạc quan và đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển của cách mạng. Suốt ba mươi năm văn học luôn là tiếng kèn xung trận, tiếng trống thúc quân góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước.

Cách Tiếp Cận Mới Về Khái Niệm Sử Thi

Chịu sự quy định của đặc trưng thể tài, tiểu thuyết sử thi nhạy cảm hơn cả với bước đi của lịch sử, với những sự kiện lịch sử. Sự đổi mới của tiểu thuyết hiện đại nói chung đi theo hai xu hướng: Hiện đại hóa và đổi mới từ truyền thống. Rõ nhất ở hiện đại hóa là sự phân nhánh thành nhiều dòng. Đề tài được mở ra, các cách viết mới được thể hiện. Các dòng đời tư, thế sự, trữ tình… thấm dần rồi tuôn trào vào các ngóc ngách đời sống mà trước đây còn cấm đoán, kiêng kỵ. Về hình thức thì thật muôn vẻ: Dòng ý thức, đa thanh, trò chơi, kỳ ảo… Tiểu thuyết sử thi trung thành với hướng truyền thống, tác phẩm như là sự hợp lưu của nhiều dòng khác nên dòng sông sử thi chủ lưu không trong vắt như xưa mà nhiều màu sắc, đa dạng, đa thanh, cường tráng và cũng phức tạp.

Có vốn hiểu biết rộng và vận dụng tốt phương pháp nghiên cứu văn học so sánh, tác giả công phu khảo sát, đối chiếu tiểu thuyết của ta với các bộ tiểu thuyết nổi tiếng viết về chiến tranh ở nước ngoài, với mong muốn bạn đọc có thêm một cái nhìn, một sự đánh giá đúng đắn hơn về cái được và cái cần khắc phục ở văn học ta nói chung. Đây là cách làm khó nhưng có kết quả khả quan, mới mẻ, rất nên được khuyến khích.

Với quan điểm khoa học, điềm tĩnh, thấu đáo, tác giả đưa ra một cái nhìn tổng quan về tiểu thuyết sử thi và trường ca đổi mới trên tinh thần lấy truyền thống làm nền tảng để tiếp thu những hướng viết hiện đại. Nhờ vậy, văn học sử thi của ta giàu bản sắc Việt ở lòng yêu nước, trọng tình, quý người; ở một hình thức giản dị nhưng sâu lắng. Hạn chế rõ nhất là nhiều nhà tiểu thuyết còn vụng trong việc phân tích tâm lý nhân vật. Tính cách nhân vật còn khuôn mẫu, khô cứng, chưa thích ứng với những không gian biến hóa khôn lường của chiến tranh, vì thế có những quyển, những trang văn còn nhạt, sượng, đơn giản.

Trong tập có những trang viết nhẹ nhàng mà sâu lắng khẳng định thơ tình yêu thời chống Mỹ sẽ sống mãi cùng lịch sử vì giá trị tự thân và cả với tư cách chứng nhân lịch sử. Hành trang tinh thần một thời đuổi giặc của người lính là những dòng thơ và tình yêu mộng mơ ban đầu. Trong vắt, nguyên sơ và thánh thiện. Tâm hồn, tình yêu người lính là vậy. Đấy là một nguyên nhân góp phần tạo ra sức mạnh để làm nên chiến thắng.

Tác giả khẳng định có sức thuyết phục hai cuộc kháng chiến vệ quốc thần thánh của dân tộc ta đã góp phần khẳng định một giá trị văn hóa vĩnh hằng trong lịch sử tư tưởng nhân loại: Đó là lòng yêu nước của những con người chính nghĩa sẽ làm nên sức mạnh thời đại. Mỗi giai đoạn lịch sử hào hùng đều có những tượng đài lịch sử tương ứng được điêu khắc bằng thứ ngôn ngữ trường ca vang vọng âm hưởng sử thi, lóng lánh sắc màu của cuộc sống một thời đuổi giặc. Ở ngày hôm nay có một tượng đài được tạc vào lịch sử bằng ngôn ngữ biểu hiện mới: Tượng đài người lính.

Tập sách chứng minh trường ca của ta luôn đi theo hình thức đối thoại nên giàu âm hưởng và sự sống động đa chiều, góp phần tạo nên sự đa âm, nhiều bè giọng, nhiều sắc thái, mang tính tổng hợp, dung hợp thể loại rất cao: Lịch sử, đời tư, tự truyện, ký sự, phóng sự… Thế giới trường ca đã làm nên một bản hòa âm của anh hùng ca, tráng ca, tình ca, hoan ca và cả bi ca. Muốn nghe âm vang của một thời hoa lửa thì tìm trong trường ca là đầy đủ nhất, trung thực nhất.

TÂN THANH HUYỀN

Phân Tích Khuynh Hướng Sử Thi Và Cảm Hứng Lãng Mạn Trong Văn Học Việt Nam Từ Năm 1945 Đến Năm 1975

Giải thích nhận định

– Khuynh hướng sử thi: Văn học đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân tộc. Nhân vật chính thường là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của dân tộc, tiêu biểu cho lí tưởng của cộng đồng hơn là lợi ích và khát vọng của cá nhân. Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống lớn và tình cảm lớn. Lời văn sử thi cũng thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.

→ Ý kiến đã khẳng định: Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm cho văn học giai đoạn này thấm nhuần tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng. Tất cả yếu tố trên hòa hợp với nhau, tạo nên đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 và giúp văn học thời kì này thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử, thời đại đặt ra.

Phân tích, chứng minh

* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:

– Quang Dũng, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm là những tác giả tiêu biểu của văn học giai đoạn 1945 – 1975.

– “”, “”, “Đất nước” (trích “Mặt đường khát vọng“) là ba tác phẩm mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

* Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn làm cho văn học 1945 – 1975 thấm nhuần tinh thần lạc quan:

– Hiện thực kháng chiến chồng chất khó khăn, gian khổ: thiếu thốn về vật chất; chịu nhiều mất mát, hy sinh…

– Con người vẫn tràn đầy mơ ước, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc: lạc quan, lãng mạn, dí dỏm, yêu đời; xác định lí tưởng sống cao đẹp; tin tưởng vào sức mạnh, chiến thắng của dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước hòa bình, tươi đẹp…

* Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn làm cho văn học 1945 – 1975 đáp ứng yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển của cách mạng:

– Phán ánh được những vấn đề sống còn của dân tộc, những bức tranh hiện thực rộng lớn: cả ba bài thơ đều tập trung thể hiện hình tượng Tổ quốc; phản ánh quá trình vận động cách mạng đi từ cuộc kháng chiến chống Pháp đến cuộc kháng chiến chống Mĩ – cả dân tộc không chịu áp bức, nô lệ,

chiến đấu hy sinh giành độc lập tự do cho đất nước.

– Thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn: lòng yêu nước, tình cảm cách mạng, tình quân dân, tình đồng chí đồng đội…

– Viết về những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của cả dân tộc; tiêu biểu cho lí tưởng của cả cộng đồng: người lính, người cán bộ cách mạng, quần chúng cách mạng, trong đó đặc biệt đề cao thế hệ trẻ với trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc…

* Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tạo nên giọng điệu ngợi ca, trang trọng, tráng lệ, hào hùng: thể hiện qua cách sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật (đối lập, cường điệu…)…

* Lưu ý: Học sinh lựa chọn dẫn chứng phù hợp trong ba tác phẩm: ” Tây Tiến“, ” Việt Bắc“, ” Đất nước ” – trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, phân tích để làm sáng tỏ những luận điểm trên.

Đánh giá chung

– Lí giải nguyên nhân khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trở thành đặc điểm cơ bản của văn học giai đoạn 1945 – 1975: Văn học giai đoạn này tồn tại và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt – cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt 30 năm. Không khí cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần công dân, tinh thần chiến sĩ của người cầm bút.

– Khuynh hướng sử thi đòi hỏi người cầm bút cần nhìn con người và cuộc đời không chỉ bằng con mắt của cá nhân mình mà chủ yếu là bằng con mắt có tầm bao quát của lịch sử, dân tộc và thời đại.

– Người đọc cần đặt giai đoạn văn học này vào hoàn cảnh ra đời để đánh giá đúng vai trò, giá trị của nó trong lịch sử văn học dân tộc.

– Tuy nhiên khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cũng dẫn đến những hạn chế nhất định của văn học giai đoạn này như cái nhìn một chiều và một số tác phẩm thiếu tính nghệ thuật, thiên về sự minh họa giản đơn…