Khái Niệm Hoán Dụ Từ Vựng / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | 2atlantic.edu.vn

Hoán Dụ Là Gì? Khái Niệm Hoán Dụ?

Hoán Dụ Là Gì? Khái Niệm Hoán Dụ?

Hoán dụ là gì? Khái niệm hoán dụ là gì? các ví dụ về hoán dụ. Ở bài trước các bạn đã biết về ẩn dụ và trong bài này cùng tìm hiểu về biện pháp hoán dụ trong văn học.

Hoán dụ là gì?

Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Các kiểu hoán dụ

Hoán dụ gồm có 4 kiểu thường gặp:

Lấy một bộ phận để gọi toàn thể;

Lấy một vật chứa đựng để gọi 1 vật bị chứa đựng;

Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật;

Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng. “Hoán dụ” là “một biện pháp tu từ” trong Văn học dùng để gọi sự vật – hiện tượng – khái niệm này hoán đổi bằng tên sự vật – hiện tượng – khái niệm khác khi chúng có quan hệ gần gũi với nhau nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm, hình ảnh cho quá trình diễn đạt. Hoán dụ gồm có 4 kiểu thường gặp.

Các kiểu Hoán dụ thường gặp bao gồm: Lấy một bộ phận để gọi toàn thể; Lấy một vật chứa đựng để gọi 1 vật bị chứa đựng; Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật; Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.

Hoán dụ dùng để làm gì?

– Hoán dụ được sử dụng để biểu thị mối quan hệ gần gũi, có tính chất tương đồng của sự vật – hiện tượng này với sự vật – hiện tượng khác để người đọc dễ dàng liên tưởng kề cận của hai đối tượng mà không cần so sánh chúng với nhau. – Nội dung cơ sở để hình thành Hoán dụ là sự liên tưởng phát hiện ra mối quan hệ gần gũi của sự vật – hiện tượng. Đây cũng chính là đặc điểm mà nhiều người nhầm lẫn Hoán dụ với Ẩn dụ bởi cả hai biện pháp này đều sử dụng những mối liên hệ tương đồng giữa các sự vật – hiện tượng với nhau. – Khác với Ẩn dụ, chức năng chủ yếu của Hoán dụ là nhận thức giúp người đọc có thể hình dung được ngay được sự tương đồng của 2 sự vật – hiện tượng mà không cần phải suy nghĩ quá nhiều, phức tạp đặc biệt không ẩn đi một phần ý nghĩa tư biện pháp tu từ Ẩn dụ. Để hiểu hơn Hoán dụ là gì? chúng tôi sẽ đưa ra một ví dụ cụ thể.

Các từ chân, tay, mặt, miệng trên cơ thể người trong các ngữ cảnh sau đây đều dùng để chỉ người và người dùng vẫn thấu hiểu nó.

– Anh ấy là một chân sút siêu đẳng – Cô ấy là một tay đua cừ khôi – Ở đây có đủ mặt anh hùng hảo hán – Gia đình tôi có 5 miệng ăn. Hoán dụ được thực hiện bằng các phương thức quan hệ cặp đôi với đi liền với nhau như: Bộ phận và toàn thể, Đồ vật và chất liệu, Vật phẩm và người làm ra nó. Đây là biện pháp tu từ được dùng trong nhiều trong Văn học bởi nó thể hiện được nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau sức mạnh của nó vừa thể hiện ở tính cá thể hoá lại được thể hiện cùng với tính cụ thể cho biểu cảm kín đáo, sâu sắc, nhiều hàm ý.

Hoán dụ được thực hiện bằng các phương thức quan hệ cặp đôi với nhau như:

Bộ phận và toàn thể: Đàn bà dễ có mấy tay/Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan (thơ Nguyễn Du), thì các từ tay, mặt, gan không mang nghĩa đen chỉ đối tượng (cái tay, khuôn mặt, bộ gan) mà dùng để trỏ con người trong nghĩa bóng của nó, như vậy bộ phận của con người được dùng để trỏ chính con người). Đồ vật và chất liệu. nói vàng bạc đeo đầy người thì vàng, và bạc là chất liệu lại được hoán dụ để trỏ đồ vật như nhẫn, hoa tai, dây chuyền… của người đeo nó). Vật phẩm và người làm ra nó. câu đọc Nam Cao, ta có thể hiểu sâu về thân phận khốn cùng của người nông dân sống dưới chế độ cũ, thì đọc Nam Cao ở đây là trỏ tác phẩm của Nam Cao.

Tìm Hiểu Hoán Dụ Là Gì ? Khái Niệm Hoán Dụ ? Có Mấy Loại Hoán Dụ ?

So deep là gì ? và ý nghĩa của So deep trên cộng đồng mạng là gì ?

Đầu tiên ta đi tìm hiểu Hoán dụ là Gì ?

Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Lấy một bộ phận để gọi toàn thể;

Lấy một vật chứa đựng để gọi 1 vật bị chứa đựng;

Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật;

Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.

“Hoán dụ” là “một biện pháp tu từ” trong Văn học dùng để gọi sự vật – hiện tượng – khái niệm này hoán đổi bằng tên sự vật – hiện tượng – khái niệm khác khi chúng có quan hệ gần gũi với nhau nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm, hình ảnh cho quá trình diễn đạt. Hoán dụ gồm có 4 kiểu thường gặp.

Các kiểu Hoán dụ thường gặp bao gồm: Lấy một bộ phận để gọi toàn thể; Lấy một vật chứa đựng để gọi 1 vật bị chứa đựng; Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật; Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.

Hoán dụ dùng để làm gì ?

– Hoán dụ được sử dụng để biểu thị mối quan hệ gần gũi, có tính chất tương đồng của sự vật – hiện tượng này với sự vật – hiện tượng khác để người đọc dễ dàng liên tưởng kề cận của hai đối tượng mà không cần so sánh chúng với nhau.

– Nội dung cơ sở để hình thành Hoán dụ là sự liên tưởng phát hiện ra mối quan hệ gần gũi của sự vật – hiện tượng. Đây cũng chính là đặc điểm mà nhiều người nhầm lẫn Hoán dụ với Ẩn dụ bởi cả hai biện pháp này đều sử dụng những mối liên hệ tương đồng giữa các sự vật – hiện tượng với nhau.

– Khác với Ẩn dụ, chức năng chủ yếu của Hoán dụ là nhận thức giúp người đọc có thể hình dung được ngay được sự tương đồng của 2 sự vật – hiện tượng mà không cần phải suy nghĩ quá nhiều, phức tạp đặc biệt không ẩn đi một phần ý nghĩa tư biện pháp tu từ Ẩn dụ. Để hiểu hơn Hoán dụ là gì? chúng tôi sẽ đưa ra một ví dụ cụ thể.

Ví dụ: Các từ chân, tay, mặt, miệng trên cơ thể người trong các ngữ cảnh sau đây đều dùng để chỉ người và người dùng vẫn thấu hiểu nó.

– Anh ấy là một chân sút siêu đẳng

– Cô ấy là một tay đua cừ khôi

– Ở đây có đủ mặt anh hùng hảo hán

– Gia đình tôi có 5 miệng ăn.

Hoán dụ được thực hiện bằng các phương thức quan hệ cặp đôi với đi liền với nhau như: Bộ phận và toàn thể, Đồ vật và chất liệu, Vật phẩm và người làm ra nó. Đây là biện pháp tu từ được dùng trong nhiều trong Văn học bởi nó thể hiện được nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau sức mạnh của nó vừa thể hiện ở tính cá thể hoá lại được thể hiện cùng với tính cụ thể cho biểu cảm kín đáo, sâu sắc, nhiều hàm ý.

Hoán dụ được thực hiện bằng các phương thức quan hệ cặp đôi với nhau như:

Bộ phận và toàn thể: Ví dụ: Đàn bà dễ có mấy tay/Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan (thơ Nguyễn Du), thì các từ tay, mặt, gan không mang nghĩa đen chỉ đối tượng (cái tay, khuôn mặt, bộ gan) mà dùng để trỏ con người trong nghĩa bóng của nó, như vậy bộ phận của con người được dùng để trỏ chính con người).

Đồ vật và chất liệu. Ví dụ: nói vàng bạc đeo đầy người thì vàng, và bạc là chất liệu lại được hoán dụ để trỏ đồ vật như nhẫn, hoa tai, dây chuyền… của người đeo nó).

Vật phẩm và người làm ra nó. Ví dụ: câu đọc Nam Cao, ta có thể hiểu sâu về thân phận khốn cùng của người nông dân sống dưới chế độ cũ, thì đọc Nam Cao ở đây là trỏ tác phẩm của Nam Cao.

Nguồn : Sưu Tầm

Khái Niệm Từ Vựng Học

1. Nói cho đơn giản thì từ vựng học (lexicology) là một bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu từ vựng của ngôn ngữ.

Vậy, đối tượng nghiên cứu của từ vựng học là từ vựng.

Từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ trong ngôn ngữ.

Đơn vị tương đương với từ là những cụm từ cố định, cái mà người ta vẫn hay gọi là các thành ngữ, quán ngữ. Ví dụ: ngã vào võng đào, múa tay trong bị, con gái rượu, tóc rễ tre, của đáng tội,… trong tiếng Việt; hoặc wolf in sheep’s clothing (sói đội lốt cừu), like a bat out of hell (ba chân bốn cẳng)… trong tiếng Anh.

2. Nhiệm vụ và mục đích cơ bản của từ vựng học là phải giải đáp được những vấn đề chính như:

Từ là gì? Nó được tạo nên bằng cái gì và như thế nào?

Nghĩa của từ là gì? Muốn phân tích cho ra được cái nghĩa đó thì phải làm như thế nào?

Thực chất các kiểu tập hợp từ vựng như: đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, các trường từ vựng,… là gì và nghiên cứu nó như thế nào?

Phân chia các lớp từ vựng bằng cách nào? Và những con đường phát trỉển của từ vựng ra sao?…

Trong thực tế, nghiên cứu từ vựng có thể xuất phát từ những bình diện khác nhau và dùng những phương pháp khác nhau. Nếu khảo sát những vấn đề chung cho mọi (hoặc nhiều) từ vựng của nhiều ngôn ngữ, là ta nhìn ở bình diện của từ vựng học đại cương. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến những vấn đề của một từ vựng trong một ngôn ngữ nào đó, là ta đứng trên bình diện nghiên cứu cụ thể. Ví dụ: từ vựng học tiếng Việt, từ vựng học tiếng Hán, từ vựng học tiếng Anh,…

Khi nghiên cứu một từ vựng đương đại (hiện đại) nào đó, người ta phân tích, miêu tả theo cách nhìn đồng đại, và thường gọi tên như: Từ vựng học (tiếng Việt/tiếng Nga/…) hiện đại.

Ngược lại, nghiên cứu từ vựng với cách nhìn lịch đại sẽ xây dựng nên bộ môn từ vựng học lịch sử, khảo sát sự diễn biến của từ vựng trong quá trình phát triển-lịch sử của nó. Ở đây, phương pháp so sánh lịch sử, và các nhân tố ngoài ngôn ngữ, sẽ rất được chú ý khai thác, sử dụng.

4. Có những bộ môn hình thành trên cơ sở nghiên cứu những mặt, những bộ phận khác nhau của từ vựng. Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt về cách hiểu thì có thể xem như chúng được tách ra từ từ vựng học vậy.

4.a. Trước hết là từ nguyên học. Bộ môn này có mục đích tìm hiểu, giải thích và xác định những hình thức, những ý nghĩa có tính chất cội nguồn của từ. Nó tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng cách nhìn lịch đại là chủ yếu; và nhiều khi còn phải vận dụng cả cứ liệu của những ngành khoa học lân cận như: sử học, dân tộc học, văn hoá và chính trị,…

Một ví dụ: Miền Trung Việt Nam có con sông gọi là “sông Mã”. Trong dân gian, người ta giải thích rằng gọi nó là “sông Mã” vì nó chảy xiết, nhanh và mạnh như ngựa phi, và sông Mã nghĩa là “sông Ngựa”.

Cách giải thích cảm tính, chủ quan, không chứng cứ như vậy, gọi là từ nguyên học dân gian.

Từ nguyên học khoa học phải tìm những chứng cứ khoa học để giải thích. Thật ra, “sông Mã” là lối nói “trại” đi của cái tên đích thực: sông Mạ, được ghi bằng một chứ Hán, đọc là “mã” (ngựa).

MẠ trong tiếng Việt xưa (nay còn lưu lại trong phương ngữ miền Trung) vốn có nghĩa là MẸ. Những con sông lớn ở vùng Đông Nam Á thường được gọi bằng cái tên có nghĩa MẸ (với ngụ ý là lớn, lớn nhất) như vậy. Chẳng hạn:

Tiếng Việt có sông CÁI, rào CÁI = sông mẹ

Tiếng Thái Lan có Menam = sông mẹ

Tiếng Môn cổ có Meklong = sông mẹ

(Mô hình tên gọi này còn thể hiện qua cách đặt tên một số sự vật “lớn” khác trong tiếng Việt: ngón tay CÁI, cột CÁI, máy CÁI, ngón chân CÁI, đũa CÁI,…).

Vậy tên gọi “sông Mã” không ngoài quy luật đặt địa danh nêu trên trong toàn vùng, và cần thiết hiểu “sông MÔ = “sông MẠ” = “sông CÁI” (nghĩa là “sông mẹ, sông lớn”) chứ không phải là “sông Ngựa”.

Nghiên cứu từ nguyên là công việc đầy khó nhọc, nhưng hết sức thú vị.

4.b. Bộ môn danh học nghiên cứu các quy luật đặt tên: tên người, tên sông, tên núi non, tên vùng đất,… Vì vậy, ở đây có hai phần: nhân danh học và địa danh học.

Ví dụ 1: Nhân danh học có thẻ nghiên cứu các quy luật đặt tên riêng của người Việt, Hán, Khmer, Mường,… và phải gắng tìm câu trả lời cho những câu hỏi đại loại như:

– Tên gọi riêng của từng người trong các dân tộc đó có những yếu tố gì, dùng để biểu thị cái gì?

– Giới tính có được biểu thị trên tên gọi không?

– Tên họ của vợ và chồng có ảnh hưởng gì sau khi lấy nhau không? Các yếu tố tâm lí, thẩm mĩ, kiêng kị,… có ảnh hưởng đến việc đặt tên không, và nếu có thì gây tác động theo xu hướng nào?…

Nhìn lướt qua tên riêng của người Việt trong gần một thế kỉ nay, ta có thể thấy:

Tên nữ giới, trước đây bắt buộc phải là:

Họ + Thị (thể hiện giới tính) + Tên riêng (lúc chưa lấy chồng)

Họ chồng + Thị + Tên chồng (từ khi lấy chồng)

Tên nam giới thường là:

Họ + tên đệm (tuỳ thích, không nhất thiết phải có) + tên riêng

Hiện nay, tên gọi của nữ giới không bắt buộc phải dùng yếu tố THỊ. Ví dụ: Trần Phượng Li, Ngô Việt Hà,… Phụ nữ ngày nay lấy chồng vẫn dùng họ tên mình, không phải gọi theo chồng nữa.

Mặt khác, rất nhiều tên kép đã xuất hiện, dùng cho cả nam lẫn nữ: Kiều Oanh, Hoàng Lan, Tuấn Anh, Diễm Mi,… và thậm chí có cả những tên riêng ít nhiều đặc biệt như: Thanh Thanh, Nôen, Diễm Diễm, Li Li,…

Tên riêng người Việt đang có những biến động rất đa dạng tuỳ theo giới tính, trình độ giáo dục, nghề nghiệp, môi trường sống và sở thích cá nhân. Xu hướng chung là đẹp hoá tên riêng và đa dạng hoá tên riêng. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa thì người Việt cũng không dùng tên riêng của bố, mẹ, ông, bà, cụ, kị, tên của những người khả kính trong quan hệ với mình để đặt tên cho con cái. Trong quan niệm của học, đó là điều kiêng kị đến mức có thể được xếp vào phạm vi của đạo đức ứng xử.

Ví dụ 2: Nghiên cứu quy luật đặt tên sông ở Đông Nam Á, người ta thấy nét nổi bật là chúng thường mang yếu tố chỉ khái niệm NƯỚC hoặc SÔNG. Vùng ngôn ngữ Tày, Thái dùng yếu tố “nặm/nậm”: Nậm Tà (sông Hồng), Nặm Tè (sông Đà), Nặm Má (sông Mã), Nặm Khoóng (sông Mê Kông) và các con sông khác như: Nặm Le, Nậm Na, Nậm Rốm,…

Ở Thái Lan có con sông Mê Nam (Mê: mẹ; Nam = nặm), vùng ngôn ngữ thuộc nhóm Mon-Khmer (tiếng Ba Na, Hrê, Xê Đăng,…) người ta dùng yếu tố “đak” (nước): sông Đak Rong, sông Đak Min, hồ Đaklak,…

4.c.1. Từ điển bách khoa. Đây là loại từ điển không nhằm xây dựng các từ trong ngôn ngữ nói chung, mà chủ yếu đưa ra và giải thích các khái niệm; trình bày từ lai lịch của nó đến các quan điểm khác nhau, cùng với những thay đổi của nó (nếu có) về mặt nội dung,…

Loại từ điển bách khoa cho tất cả các lĩnh vực được gọi là bách khoa toàn thư, còn loại cho từng lĩnh vực một thì được gọi là từ điển bách khao chuyên ngành. Ví dụ: Từ điển bách khoa nông nghiệp, Từ điển bách khoa y học,…

4.c.2. Từ điển ngôn ngữ. Đây là loại từ điển được xây dựng bằng những con đường “ngôn ngữ học”. Chúng được phân ra như sau:

Từ điển một ngôn ngữ: Được biên soạn cho một ngôn ngữ cụ thể nào đó ở từng mặt, từng lĩnh vực. Ví dụ: Từ điển giải thích, Từ điển đồng nghĩa, Từ điển chính tả, Từ điển từ nguyên, Từ điển tần số (chung hoặc cho từng lĩnh vực), Từ điển ngược (Inversal Dictionary),…

Từ điển nhiều ngôn ngữ: Được biên soạn trên cơ sở đối chiếu hai hay nhiều ngôn ngữ. Ở đây cũng có thể gồm từ điển đối chiếu phổ thông như: Từ điển Anh – Việt, Từ điển Nga – Việt, Từ điển Việt – Pháp,…; từ điển đối chiếu chuyên ngành như: Từ điển toán học Anh – Việt, Từ điển y học Nga – Việt, Từ điển hoá học Anh – Việt,…

5. Ở Việt Nam, nếu xét một cách nghiêm ngặt thì từ giữa thế kỉ 20 trở về trước, chúng ta chưa hề có bộ môn từ vựng học nói riêng và ngôn ngữ học nói chung.

Có chăng, chỉ có thể nói, do yêu cầu cụ thể, với những mục đích khác nhau, một số từ điển đã được làm ra ở nước ta nhờ một số người vốn không phải là chuyên nghiên cứu ngôn ngữ học (tiếng Việt và không phải tiếng Việt). Chẳng hạn:

– ” Dictionarium Annamiticum – Lasitanum en Latinum” của A. de Rhodes (Roma, 1651).

– ” Dictionarie Annamite – Français” của M. Genibrel (Tân Định, 1898).

– ” Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa” của Túc Tăng Pháp Tính (khoảng thế kỉ 16-17), bản dịch của Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985).

– ” Đại nam quấc âm tự vị” của Paul Huình Tịnh Của (Sài Gòn, 1825).

Tuy vậy, qua vài thập kỉ gần đây, bộ môn từ vựng học ở nước tra đã đạt được những kết quả rất đáng trân trọng, đóng góp công sức đáng kể vào công việc nghiên cứu tiếng Việt nói chung.

Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 130-135.

Khái Niệm Và Ví Dụ Chi Tiết Nhất Về Phép Hoán Dụ

Hoán dụ là gì?

Hoán dụ là phép tu từ trong câu, gọi tên các sự vật, hiện tượng hoặc khái niệm này bằng tên sự vật, hiện tượng, khái niệm khác, dựa trên nét tương cận, gần gũi với nhau nhằm mục đích làm tăng sức gợi hình, gợi cảm, giúp cho sự diễn đạt tốt hơn.

: Hoán dụ trong câu: “Áo chàm đưa buổi phân li”. (Trích Việt Bắc – Tố Hữu)

: “Cả khán đài hò reo, cổ vũ cho đội tuyển Việt Nam”. (Internet)

: Đội tuyển có một bàn tay vàng bắt bóng cực giỏi. (Internet)

Anh ấy là một chân sút siêu đẳng.

Cô ấy là một tay đua cừ khôi.

Ở đây có đủ mặt anh hùng hảo hán.

Gia đình tôi có 5 miệng ăn.

Hoán dụ có tác dụng tăng sức gợi hình, gợi cảm giúp cho sự diễn đạt có tính hiệu quả cao. Từ đó, cho thấy sự phổ biến của phép tu từ này trong văn học.

Hoán dụ được sử dụng để biểu thị mối quan hệ gần gũi, có tính chất tương đồng của sự vật – hiện tượng này với sự vật – hiện tượng khác để người đọc dễ dàng liên tưởng kề cận của hai đối tượng mà không cần so sánh chúng với nhau.

Nội dung cơ sở để hình thành hoán dụ là sự liên tưởng, phát hiện ra mối quan hệ gần gũi giữa các sự vật – hiện tượng. Đây cũng chính là đặc điểm mà nhiều người nhầm lẫn hoán dụ với ẩn dụ bởi cả hai biện pháp này đều sử dụng những mối liên hệ tương đồng giữa các sự vật – hiện tượng với nhau.

Khác với ẩn dụ, chức năng chủ yếu của hoán dụ là giúp người đọc có thể hình dung ngay được sự tương đồng của 2 sự vật – hiện tượng với ý nghĩa đầy đủ mà không cần phải suy nghĩ quá nhiều hay quá phức tạp.

Đây là biện pháp tu từ được dùng trong nhiều trong văn học bởi nó thể hiện được nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, sức mạnh của nó vừa thể hiện ở tính cá thể hoá, lại được thể hiện cùng với tính cụ thể cho biểu cảm kín đáo, sâu sắc, nhiều hàm ý.

Các hình thức hoán dụ

Hoán dụ được thực hiện bằng các hình thức quan hệ cặp đôi đi liền với nhau. Thông thường, có 4 kiểu hoán dụ thường gặp và phổ biến nhất trong văn học, đó là:

Anh ấy vừa bước vào, cả phòng đều phải ngạc nhiên.

“Sen tàn, cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân”. (Nguyễn Du)

“Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao “. (Ca dao)

Hoán Dụ Là Gì? Các Kiểu Hoán Dụ? Sự Khác Nhau Giữa Ẩn Dụ Và Hoán Dụ

Số lượt đọc bài viết: 33.770

Từ khái niệm hoán dụ là gì, chúng ta nhận thấy hoán dụ là một biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong văn học. Các kiểu hoán dụ được sử dụng phổ biến là:

Lấy 1 bộ phận để gọi toàn thể: Ví dụ: anh ấy là chân sút số một của đội bóng. Từ “chân” không được hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng – tức là chỉ con người.

Dùng vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng: Ví dụ: Cả khán đài hò reo, cổ vũ cho đội tuyển Việt Nam – Trường hợp này “khán đài” mang nghĩa là những người ngồi trên khán đài

Dùng dấu hiệu sự vật để gọi sự vật: Ví dụ: cô gái có mái tóc màu hạt dẻ đang đứng một mình dưới mưa. Ở đây “mái tóc màu hạt dẻ” là dấu hiệu để nhận biết một người.

Dùng những cái cụ thể để nói về cái trừu tượng. Ví dụ: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Cái cụ thể ở đây là “một cây” và “ba cây” cái trừu tượng là chỉ số lượng ít nhiều.

Sự khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ là gì?

Ẩn dụ và hoán dụ đều là những biện pháp tu từ phổ biến, đều dựa trên sự liên tưởng giữa các sự vật hiện tượng tương đồng với nhau nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt. Trong văn biểu cảm cũng như văn tự sự thường sử dụng rất nhiều biện pháp hoán dụ. Cũng bởi những nét tương đồng giữa hai biện pháp này mà rất nhiều người nhầm lẫn giữa ẩn dụ và hoán dụ. Vậy sự khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ là gì? Để giải đáp được câu hỏi này, chúng ta cần nắm được rõ về các định nghĩa sau:

Ẩn dụ là một biện pháp tu từ, theo đó, gọi tên các sự vật, hoặc hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nhau có tác dụng nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm.

Ẩn dụ được thể hiện qua bốn hình thức: Ẩn dụ hình thức, ẩn dụ cách thức, ẩn dụ phẩm chất, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Cụ thể như sau:

Ẩn dụ hình thức: là việc người nói người viết giấu đi một phần ý nghĩa

“Về thăm nhà Bác Làng Sen

Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.”

Ẩn dụ cách thức: là hình thức một vấn đề thông qua nhiều cách, việc ẩn dụ này giúp người diễn đạt đưa hàm ý vào câu nói. Đây là hình thức ẩn dụ dễ khiến nhiều bạn nhầm lẫn với hoán dụ nhất.

Ví dụ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

“Người Cha mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm”

Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: là hình thức miêu tả tính chất, đặc điểm của sự vật được nhận biết bằng giác quan này nhưng lại được miêu tả bằng từ ngữ sử dụng cho giác quan khác .

Ví dụ: Trời nắng giòn tan: nói đến trời nắng to, có thể làm khô mọi vật

Sự khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ là gì?

Mặc dù đều lấy sự vật hiện tượng này để chỉ sự vật, hiện tượng khác dựa trên cơ sở liên tưởng. Nhưng với việc phân chia các hình thức ẩn dụ và hoán dụ ở phần trên có thể thấy rằng bản chất của ẩn dụ và hóan dụ là khác nhau vì cơ sở liên tưởng của 2 biện pháp tu từ này hoàn toàn khác nhau, cụ thể:

Giải bài tập phần hoán dụ

Câu 1 + 2: SGK lớp 6 tập 2 trang 83

Câu 1: SGK lớp 6 tập 2 trang 84:

Câu 1: Câu nào không sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ trong những câu sau đây:

a) Lớp tôi có bạn Nam học rất giỏi

b) Cậu ấy là một tay đua cừ khôi

c) Giọng nói chị ấy rất ngọt ngào

c) Giọng nói – ngọt ngào: ở đây sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, không sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ

Câu 2:

“Một trái tim lớn lao đã từ giã cuộc đời

Một khối óc lớn đã ngừng sống”

(Xuân Diệu – Viết về Na dim Hít mét)

a) Dùng vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng

b) Dùng cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng

c) Lấy 1 bộ phận để gọi toàn thể

d) Dùng dấu hiệu để chỉ sự vật

Đáp án: C. Một trái tim, một khối óc mang ý nghĩa chỉ con người.