Khái Niệm Chất Lượng Giáo Dục Là Gì / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | 2atlantic.edu.vn

Tổng Quan Khái Niệm Chất Lượng Và Chất Lượng Giáo Dục Trong Giáo Dục Đại Học

Thứ ba – 29/04/2014 10:39

I. Các quan niệm về chất lượng

Nguồn lực = chất lượng.

II. Những cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề chất lượng I. Đặt vấn đề II. Các mô hình đảm bảo chất lượng

Triết lý quan trọng nhất của Quản lý chất lượng tổng thể là cải tiến không ngừng, và có thể đạt được do quần chúng và thông qua quần chúng. Sự cải tiến liên tục này được thể hiện trong kế hoạch chiến lược của trường đại học bằng các chu kỳ cải tiến, nâng cao dần theo vòng xoáy trôn ốc từ lợi ích trước mắt đến lợi ích lâu dài, từ trình độ xuất phát ở một thời điểm nhất định vươn không ngừng tới các trình độ cao hơn. Quản lý chất lượng tổng thể là một quá trình tự quản lý nhằm giảm lỗi trong từng chu kỳ/giai đoạn sản xuất. Các thanh tra được thay thế bằng chính các công nhân sản xuất và chính họ là những cán bộ tham gia trong quá trình Quản lý chất lượng tổng thể làm cho công việc sản xuất của họ hoàn thiện hơn. Mặc dầu Quản lý chất lượng tổng thể từ trước tới nay đều được áp dụng trong quy trình sản xuất công nghiệp nhưng các nguyên tắc tương tự này cũng có thể đựơc áp dụng trong các ngành dịch vụ như giáo dục. Tuy nhiên để có thể áp dụng phương pháp này trong các ngành dịch vụ, chúng ta phải có một số điều chỉnh trong tư duy. Nhưng làm thế nào để có thể xác định được một sinh viên tốt nghiệp có bằng cấp đạt chất lượng “không mắc lỗi”. Hiện không có một bộ chuẩn nào có thể giúp đo được chính xác tính hiệu quả của quá trình ” sản xuất” ra một sinh viên tốt nghiệp. Thay vào đó, các trường đại học thường nhìn vào các năng lực mà sinh viên tốt nghiệp đã được đào tạo hơn là vấn đề liệu sinh viên có sử dụng được các năng lực đó hay có tiềm năng thành công trong công việc tương lai hay không. Nói cách khác, một sinh viên “hoàn hảo” phải được xem xét từ góc độ những thành tích họ đạt được ngoài những năng lực cơ bản đã được đào tạo. Đối với một sinh viên tốt nghiệp đại học, vấn đề chất lượng không phải là khái niệm ” sản phẩm không mắc lỗi” mà là mức độ thành đạt của sinh viên trong công việc ngoài các bằng cấp tối thiểu. Tình trạng ” không mắc lỗi” có thể được gọi là ” mức chuẩn trần” (ceiling standard). Nó chỉ có thể áp dụng cho những vật thể có thể xác định là ” hoàn hảo” xét về mặt định lượng, tức là một tình trạng tốt nhất trong một hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên kinh nghiệm trong giáo dục cho thấy vấn đề dạy và học không thể áp dụng phương thức này được. Những sinh viên tốt nghiệp đạt chất lượng cao nhất luôn luôn vượt hơn mức chuẩn trần mà chúng ta có thể đưa ra từ trước và chúng ta luôn cố gắng để đào tạo những sinh viên tốt nhất. Mặt khác, chúng ta cũng cần phải đảm bảo rằng tất cả các sinh viên khi ra trường cần phải có những năng lực tối thiểu và đã qua đào tạo để thực hiện được những nhiệm vụ nhất định. Do đó chúng ta thường sử dụng một bộ các năng lực tối thiểu, hay những ” chuẩn mực sàn” (floor standard) để cho chính chúng ta, cho các cơ quan tuyển dụng và xã hội yên tâm với những sinh viên đó, khi tốt nghiệp họ đã qua huấn luyện để có thể thực hiện được những nhiệm vụ hay đã được đào tạo một số năng lực nhất định. Trong công tác đảm bảo chất lượng trong các ngành dịch vụ như giáo dục, chúng ta không thể xác định được một sản phẩm ” không mắc lỗi ” mà không làm giảm đi nhiều khả năng có thể đạt được mức độ hoàn hảo. Do đó, quá trình đảm bảo chất lượng nhất thiết phải xuất phát từ một hệ thống đảm bảo chất lượng mà trong đó có sự chú trọng đến khái niệm Cải tiến chất lượng liên tục. Khái niệm một sinh viên tốt nghiệp đạt chất lượng ” không mắc lỗi” được xét theo một cách rất hạn chế – đó là trên phương diện những bằng cấp tối thiểu.

Quản lý chất lượng tổng thể được thực hiện bằng một loạt dự án quy mô nhỏ có mức độ tăng dần. Về tổng thể, quản lý chất lượng tổng thể có quy mô rộng, bao quát toàn bộ hoạt động của một trường đại học, song việc thực hiện nhiệm vụ đó trong thực tế lại có quy mô hẹp, khả thi, thiết thực và có mức độ tăng dần. Sự can thiệp mạnh không phải là phương sách tốt để tạo sự chuyển biến lớn trong quản lý chất lượng tổng thể. Các dự án đồ sộ nhiều khi không phải là con đường tốt nhất vì thiếu kinh phí, và nếu thất bại sẽ dẫn tới sự thờ ơ, bất bình. Các dự án nhỏ sẽ dễ thành công và tạo ra sự tự tin và làm cơ sở cho các dự án sau lớn hơn. Cách tiếp cận cải tiến chất lượng theo mức độ tăng dần cho thấy rằng, việc cải tiến không nhất thiết phải là quy trình tốn kém. Chi phí tự thân nó không tạo ra chất lượng, còn nếu chi phí có mục tiêu rõ ràng, khả thi thì nó có tác dụng to lớn.

3.2.3 Hệ thống tổ chức phải hướng tới khách hàng.

Khái Niệm “Chất Lượng” Trong Giáo Dục Đại Học

Minh Anh (ĐH Đông Á dịch), Phương Anh hiệu đính và biên tập ngôn ngữ

” C hất lượng” là một thuật ngữ gây nhiều tranh cãi. Với một số người, “chất lượng” cũng giống như câu cái đẹp, vốn “nằm trong mắt của người thưởng thức”. Những người này cho rằng chất lượng chỉ là vấn đề tương đối , trong khi một số khác cho rằng chất lượng bao gồm nhiều thành tố xác định khác nhau; nói cách khác chất lượng là một cái gì đó hoàn toàn khách quan. Từ chất lượng (quality) bắt nguồn từ từ ‘qualis’ trong tiếng Latin, có nghĩa là ” loại gì ” . Đây là một từ đa nghĩa và nhiều hàm ý, một khái niệm khó nắm bắt (Pfeffer and Coote, 1991). Để minh họa cho tính chất phức tạp và khó nắm bắt của khái niệm “chất lượng” và những sự nhầm lẫn xung quanh khái niệm này, rất nhiều tác giả (Nigvekar, 1996; Warren và đồng nghiệp, 1994; Sallis, 1996) thường trích dẫn đoạn sau đây của tác giả Pirsig (1974).

Chất lượng … bạn biết nó là cái gì, nhưng lại cũng chẳngbiết nó là cái gì. Điều đó thật mâu thuẫn.Nhưng rõ ràng chúng ta biết rằng có những điều thực sự tốt hơn điều khác, tức là chúng có chất lượng hơn. Nhưng khi bạn cố gắng mô tả chất lượng đó là gì, độc lập với những vật “có chất lượng” đó, thì tất cả đều trở nên rối loạn! Chẳng còn gì để có thể nói về nó. Nhưng nếu bạn không thể nói được chất lượng là gì, thì làm sao bạn biết nó là gì, hoặc nó có thực sự tồn tại hay không? Nếu không ai có thể giải thích thuyết phục được chất lượng là gì, thì có thể lý luận rằng nó không tồn tại. Nhưng trong thực tế quả là nó thực sự tồn tại cơ mà … Và cứ thế, mọi việc cứ tiếp tục xoay vòng như vậy, như một con quay cứ mãi xoay mà không tìm thấy lực bám ở nơi nào. Chất lượng là cái quái gì thế nhỉ? (p.171)

Tới đây, có thể hiểu rằng với những người khác nhau thì chất lượng có những ý nghĩa khác nhau.

2.1 Định nghĩa chất lượng

Viện tiêu chuẩn Anh Quốc (British Standards Institution, viết tắt là BSI) định nghĩa chất lượng là “toàn bộ các đặc trưng cũng như tính chất của một sản phẩm hoặc một dịch vụ giúp nó có khả năng đáp ứng những yêu cầu được xác định rõ hoặc ngầm hiểu” (BSI, 1991). Green và Harvey (1993) đã xác định năm (05) cách tiếp cận khác nhau để định nghĩa chất lượng như sau:

Chất lượng là sự vượt trội ( đạt tiêu chuẩn cao và vượt quá yêu cầu);

Chất lượng là tính ổn định (thể hiện qua tình trạng “không có khiếm khuyết ” và tinh thần “làm đúng ngay từ đầu”, biến chất lượng thành một văn hóa);

Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu (tức sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng đúng những mục đích đã đề ra, theo đúng các đặc tả và sự hài lòng của khách hàng);/

/Chất lượng là đáng giá đồng tiền (có hiệu quả và hiệu suất cao); và

Chất lượng là tạo sự thay đổi (những thay đổi về chất lượng).

Những quan niệm khác nhau về chất lượng này đã khiến Reeves và Bednar (1994) kết luận rằng: “… Cuộc tìm kiếm một định nghĩa thống nhất và một phát biểu có tính quy luật về chất lượng đã bị thất bại”. Theo Gummesson (1990), có lẽ cần làm sao để mọi người cùng đồng thuận về cách hiểu cái thực thể mơ hồ nhưng phức tạp và đa diện mà ta gọi là chất lượng hơn là tìm cách đưa ra một định nghĩa về chất lượng. Garvin (1988) đã phân loại các định nghĩa chất lượng ra thành năm (05) nhóm chính:

Những định nghĩa mang tính “tiên nghiệm”. Đây là những định nghĩa dựa trên cảm nhận chủ quan. Những định nghĩa này tồn tại rất bền vững, nhưng không thể đo lường và cũng không thể mô tả một cách logic. Có thể nói chúng cũng giống như những khái niệm về ‘tình yêu’ hoặc ‘cái đẹp’.

Quanh khái niệm chất lượng ta có thể nhận ra một số ý tưởng chính yếuỷ, đó là: Chất lượng có tính tuyệt đối, chất lượng có tính tương đối, chất lượng như một quá trình, và chất lượng như một văn hóa.

Khi chúng ta xem chất lượng là tuyệt đối, nó được xem như là những tiêu chuẩn cao nhất có thể có. Ví dụ như bức tranh “Mona Lisa” của Da Vinci, Kim tự tháp Hy Lạp hoặc Lăng Taj Mahal ở Ấn Độ là những tuyệt tác với tiêu chuẩn chất lượng tuyệt vời. Xét theo khía cạnh sản phẩm, chúng luôn đi kèm với những “thương hiệu” cao, có lợi thế vè đẳng cấp và vị trí. Những tổ chức giáo dục như Oxford, Cambridge và Stanford ở phương Tây có thể được hiểu là đạt chuẩn chất lượng theo nghĩa tuyệt đối, mặc dù khi xét trong trường hợp của ngành giáo dục điều này vẫn có ít nhiều cảm tính. Quan niệm “chất lượng là tương đối” thì cho rằng chất lượng của một sản phẩm hoặc dịch vụ chỉ có giá trị tương đối. Chất lượng ở đây có thể được đo lường bằng những tiêu chí nhất định. Theo Mukhopadhyay (2005) việc tuân thủ các “đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm thực sự là điều kiện tối thiểu về chất lượng, nhưng không phải là điều kiện đủ”. Điều kiện đủ là sự hài lòng của khách hàng và hơn thế nữa” (p.19). /

… một quá trình giáo dục được đánh giá cao khi được chứng minh rằng, qua quá trình đó sự phát triển về giáo dục của sinh viên đã được nâng cao … những sinh viên này không những đạt được những mục tiêu đã đề ra của khóa học, mà còn hoàn thành những mục tiêu giáo dục tổng quát như khả năng độc lập tham gia vào những cuộc tranh luận dựa trên lý lẽ, khả năng tự đánh giá một cách khách quan, và có nhận thức đúng đắn về những hệ quả sâu xa của mọi suy nghĩ và hành động (p.61).

2.2 Vì sao cần quan tâm đến chất lượng?

Là giảng viên, hiệu trưởng, trưởng khoa, người lập kế hoạch và hoạch định chính sách, bạn có thể đang tự hỏi – tại sao tôi phải quan tâm đến chất lượng? Không chỉ vì các chỉ thị UGC yêu cầu bạn suy nghĩ về chất lượng, mà thật ra chất lượng phải được tiếp cận từ dưới lên, và tất cả mọi người

(hết Trang 13)

Trang 14

1. Sự cạnh tranh. Chúng ta đang bước vào một thời đại mới, thời đại của sự cạnh tranh cao độ giữa các cơ sở giáo dục để thu hút sinh viên và kinh phí. Cùng với quá trình toàn cầu hoá và GATS (Hiệp định chung về thương mại dịch vụ), môi trường giáo dục càng trở nên cạnh tranh hơn bao giờ hết. Để có thể tồn tại được trong tình hình này, các cơ sở giáo dục cần phải quan tâm đến chất lượng của mình.

3. Duy trì các chuẩn mực. Với tư cách là một cơ sở giáo dục, chúng ta luôn quan tâm đến việc đặt ra chuẩn mực riêng của mình và thường xuyên duy trì những chuẩn mực này qua thời gian. Để làm điều này , chúng ta cần nỗ lực để nâng cao chất lượng của hoạt động giáo dục cũng như các phương pháp cung cấp dịch vụ giáo dục và cơ sở vật chất.

5. Khích lệ động lực và tinh thần của nhân viên. Mối quan tâm về chất lượng của cả một tổ chức sẽ nâng cao tinh thần và động lực cho nhân viên trong việc thực hiện những nhiệm vụ và trách nhiệm của họ. Nếu một hệ thống chất lượng được triển khai, những quá trình nội bộ sẽ được hệ thống hoá, giúp cho từng bộ phận có thể bổ trợ cho nhau và giúp nâng cao sự hài lòng trong nội bộ, dẫn tới tinh thần và động lực trong công việc được nâng cao.

6. Sự tín nhiệm, uy tín và đẳng cấp. Nếu bạn quan tâm đến chất lượng một cách liên tục chứ không phải chỉ thỉnh thoảng một lần, điều đó sẽ mang lại sự tín nhiệm đối với từng cá nhân và toàn đơn vị của bạn, bởi sự nhất quán sẽ dẫn đến hoạt động thông suốt, nâng đẳng cấp và giá trị thương hiệu.

(hết Trang 14)

Trang 15

2.3 Tóm tắt

Hoạt động

1. Bạn định nghĩa thế nào là chất lượng? Hãy diễn đạt điều này bằng lời của chính bạn.

2. Điều gì khiến bạn tìm đến chất lượng trong hoạt động và vì sao?

Chất Lượng Giáo Dục Là Gì

Chất lượng giáo dục là gì. Hiện nay chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về nó.

Từ trước tới nay cụm từ này đã được đề cập rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Và trong hoạt động chuyên môn của ngành giáo dục cũng gây tranh cãi nhiều trong dư luận – xã hội.

Thế nhưng

Từ cách nhìn khác nhau, mỗi nhóm người hay mỗi người cũng có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng giáo dục.

Chẳng hạn như: giáo viên đánh giá chất lượng học tập bằng mức độ mà học sinh nắm vững các kiến thức kỹ năng, phương pháp và thái độ học tập của cá nhân.

Học sinh có thể đánh giá chất lượng học tập bằng việc nắm vững kiến thức và vận dụng vào thực hành các bài tập, bài kiểm tra, bài thi…

Cha mẹ học sinh đánh giá chất lượng bằng điểm số kiểm tra – thi, xếp loại.

Người sử dụng sản phẩm đào tạo thì đánh giá chất lượng bằng khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao, khả năng thích ứng với môi trường…

https://www.youtube.com/watch?v=Cm8P2Qxvn6I

Theo chúng tôi Nguyễn Văn Đản (Trường đại học Sư phạm Hà Nội)

Chất lượng giáo dục là gì? – Những lợi ích, giá trị mà kết quả học tập đem lại cho cá nhân và xã hội, trước mắt và lâu dài.

Khái niệm trên được đúc kết từ nhiều góc độ khác nhau.

Dưới góc độ quản lý chất lượng, thì chất lượng giáo dục là học sinh vừa cần phải nắm được các kiến thức kỹ năng, phương pháp chuẩn mực thái độ sau một quá trình học; đáp ứng được các yêu cầu khi lên lớp, chuyển cấp, vào học nghề hay đi vào cuộc sống lao động…

Còn với góc độ giáo dục học thì chất lượng giáo dục được giới hạn trong phạm vi đánh giá sự phát triển của cá nhân sau quá trình học tập và sự phát triển xã hội khi họ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế sản xuất, chính trị – xã hội, văn hóa – thể thao.

Nhìn từ mục tiêu giáo dục thì chất lượng giáo dục được quy về chất lượng hoạt động của người học. Chất lượng đó phải đáp ứng được các yêu cầu về mục tiêu của cá nhân và yêu cầu xã hội đặt ra cho giáo dục…

TS Tô Bá Trượng (Viện chiến lược và Chương trình giáo dục)

Thì cho rằng, c hất lượng giáo dục là chất lượng con người được đào tạo từ các hoạt động giáo dục. Chất lượng ở đây phải được hiểu theo hai mặt của một vấn đề: Cái phẩm chất của con người gắn liền với người đó, còn giá trị của con người thì phải gắn liền với đòi hỏi của xã hội.

Theo quan niệm hiện đại, chất lượng giáo dục phải bảo đảm hai thuộc tính cơ bản: tính toàn diện và tính phát triển.

Từ việc dẫn ra nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng giáo dục.

PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị (Trường đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh)

Cho rằng, cách hiểu phổ biến hiện nay về chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của giáo dục:

Chẳng hạn mục tiêu giáo dục đại học toàn diện gồm có: phẩm chất công dân, lý tưởng, kỹ năng sống; tri thức (chuyên môn, xã hội, ngoại ngữ, tin học…)

Và khả năng cập nhật thông tin; giao tiếp, hợp tác; năng lực thích ứng với những thay đổi và khả năng thực hành, tổ chức và thực hiện công việc, khả năng tìm việc làm và tự tạo việc làm có ích cho bản thân và người khác…

Hoặc mục tiêu giáo dục là nhằm đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Theo nghiên cứu của Viện Chiến lược và chương trình giáo dục thì nước ta hiện nay còn thiếu nhiều chuẩn trong giáo dục.

Cần phải xúc tiến khẩn trương việc nghiên cứu chuẩn hóa nền giáo dục để đưa ra chuẩn cụ thể đánh giá chất lượng của các lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, việc xây dựng các tiêu chí để đánh giá chất lượng giáo dục hiện nay ở nước ta cũng đang là một vấn đề gây nhiều tranh luận và chưa có sự thống nhất.

Qua nghiên cứu của các chuyên gia Viện Chiến lược và chương trình giáo dục, thì khung lý thuyết đánh giá tình hình giáo dục và chất lượng cơ sở, giáo dục gồm có 14 tiêu chí như: dân cư; chính sách phát triển giáo dục cấp, bậc học;

Nhận thức và thái độ của cộng đồng về giáo dục tình trạng phát triển kinh tế xã hội của địa phương; người học; chương trình giáo dục; người dạy; đầu tư cho giáo dục; cơ sở vật chất kỹ thuật; bộ máy quản lý trường, hoạt động giáo dục; hoạt động khai thác và sử dụng nguồn lực; sự phát triển của người học, sự phát triển của người dạy và lợi ích xã hội.

Tuy nhiên, để đánh giá chất lượng giáo dục, người ta thường tập trung vào một số tiêu chí, chỉ số cơ bản của chất lượng giáo dục đó là: đầu tư ngân sách cho giáo dục, tỷ lệ nhập học trong độ tuổi, tỷ lệ lưu ban, bỏ học; tỷ lệ hoàn thành cấp học; thời lượng học tập của học sinh, tình trạng đội ngũ giáo viên, đạo đức của người học, mức độ nhận thức, kỹ năng và thể lực của người học và tình trạng người học tốt nghiệp có việc làm và đáp ứng yêu cầu của công việc.

Theo TS Nguyễn Anh Dũng (Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục)

Đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông cần dựa vào các tiêu chí như chất lượng đầu vào, quá trình giáo dục và chất lượng đầu ra của sản phẩm được giáo dục đào tạo.

Trong đó chú ý các yếu tố tác động như nội dung chương trình và sách giáo khoa; số lượng cơ cấu và chất lượng nghề nghiệp của giáo viên; phương pháp và thiết bị giáo dục và công tác kiểm tra đánh giá việc học tập của học sinh.

Qua nghiên cứu về chất lượng giáo dục trung học chuyên nghiệp,

PGS.TS Nguyễn Đức Trí (Viện Chiến lược và chương trình giáo dục)

Đã có quan niệm rằng, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng đầu vào, đầu ra (sản phẩm của giáo dục); “giá trị gia tăng” (sự tăng trưởng trong phát triển trí tuệ và nhân cách người học); giá trị học thuật – tri thức (đội ngũ giáo viên của trường có chất lượng, có uy tín thì trường được xem là có chất lượng)…

Đồng thời ưu tiên giải quyết đồng bộ các khâu đào tạo bồi dưỡng sử dụng đãi ngộ và kiểm tra đánh giá đội ngũ giáo viên.

Thứ hai là phải đẩy mạnh quản lý giáo dục, trong đó phải đẩy mạnh phân cấp quản lý, xây dựng và thực hiện chuẩn giáo dục, tăng cường thanh tra chuyên môn và đầu tư nguồn lực cơ sở vật chất.

Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng giáo viên, nhóm nghiên cứu gồm các đồng chí

PGS.TS Nguyễn Ngọc Hợi; chúng tôi Phạm Minh Hùng và TS Thái Văn Thành (Đại học Vinh)

Cho rằng, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.

Các nhà nghiên cứu này cho rằng, những yếu tố tạo thành chất lượng giáo dục gồm có: giáo viên, chương trình và sách giáo khoa; Phương pháp dạy học; Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học…

Trong đó, giáo viên là yếu tố có vai trò quyết định hàng đầu đến chất lượng giáo dục.

Để nâng cao chất lượng giáo viên thì cần phải đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; xây dựng hệ thống chính sách cho giáo viên; xây dựng cơ chế tuyển chọn, đánh giá giáo viên và quản lý toàn diện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên.

Ngoài ra, cũng có một số ý kiến cho rằng, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì cần phải tăng cường đầu tư cho giáo dục, kết hợp với nâng cao chất lượng cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy và học tập để phát huy khả năng thích ứng của người học với môi trường.

Cũng có ý kiến cho rằng, hoạt động giáo dục cần phải gắn chặt với thị trường lao động của xã hội để giáo dục, đào tạo nên những con người dễ dàng nắm bắt và thích ứng với công việc sau khi đã được giáo dục, đào tạo.

Giáo dục đại học của chúng ta đang nỗ lực đào tạo ra những con người tốt, những người giỏi, nhưng nghịch lý là người giỏi, người tốt cơ hội việc làm khi ra trường lại không tốt bằng những người không giỏi nhưng có quan hệ, ô dù. –

GS-TS Phạm Quang Minh Người không giỏi có việc làm tốt

Theo thống kê của Bộ LĐTBXH, tính đến năm 2023, có khoảng 60% sinh viên ra trường làm trái ngành và có hơn 200.000 cử nhân thất nghiệp.

Không ít người cho rằng, số cử nhân không có việc làm tăng mỗi năm là do chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam chưa cao, chưa đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Vì điều này nên không ít gia đình sẵn sàng bỏ tiền tỉ ra đầu tư cho con em ra nước ngoài du học.

Theo GS-TS Phạm Quang Minh – Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội), vấn đề cử nhân thất nghiệp cần nhìn từ hai phía, công bằng là do cả cơ chế tuyển dụng chứ không nên đổ lỗi hết cho các trường đại học.

“Người ta phê bình rất nhiều giáo dục đại học đào tạo ra những cử nhân, nhà khoa học không xin được việc, không đáp ứng được yêu cầu của xã hội, của thị trường. Điều này đúng nhưng chỉ đủ một phần.

Tôi nhìn từ góc độ nền kinh tế, xã hội của chúng ta thấy đầy sự bất công, khiếm khuyết…

Rất nhiều sinh viên của chúng tôi, dù rất giỏi nhưng ra trường không tìm được việc. Vì các em không có quan hệ, không có nguồn lực về kinh tế, không có một cái “ô” nào. Còn người không giỏi lại có việc làm tốt, vì có quan hệ, có ô dù.

Rõ ràng hiện vẫn còn tồn tại sự không bình đẳng, sự bất công trong tuyển dụng: Giáo dục đại học đã và đang nỗ lực đào tạo ra những người giỏi, con người tốt, nhưng nghịch lý là người giỏi, người tốt cơ hội việc làm lại không tốt”- GS-TS Phạm Quang Minh thẳng thắn.

GS Minh cho rằng, khi xảy ra nghịch lý này sẽ tác động rất lớn đến tâm lý của sinh viên. Các em sẽ hỏi tại sao phải học giỏi, phải rèn luyện, khi mà những bạn khác không rèn luyện, không học tập tốt cũng có việc làm tốt?

“Khi một xã hội đánh giá con người chưa dựa vào năng lực, còn nhiều bất cập như vậy thì không thể đỗ lỗi hết cho các trường đại học là đào tạo chưa tốt” – lãnh đạo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn khẳng định.

“Nhiều người vẫn có quan niệm phải học đại học mới có việc, hay chỉ làm ở cơ quan nhà nước mới gọi là có việc, mới ổn định. Theo thống kê của chúng tôi, phần lớn sinh viên hiện nay ra trường không làm việc ở cơ quan nhà nước, mà làm ở khu vực tư nhân, liên doanh liên kết rất nhiều. Các em vẫn thành công, kể cả những học sinh không vào đại học”- GS Minh chia sẻ.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Đức Hoàng – đại diện Hội Trí thức Khoa học và Công nghệ Trẻ – dẫn chứng ra rất nhiều tỉ phú thế giới hiện nay không có bằng đại học, để nhấn mạnh quan điểm “không nhất thiết phải có bằng đại học mới thành công”.

Đại diện Trường ĐH Nguyễn Tất Thành chỉ ra quan niệm trọng bằng cấp còn ảnh hưởng vào các quy định của nhiều cơ quan, ban, ngành và điều này làm khó cho các trường đại học trong công cuộc tiến tới tự chủ: “Tôi lấy ví dụ, hiện nay nhiều trường đại học muốn đưa các lãnh đạo doanh nghiệp vào trường để giảng dạy, truyền kinh nghiệm cho sinh viên, nhưng bị vướng quy định là giảng viên đại học phải có bằng thạc sĩ trở lên, trong khi nhiều giám đốc không có những bằng cấp này. Quy định này gây khó khăn cho các trường”.

Định Nghĩa Chất Lượng Giáo Dục Tổng Giá Trị Của Khái Niệm Này. Đây Là Gì Chất Lượng Giáo Dục

Khái niệm chất lượng đề cập đến các đặc tính là đặc trưng của một cái gì đó và từ đó có thể ước tính giá trị của nó. Khi những đặc điểm này là tích cực hoặc có lợi, chúng nói về chất lượng tốt. Giáo dục, mặt khác, là những gì được liên kết với giáo dục : quá trình dạy và học cho phép một người được giáo dục.

Ý tưởng về chất lượng giáo dục, trong bối cảnh này, đề cập đến cách quá trình đào tạo này được thực hiện . Khi kết quả và hiệu quả của giáo dục được cộng đồng đánh giá tích cực, chất lượng giáo dục cao. Mặt khác, khi điều này không xảy ra, chất lượng giáo dục sẽ có trình độ thấp.

Theo cùng một cách, chúng ta phải nhớ rằng một hệ thống có chất lượng giáo dục không thể phủ nhận khi nó đáp ứng các đặc điểm khác: -Promote thay đổi và hiện đại hóa trong lớp học. -Nhận cộng đồng giáo dục nói chung được tham gia. -Nó điều chỉnh theo nhu cầu của sinh viên để họ có thể tiếp cận các công cụ và tài nguyên để đạt được tiến bộ học tập. -Vela, theo cách tương tự, vì hạnh phúc của giáo viên và lo lắng về động lực của họ.

Một chất lượng giáo dục tốt đạt được khi các quy trình đáp ứng nhu cầu của cá nhân và xã hội nói chung. Điều này đạt được nếu các nguồn lực là đủ và cũng được sử dụng một cách thích hợp để giáo dục được công bằng và hiệu quả. Nếu một thiếu niên hoàn thành giáo dục trung học và không có kiến ​​thức cần thiết để theo đuổi thành công bằng đại học hoặc tham gia vào thị trường lao động, anh ta hoặc cô ta sẽ là nạn nhân của một hệ thống có chất lượng giáo dục kém. Ngược lại, nếu nhà trường chuẩn bị cho học sinh đối mặt với những thách thức của cuộc sống trưởng thành, chất lượng giáo dục sẽ đáng chú ý.

Dựa trên những điều trên, chúng ta phải chỉ ra rằng hai trong số các hệ thống có chất lượng giáo dục cao nhất thế giới là Phần Lan và Đan Mạch.

Khái Niệm Giáo Dục Thể Chất Là Gì

Giáo dục thể chất gọi tắt là thể dục, hiểu theo nghĩa rộng của thể dục.

Nếu phát triển thể chất tuân theo quy luật tự nhiên, chịu sự chi phối của xã hội, thì giáo dục thể chất chính là sự tác động vào quá trình phát triển tự nhiên đó.

Giáo dục thể chất là một bộ phận hợp thành của văn hoá thể chất, bao gồm ba lĩnh vực cơ bản của một quá trình sư phạm và một lĩnh vực đặc biệt:

– Chuẩn bị thể lực nghề nghiệp;

– Huấn luyện thể thao, bao gồm: huấn luyện cơ sỏ và thể thao nâng cao.

– Điều trị phục hồi thể lực hay còn gọi là thể dục chữa bệnh.

Điều trị phục hồi thể lực là một lĩnh vực đặc biệt của giáo dục thể chất nhằm phục hồi các chức năng bị mất đi bằng các bài tập thể lực. Nghiên cứu và giảng dạy các tri I thức thuộc lĩnh vực này là đối tượng của môn học Thể dục chữa bệnh.

Đặc điểm riêng của-giáo dục thể chất – một hiện I tượng xã hội, là một phương tiện phục vụ xã hội, chủ yếu nhằm nâng cao thể chất, tác động đến sự phát triển tinh thần của con người.

Người ta xem xét giáo dục thê chất từ hai góc độ: giáo dục học và thực tiễn.

Xét từ góc độ giáo dục hoe,0Ìáp duc thể chất là môt quá trình sư phạm nhằm truyền thụ và lĩnh hội những tri thức văn hoá thể chất của thế hệ trước qho thế hệ sau để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục thể chấ t.

Quá trình sư phạm là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, co phương pháp và phượng tiện nhằm phát triển các năng ĩực của con người để đáp ứng các yêu cầu của một xã hội nhất định.

Xét từ góc độ thực ti ễ n, giáo dục . thể chất là một quá trình giáo dục mà đặc trưng của nó thể hiện ở việc giảng dạy các động t á c, nhằm hoàn thiện về mặt hình thể và chức năng học c ủ a cơ thể người; hình thành, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận động và phát triển các tố c hất thi lực của cơ thể con người.

Quá trình giáo dục phải tuân theo các nguyên tắc giáo dục thể chất, thực hiện iíội dung giáo dục thể chất, sử dụng các phương tiện giáo dục thể chất, tiến hành bằng các phương pháp giáo dục thê chất dưới các hình 1 thức giáo dục thể chất.

Dưới tác dụng của quá trình giáo dục thể chất, cơ thể con người phát triển cân đối, khoẻ mạnh, được rèn I luyện, có khả năng chống lại những ảnh hưởng xấu của môi trường.

Theo nghĩa hẹp, giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là quá trình tổ chức hoạt động vận động cho trẻ.

Theo nghĩa rộng, giáo dục thể chất chọ trẻ mầm non là quá trình tác động nhiều mặt vào cơ thể trẻ, tổ chức cho trẻ vận động và sinh hoạt hợp lí nhằm làm cho cơ thể trẻ phát triển đều đặn, s ức khỏe được t ă ng cường, tạo cơ sở cho sự phát triển toàn diện.

Phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là tổ hợp các cách thức tổ chức quá trình giáo dục thể chất của giáo viên, trong đó giáo viên giữ vai trò chủ đạo, trẻ em giữ vai trò chủ động, tích cực nhằm tiếp thu những tri thức, hình thành năng lực vận động, thói quen sinh hoạt hợp lí để phát triển thể chất và tâm lí cho các em.