Khái Niệm Chất Của Hóa Học / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Khái Niệm Hóa Học Hữu Cơ, Hợp Chất Hữu Cơ

KHÁI NIỆM VỀ HỢP CHẤT HỮU CƠ VÀ HÓA HỌC HỮU CƠ

I/ Khái niệm về hợp chất hữu cơ

– Hợp chất hữu cơ là hợp chất của cacbon (trừ CO, CO 2, muối: cacbonat, cacbua, xianua…).

II/ Phân loại hợp chất hữu cơ.

1/ Hiđrocacbon: Phân tử chỉ chứa nguyên tử cacbon và hiđro.

– Hiđrocacbon no: Chỉ có liên kết đơn.

– Hiđro cacbon không no: chứa liên kết bội.

– Hiđro cacbon thơm: chứa vòng benzen.

Phân tử của nguyên tử nguyên tố khác thay thế nguyên tử hiđro của hiđrocacbon ( dẫn xuất halogen, ancol, phenol, ete, andehit, xeton, axit, este, amin, hợp chất tạp chất chức, polime…

II/ Khái niệm về hóa học hữu cơ

– Hóa học hữu cơ là nghành hóa học chuyên nguyên cứu các hợp chất hữu cơ.

Bài 1. Dựa vào dữ kiện nào trong số các dữ kiện sau đây để có thể nói một chất là vô cơ hay hữu cơ ?

a) Trạng thái (rắn, lỏng, khí);

c) Độ tan trong nước ;

d) Thành phần nguyên tố.

Bài 2. Chọn câu đúng trong các câu sau :

a) Hoá học hữu cơ là ngành hoá học chuyên nghiên cứu các hợp chất có trong tự nhiên.

b) Hoá học hữu cơ là ngành hoá học chuyên nghiên cứu các hợp chất của cacbon.

c) Hoá học hữu cơ là ngành hoá học chuyên nghiên cứu về các hợp chất hữu cơ.

d) Hoá học hữu cơ là ngành hoá học chuyên nghiên cứu các chất trong cd thể sống.

Hãy so sánh phần trăm khối lượng của cacbon trong các chất sau : CH 4, CH 3Cl, CH 2Cl 2, CHCl 3.

%C = (24 : 60) x 100% = 40%; %H = (4 : 60) x 100% = 6,67%;

%O = 100% – 40% – 6,67% = 53,33%.

Văn Hóa Kinh Doanh: 11. Khái Niệm Và Bản Chất Của Văn Hóa

1. Khái niệm văn hóa

Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển, trước tiên phải có một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của nó. Trên thực tế, cũng đã có rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Điều đó, theo tôi, có những nguyên nhân sau đây:

Trước hết, trong số những người nghiên cứu văn hóa, hoặc, như người ta thường gọi, những nhà văn hóa, ngoài những định kiến và những hạn chế có tính chất lịch sử, rất nhiều người bị mắc những bệnh nghề nghiệp. Họ thường qui văn hóa vào những lĩnh vực hạn hẹp cụ thể, thường bói văn hóa, cũng như bói cuộc sống nói chung, theo kiểu thầy bói xem voi, bằng cách xem xét những bộ phận cá biệt của nó chứ chưa có một cách tiếp cận tổng thể.

Thứ hai, văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó khái niệm văn hóa cũng đa nghĩa. Khi đề cập đến nó mỗi người có một cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận của họ là điều dễ hiểu.

Thứ ba, giống như tất cả các ngành khoa học xã hội khác, ngành văn hóa học có lịch sử phát sinh và phát triển lâu dài trong lịch sử loài người. Trong quá trình lịch sử đó nội dung của khái niệm văn hóa cũng thay đổi theo.

Tôi cho rằng văn hóa, nói một cách giản dị, là những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua mỗi một chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với mình và với những dân tộc khác, cái còn lại được gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hóa.

Ở đây, tôi gần gũi với cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor khi ông đưa ra một định nghĩa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng địinh bản sắc riêng của mình”.

Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng nếu xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt. Trong thực tế, không có sự giống nhau tuyệt đối.

Gần đây, có ý kiến cho rằng trên thế giới đang diễn ra hiện tượng xâm lược về văn hóa như là sự tiếp tục của những cuộc xâm lược bằng súng đạn và kinh tế. Tôi không đồng ý như vậy. Bởi văn hóa là hoà bình, văn hóa là không xâm lược. Cảm giác bị xâm lược, nếu có, chẳng qua là cái cảm giác và sĩ diện của kẻ yếu. Chúng ta đang sống trong một thế giới duy nhất và cũng có thể nói là thống nhất. Chúng ta phải bắt đầu từ mô hình kinh tế mà Alvin Tofler từng mô tả bằng hình ảnh “con tàu vũ trụ”. Trái đất là một kho chứa hữu hạn các nguồn năng lượng sống và toàn cầu hóa là một quá trình để tiết kiệm nguồn năng lượng ấy bằng cách đảm bảo không sản xuất thừa, không sử đụng nguyên liệu một cách bừa bãi trên phạm vi toàn cầu. Nhưng cùng với quá trình hội nhập về mặt kinh tế còn có một quá trình khác luôn luôn tồn tại bên cạnh, và thậm chí đã đi trước, đó là sự hội nhập về mặt văn hóa. Sự hội nhập về mặt văn hóa chính là quá trình con người đi tìm ngôn ngữ chung cho một cuộc sống chung. Quan niệm về sự xâm lược văn hóa là quan niệm của những cộng đồng người chỉ có kinh nghiệm hình thành trong quan hệ phát triển lưỡng cực, những kinh nghiệm chiến tranh, nhất là chiến tranh lạnh. Văn hóa không phải là ý thức của tôi, của anh hay của bất kỳ ai, mà thuộc về con người một cách tự nhiên. Con người khi sống chung với nhau sẽ gây ảnh hưởng lẫn nhau. Đến phương Tây ta sẽ nhìn thấy rằng trong ngôi nhà nào của người Mỹ, người Anh, người Pháp…cũng có một vài vật dụng gì đó, một vài thứ souvenirs gì đó từ phương Đông. Đôi khi trong xã hội phương Tây người ta có xu hướng xem sự hiện hữu của một vài kỷ vật, một vài đồ trang trí từ phương Đông như là dấu hiệu của tầng lớp thượng lưu hoặc văn minh. Đó là sự đan xen lẫn nhau của cuộc sống, đấy là sự chung sống hoà bình của quá khứ, và đấy cũng chính là cơ sở văn hóa của sự chung sống hoà bình trong tương lai.

2. Văn hóa và văn minh

Hai khái niệm rất hay bị đồng nhất này tuy rất gần gũi nhưng thực ra không phải là một và chỉ có thể coi như đồng nghĩa trong một vài trường hợp cụ thể, chẳng hạn khi người ta đối lập văn minh với bạo tàn.

Thông thường, văn minh được dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của nhân loại đến một thời kỳ lịch sử nào đó. Một số nhà nghiên cứu, chẳng hạn Alvin Tomer, sử dụng chúng để phân chia lịch sử thành văn minh tiền nông nghiệp, văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Có quan điểm lại cho rằng văn minh là một khái niệm rộng hơn văn hóa, rằng văn minh là sự tổng hoà của văn hóa và xã hội, là sự thể hiện được những hình thức thực tiễn cụ thể của văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống như lao động sản xuất, lối sống, hành vi ứng xử…

Trong thực tế, chúng ta thấy có những tộc người chưa có văn minh vẫn có văn hóa của mình. Đôi khi trên sách báo, chúng ta gặp những nhận xét, đánh giá độ cao thấp của các nền văn minh, trong khi đó lại có những người cho rằng các nền văn hóa thực ra là như nhau, rằng việc chúng ta đánh giá cái này cao hơn, cái kia mạnh hơn là do cách nhìn của chúng ta, còn các nền văn minh, những nền văn hóa ở Aztec chẳng hạn, từ cách đây mấy nghìn năm cũng không kém gì nền văn minh ở phương Tây hiện nay…

Tôi nghĩ rằng, tất cả những nhà nghiên cứu về văn hóa đang lấy cái mẫu của thời xưa, khi chỉ cần sự ngăn cách về địa lý là đủ để ngăn cách các cộng đồng người. Nhân loại hiện đại, bằng các phương tiện của mình, không còn bị giam hãm bởi các khái niệm khu trú như vậy. Nếu như các nhà nghiên cứu văn hóa của thế kỷ XXII mà vẫn lấy hình mẫu của thế kỷ XX để noi theo thì chắc chắn cũng vẫn đi đến những kết luận khác với những kết luận của những nhà nghiên cứu văn hóa của thế kỷ XX.

Chúng ta phải phân biệt nghiên cứu về văn hóa như một quá trình vận động, như một yếu tố xã hội, với nghiên cứu lịch sử văn hóa, nghĩa là xem xét nó như một phiên bản tĩnh. Chúng ta cũng không nên phê phán những người lấy sự phát hiện và phân biệt những khía cạnh khác nhau của các nền văn minh làm mục đích nghiên cứu. Bởi vì họ nghiên cứu lịch sử văn hóa chứ không phải nghiên cứu văn hóa. Văn hóa đang và sẽ còn bớt đần sự cát cứ, còn nghiên cứu lịch sử văn hóa thì không bao giờ có sự cát cứ như vậy. Nói như vậy không có nghĩa là không có sự khác nhau về ảnh hưởng. Một cộng đồng lớn sẽ có khả năng tạo ra một vùng ảnh hưởng lớn hơn, đa dạng hơn, bởi càng đông thì tính đa dạng càng lớn. Tính đa dạng về mặt tính cách của con người sẽ tạo ra tính đa dạng về mặt đời sống văn hóa. Sự lan toả của một cộng đồng lớn sẽ mạnh hơn.

Tuy vậy, khi nghiên cứu văn hóa không nên đặt mục tiêu là xác định nó lớn hay bé, mà nên xem nó có độc đáo hay không, có lạ lẫm hay không, có những sáng tạo gì, có đóng góp gì và đặc biệt là nó có đóng góp gì cho văn hóa chung của nhân loại. Tôi nghĩ rằng nghiên cứu như thế mới giúp ta tìm ra được giá trị thật của văn hóa.

Tính Chất Hóa Học Của Axit

TÍNH CHẤT HÓA HỌC CỦA AXIT

Axit có những tính chất hóa học làm đổi màu giấy quì tím, tác dụng với kim loại, với bazơ, oxit

Axit là những hợp chất có một hay nhiều nguyên tử hidro liên kết với gốc axit.

+ HCl: Axit clohidric

– Axit có 5 tính chất hóa học đặc trưng:

+ Làm đổi màu quì tím

+ Tác dụng với kim loại

+ Tác dụng với bazơ

+ Tác dụng với oxit bazơ

+ Tác dụng với muối

II. Tính chất hóa học của axit:

1. Axit làm đổi màu giấy quì tím:

– Ở điều kiện bình thường, giấy quỳ tím là giấy có màu tím, tuy nhiên màu của nó thay đổi khi cho vào các môi trường (axit, bazơ) khác nhau. Trong môi trường axit giấy quỳ tím chuyển sang màu đỏ, trong môi trường kiềm giấy quỳ tím chuyển sang màu xanh.

– Do đó dung dịch axit làm đổi màu giấy quỳ tím thành đỏ

– Dựa vào tính chất này, giấy quì tím được dùng để nhận biết dung dịch axit.

2. Axit tác dụng với kim loại:

Axit: thường dùng là HCl, H2SO4 loãng (nếu là H2SO4 đặc thì không giải phóng H2)

Kim loại: Đứng trước H trong dãy hoạt động hóa học của kim loại

K … Na chúng tôi ….Mg chúng tôi …Zn … Fe … Ni… Sn … Pb … H … Cu … Hg… Ag… Pt…. Au

Khi … nào ..cần…may… áo… Záp …sắt. ..nên…sang… phố … hỏi.. cửa …hàng… á.. phi…. âu

– Chú ý: Sắt khi tác dụng với HCl, H 2SO 4 loãng tạo muối sắt (II) chứ không tạo muối sắt (III)

– Điều kiện: Tất cả các axit đều tác dụng với bazơ. Phản ứng xảy ra mãnh liệt và được gọi là phản ứng trung hòa

– Điều liện: Tất cả các axit đều tác dụng với oxit bazơ.

– Nguyên tắc: Muối (tan) + Axit (mạnh) → Muối mới (tan hoặc không tan) + Axit mới (yếu hoặc dễ bay hơi hoặc mạnh).

Muối tham gia tan, Axit mạnh, muối tạo thành không tan trong axit sinh ra

Chất tạo thành có ít nhất 1 kết tủa hoặc một khí bay hơi

Sau phản ứng, nếu muối mới là muối tan thì axit mới phải yếu, nếu muối mới là muối không tan thì axit mới phải là axit mạnh

Khái Niệm “Tiến Hóa” Trong Triết Học

Lịch sử, sinh học, triết học và khoa học khác là luôn luôn gần kề. Nó không phải là đáng ngạc nhiên rằng một số khái niệm có thể được hiểu theo nhiều cách. Khái niệm “tiến hóa” vẫn là một lời giải thích rất mơ hồ. Nhiều nhà khoa học đang cố gắng tìm một giải thích tốt về thuật ngữ này.

Tình trạng chung của các vấn đề

Khi chúng ta nghe “tiến hóa”, chúng tôi ngay lập tức xuất hiện để Darwin với các lý thuyết và các giải pháp của mình. Trong thực tế thuật ngữ có một lịch sử lâu dài và được phân tích trong nhiều thế kỷ liên tiếp. Nó thường được sử dụng các vấn đề phát triển con người theo nghĩa hẹp và hoàn toàn quên đi những khu vực rộng khác.

Sự tiến hóa cũng nhiều lần nhắc đến cùng với cách mạng và suy thoái. Một khái niệm này là một sự tiếp nối tích cực của người đầu tiên. Thứ hai nó chỉ ra điều ngược lại. Dù bằng cách nào, khái niệm “tiến hóa” có một đặc điểm chung, mà chúng tôi sẽ cố gắng để tìm thấy nó.

sự giải thích

Điều quan trọng là phải hiểu rằng việc giải thích của từ không thay đổi cho dù chúng ta sẽ thu hẹp hoặc mở rộng thuật ngữ. Dù bằng cách nào, định nghĩa của khái niệm nằm trong sự tiến hóa của “phát triển” từ. Và từ đó, cho dù đó là sự phát triển của cá nhân, hoặc lịch sử của thế giới, ý nghĩa không thay đổi. Vì vậy, nó chỉ ra rằng nội dung được giữ vĩnh viễn trong tất cả các trường hợp trên. Nó chỉ còn lại để tìm ra những đặc điểm chung.

điều kiện của sự tồn tại

Các điều kiện sau đây – những tính năng phân biệt. Thay đổi không phải lúc nào tích cực. Nhưng ở đây về việc giải thích sự tiến hóa là khác nhau ở chỗ trong quá trình chuyển đổi sang một trạng thái hoàn hảo hơn. Đó là, một cái gì đó đang thay đổi và trở nên phức tạp hơn, có giá trị và ý nghĩa. Và nó không quan trọng, thay đổi định tính hoặc định lượng.

Các điều kiện sau đây cho sự hiệp nhất của đề tài này. Trong trường hợp này, bách khoa Britannica thứ mười đưa ra một ví dụ với nước. Nếu thay đổi nước phát sinh, và nó được chia thành các thành phần, kết quả là: làm thế nào nước chính nó, và oxy và hydro có thể tồn tại một cách độc lập. Điều này có nghĩa rằng bất kỳ sự phát triển trong thời gian dài đã không xảy ra. Trong trường hợp này, khái niệm “tiến hóa” là không thích hợp. Nó có thể được áp dụng chỉ khi nhà nước mới có thể thay thế trước đó, có nghĩa là, sự phát triển đã xảy ra.

phân công

Thuật ngữ này từ lâu đã cố gắng để áp dụng đối với các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Và nếu nó hợp lý có thể được giải thích trong mối quan hệ với các sinh vật sống, ở đây trong lịch sử có nghi ngờ. Chúng ta có thể dễ dàng khẳng định sự phát triển của vật lý. Nhưng đó là về sự phát triển tinh thần bắt đầu ngay lập tức dấy lên câu hỏi. phát triển tâm thần có vẻ như rõ ràng, mặc dù bị đàn áp, thậm chí mức giảm tuyệt đối và sự tàn phá của toàn bộ các thời kỳ văn hóa.

Tuy nhiên, nguyên nhân chính do đó khái niệm cơ bản của quá trình tiến hóa đã xuất hiện trong triết học và chuyển từ thế giới sống, đã trở thành nhu cầu để phân tích nó như một toàn thể. Tất nhiên, cũng có thể là một mong muốn loại bỏ tất cả các biên giới hiện hữu giữa chết và sống vật chất và tinh thần. Nó sẽ xuất hiện những người sẽ đại diện cho sự xuất hiện của sự sống từ vấn đề chết và theo thứ tự ngược lại.

nguyên nhân khác

Vai trò quan trọng và không gian nghệ thuật từ geologizmom. Spencer dẫn họ theo chương trình phát triển và những ý tưởng tiếp tục các nhà khoa học đầu về tác động của quá trình tiến hóa hữu cơ cho bất kỳ khác.

Các nhà nghiên cứu nhìn thấy bản chất của nó trong sự luân hồi trong một không đồng nhất đồng nhất, và lý do cho quá trình này là bất kỳ lực lượng có thể tạo ra một vài thay đổi, cũng như bất kỳ lý do gì tạo ra một số hành vi phạm tội. Tất nhiên, một chương trình như vậy có thể dễ dàng thể hiện một trong những điều kiện cho sự hiệp nhất của sự tiến hóa.

Chạm vào trong triết học

Do đó, nó trở nên rõ ràng rằng sự tiến hóa được liên kết trực tiếp với lịch sử. Nó có tất cả sự hoàn hảo cùng và thiếu thốn. Nhưng đó là chính xác những gì đã dẫn đến kết luận rằng thuyết tiến hóa chỉ áp dụng cho sự ra đời của các hiện tượng và bản chất của họ trong bất kỳ cách nào. Vì vậy, ông cần phải được giải thích bởi triết lý và bổ sung từ những quan điểm triết học khác nhau.

Ưu điểm và nhược điểm

Khái niệm về quá trình tiến hóa đã được giải thích triết lý từ quan điểm riêng của mình xem. Tất nhiên, nó không thể đoàn kết hợp với lý thuyết nhị nguyên, như nó đã xa chủ nghĩa chủ quan và thuyết duy ngã. Nhưng thuyết tiến hóa đã trở thành một nền tảng vững chắc cho một triết lý thuyết nhất nguyên. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế rằng có hai hình thức nhứt nguyên luận. Một – các vật chất, thứ hai – lý tưởng. Đại diện của các hình thức đầu tiên là Spencer, thứ hai cố gắng bày tỏ Hegel. Cả hai đều không lý tưởng, nhưng, dù sao, cảm thấy tự do để hỗ trợ các khái niệm về quá trình tiến hóa.

lý thuyết mầm

Như đã đề cập trước đó, khi chúng ta nghe từ “tiến hóa” ngay lập tức nói đến cái tâm Darwin. Vì vậy, khái niệm về thuyết tiến hóa được sinh ra từ lâu trước khi Darwin. Suy nghĩ đầu tiên là ở Hy Lạp – xem transformistskie để phán. Anaximander và Empedocles hiện nay được coi là những người tiên phong của lý thuyết riêng của mình. Mặc dù đủ căn cứ để không chấp thuận như vậy.

Trong thời Trung cổ thật khó để tìm thấy một nền tảng cho sự phát triển của lý thuyết này. Quan tâm đến việc nghiên cứu tất cả các sinh vật sống là không đáng kể. Hệ thống thần học của chính phủ là không thuận lợi cho sự phát triển của lý thuyết tiến hóa. Tại thời điểm này mọi nỗ lực để hiểu câu hỏi này, Augustine và Erigena.

Một nơi nào đó gần đó “đi” Bacon và Descartes. Đầu tiên nói về transformism, để thay đổi các loài thực vật và động vật, nhưng suy nghĩ của mình là hoàn toàn không có sự tiến hóa. Descartes, Spinoza duy trì đại diện của ông về thế giới như chất.

Phát triển của sự tiến hóa này được sau Kant. Các nhà triết học rất giống nhau cũng bày tỏ những suy nghĩ sống động về phát triển. Trong công việc của mình nhiều hơn một lần tôi đề cập đến lý thuyết về sự tiến hóa, nhưng triết lý của ông là do hơn đối với sự co hồi. Tuy nhiên, Kant epigenezisu thông cảm.

Nhưng lý thuyết hơn nữa đã nhận được lời giải thích khá rõ rệt và biện minh đầy đủ. Fichte, Schelling và Hegel bắt đầu phát triển những ý tưởng của Kant. quá trình tiến hóa của họ được gọi là triết học tự nhiên. Hegel và tất cả đã cố gắng để áp dụng nó vào thế giới tâm linh và lịch sử.

người

Sớm hay muộn thế giới phải biết những gì diễn biến của con người. Khái niệm này được hiện nay được mô tả bằng thuật ngữ “anthropogenesis”. Vì các lý thuyết của ông có một ý tưởng về đâu, tại sao và khi người đàn ông xuất hiện. Các chính ba ý kiến: sáng tạo và thuyết tiến hóa cosmism.

thực tế

Nếu tất cả chúng ta nói về nhân chủng học như một khoa học, nhiều nhà nghiên cứu giữ nó lý thuyết tiến hóa. Cô là con người thật nhất, hơn nữa xác nhận bởi những phát hiện khảo cổ học và sinh học. Tại thời điểm này, quá trình tiến hóa sinh học này chỉ ra một vài giai đoạn của phát triển con người :

Australopithecus.

Homo habilis.

Homo erectus.

Các Homo sapiens cổ xưa nhất.

Neanderthal.

Homo sapiens mới.

Australopithecus hiện được coi là gần gũi nhất đầu tiên đến cách con người của sự sống. Mặc dù bề ngoài anh ta giống như một con khỉ hơn là một con người. Quê hương của khoảng 4-1.000.000 năm trước đây trong khu vực châu Phi.

Homo habilis là lần đầu tiên của loại hình của chúng tôi. Chúng tôi đặt tên nó là như vậy bởi vì nó có thể tạo ra các công cụ đầu tiên của lao động và chiến đấu. Có lẽ ông có thể nói chuyện. Homo erectus chiếm không chỉ châu Phi, mà còn Eurasia. Ngoài những vũ khí, làm cho lửa. Ngoài ra còn có một khả năng rằng ông có thể nói chuyện. Lâu đời nhất Homo sapiens là một giai đoạn chuyển tiếp. Do đó, đôi khi mất tích từ các mô tả về các giai đoạn anthropogenesis.

người Neanderthal từng được coi là một tổ tiên trực tiếp của con người, nhưng sau đó quyết định rằng ông là một nhánh cụt của sự tiến hóa. Được biết, nó đã được khá một quốc gia phát triển có nền văn hóa riêng, nghệ thuật, và thậm chí đạo đức của nó.

xã hội

Người ta nói rằng khái niệm “tiến hóa xã hội” Darwin đã xuất hiện trước đó. Nó đặt nền móng của Spencer. Ý tưởng chính là xã hội bất kỳ bắt đầu cách từ trạng thái nguyên thủy và dần dần đi vào nền văn minh phương Tây. Các vấn đề của những ý tưởng này đã được thực tế rằng chỉ có một vài nghiên cứu về xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển của họ.

Nỗ lực hợp lý và phù hợp nhất để phân tích và biện minh cho sự phát triển xã hội thuộc về Parsons. Ông đã tiến hành nghiên cứu trên quy mô của lý thuyết lịch sử thế giới. Bây giờ có một số lượng lớn các nhà khảo cổ học và nhân chủng học người dành nhiều nguồn lực của mình để nghiên cứu về thuyết tiến hóa đa tuyến, sociobiology, nâng cấp và vân vân. D.

hệ thống

Phát biểu của xã hội, không thể bỏ qua khía cạnh này. Sự phát triển của các khái niệm về hệ thống trong một thời gian dài đã đến đỉnh điểm. Phải mất hơn nửa thế kỷ, khi tất cả các loại giả thuyết đã được chấp nhận bởi cộng đồng khoa học. Tuy nhiên, vấn đề chính là thiếu cách tiếp cận chung cho tất cả nghiên cứu hệ thống cho đến ngày nay.

khoa học

Khoa học cũng vẫn không có một khái niệm thuật ngữ duy nhất. Trong một thời gian dài sự phát triển của “khoa học” của thuật ngữ không thể tìm thấy chính mình. Có lẽ sự xuất hiện của cuốn sách P. P. Gaydenko “Sự phát triển của khái niệm của khoa học” là không đáng ngạc nhiên. Trong bài báo này tác giả cho thấy không chỉ sự phát triển của các thuật ngữ trong thế kỷ 17-18, mà còn để sự hiểu biết về phương pháp và cách biện minh kiến thức của mình, và để tiếp tục sự hình thành khái niệm.

khái niệm

tiến hóa thường được nhớ đến trong chủ nghĩa Mác. Cùng với cuộc cách mạng, thuật ngữ này được sử dụng để mô tả hai bên và phát triển khác nhau. Này, tình cờ, là một ảnh hưởng trên triết lý của khái niệm này. Sự phát triển trong kế hoạch này là một sự thay đổi trong con người và ý thức. Nó có thể là cả hai chuyển đổi định lượng và định tính. Và nếu tiến hóa – một sự thay đổi dần dần, cuộc cách mạng được coi là một, hồng y, chuyển đổi chất lượng cao sắc nét.