Khái Niệm An Ninh Con Người / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Con Người Là Gì ? Khái Niệm Con Người ?

Cho đến ngày nay thì con người vẫn còn là một bí mật. Không ai có thể định nghĩa đúng đắn được con người, không ai hiểu được con người.

Con người nghiên cứu được tất cả những gì xung quanh mình, ở dưới đất và cả trên trời, nhưng lại không tìm được mục đích tồn tại của mình. Càng nghiên cứu sâu vào bên trong, c on người càng đặt ra nhiều câu hỏi. Con người đã sáng chế ra nhiều thứ để mang lại hạnh phúc cho loài người, nhưng không có gì làm con người thỏa mãn thực sự.

Những người theo thuyết duy vật thì cho rằng con người chỉ là một con vật, một vật nhỏ bé trong một tổng thể to lớn đang vận hành, tức là thiên nhiên, hoàn toàn vô thức và phi nhân cách. Toàn bộ đời sống con người có thể giải thích bằng biến hóa của vật chất. Một hệ thống tư tưởng như thế khẳng định rằng hành động con người bị điều kiện hóa; trí tuệ con người cũng chỉ là sản phẩm của bộ não.

Toàn bộ cơ cấu chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới lệ thuộc phần lớn vào câu trả lời cho câu hỏi này. Thật vậy, con người là con tốt trên bàn cờ hay là một nhân vị? Một bánh xe trong cỗ máy hay một hữu thể tự do, có khả năng sáng tạo và chịu trách nhiệm về các hành vi của mình? Câu hỏi này cũng xưa như con người và cũng mới như tờ báo sáng nay. Ðặt câu hỏi thì hầu như mọi người đều nhất trí; còn trả lời câu hỏi thì gây nhiều tranh luận.

Những quan niệm con người như thế thường có thái độ bi quan. Họ đồng quan điểm với một tác giả thời nay cho rằng con người chỉ là một tai nạn xảy ra trong vũ trụ, một căn bệnh khó chữa trị trên mặt đất, hoặc với Jonathan Swift khi ông viết: “Con người là loài sâu bọ tác hại nhất chưa từng có trước nay mà thiên nhiên để cho sinh sản và tràn lan khắp địa cầu“.

Thuyết nhân bản vô thần cũng thường được xem là một câu trả lời khác cho câu hỏi “Con người là gì?“. Không tin vào Thiên Chúa cũng như vào sự hiện hữu của một sức mạnh siêu nhiên, thuyết nhân bản vô thần cho rằng con người là một hình thái hiện hữu cao nhất mà vũ trụ tự nhiên có thể làm thành. Thay vì bi quan, những kẻ theo thuyết này lại tỏ ra lạc quan – một sự lạc quan tột độ, đắc thắng như Shakespeare mô tả trong vở kịch Hamlet:

“Con người đích thực là một tuyệt tác: với lý trí trổi vượt và các khả năng vô tận, với dáng điệu duyên dáng như thiên thần và trí tuệ minh mẫn như thần minh. Con người là tinh hoa của vũ trụ, trổi vượt muôn loài muôn vật, về mọi phương diện“.

Con người là gì ? Khái niệm con người ?

Khái Niệm Nhân Tố Con Người, Chiến Lược Con Người

Nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người là sự phát triển sáng tạo quan điểm Mác – Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý thức, là chủ thể của lịch sử.

Trong thời igan gần đây, xuất hiện nhiều khái niệm: nhân tố con người, nguồn nhân lực, nguồn lực con người, phát triển người… Khái niệm nhân tố con người đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập với những góc độ khác nhau, cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả đề cập dưới góc độ quản lý, có tác giả đề cập dưới góc độ phân tích tâm lý – xã hội. Trong tài liệu triết học – xã hội về nhân tố con người cũng nổi lên nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tựu trung lại, có hai cách tiếp cận chính:

– Thứ nhất, coi nhân tố con người như là hoạt động của những con người riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng như tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định.

– Thứ hai, coi nhân tố con người như là một tổng hoà các phẩm chất thuộc tính, đặc trưng, năng lực đa dạng của con người, biểu hiện trong các dạng thức hoạt động khác nhau.

Như vậy, cái chung trong các quan niệm này là coi nhân tố con người về bản chất là nhân tố xã hội, quy định vai trò chủ thể của con người. Nhưng sự khác nhau là quan niệm thứ nhất lấy hoạt động làm đặc trưng cơ bản, còn phẩm chất, năng lực được thể hiện trong hoạt động. Quan niệm thứ hai, lấy đặc trưng cơ bản là những phẩm chất năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện nó.

Từ đây, có thể đưa ra một quan niệm chung đầy đủ hơn về nhân tố con người là: nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.

Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố “người” với các yếu tố

An Ninh Con Người Trong Mối Quan Hệ Với An Ninh Quốc Gia, Phát Triển Con Người Và Quyền Con Người

Trên thực tế, hoạt động bảo đảm an ninh con người, nếu được tổ chức và định hướng chính sách rõ ràng thì không những không thách thức vai trò của nhà nước, mà trái lại, có thể bổ khuyết cho vai trò đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của nhà nước, các hoạt động bảo đảm an ninh con người của các cộng đồng dân cư, đoàn thể và cá nhân có thể phối hợp với chính quyền để cùng xử lý hiệu quả các mối đe dọa đối với cuộc sống của con người. Vấn đề là ở chỗ, ở nhiều nước trên thế giới trong một thời gian dài, nhà nước đã luôn là người đảm bảo an ninh duy nhất và cuối cùng cho mọi người, và ngược lại, mọi người đã quá quen thuộc với việc tự nguyện trao an ninh, an toàn của mình, gia đình và cộng đồng vào tay nhà nước. Do có định hướng chính sách rõ ràng nên các học giả và tổ chức an ninh con người thường có xu hướng hợp tác chặt chẽ với các tổ chức chính phủ trên thế giới để cùng tìm kiếm các giải pháp phối hợp, lồng ghép nỗ lực của các chính phủ và các tổ chức dân sự nhằm xử lý hiệu quả và đầy đủ hơn các mối đe dọa an ninh. Chính bà Sadako Ogata cũng từng tuyên bố: an ninh con người là về hành động thực tiễn – tức là giúp đỡ người dân – chứ không phải là lý thuyết hóa. Mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh quốc gia ngày càng thể hiện rõ ràng hơn. Lý do đầu tiên là vì các tổ chức hiện tại của LHQ đang thực thi một cơ chế đảm bảo an ninh con người dựa vào các giả định về an ninh quốc gia (Ogata, 2001:4). Thứ hai là sự phối hợp với các lực lượng an ninh nhà nước lại rất cần thiết đối với an ninh con người ở cấp quốc gia. Lý do thứ ba là các quốc gia thường xuyên đầu tư nguồn lực đáng kể trong dự đoán các mối đe dọa an ninh, bao gồm an ninh con người và an ninh quốc gia. Các báo cáo năm 2001 của Ủy ban Hart-Rudman về An ninh quốc gia Mỹ không chỉ chủ trương đầu tư vào giáo dục như một phần của chiến lược an ninh quốc gia, mà còn liên hệ tới sự thịnh vượng của những người sống ngoài lãnh thổ nước Mỹ như là sự giàu có về vật chất và xóa đói giảm nghèo. Thúc đẩy chủ nghĩa đa nguyên chính trị, tự do tư tưởng, ngôn luận và tự do cá nhân, đảm bảo an ninh con người không chỉ là các mục tiêu vốn có trong nguyên tắc của Mỹ, nó còn là những mục tiêu thực tế nhằm đảm bảo chống lại bạo lực và tội ác trên thế giới, đảm bảo an ninh quốc gia (Sabina Alkire, 2003). Việc mở rộng các quyền con người và điều kiện vật chất cơ bản sẽ tạo thành một bức tường thành vững chắc chống lại bạo lực và tội ác (United States Commission on National Security 21 st Century, 2001:5).

2. Mối quan hệ giữa an ninh con người và phát triển con người

An ninh con người không tách rời, mà gắn liền với phát triển con người. Hai khái niệm này có cùng cách tiếp cận – lấy con người làm trung tâm, cá nhân con người làm đối tượng quy chiếu, cùng lấy con người làm mục tiêu (chứ không phải phương tiện), đều có tính chất đa chiều cạnh và bổ sung cho nhau. An ninh và phát triển đều có nhiều cấp độ tùy thuộc vào chủ thể xã hội: quốc tế hay toàn cầu, quốc gia, cộng đồng, cá nhân. Tính chất đa chiều của an ninh và phát triển được quyết định bởi tính chất đa chiều cạnh của bản thân các chủ thể xã hội đó.

An ninh con người là điều kiện cần, là nền móng, bộ khung cho sự phát triển con người, còn phát triển con người lại góp phần đảm bảo, củng cố nền móng an ninh con người; mất an ninh con người tất yếu sẽ hủy hoại sự phát triển con người, còn không có sự phát triển con người tất yếu sẽ dẫn đến mất an ninh con người. Theo Astri Suhrke (1999), điểm then chốt nhất trong mối quan hệ giữa hai lý luận an ninh con người và phát triển con người nằm ở chỗ phát triển con người là lý luận rộng hơn và được xác định như quá trình không ngừng mở rộng các lựa chọn của con người, trong khi an ninh con người hàm ý rằng người dân có thể thực hiện được những lựa chọn đó một cách an toàn và tự do. Nói cách khác, an ninh con người có ý nghĩa sống còn đối với phát triển con người vì nếu không có sự ổn định và an ninh tối thiểu trong cuộc sống hàng ngày thì không thể có sự phát triển của con người. Những rủi ro, đe dọa an ninh con người làm sụt giảm năng lực của con người, hạn chế khả năng lựa chọn, xói mòn nền tảng phát triển con người. Hơn thế nữa, bản thân kết cấu an ninh con người phải thay đổi tùy thuộc vào mức độ phát triển con người, cũng như từng mức độ phát triển con người muốn duy trì tính bền vững đều phải dựa trên một kết cấu an ninh con người phù hợp tương ứng. Những bước tiến trong phát triển con người, sự phát triển dài hạn cải thiện cuộc sống về kinh tế, xã hội, thường góp phần trực tiếp hay tạo điều kiện gián tiếp củng cố an ninh con người và ngược lại, việc đảm bảo an ninh con người tốt hơn cũng tạo điều kiện để phát triển con người an toàn và bền vững hơn. Vì thế, không có sự tách biệt giữa phát triển và an ninh con người theo cả nghĩa trạng thái lẫn quá trình. Chính vì thế, hai khái niệm này được xem như bổ sung cho nhau. Các chiều cạnh của an ninh con người, vì thế, cũng gần như tương đồng với các chiều cạnh phát triển con người như đói nghèo, bệnh tật, phúc lợi. Có thể nói, việc sử dụng khái niệm an ninh con người đã bổ sung một chiều cạnh mới cho khái niệm phát triển con người – chiều cạnh đảm bảo sự bền vững, an toàn cho sự phát triển. An ninh con người mang đặc trưng bao trùm (inclusiveness), hàm ý rằng không một ai, cho dù ở đâu và địa vị như thế nào, đều không bị loại trừ khỏi môi trường an ninh chung. Khái niệm an ninh ở đây không còn mang tính thống kê, theo quy luật số lớn, tức là an ninh cho đa số, mà là an ninh cho từng cá thể con người và do đó cho tất cả mọi người. Cái đánh đổi ở đây là tất cả mọi người cho đến từng cộng đồng, từng cá nhân, không chỉ trông chờ vào sự bảo vệ của chính quyền mà đều có trách nhiệm và quyền hạn tham gia bảo đảm an ninh cho chính mình và cho mọi người. An ninh con người hướng mạnh đến bốn cụm (clusters) nội dung: đánh giá rủi ro, ngăn chặn nguy cơ, bảo vệ và đền bù thiệt hại.

Khái niệm an ninh con người chấn chỉnh một cách hiểu phiến diện về phát triển con người, rằng chỉ cần theo đuổi việc mở rộng các khả năng lựa chọn, tăng cường năng lực và trao quyền cho mỗi cá nhân là đủ để phát triển. Trên thực tế, khái niệm phát triển con người mới chỉ đề cập tới khía cạnh tiềm năng phát triển, tức là những điều kiện cần để mỗi cá nhân có thể phát triển, mặc định rằng chỉ cần có đủ những điều kiện đó thì mỗi cá nhân hoàn toàn có thể tối ưu hóa những nhu cầu, mong ước, cũng như giá trị cuộc sống của mình. Xuất phát từ cách tiếp cận tân tự do, khái niệm này không đề cập tường minh về mục tiêu của sự phát triển, cái đích mà các cá nhân hướng tới. Điểm hết sức quan trọng mà lý thuyết phát triển con người đã bỏ qua là sự phát triển của mỗi con người không diễn ra một cách tuyến tính theo một đường dốc đi lên, hơn thế nữa cùng với sự phát triển những nguy cơ, thách thức, rủi ro, đe dọa cũ có thể giảm đi, mức độ nguy hiểm không còn như trước, thậm chí triệt tiêu hẳn, nhưng đồng thời lại có thể nảy sinh những nguy cơ, thách thức, rủi ro, đe dọa hoàn toàn mới chưa từng gặp phải trước đó. Điều này có nghĩa cấu trúc các mối nguy cơ, đe dọa đối với an ninh con người không cố định, mà thay đổi theo chính quá trình phát triển của con người. Không tính đến những biến đổi này sẽ dẫn đến kết luận sai lầm rằng vấn đề an ninh con người là bất biến.

Chúng ta đều biết, vấn đề ô nhiễm môi trường, quá tải đô thị, tai nạn giao thông, giảm tỉ lệ sinh, già hóa dân số, biến đổi kết cấu gia đình, phá vỡ các kết cấu xã hội truyền thống, tình trạng stress do quá căng thẳng thần kinh, những biến đổi tâm, sinh lý sâu sắc,… là những hiện tượng thường đi kèm theo chiều hướng gia tăng cùng với trình độ phát triển, trong khi tình trạng đói nghèo, mất an ninh lương thực, mất vệ sinh nguồn nước, các bệnh dịch thông thường, bùng nổ dân số,… lại có xu hướng giảm đi. Rộng hơn nữa, sự phát triển bùng nổ trong điều kiện toàn cầu hóa kích hoạt hàng loạt nguy cơ an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, các dịch bệnh mới đặc biệt nguy hiểm, xung đột tôn giáo, sắc tộc,… Bên cạnh đó, những xu hướng hệ quả của toàn cầu hóa như bất bình đẳng về kinh tế, tình trạng xói mòn, mai một các giá trị văn hóa truyền thống, phân tầng và phân hóa xã hội thành rất nhiều tầng lớp hay nhóm xã hội,…góp phần phá vỡ các cộng đồng cũ, gạt các nhóm hay cộng đồng yếu thế ra bên lề (maginalization). Theo Elmar Altvater, Brigitte Young và cộng sự, toàn cầu hóa cũng chính là nguyên nhân của tình trạng mất an ninh con người vì động chạm, chuyển đổi tận gốc rễ các xã hội, theo đó con người bị rứt bỏ khỏi các cộng đồng nơi họ sinh ra và lớn lên, rứt bỏ khỏi các mối quan hệ xã hội quen thuộc vốn bao bọc, che chở cho họ, rứt bỏ họ khỏi môi trường văn hóa luôn tái sản xuất bản sắc của họ. Đây không phải là tình trạng “nhà giàu đứt tay hơn ăn mày sổ ruột”, mà có thể gọi là những “căn bệnh của phát triển”, đe dọa phá hủy không chỉ những thành quả phát triển đã đạt được, mà cả nền móng phát triển của mỗi cá nhân. Và điều này không chỉ xảy ra ở các nước đang phát triển, mà trên phạm vi toàn cầu, bao gồm cả các nước phát triển. Ngược lại, nếu đi sâu vào cuộc sống của một con người thì có thể thấy, sự phát triển của mỗi cá nhân luôn kéo theo sự thay đổi vốn con người, vốn kinh tế, vốn xã hội. Các hoạt động (activities), cường độ đi lại, di chuyển (mobility), môi trường sống, phạm vi và chiều sâu các quan hệ xã hội, nhất là quan hệ phân công lao động, cạnh tranh công việc trở nên đa dạng, gay gắt hơn, làm thay đổi không chỉ điều kiện sinh hoạt, ăn ở, đi lại, công việc, mà cả các quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng, quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội của cá nhân. Và cùng với những thay đổi về quan hệ xã hội này, các nguy cơ đe dọa đối với an ninh của cá nhân cũng thay đổi một cách căn bản. Có thể thấy rõ điều này qua ví dụ một công chức: khi chức vụ của anh ta càng cao thì trách nhiệm càng lớn, phạm vi ảnh hưởng càng rộng, thu nhập tăng lên, điều kiện làm việc được cải thiện, nhưng rủi ro công việc cũng biến đổi khác đi. Từ đây, không chỉ nhu cầu về an ninh của mỗi cá nhân thay đổi mà cả điều kiện và cách thức đảm bảo nó cũng thay đổi theo.

Vì vậy, lý thuyết về an ninh con người không chỉ đề cập đến các mối đe dọa đối với con người nói chung, mà là một vấn đề khó nắm bắt nằm sâu trong nền móng và kết cấu của chính sự phát triển – đó là sự phát triển càng lên cao càng đòi hỏi phải có nền móng và kết cấu an ninh vững chắc và phù hợp. Nền móng cho sự phát triển của mỗi con người hình thành từ trước khi con người đó sinh ra và được thay đổi, bồi đắp (hay ngược lại, xói mòn, hủy hoại) trong suốt cuộc đời của họ. Một cách khái quát, có ba nền móng quan trọng nhất: 1) Nền tảng thể chất; 2) Nền tảng đạo đức, văn hóa; 3) Nền tảng tri thức. Những nền tảng này hình thành trong môi trường gia đình, nhà trường, nơi cư trú, trong cộng đồng, và rộng hơn là trong môi trường xã hội. Bản thân những nền móng này có thể ngay từ đầu đã yếu ớt, sai lệch, thậm chí méo mó, bệnh hoạn nếu không được chú trọng vun đắp, chăm sóc tốt. Tuy nhiên, ngay cả một nền móng hôm nay vững chắc nhất, một kết cấu hôm nay bền vững nhất, thì ngày mai vẫn có thể suy yếu hoặc bị phá hủy dưới tác động của các nhân tố khác.

Thứ nhất, vì mỗi nền móng đều có sức chịu đựng nhất định, nên chỉ những tác nhân có sức xói mòn lâu dài hoặc sức công phá đủ lớn mới có thể phá hủy được. Một dịch bệnh hiểm nghèo hay một tai nạn thảm khốc có thể biến một người khỏe mạnh thành tàn phế; một nhóm bạn lưu manh có thể biến một người tốt thành xấu; một môi trường trì trệ, bảo thủ, độc đoán, không chấp nhận cái mới, hay lệch lạc về trí tuệ có thể kìm hãm, thậm chí vô hiệu hóa tri thức đã tích lũy được. Nhận thức này đưa đến một cách hiểu chính xác hơn về các mối đe dọa đối với an ninh con người – đó là không phải bất cứ rủi ro hay nguy cơ nào, mà chỉ có những rủi ro, nguy cơ vượt quá giới hạn nhất định đe dọa hủy hoại những giá trị cốt lõi của cuộc sống con người. Đây là vấn đề tương đối mới, cho đến nay vẫn chưa được quan tâm làm rõ trong lý thuyết an ninh con người. Thứ hai, điều đáng ngạc nhiên là một nền móng vững chắc có thể bị đe dọa bởi chính sức nặng của công trình được xây trên chúng, nói cách khác, nền tảng về thể chất, đạo đức hay tri thức tích lũy được có khi không chịu đựng được khi cá nhân đó nhận được cương vị cao, trọng trách nặng nề, hay cường độ công việc lớn. Một bước phát triển mới trên đường đời một con người có thể tạo nên áp lực công việc, cám dỗ hay yêu cầu chuyên môn quá lớn khiến cá nhân không thể vượt qua, dẫn đến sa ngã, thất bại, bệnh tật. Thứ ba, nếu những nền tảng nêu trên có thể ví như gốc rễ của một cái cây, thì thân và tán cây chính là mạng lưới các quan hệ xã hội bao gồm các tổ chức chính trị, các phân công lao động, các nhóm xã hội,… mà mỗi người thiết lập, xây dựng hay tham gia trong quá trình phát triển của mình. Trong một số trường hợp, sự phát triển của mạng lưới các quan hệ này lại trở nên lệch lạc, mất cân đối so với nền tảng được xây dựng từ trước đến mức chỉ cần một tác động không quá lớn cũng đủ gây đổ vỡ, đảo lộn lớn. Ví dụ dễ thấy là một số “thiếu gia” lợi dụng tiền bạc hay quyền lực của cha mẹ phát triển các mối quan hệ xã hội bất hảo, có thể đi quá xa thành phạm tội.

3. Mối quan hệ giữa an ninh con người và quyền con người

Sự khác biệt cơ bản giữa quyền con người và an ninh con người đó là an ninh con người thừa nhận những vấn đề có tính chất ưu tiên, những vấn đề có thể dẫn đến sự mất an ninh. Trong khi các nhà hoạt động về nhân quyền lại lập luận rằng tất cả các quyền là ngang bằng nhau, không có quyền nào hơn quyền nào và không thể tách rời nhau, do vậy các quốc gia không thể lựa chọn nên ưu tiên vấn đề nào hơn. Điều đó có nghĩa cách tiếp cận về nhân quyền đòi hỏi một danh sách bảo vệ tất cả các quyền con người. Cách tiếp cận của an ninh con người nhằm hướng vào giải quyết các vấn đề cấp bách cụ thể đe dọa đến an ninh của mỗi cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ hơn. Đặc biệt trong các vấn đề xung đột, vấn đề quyền của nhóm này có thể mâu thuẫn với quyền của nhóm khác và dựa vào bối cảnh chính trị cụ thể, các quyết định chính trị khó khăn sẽ được lựa chọn (Sabina Alkire, 2003). Mặc dù sự không đồng thuận về việc thừa nhận tầm quan trọng ngang bằng của tất cả các vấn đề về nhân quyền đã khiến hai khái niệm quyền con người và an ninh con người trở nên tách rời nhau, nhưng phải thừa nhận rằng cả hai cách tiếp cận này đều là cần thiết (Sabina Alkire, 2003). Nếu nhân quyền cung cấp một khung lý thuyết cơ bản cho các nghĩa vụ phổ quát, an ninh con người nhấn mạnh vào một khía cạnh cụ thể của những nghĩa vụ đó, thuật ngữ về an ninh con người được thay thế thuật ngữ quyền con người khi nó trở nên nhạy cảm và gặp nhiều sự chống đối. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai khái niệm không chỉ nằm ở mặt khái niệm, nó còn dẫn tới sự khác biệt về cách thức thực hiện bao gồm thể chế và phương tiện (Sabina Alkire, 2003). Mặc dù vậy, sự khác biệt về cách thức thực hiện này liên hệ chặt chẽ với nhau – quyền con người nhấn mạnh khía cạnh pháp lý, còn an ninh con người lại nhấn mạnh đến khía cạnh thực tiễn phối hợp nỗ lực của nhà nước, cộng đồng và các cá nhân để giải quyết trong trường hợp một hay một số quyền cơ bản của con người bị vi phạm nghiêm trọng. Ví dụ các nhà hoạt động nhân quyền nói chung thường sử dụng công cụ pháp lý để ngăn chặn vi phạm nhân quyền, hoặc để trừng phạt kẻ vi phạm; an ninh con người sẽ sử dụng lực lượng kinh tế, chính trị, và có lẽ quân sự và cả dân sự để cố gắng bảo vệ an ninh con người với cùng một nỗ lực như an ninh quốc gia. Rõ ràng là, nếu nâng cao được vấn đề an ninh thì cũng sẽ nâng cao được vấn đề nhân quyền và ngược lại.

Tóm lại, các khái niệm về an ninh con người, quyền con người và phát triển con người không trùng khớp, nhưng củng cố lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau. “Theo đó, chúng ta sẽ không có sự phát triển nếu không có an ninh, chúng ta sẽ không có được an ninh nếu không có sự phát triển, và chúng ta sẽ không có cả hai nếu không tôn trọng quyền con người…” (Kofi Annan, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, 2005).

Tài liệu tham khảo

1. Arbour, Louise (2005), “The Right to Life and the Responsibility to Protect in the Modern World”, Boston, 9 December, http://www.jfklibrary.net/forum_ nuremberg_arbour_remarks.html.

2. Axworthy, L. (2001), “Human security and global governance: Putting people first”, Global governance, 7, 19.

3. Casper, D. (2007, June), “Human Rights, Human Needs, Human Development, Human Security: Relation ship between Four International Human’Discourses, In Forum for Development Studies (Vol. 34, No. 1, Pp. 9-43), Taylor & Francis Group.

4. Hai, N. H. (2005), Human Rights-Human Security-Human Development.

5. Hampson, F. O., & Daudelin, J. (2002), Madness in the multitude: Human security and world disorder, Don Mills, Ont.: Oxford University Press.

6. Marks, S. P., Modrowski, K. A., & Lichem, W. (2008), “Human rights cities.Civic Engagement for Societal Development”, URL http://www. pdhre. org/Human_ Rights_Cities_Book. pdf [accessed August 9th 2012].

7. Silva, G. (2011), “Human Security and Sovereignty: Polar Opposites or Simply Nodes in Network?”, Available at SSRN 1910331.

8. Oberleitner, G. (2005), “Human security: a challenge to international law?”, Global Governance: A Review of Multilateralism and International Organizations, 11(2), 185-203.

9. Ogata, S. (2001), “Overview for the Commission on Human Security”.

10. Ramcharan, B. G. (2002), Human rights and human security, The Hague: Martinus Nijhoff.

11. Seidensticker, E. (2002), “Human security, human rights, and human development”, Harvard Kennedy School, 6.

12. Sen, A. (2000), “Why human security?”, In International Symposium on HumanSecurity, Tokyo (Vol. 28).

13. Oberleitner, G. (2003), “Human rights and security-The Two Towers?”, Center for the Study of Human Rights.

14. Tadjbakhsh, S., & Chenoy, A. (2007), Human security: Concepts and implications, Routledge.

15. Thomas, C. (2001), “Global governance, development and human security: exploring the links,” Third World Quarterly, Vol. 22(2):159-175.

16. UNDP (2000), Human Development Report, Oxford and New York, NY: Oxford University Press.

17. United States Commission on National Security/21st Century (2001), Road map for national security: imperative for change, the phase III report of the US Commission on National Security/21st Century, The Commission.

………………………

Nguồn: http://ihs.vass.gov.vn

Sửa lần cuối vào Thứ tư, 22 Tháng 8 2018 14:37

Quyền Con Người Là Gì ? Khái Niệm, Cách Hiểu Về Quyền Con Người

Quyền con người là quyền của thành viên trong xã hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hoá (ghi nhận) trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

1) Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;

2) Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;

3) Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lí, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyển và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tj nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyển dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lí nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền làm việc, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyển con người, Công ước quốc tế về các quyển dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoả, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ tuật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm: 1) Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyển tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó; 2) Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật.

Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…, 3) Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..; 4) Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.