Định Nghĩa Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Là Gì / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Môi Trường Là Gì ? Vai Trò Của Môi Trường Là Gì ? Quy Định Pháp Luật Về Bảo Vệ Môi Trường ?

1. Môi trường là gì ?

Môi trường là các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.

2. Khái niệm môi trường bao gồm các nội dung sau:

Môi trường được tạo thành bởi các yếu tố (hay còn gọi là thành phần môi trường) sau đây: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác.

Trong đó, không khí, đất, nước, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên… là các yếu tố tự nhiên (các yếu tố này xuất hiện và tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của con người); khu dân cư, khu sản xuất, di tích lịch sử… là yếu tố vật chất nhân tạo (các yếu tố do con người tạo ra, tổn tại và phát triển phụ thuộc vào ý chí của con người). Không khí, đất, nước, khu dân cư… là các yếu tố cơ bản duy trì sự sống của con người, còn cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh… có tác dụng làm cho cuộc sống của con người thêm phong phú và sinh động.

3.1 Môi trường nhân tạo là gì ?

Khái niệm môi trường nhân tạo là tất cả các yếu tố do con người tạo như thành phần hoá học, tính chất vật lý… Những yếu tố này do con người tạo ra và bị con người chi phối.

Một số ví dụ tiêu biểu về môi trường nhân tạo:

Tại Singapore con người đã tạo ra một khu rừng nhiệt đới dưới dạng công viên vịnh nơi đa phần các cây tự nhiên không thể tồn tại ở quốc đảo này.

Hay kho hạt giống được chôn sâu bên trong một ngọn núi trên quần đảo Nauy 130 m, kho dự bị được thiết kế để bảo vệ những hạt giống quý giá nhất thế giới khỏi thảm hoạ, để đảm bảo tương lai của nguồn cung lương thực toàn cầu. Và rất nhiều công trình nhân tạo khác của con người có thể tạo ra những môi trường sống khác biệt, tách biệt và riêng có với thế giới tự nhiên.

3.2 Môi trường xã hội là gì ?

Khái niệm môi trường xã hội là mối quan hệ giữa người với người. Đó là các luật lệ, cam kết, thể chế, ước định… ở các cấp khác nhau. Môi trường xã hội có nhiệm vụ định hướng con người theo một khuôn khổ nhất định để cho sự phát triển được thuận lợi, khiến cuộc sống của con người khác với sinh vật khác.

Cũng theo một góc nhìn rộng hơn thì Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố trung tâm, tham gia và chi phối môi trường. Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, thể thao, lịch sử, giáo dục… xoay quanh con người và con người lấy đó làm nguồn sống, làm mục tiêu cho mình. Môi trường xã hội tốt thì các nhân tố cấu thành môi trường sẽ bổ trợ cho nhau, con người sống sẽ được hưởng đầy đủ các quyền: sống, làm việc, cống hiến, hưởng thụ. Mặt trái của môi trường xã hội là các tệ nạn xã hội.

3.2 Môi trường sống là gì ?

Môi trường sống được hiểu là không gian sống, cung cấp tất cả nguồn tài nguyên thiên nhiên, đây cũng là nơi chứa đựng các phế thải do chính con người tạo ra trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt, môi trường sống có trong lành thì con người mới đảm bảo có sức khỏe.

Môi trường sống hiểu một góc độ rộng hơn có thể bao hàm cả môi trường sống của các loại động vật, các loại sinh vật, vi sinh vật … cùng tồn tại, sinh tồn trên trái đất nơi chứa đựng các sự sống nói chung.

+ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật (Theo Luật bảo vệ môi trường năm 2005 số 52/2005/QH11);

+ Môi trường biển là các yếu tố vật lý, hóa học và sinh học đặc trưng cho nước biển, đất ven biển, trầm tích dưới biển, không khí trên mặt biển và các hệ sinh thái biển tồn tại một cách khách quan, ảnh hưởng đến con người và sinh vật (theo Nghị định số 25/2009/NĐ-CP về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường hải đảo).

+ Môi trường du lịch là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn nơi diễn ra các hoạt động du lịch (theo Luật du lịch năm 2005);

+ Môi trường mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua cơ sở hạ tầng thông tin (Theo luật công nghệ thông tin năm 2006);

+ Môi trường rừngbao gồm các hợp phần của hệ sinh thái rừng: thực vật, động vật, vi sinh vật, nước, đất, không khí, cảnh quan thiên nhiên. Môi trường rừng có các giá trị sử dụng đối với nhu cầu của xã hội và con người, gọi là giá trị sử dụng của môi trường rừng, gồm: bảo vệ đất, điều tiết nguồn nước, phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng chống thiên tai, đa dạng sinh học, hấp thụ và lưu giữ các bon, du lịch, nơi cư trú và sinh sản của các loài sinh vật, gỗ và lâm sản khác (căn cứ theo nghị định 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng).

+ Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật (theo luật bảo vệ môi trường năm 2005);

Và rất nhiều khái niệm đã được luật hóa khác liên quân đến môi trường như: Môi trường nông nghiệp nông thôn, môi trường xây dựng, môi trường tiêu chuẩn…

4. Vai trò của môi trường đối với con người ?

Để đảm bảo sự sống của con người thì môi trường là yếu tố đầu tiên và quan trọng bậc nhất, bởi lẽ:

Thứ nhất, Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của con người. Rất dễ dàng nhận thấy mọi ngành sản xuất đều gắn với các tài nguyên của người mẹ thiên nhiên như:

+ Trồng lúa cần có đất nông nghiệp, ngành xây dựng cần vật liệu xây dựng thô như đất, đá và các vật liệu xây dựng qua chế biến như xi măng, sắt, thép…;

+ Rừng tự nhiên phục mụ chức năng cung cấp nước, gỗ, bảo vệ sự đa dạng sinh học và thông qua đó cải thiện môi trường chung của hệ sinh thái;

+ Biển cung cấp các nguồn hải sản, nước… phụ vụ nhu cầu sinh tồn của con người….

+ Động vật và thực vật cung cấp nguồn lương thực dồi dào trực tiếp phụ vụ đời sống của con người.

+ Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, gió… là nguồn cung cấp điện năng, sự sống trực tiếp cho con người.

Do vậy, có thể thấy rằng con người phụ thuộc trực tiếp và gián tiếp vào môi trường. Không có môi trường sẽ không có sự sống của con người.

Thứ hai, môi trường cũng chính là nơi chứa đựng các chất phế tại do con người tạo ra.

Trong quá trình sinh sống, còn người gần như đảo thải tất cả các chất rác thải, phế thải vào môi trường. Các chất này dưới tác động của ác vi sinh vật sẽ phân hủy, biến đổi theo các quá trình sinh địa hóa rất phức tạp khác nhau. Qua các quá trình biến đổi tự nhiên các chất thải có thể tái sử dụng dưới các dạng thức khác nhau và một phần tạo thành các độc tố gây hại cho môi trường sống.

Thứ ba, Môi trường giữ chức năng lưu trữ và cung cấp các thông tin cho con người.

Môi trường trái đất được xem là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Bởi vì chính môi trường trái đất là nơi:

– Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử trái đất, lịch sử tiến hoá của vật chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.

– Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tín chất tín hiệu và báo động sớm các hiểm hoạ đối với con người và sinh vật sống trên trái đất như phản ứng sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiện tượng tai biến tự nhiên, đặc biệt như bão, động đất, núi lửa…

– Cung cấp và lưu giữ cho con người các nguồn gen, các loài động thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có giá trị thẩm mỹ để thưởng ngoạn, tôn giáo và văn hoá khác.

Thứ tư, Bảo vệ con người và sinh vật khỏi những tác động từ bên ngoài.

Các thành phần trong môi trường còn có vai trò trong việc bảo vệ cho đời sống của con người và sinh vật tránh khỏi những tác động từ bên ngoài như: tầng Ozon trong khí quyển có nhiệm vụ hấp thụ và phản xạ trở lại các tia cực tím từ năng lượng mặt trời.

Và rất nhiều các vai trò quan trọng khác mà chúng tôi chưa thể phân tích kỹ trong một bài viết cụ thể.

5. Tại sao cần phải bảo vệ môi trường ?

Như đã phân tích ở trên, môi trường là không gian sống quan trọng nhất của con người, sinh vật, thực vật nên bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sự sống nói chung và bảo vệ sự phát triển lâu dài của con người nói riêng.

Bảo vệ môi trường là việc sử dùng hài hòa các nguồn tài nguyên có giới hạn như (nước, than, đá, dàu mỏ …) và tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo phù hợp với môi trường sống bền vững như năng lượng điện, gió … Sử dụng các nguồn nặng lượng hóa thạch sẽ góp phần tạo ra khí thải làm trái đất nóng lên, nếu không có sự vào cuộc ngay theo dự kiến trong 100 năm tới trái đất sẽ tăng từ 1,5 đến 5,8 độ C. Như vậy, các thảm họa thiên nhiên sẽ không thể tránh khỏi và thiệt hại từ các thảm họa sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn.

6. Các biện pháp bảo vệ môi trường hiện nay là gì ?

Dưới góc nhìn quốc tế, quốc gia thì bảo vệ môi trường là việc làm của mọi quốc gia cần tham gia và phê duyệt các công ước, điều ước quốc tế.

Hiện nay, với Việt Nam chúng ta đã tham dự nhiều hiệp định về bảo vệ môi trường như:

+ Hiệp định thương mại tự do ASEAN (ASEAN FTA) có quy định về việc vận chuyển sản phẩm hàng hóa nguy hiểm đến môi trường, hoặc Hiệp định khung về hợp tác toàn diện ASEAN – Ấn Độ có quy định các lĩnh vực hợp tác kinh tế trong đó có lĩnh vực môi trường. Vấn đề môi trường đã được đề cập cụ thể như tại Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA). Trong 30 chương của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), 12 nước đã thống nhất dành hẳn 1 chương để cam kết các vấn đề về môi trường như ô nhiễm môi trường, buôn bán động vật hoang dã, khai thác, đánh bắt trái phép thủy hải sản. Hai hiệp định Việt Nam – EU, Việt Nam – Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) chủ yếu đề cập đến một số vấn đề môi trường bao gồm: BĐKH, các vấn đề môi trường (nói chung), bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý chất thải, đào tạo và giáo dục về môi trường.

Các Hiệp định đa phương về môi trường mà Việt Nam là thành viên được chia thành 8 lĩnh vực sau:

Lĩnh vực 1: Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học

Lĩnh vực 2: Quản lý đất

Lĩnh vực 3: Quản lý các nguồn nước quốc tế

Lĩnh vực 4: Bảo vệ môi trường biển

Lĩnh vực 5: Bảo vệ tầng zone

Lĩnh vực 6: Ứng phó với biến đổi khí hậu

Lĩnh vực 7: Quản lý rác thải

Lĩnh vực 8: Quản lý hóa chất

Dưới góc nhìn mỗi cá nhân việc bảo vệ môi trường có thể được thực hiện dưới những hành vi nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn như:

+ Hạn chế sử dụng túi nhựa, túi nilon;

+ Tiến hành phân loại rác tại nhà, tái sử dụng những loại chai nhựa, giấy và túi nilon

+ Trồng cây xanh tại nơi đất trống đồi trọc, nơi đầu nguồn để chống xói mòn, sạt lở đất và trồng cây xanh xung quanh nơi ở để điều hòa không khí, cân bằng hệ sinh thái

+ Không vứt rác bừa bãi, đặc biệt là vứt tại sông, suối, ao, hồ, bờ biển, … tránh gây ô nhiễm nguồn nước

+ Thực hiện xử nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp trước khi thải ra môi trường

+ Sử dụng phương tiện giao thông chạy bằng điện hoặc năng lượng mặt trời, … để giảm khí thải CO2 gây ô nhiễm không khí và rất nhiều biện pháp, việc làm nhỏ, đơn giản, dễ thực hiện nhưng mang lại hiệu quả cao khác nữa …

7. Một số văn bản pháp luật về môi trường của Việt Nam

+ Luật bảo vệ môi trường năm 1993; Luật bảo vệ môi trường năm 2005 (văn bản mới nhất và đang có hiệu lực: Luật bảo vệ môi trường năm 2014)

+ Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015;

+ Luật thuế bảo vệ môi trường năm 2010;

7.2 Các nghị định hướng dẫn luật môi trường:

– Nghị định số 18/2015/NĐ-CP quy định quy hoạch bảo vệ moi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường;

– Nghị định số 53/2020/NĐ-CP quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải;

– Nghị định số 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật bao vệ môi trường do Chính phủ ban hành ngày 14 tháng 02 năm 2015.

– Nghị định số 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường;

7.3 Một số thông tư hướng dẫn nghị định, luật môi trường:

– Thông tư 25/2019/TT-BTNMT hướng dẫn Nghị định 40/2019/NĐ-CP dịch vụ quan trắc môi trường

– Thông tư 26/2015/TT-BTNMT bảo vệ môi trường chi tiết đề án bảo vệ môi trường đơn giản

– Thông tư số 78/2017/TT-BTNMT ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường ngày 29 tháng 12 năm 2017;

– Thông tư 27/2015/TT-BTNMT đánh giá môi trường chiến lược tác động môi trường bảo vệ môi trường.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Các câu hỏi thường gặp

Câu hỏi: Ô nhiễm môi trường là gì ?

Trả lời:

Câu hỏi: Chức năng của môi trường là gì ?

Trả lời:

Câu hỏi: Ô nhiễm không khí là gì ? Vì sao không khí bị ô nhiễm?

Trả lời:

+ Nguồn tự nhiên:

+ Nguồn nhân tạo:

Vệ Sinh Môi Trường Là Gì ? Quy Định Pháp Luật Về Vệ Sinh Môi Trường

Vệ sinh môi trường là các biện pháp nhằm cải tạo và làm sạch môi trường sống, góp phần bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Bài viết phân tích và làm rõ khái niệm về vệ sinh môi trường cũng như phân tích các chính sách của nước ta trong việc đảm bảo vệ sinh môi trường, cụ thể:

Đó là các biện pháp được thực hiện để bảo đảm vệ sinh thực phẩm, vệ sinh nước sinh hoạt, vệ sinh công cộng, vệ sinh khi chôn cất người chết…, như: xây dựng hệ thống cống rãnh thoát nước, thu gom và xử lí rác thải; cung cấp đầy đủ nước sạch cho người dân, không phóng uế và đổ rác bừa bãi, thường xuyên phun thuốc diệt muỗi, diệt côn trùng, chôn cất người chết tại các khu tập trung, xa khu dân cư…

Luật bảo vệ môi trường (1993) quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với vấn đề vệ sinh môi trường là phải bảo vệ nguồn nước, cây xanh, công trình vệ sinh, thực hiện các quy định về vệ sinh công cộng ở đô thị, nông thôn, khu dân cư, khu du lịch, khu sản xuất.

1. Chính sách pháp luật về vệ sinh môi trường của Việt nam

Những năm gần đây Nhà nước ta đã xây dựng và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, chiến lược về bảo vệ, phát triển tài nguyên nước như: “Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn” (Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 237/1998/QĐ-TTg ngày 3/12/1998 phê duyệt chương trình này), “Định hướng phát triển thoát nước đô thị Việt Nam đến năm 2020” (Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 35/1999/QĐ-TTg ngày 5/3/1999 phê duyệt định hướng này), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 62/2004/QĐ-TTg về tín dụng thực hiện chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 18/2014/QĐ-TTg), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 81/2006/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 681/2013/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống thoát nước thải khu vực dân cư khu công nghiệp thuộc lưu vực sông cầu đến năm 2030 v.v.

Theo các chương trình này, Nhà nước đặt ra mục tiêu đến năm 2000 nâng ti lệ người được sử dụng nước sạch ở Việt Nam lên 45%, năm 2005 khoảng 80% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch. Mục tiêu lâu dài tới năm 2020 là xoá bỏ tình ữạng ngập úng thường xuyên trong mùa mưa ở đô thị, từng đô thị có hệ thống thoát nước thải với công nghệ xử lí phù hợp bảo đảm vệ sinh môi trường, mở rộng phạm vi phục vụ của các hệ thống thoát nước đô thị, khu công nghiệp, áp dụng tiêu chuẩn, quy phạm tiên tiến, đưa lĩnh vực thoát nước đô thị Việt Nam lên tầm các nước trong khu vực. Đặc biệt, “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” (Quyết định của Thủ tướng Chính phù số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 phê duyệt chiến lược này, được bổ sung trong Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg), đã đật ra mục tiêu đến năm 2010: 40% các khu đô thị, 70% khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lí nước thải tập trung, 95% dân số đô thị và 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; đến năm 2020 đạt 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, 100% đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lí nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.

2. Phương pháp đảm bảo, giữ gìn vệ sinh môi trường

– Đối với đất ở tại nông thôn và đất ở tại đô thị, xây dựng khu chung cư: Đối với các loại đất này, các chủ thể sử dụng đất cần tuân theo các quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên đất, bảo vệ môi trường, bảo đảm vệ sinh môi trường và theo hướng cảnh quan hiện đại.

+ Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản; không được sử dụng hoá chất độc hại hoặc tích tụ độc hại.

+ Giữ gìn vệ sinh môi trường trong quá trình tiến hành các hoạt động du lịch.

Luật Minh Khuê (biên tập)

Luật Bảo Vệ Môi Trường Năm 2014

    1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng Nội dung cơ bản của phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng đã được giữ nguyên. Tuy nhiên, để phù hợp với khái niệm lãnh thổ trong Luật Biển, khái niệm lãnh thổ đã được làm rõ hơn, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời của nước CHXHCNVN. Đối tượng áp dụng đã được xác định rõ là mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên lãnh thổ nước CHXHCNVN đều có nghĩa vụ và trách nhiệm thực thi Luật này.      2. Giải thích từ ngữ Các khái niệm về quy hoạch BVMT, khí nhà kính, ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH), an ninh môi trường… đã được bổ sung. Các khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường, sức chịu tải của môi trường, đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM), phế liệu… đã được chỉnh sửa, bổ sung, phù hợp với nội dung cơ bản của các khái niệm này. Tuy nhiên, giải thích từ ngữ chỉ áp dụng trong khuôn khổ của Luật BVMT 2014. Phần lớn các thuật ngữ chỉ mới là những khái niệm, không phải là những định nghĩa cơ bản, bất biến, nên vẫn có thể thay đổi theo sự phát triển của thực tiễn và nhận thức.      3. Nguyên tắc BVMT Luật BVMT 2014 có 8 nguyên tắc về BVMT (Luật BVMT 2005 có 5 nguyên tắc). Những nội dung đã được bổ sung như: BVMT phải gắn kết với bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), ứng phó BĐKH, sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu chất thải; BVMT phải gắn kết với bảo đảm quyền của trẻ em, thúc đẩy giới và bảo đảm mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành. Các chương, điều của Luật BVMT 2014 đã được xây dựng dựa trên các nguyên tắc này.      4. Chính sách BVMT Luật BVMT 2014 bổ sung chính sách về nguồn vốn đầu tư, trong đó yêu cầu bố trí khoản chi riêng cho BVMT trong ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng chung; các nguồn kinh phí BVMT được quản lý thống nhất và ưu tiên cho các lĩnh vực trọng điểm trong BVMT (Khoản 5 Điều 5); gắn kết các hoạt động BVMT, bảo vệ tài nguyên với ứng phó BĐKH, bảo đảm an ninh môi trường; Nhà nước ghi nhận, tôn vinh cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có những đóng góp tích cực trong BVMT.      5. Những hành vi bị ngiêm cấm Luật BVMT 2014 có 16 khoản cấm được nêu trong Điều 7. Luật BVMT 2005 cũng có 16 khoản cấm nêu trong Điều 7. Nội dung khác biệt giữa điều quy định những hành vi bị nghiêm cấm giữa hai luật là: Luật BVMT 2014 cấm lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái về quản lý môi trường (Khoản 16 Điều 7). Như vậy, hành vi bị nghiêm cấm không chỉ ở những đối tượng của quản lý nhà nước mà còn chính là quản lý nhà nước. Ngoài ra, Luật BVMT 2014 đã không kế thừa Khoản 16 Điều 7 của Luật BVMT 2005 quy định nghiêm cấm “các hành vi bị nghiêm cấm khác về BVMT theo quy định của pháp luật” để hạn chế sự lạm dụng nghiêm cấm trong quản lý BVMT.      6. Quy hoạch BVMT Quy hoạch BVMT là nội dung hoàn toàn mới của Luật BVMT 2014. Nội dung này đã được bàn thảo rất nhiều và có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu cần có một tầm nhìn dài hạn và tổng thể về BVMT, gắn kết thực sự giữa BVMT với phát triển kinh tế – xã hội, các cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định đã dựa trên ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các nhà khoa học, xây dựng mục Quy hoạch BVMT gồm 5 điều với những nội dung cơ bản, có tính nguyên tắc như cấp độ, kỳ quy hoạch, nội dung quy hoạch, trách nhiệm lập quy hoạch, tham vấn, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, rà soát và điều chỉnh quy hoạch. Quy hoạch BVMT phải được xây dựng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và vì vậy phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quy hoạch sử dụng đất. Với những nguyên tắc này, việc xây dựng quy hoạch BVMT không làm đảo lộn các quy hoạch cơ bản hiện có bởi vì nếu làm đảo lộn các quy hoạch cơ bản hiện có, quy hoạch BVMT sẽ không có tính thực thi. Quy hoạch BVMT phải dựa trên hiện trạng tự nhiên, kinh tế, xã hội để phân vùng môi trường, bảo tồn ĐDSH, quản lý môi trường, quản lý chất thải, xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật BVMT. Với các khoản quy định tại Điều 9, nội dung của quy hoạch BVMT đã được mở rộng ngoài phạm vi của các hoạt động BVMT và ở mức độ nào đó, quy hoạch BVMT đã đến gần với quy hoạch môi trường như một số nước đã áp dụng. Có một số ý kiến cho rằng, cần có quy hoạch BVMT vùng kinh tế – xã hội hoặc những vùng có tính đặc thù. Tuy nhiên, khi xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch, phải có cấp hành chính tương tự. Mặt khác, trong quy hoạch BVMT cấp quốc gia phải có nội dung quy hoạch BVMT cấp vùng và cấp xây dựng, tổ chức thực hiện là Bộ TN&MT. Vì vậy, quy hoạch BVMT chỉ còn 2 cấp độ, quốc gia và cấp tỉnh. Yếu tố quyết định thực hiện thành công quy định về quy hoạch BVMT là khả năng tổ chức triển khai ngay việc xây dựng quy hoạch BVMT cấp quốc gia, bởi vì, quy hoạch BVMT cấp quốc gia là cơ sở khoa học, thực tiễn và pháp lý để xây dựng quy hoạch BVMT cấp tỉnh.      7. Đánh giá môi trường chiến lược Luật BVMT 2014 quy định rõ, ngoài việc ĐMC phải được thực hiện đồng thời với quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, kết quả ĐMC phải được xem xét, tích hợp vào nội dung chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (Khoản 2 và 3 Điều 14). Điều 15 Luật BVMT 2014 quy định rõ 10 nội dung chính của ĐMC. Trong khi đó, Điều 16 của Luật BVMT 2005 quy định có 5 nội dung chung. Có một số nội dung về tổ chức, trách nhiệm, phương thức hoạt động của hội đồng thẩm định ĐMC tại Điều 17 Luật BVMT 2005 đã được lược bỏ bởi vì trách nhiệm tổ chức thẩm định và phê duyệt thuộc về cơ quan quản lý nhà nước; các hội đồng thẩm định chỉ giúp các cơ quan quản lý nhà nước thẩm định nên chỉ cần quy định cụ thể trong các văn bản dưới luật.      8. Đánh giá tác động môi trường Luật BVMT 2014 quy định rõ tại Điều 20 về lập lại báo cáo ĐTM, theo đó, chỉ những dự án không triển khai trong vòng 24 tháng, thay đổi địa điểm dự án, phải lập lại báo cáo ĐTM. Ngoài ra, đối với những dự án có thay đổi quy mô, công suất, công nghệ làm tăng tác động xấu đến môi trường, Luật giao Chính phủ quy định cụ thể. Tại Khoản 4 Điều 19 Luật BVMT 2005 quy định, “trường hợp thay đổi về quy mô, nội dung, thời gian triển khai, thực hiện, hoàn thành dự án thì chủ dự án có trách nhiệm giải trình với cơ quan phê duyệt; trường hợp cần thiết phải lập báo cáo ĐTM bổ sung”. Quy định này đã dẫn đến sự lạm dụng yêu cầu báo cáo ĐTM lại hoặc ĐTM bổ sung, dẫn đến việc trốn tránh báo cáo ĐTM lại, ĐTM bổ sung hoặc báo cáo ĐTM mang tính đối phó. Nội dung của báo cáo ĐTM cũng được quy định cụ thể hơn tại Điều 22 Luật BVMT 2014. Những quy định về tổ chức, yêu cầu, trách nhiệm của hội đồng thẩm định cũng đã được lược bỏ vì cơ quan chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm định và phê duyệt kết quả thẩm định là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Khoản 1 Điều 27); các hội đồng thẩm định chỉ có chức năng tư vấn cho cơ quan thẩm định và phê duyệt kết quả thẩm định. Điều 23 Luật BVMT 2005 quy định chủ dự án có trách nhiệm “thông báo cho cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM để kiểm tra, xác nhận việc đã thực hiện các nội dung của báo cáo và yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM” (Điểm d Khoản 1); “Chỉ được đưa công trình vào sử dụng khi đã được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đầy đủ các yêu cầu quy định tại các điểm a, b và c của điều khoản này” (Điểm d Khoản 1 Điều 23). Quy định này dẫn tới tính thiếu thực thi nên tỷ lệ kiểm tra xác nhận thực hiện báo cáo ĐTM (hậu thẩm định) trong thời gian vừa qua quá thấp, nhiều tỉnh chỉ dưới 10%, trong khi các dự án không thể không vận hành. Để khắc phục khiếm khuyết này, Luật BVMT 2014 quy định “chủ đầu tư phải báo cáo cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM kết quả thực hiện các công trình BVMT phục vụ vận hành dự án đối với dự án lớn, có nguy cơ tác động xấu đến môi trường do Chính phủ quy định. Những dự án này chỉ được vận hành sau khi cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình BVMT” (Khoản 2 Điều 27). Đồng thời, để tránh việc gây khó dễ cho chủ dự án, Điều 28 Luật BVMT 2014 quy định “trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo hoàn thành công trình BVMT quy định tại Khoản 2 Điều 27 của Luật này, cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM phải tổ chức kiểm tra và cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT của dự án. Trường hợp phải phân tích các chỉ tiêu môi trường phức tạp thì thời gian cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT của dự án có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày”. Như vậy, chỉ có những dự án do Chính phủ quy định mới có hậu thẩm định và hậu thẩm định bị ràng buộc trong thời gian nhất định.      9. Kế hoạch BVMT Luật BVMT 2005 có quy định về cam kết BVMT nhưng trên thực tế, việc thực hiện cam kết BVMT có nhiều khó khăn, thiếu thực thi, mang tính lý thuyết và trong nhiều trường hợp đã dẫn đến tiêu cực trong công tác quản lý, dù từ “cam kết” cũng có ý nghĩa tích cực nhất định. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, tạo điều kiện cho chủ dự án thực hiện trách nhiệm và chủ động trong BVMT, mặt khác sẽ thuận lợi cho công tác quản lý BVMT đối với các đối tượng không lập ĐTM, Luật BVMT 2014 quy định 6 điều mới về kế hoạch BVMT. Luật BVMT 2014 giao Chính phủ quy định cụ thể đối tượng phải lập kế hoạch BVMT, 6 nội dung của kế hoạch BVMT, trách nhiệm tổ chức xác nhận kế hoạch BVMT của cơ quan chuyên môn về BVMT cấp tỉnh, UBND cấp huyện (và có thể ủy quyền cho UBND cấp xã với điều kiện cụ thể).      10. Ứng phó với BĐKH Chương ứng phó với BĐKH bao gồm 9 điều quy định chung về ứng phó với BĐKH; lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; quản lý phát thải khí nhà kính; quản lý các chất làm suy giảm tầng ô-zôn; phát triển năng lượng tái tạo; sản xuất và tiêu thụ thân thiện với môi trường; thu hồi năng lượng từ chất thải; quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong ứng phó với BĐKH; phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ ứng phó với BĐKH và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.      11. BVMT biển và hải đảo Luật BVMT 2005 có mục BVMT biển, bao gồm quy định về nguyên tắc BVMT biển, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển, kiểm soát xử lý ô nhiễm môi trường biển và tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố trên biển. Hiện nay, Bộ TN&MT đang được giao xây dựng Luật Bảo vệ TN&MT biển. Để bảo đảm tính hệ thống và toàn diện của lĩnh vực BVMT, Luật BVMT 2014 vẫn có chương riêng về BVMT biển và hải đảo, bao gồm quy định chung về BVMT biển và hải đảo, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường biển và hải đảo. Luật Bảo vệ TN&MT biển sẽ cụ thể hóa các quy định này và thống nhất với Luật BVMT 2014.      12. BVMT nước sông So với các quy định về BVMT nước LVS tại Luật BVMT 2005, Luật BVMT 2014 bổ sung quy định các nguồn thải vào LVS phải được quản lý phù hợp với sức chịu tải của sông, chất lượng nước sông và trầm tích phải được theo dõi và đánh giá, BVMT nước LVS phải gắn liền với bảo tồn ĐDSH, khai thác và sử dụng nguồn nước sông. Nội dung kiểm soát ô nhiễm và xử lý ô nhiễm môi trường LVS bao gồm việc thống kê, đánh giá, giảm thiểu và xử lý chất thải đổ vào LVS; định kỳ quan trắc và đánh giá chất lượng nước sông và trầm tích; điều tra, đánh giá sức chịu tải của sông; công bố các đoạn sông, dòng sông không còn khả năng tiếp nhận chất thải; xác định hạn ngạch xả nước thải vào sông; xử lý và cải thiện môi trường nước sông; quan trắc và đánh giá chất lượng nước sông và trầm tích sông xuyên biên giới…      13. BVMT đất Luật BVMT 2005 không có điều khoản riêng về BVMT đất. Luật BVMT 2014 có mục về BVMT đất, bao gồm 3 điều, trong đó có quy định chung về BVMT đất, quản lý môi trường đất và kiểm soát ô nhiễm môi trường đất. Theo các quy định này, mọi hoạt động có sử dụng đất phải xem xét đến môi trường đất và giải pháp BVMT đất; các tổ chức, cá nhân được giao sử dụng đất phải có trách nhiệm BVMT đất; gây ô nhiễm môi trường đất phải có trách nhiệm xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết việc kiểm soát ô nhiễm đất để bảo đảm các yếu tố có nguy cơ gây ô nhiễm đất phải được xác định, kiểm soát; cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có trách nhiệm tổ chức kiểm soát ô nhiễm môi trường đất; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm kiểm soát ô nhiễm đất tại cơ sở. Và lần đầu tiên, ô nhiễm dioxin có nguồn gốc từ chất diệt cỏ dùng trong chiến tranh ở Việt Nam (chất da cam/dioxin) đã được quy định trong pháp luật là phải được điều tra, đánh giá, khoanh vùng và xử lý bảo đảm yêu cầu về BVMT như các chất độc hại khác. Vì tính phức tạp của khoa học và thực tiễn ô nhiễm môi trường đất, những quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường đất nên được xây dựng thành một nghị định riêng và cần được nghiên cứu kỹ kinh nghiệm quản lý môi trường đất của các nước trên thế giới. Nghị định về BVMT đất sẽ là tiền đề hình thành Luật BVMT đất trong tương lai.      14. BVMT không khí Luật BVMT 2005 có mục về quản lý và kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ, trong đó có điều quy định về quản lý và kiểm soát bụi, khí thải (Điều 83); quản lý khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá hủy tầng ô-zôn (Điều 84). Chất lượng môi trường không khí, ô nhiễm môi trường không khí không chỉ bao hàm bụi, khí thải, khí gây hiệu ứng nhà kính. Môi trường không khí ô nhiễm của các nước đang phát triển đã chứng minh rằng ô nhiễm không khí là nguyên nhân chính tác hại đến con người. Vì vậy, Luật BVMT 2014 đã có mục riêng về lĩnh vực này, bao gồm những quy định chung về BVMT không khí; quản lý chất lượng môi trường không khí xung quanh; kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Theo các quy định này, các nguồn phát thải khí vào môi trường phải được đánh giá và kiểm soát; tổ chức và cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát thải khí tác động xấu đến môi trường phải có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất lượng môi trường không khí. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết về nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, chủ yếu là quan trắc, thống kê, đánh giá, xả thải bảo đảm khả năng chịu tải của môi trường không khí. Cũng như cách tiếp cận với BVMT đất, BVMT không khí cần được xây dựng thành một nghị định riêng.      15. BVMT tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung      16. BVMT trong nhập khẩu phế liệu Luật BVMT 2005 định nghĩa phế liệu là “sản phẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng được thu hồi để dùng làm nguyên liệu sản xuất”; yêu cầu phế liệu nhập khẩu phải được làm sạch, không lẫn vật liệu, hàng hóa cấm nhập khẩu, chất thải, tạp chất nguy hại. Mặt khác, Luật BVMT 2014 quy định các yêu cầu đối với tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu phải có các điều kiện cụ thể, trong đó có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng, xử lý tạp chất đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; chỉ nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, phải ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo quy định của Chính phủ. Luật không quy định việc mua bán phế liệu nhập khẩu. Chỉ có tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất mới được phép nhập khẩu phế liệu. Như vậy, với những hàng rào kỹ thuật và pháp lý, việc nhập khẩu phế liệu khó có thể bị lạm dụng như thời gian vừa qua.      17. BVMT làng nghề BVMT làng nghề là một trong những vấn đề bức xúc, khó khăn hiện nay. Việc lạm dụng danh nghĩa làng có nghề, áp dụng công nghệ sản xuất thô sơ và lạc hậu, quản lý nhà nước có những điểm thiếu rõ ràng và chồng chéo là những nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm làng nghề. Vì vậy, các quy định về BVMT làng nghề đã được viết lại theo hướng quy định rõ các điều kiện về BVMT mà làng nghề, các cơ sở sản xuất thuộc ngành nghề được khuyến khích phát triển và các đối tượng khác trong làng nghề phải thực hiện. Đồng thời, Luật BVMT 2014 quy định rõ trách nhiệm của UBND các cấp đối với BVMT làng nghề. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết Điều 70 về BVMT làng nghề và nội dung này nên thuộc nghị định hướng dẫn một số điều của Luật BVMT 2014.      18. Nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng Tại Khoản 3 Điều 75 quy định về BVMT trong nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, quy định “Việc nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Chính phủ quy định cụ thể đối tượng, điều kiện được phép nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng”. Theo quy định tại khoản này, tàu biển đã qua sử dụng muốn được nhập khẩu phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường; không đề cập đến việc nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ làm nguyên liệu sản xuất hay để sử dụng. Luật giao Chính phủ quy định cụ thể đối tượng, điều kiện được phép nhập khẩu tàu cũ, điều kiện phá dỡ tàu cũ.      19. Thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ Luật BVMT 2005 quy định chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thu hồi sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ; quy định cụ thể một số sản phẩm phải thu hồi và một số sản phẩm khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; giao Thủ tướng Chính phủ quy định việc thu hồi, xử lý các sản phẩm thải bỏ. Quy định này dẫn tới hạn chế tính khả thi do một số sản phẩm không hoặc khó tổ chức thu hồi, xử lý; không quy định trách nhiệm của người sử dụng và cơ quan quản lý nên chủ các cơ sở không hoặc rất khó thực hiện. Luật BVMT 2014 đã khắc phục những hạn chế trên, quy định rõ trách nhiệm của chủ cơ sở, người tiêu dùng, các cơ quan quản lý và giao Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể; không quy định cụ thể loại sản phẩm nào cần thu hồi trong Luật để bảo đảm tính linh hoạt và thực thi.      20. Quản lý chất thải nguy hại      21. Xử lý ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường Với quy định tại Điều 104, Luật BVMT 2014 đã luật hóa một số nội dung quan trọng của Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; trong đó quy định rõ trách nhiệm của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và trách nhiệm của các Bộ, ngành, đặc biệt là Bộ TN&MT và UBND cấp tỉnh. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Nội dung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nên thuộc Nghị định hướng dẫn một số điều của Luật BVMT 2014.      22. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường Chương II của Luật BVMT 2005 quy định về tiêu chuẩn môi trường. Ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa XI ban hành Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. Vì vậy, để phù hợp với Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật BVMT 2014 quy định bổ sung quy chuẩn kỹ thuật tại Chương XI về quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường, trong đó quy định các loại quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường không khí xung quanh, quy chuẩn kỹ thuật chất thải và các quy chuẩn kỹ thuật môi trường khác; các nguyên tắc xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường; ký hiệu quy chuẩn kỹ thuật môi trường; yêu cầu đối với quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường không khí xung quanh, chất thải và giao cho Bộ TN&MT ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia, UBND cấp tỉnh ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường địa phương.      23. Quan trắc môi trường Quan trắc môi trường và thông tin về môi trường được quy định trong 1 chương (Chương X) của Luật BVMT 2005. Với mục tiêu xây dựng một hệ thống quan trắc môi trường quốc gia thống nhất và toàn diện, Luật BVMT 2014 có một chương riêng về quan trắc môi trường, quy định các thành phần môi trường và chất phát thải cần được quan trắc, chương trình quan trắc, các loại tổ chức và hoạt động thuộc hệ thống quan trắc. Luật BVMT 2014 quy định trách nhiệm quan trắc của Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh, khu công nghiệp, khu chế xuất… Luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện hoạt động quan trắc nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của quan trắc môi trường, phục vụ BVMT và phát triển kinh tế – xã hội.      24. Thông tin môi trường, chỉ thị môi trường, thống kê môi trường và báo cáo môi trường Thực hiện nghiêm túc các quy định về thông tin môi trường và báo cáo môi trường, các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường sẽ nắm rõ hơn thực trạng môi trường quốc gia và môi trường của từng địa phương để trên cơ sở đó có những điều chỉnh về chính sách, pháp luật và tổ chức BVMT hợp lý, hiệu quả.      25. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT Để nhấn mạnh trách nhiệm quản lý nhà nước về BVMT, Luật BVMT 2014 tách nội dung trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước thành một chương riêng (Luật BVMT 2005 quy định trong một chương với trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên), trong đó quy định nội dung quản lý nhà nước về BVMT tại Điều 139; quy định Bộ trưởng Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về BVMT, đặc biệt là chủ trì xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án quốc gia về BVMT. Luật BVMT 2014 quy định các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ TN&MT xây dựng, ban hành thông tư, thông tư liên tịch về BVMT trong lĩnh vực Bộ, ngành quản lý. Với các quy định này, trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ TN&MT lớn hơn, phức tạp hơn nhưng sẽ giúp cho việc quản lý nhà nước có tính thống nhất và toàn diện.      26. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong BVMT Luật BVMT 2005 chỉ có 1 điều quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Điều 124), trong đó quy định các tổ chức này có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các thành viên tham gia BVMT, giám sát việc thực hiện pháp luật về BVMT và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước là tạo điều kiện cho các hoạt động trên. Luật BVMT 2014 đã tích hợp các nội dung trên, mở rộng đối tượng và nội dung về trách nhiệm, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp và đặc biệt là cộng đồng dân cư tại 1 chương riêng. Theo các quy định này, các tổ chức nêu trên và cộng đồng dân cư có trách nhiệm và quyền hạn rộng hơn, góp phần quan trọng vào việc xã hội hóa công tác BVMT và vai trò của người dân trong BVMT được phát huy tốt hơn. Hiện nay, Việt Nam chưa có Luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ vì vậy còn thiếu cơ sở pháp lý để xây dựng nghị định riêng về trách nhiệm, quyền hạn của các tổ chức phi chính phủ trong BVMT. Luật BVMT 2014 không giao Chính phủ quy định cụ thể, chi tiết về chương này.      27. Chi ngân sách nhà nước cho BVMT Luật BVMT 2005 quy định nguồn tài chính BVMT, ngân sách nhà nước về BVMT (Điều 110 và 111), trong đó có quy định chi ngân sách sự nghiệp môi trường cho một số hoạt động BVMT cụ thể. Tuy vậy, Luật BVMT 2014 cũng có những quy định mới như sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các hoạt động BVMT, bổ sung các hoạt động BVMT cần được chi từ ngân sách sự nghiệp BVMT, trong đó có xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, quy trình kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật, chương trình, đề án BVMT và ĐDSH (Luật ĐDSH không có quy định nguồn ngân sách sự nghiệp BVMT chi cho các hoạt động ĐDSH).      28. Thanh tra về môi trường Các quy định về thanh tra môi trường đã được biên soạn lại để phù hợp với Luật Thanh tra và Luật Xử lý vi phạm hành chính. Luật BVMT 2005 quy định thanh tra BVMT thuộc Bộ TN&MT phối hợp với thanh tra chuyên ngành BVMT của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an để kiểm tra, thanh tra việc BVMT của các đơn vị trực thuộc.      29. Xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường Luật BVMT 2014 có quy định mới về nguyên tắc xử lý trách nhiệm đối với tổ chức và cá nhân gây ô nhiễm môi trường (Điều 164), trong đó quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trực tiếp của tổ chức phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật về BVMT của tổ chức mình.      30. Thời hiệu khởi kiện Theo quy định của pháp luật, thời hiệu khởi kiện là 2 năm, kể từ khi xuất hiện hành vi bị khởi kiện. Đối với lĩnh vực môi trường, thời hiệu khởi kiện như trên là không hợp lý vì trong nhiều trường hợp, hậu quả của ô nhiễm môi trường đối với con người xuất hiện sau hàng năm, thậm chí hàng chục năm như dị tật bẩm sinh, ung thư. Vì vậy, tại Khoản 3 Điều 162, Luật BVMT 2014, thời hiệu khởi kiện về môi trường được tính từ thời điểm tổ chức, cá nhân bị thiệt hại phát hiện được thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường của tổ chức, cá nhân khác. Nghĩa là thời hiệu khởi kiện được mở rộng đến mức không có giới hạn.

(Nguồn: Tạp chí Môi trường, số 7/2014)

Bảo Vệ Môi Trường Là Gì ? Phân Tích Về Hiện Trạng Bảo Vệ Môi Trường ?

1. Quy định chung về bảo vệ môi trường

Trong các lĩnh vực địa lí, lí học, sinh học, y học…, bảo vệ môi trường được hiểu là tập hợp các biện pháp giữ gìn, sử dụng hoặc phục hồi một cách hợp lí sinh giới (vi sinh vật, thực vật, động vật) và môi sinh (đất, nước, không khí, lòng đất, khí hậu…), nghiên cứu thử nghiệm thiết bị sử dụng tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ không có hoặc ít có phế liệu… nhằm tạo ra một không gian tối ưu cho con người.

Với tư cách là thuật ngữ pháp lí, bảo vệ môi trường được hình thành vào giữa thế kỉ XX, ở các nước có nền công nghiệp phát triển. Thời gian đầu, bảo vệ môi trường chỉ được hiểu đồng nghĩa với bảo tồn, sau đó nội dung được mở rộng bao gồm cả việc khai thác, sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên và cải thiện môi trường sống của con người và hệ sinh vật.

Ngày nay, các nhà khoa học còn cho rằng, môi trường không chỉ được hiểu là môi trường tự nhiên mà còn bao gồm cả môi trường xã hội – là các điều kiện về tinh thần và văn hoá… phục vụ cho Cuộc sống con người được thoải mái. Tuy nhiên, pháp luật môi trường hiện hành chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tự nhiên, bao gồm: các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên.

Tại Luật bảo vệ môi trường năm 2005, hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động nhằm làm cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái; phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lí và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học. Như vậy, bảo vệ môi trường vừa được hiểu là bảo vệ chất lượng môi trường nói chung, vừa bảo vệ chất lượng của từng thành phần môi trường như bảo vệ đất, bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ đa dạng sinh học…

Bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung của tất cả mọi người và của mọi quốc gia, không phân biệt hình thức chính thể, chế độ chính trị và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước.

Bảo vệ môi trường được thực hiện bằng việc áp dụng tổng hợp các biện pháp khác nhau như biện pháp tổ chức – chính trị, biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học – công nghệ, biện pháp tuyên truyền, giáo dục, biện pháp pháp lí…

Bảo vệ môi trường có thể tiến hành theo nhiều cấp độ khác nhau, gồm: cấp cá nhân, cấp cộng đồng, cấp địa phương, vùng, cấp quốc gia, cấp tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu.

Môi trường hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay là quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cổ môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người trước những sự trả thù ghê gớm của thiên nhiên. Nguy cơ môi trường đặc biệt nóng bỏng ở các quốc gia đang phát triển – nơi nhu cầu cuộc sống hàng ngày của con người và nhu cầu phát triển của xã hội xung đột mạnh mẽ với sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Việt Nam đúng trong hàng ngũ của các quốc gia đang phát triển và cũng đang phải đổi đầu với vấn đề môi trường.

Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tổ cùa môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong những biện pháp mà Nhà nước sử dụng, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện và vai trò ngày càng tăng của các quy định pháp luật về môi trường kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường là biểu hiện rõ nét về sự cấp bách của vấn đề môi trường và dẫn đến hệ quả tất yếu là phải đào tạo, giáo dục công dân nhũng kiến thức về pháp luật môi trường.

2. Môi trường là gì ?

Môi trường là khái niệm có nội hàm vô cùng rộng và được sử dụng ứong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong cuộc sống người ta dùng nhiều khái niệm môi trường như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường giáo dục… Môi trường theo định nghĩa thông thường là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy”; là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực thể”. Định nghĩa tương tự về môi trường như định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường năm 1993 có thể tìm thấy trong Chương trình hành động của Cộng đồng châu Âu về môi trường.

Môi trường sử dụng trong lĩnh vực khoa học pháp lí là khái niệm được hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Điều 1 Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kì họp thứ 7 thông qua ngày 23/6/2014 định nghĩa môi trường “là hệ thống các yếu tổ vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Như vậy, theo cách định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên và dĩ nhiên mối quan hệ giữa con người với nhau tạo thành trung tâm đó chứ không phải mối liên hệ giữa các thành phần khác của môi trường.

Môi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất. Trong số đó những yếu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh, các hệ thực vật, hệ động vật có ý nghĩa đặc biệt và quan ttọng hom cả. Những yếu tố này được coi là những thành phần cơ bản của môi trường. Chúng hình thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng trong chừng mực nhất định.

Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo. Những yếu tổ này do con người tạo ra nhằm tác động tới các yếu tố thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình, như: hệ thống đê điều, các công trình nghệ thuật, các công trình văn hoá kiến trúc mà con người từ thế hệ này sang thế hệ khác dựng nên.

Môi trường hiện tại đang có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc biệt là những yếu tố mang tính tự nhiên như nước, đất, không khí, hệ thực vật, hệ động vật. Tình trạng môi trường thay đổi theo chiều hướng xấu đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu cũng như trong phạm vi mỗi quốc gia.

3. Hiện trạng bảo vệ môi trường

– Sự thay đổi của khí hậu toàn cầu dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: rừng bị tàn phá, đặc biệt là các khu vực rừng nhiệt đới ở Nam Mỹ và châu Á; sự gia tăng của chất thải chứa khí CFCs ở mức độ lớn; sự gia tăng của dân số và tác động của nó tới các thành phần môi trường. Toàn bộ những yếu tố nêu ttên đã góp phần làm cho không khí nóng lên, dẫn đến những thay đổi bất thường của khí hậu.

– Một trong những biến đổi của thiên nhiên gây tác động xấu đến môi trường một cách đáng lo ngại là những thảm hoạ thiên nhiên trong cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI. Những ttận động đất, sạt lở đất, những trận địa chấn gây những đợt sóng thần mạnh như sóng thần Tsunami ở Đông Nam Á và Đông Á vừa qua đã để lại những hậu quả rất lớn đối với môi trường. Những đợt núi lửa trào phun ở lòng đại dương như vừa diễn ra có thể khiến ữong nước biển chứa những độc tố, dẫn đến sự huỷ hoại hoặc nhiễm độc các loại hải sản. Dịch bệnh do những thảm hoạ thiên nhiên mang lại cũng chứa đựng các nguy cơ lớn đối với các loài thực vật và động vật ưên cạn. Các nhà khoa học cảnh bảo về thảm hoạ môi trường sẽ diễn ra sau thảm hoạ sóng thần Tsunami.

– Một thay đổi đáng lo ngại khác của môi trường là sự suy giảm của tầng ôzôn. Tầng ôzôn được coi là vỏ bọc, là chiếc áo giáp của trái đất, “là tầng ôzôn khí quyển bên ngoài tầng biên hành tinh” (Điều 1 Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn). Sự tồn tại của tầng ôzôn có ý nghĩa quan trọng đối với trái đất ở trên nhiều phương diện. Thứ nhất, nó ngăn không cho các tia cực tím trong vũ trụ xâm nhập trái đất, gây những tác hại cho con người và các hệ sinh thái; thứ hai, nó đóng vai trò của lớp áo trái đất, ngăn cho bầu khí quyển bao quanh trái đất không nóng lên bởi năng lượng mặt hời. Với những lí do đó, sự suy giảm hoặc những lỗ thủng của tàng ôzôn sẽ tạo ra những biến đổi xấu của môi trường ưên trái đất.

– Chất thải là vấn đề mà môi trường thế giới đang phải đối mặt. Sự gia tăng dân số, sự gia tăng nhu cầu sản xuất tiêu dùng dẫn đến sự gia tăng chất thải. Các quốc gia, các cộng đồng đều có chất thải mà nếu không xử lí thì chỉ có thể thải vào môi trường. Một số quốc gia phát triển đã lợi dụng sự thiếu thốn của các quốc gia nghèo tìm cách xuất khẩu vào đó những chất thải, đặc biệt là chất thải rắn, chất thải nguy hại.

– Sự suy giảm của nhiều loại thực vật, sự diệt vong của nhiều loại động vật cũng là vấn đề môi trường cấp bách. Môi trường là tổng họp các hệ sinh thái có mối liên hệ mật thiết với nhau. Sự tồn tại của hệ sinh thái này là điều kiện để giữ sự cân bằng của hệ sinh thái khác, sự tồn tại cùa loài động vật này chính điều kiện cân bằng môi trường cho các loại động vật khác. Đáng tiếc là ở nhiều quốc gia ữên thế giới, nhiều loại động vật và thực vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do sự khai thác quá mức của con người. Ví dụ: đàn voi của châu Phi đã giảm xuống đến mức báo động; loài tê giác bây giờ chỉ còn không đáng kể ở Việt Nam; loài hổ ở ân Độ cũng đang ở trong nguy cơ bị tuyệt chủng…

Tình trạng môi trường của Việt Nam cũng có những nét chung của môi trường thế giới và cũng có những nét riêng do hoàn cảnh lịch sử và sự phát triển của đất nước qua các giai đoạn khác nhau. Có nhiều mặt, có nhiều yếu tố, thực trạng môi trường của Việt Nam còn xấu hơn ở nhiều nước trên thế giới.

Việc môi trường bị huỷ hoại diễn ra do nhiều yếu tố khác nhau. Mỗi thành tố của môi trường chịu sự tác động của một hoặc một vài nhân tố khác nhau đồng thời cũng chịu tác động trực tiếp lẫn nhau. Trong số các nhân tố ảnh hường đến môi trường sống của con người cần phải kể đến việc gây ô nhiễm, việc đô thị hoá, phát triển công nghiệp, phá rừng, khai thác tài nguyên bừa bãi.

Cũng như nhiều quốc gia khác ttên thế giới, Việt Nam đang đối mặt với mâu thuẫn giữa phát triển và bảo vệ môi trường. So vói nhiều nước khác, vấn đề môi trường ở Việt Nam đang nằm ttong trạng thái báo động cấp bách hơn. Điều này được lí giải bởi nhiều nguyên nhân khác nhau:

– Trước hết, cũng như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam có xu hướng xuất khẩu tài nguyên rừng, khoáng sản để đáp ứng những nhu cầu công nghiệp hoá hoặc trả các món nợ nước ngoài. Việc khai thác tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng và khoáng sản thiếu quy hoạch, khai thác không tính đến khả năng tái sinh các nguồn tài nguyên này đã dẫn đến những huỷ hoại nghiêm trọng về môi trường. Nhiều địa phương, nhiều vùng trong cà nước đã để cho những cánh rừng bị tàn phá nghiêm ttọng do khai thác gỗ thiếu quy hoạch, do phá rừng để lấy chất đốt hoặc lấy đất canh tác. Bên cạnh đó, việc khai thác đá quý, vàng hoặc các sàn phẩm lâm nghiệp quý cũng đã gây nên sự huỷ hoại môi trường ở nhiều vùng khác nhau.

– Do thiếu công nghệ tiên tiến và các nguồn tài chính cần thiết nên một khối lượng rất lớn các chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt chưa được xử lí. Phần lớn các chất thài được đưa xuống sông, hồ đã tạo nên những hồ chết, sông chết. Sông Tô Lịch ờ Hà Nội, các kênh rạch ở thành phố Hồ Chí Minh đã ô nhiễm đến mức không có sinh vật nào sống nổi trong dòng nước của những kênh rạch đó. Nhiều khu dân cư phải sống ưong những môi trường ô nhiễm nặng. Không khí ở các thành phổ và thị trấn đã bị ô nhiễm tới mức đáng lo ngại. Tất cả những điều này đã tác động xấu đến sức khoẻ của toàn thể cộng đồng.

– Những cuộc ném bom huỷ diệt, đặc biệt là những ttận rải chất độc màu da cam mà Mỹ thực hiện trong cuộc chiến ưanh xâm lược Việt Nam đã tàn phá nặng nề môi trường. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã trút xuống đất nước ta hàng chục triệu tấn bom đạn các loại, hàng nghìn tấn chất độc màu da cam. Nhiều khu rừng, nhiều vùng đất phải bị tàn phá nặng nề và rất khó được khôi phục trở lại. Những hậu quả mà chiến tranh để lại cho môi trường là hết sức nặng nề.

– Ý thức bảo vệ môi trường của phần lớn các tầng lớp trong dân cư vẫn còn thấp. Những khó khăn về đời sống kinh tế, những nhu cầu sinh hoạt trước mắt đã làm cho người dân không thấy hết những tác hại của việc môi trường sống bị huỷ diệt, nhất là không thấy hết sự suy thoái của các yếu tổ như rừng, nước và không khí. Phần lớn dân cư vẫn quan niệm rằng rừng, nước, không khí là vô tận, là của trời sinh. Hiện tượng xả rác bừa bãi hiện đang còn rất phổ biến ở các đô thị và nông thôn nước ta.

– Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa thực sự chú trọng đến việc bảo vệ môi trường. Chỉ mãi tới những năm cuối của thập kỉ thứ 10 của thế kỉ XX thì vấn đề bảo vệ môi trường mới bắt đầu thực sự được pháp luật điều chỉnh. Tuy Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về môi trường song việc triển khai thực hiện chúng chưa triệt để. Chẳng hạn các quy định về bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước chống lại sự khai thác rừng bừa bãi hay việc huỷ hoại bởi các chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp chưa được thực hiện triệt để. Các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng chưa thực sự chú ý đến vấn đề môi trường, coi đó là vấn đề thứ yếu ứong các kế hoạch kinh doanh hay kế hoạch hành động của mình.

Một trong những nguyên nhân quan ttọng khác quyết định tính chất cấp bách của vấn đề môi trường là sự gia tăng và bùng nổ dân số ở nhiều vùng vùng, nhiều nơi trong cả nước. Vào những năm đầu của thập kỉ thứ 7 của thế kỉ XX, dân số nước ta có hơn 30 triệu song chỉ gần 40 năm sau đã đạt tói 75 triệu, tăng gấp hơn 2 lần. Sự phát triển dân số ào ạt đã mâu thuẫn với diện tích đất và tài nguyên thiên nhiên có hạn. Dân số tăng làm cho các nhu cầu của con người đối với tài nguyên thiên nhiên, đối với môi trường vốn không phải là vô tận đã dẫn đến sự gia tăng của các yếu tố gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường.

– Thiếu định hướng và sự kiểm soát cần thiết đối với hoạt động của con người trong môi trường cũng là nguyên nhân của tình trạng môi trường ô nhiễm và suy thoái. Mặc dù việc định hướng và kiểm soát hoạt động của con người được thực hiện chủ yếu thông qua các công cụ pháp luật và chính sách song vai trò của dư luận xã hội, của giáo dục cộng đồng cũng cần phải được coi ttọng. Đáng tiếc là những công cụ định hướng và kiểm tta mang tính xã hội rộng rãi chưa được sử dụng triệt để ttong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta.

Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam đậc biệt quan tâm. Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 do Đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX thông qua, vấn đề môi trường được nhấn mạnh: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”.

3. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và các cấp độ bảo vệ môi trường

Nguy cơ môi trường bị huỷ hoại với những hậu quả nghiêm trọng của nó đã buộc các quốc gia chú ý hơn tới những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường. Nhiều biện pháp kinh tế, xã hội, tổ chức được triển khai nhằm thực hiện việc bảo vệ có hiệu quả môi trường. Nhiều quốc gia đã thực hiện việc giảm hoặc miễn thuế đối vói kinh doanh ưồng rừng, miễn thuế đối với các chi phí đầu tư vào các biện pháp bảo vệ môi trường, áp dụng việc đánh giá tác động môi trường đôi với các dự án đầu tư, dự án sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân ttong nước. Nhiều trung tâm nghiên cứu môi trường được thành lập để nghiên cứu các tác động của môi trường và các biện pháp đối phó nhằm giảm thiểu những hậu quả tiêu cực mà sự trả thù của môi trường có thể mang lại. Những quyết định của Chính phủ về đóng cửa rừng, về việc khoảnh vùng các khu bảo tồn thiên nhiên, lập vườn quốc gia đã góp phần đáng kể trong việc ngăn cản sự huỷ hoại môi trường.

Bảo vệ môi trường là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia và vì thế nó được thực hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau.

– Cấp độ cá nhân: Môi trường có ảnh hưởng tới bất cứ cá nhân nào. Vì vậy việc bảo vệ môi trường phải được coi là công việc của từng cá nhân. Mỗi cá nhân có trách nhiệm thực hiện đúng những quy định của pháp luật, các quy tắc của cộng đồng để giữ gìn môi trường sống. Việc phát huy hoạt động bảo vệ môi trường ở cấp độ cá nhân hiện nay cần được chú trọng. Quan niệm cho rằng bảo vệ môi trường là công việc của các cơ quan quản lí, các tổ chức bảo vệ môi trường đã dẫn đến sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với môi trường. Chính vì lí do này mà nhiều khu rừng nguyên sinh bị cháy, bị khai thác đến mức huỷ hoại bởi những cá nhân. Các hành động riêng lẽ của cá nhân có thể góp phần bảo vệ tốt môi trường và cũng có thể làm tổn hại đến môi trường. Giải pháp cơ bản cho việc nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường ở cấp độ cá nhân nằm ở việc giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của môi trường.

– Cấp độ cộng đồng: Cộng đồng là tập thể người có gắn kết với nhau bằng những yếu tố kinh tế, xã hội hoặc tổ chức, chính ttị. Tồn tại dưới bất cứ hình thức nào, gắn kết với nhau bằng những yếu tố nào, các cộng đồng đều phải quan tâm và bảo vệ môi trường vì lợi ích của chính mình. Ở cấp độ cộng đồng, các biện pháp giáo dục, các hành động tập thể cần được đặc biệt chú trọng. Vai trò của cộng đồng đối vói việc bảo vệ môi trường là vô cùng to lớn. Cộng đồng, nhất là cộng đồng làng, bản có mối liên hệ mật thiết với môi trường với nhiều lợi ích ràng buộc. Sự thống nhất và ràng buộc bởi lợi ích chung này là nền tảng quan trọng cho việc huy động cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Nhiều cộng đồng đã đưa ra các quy tắc, các chương trình và biện pháp khác nhằm nhằm bảo vệ môi trường. Một trong những biện pháp pháp thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng vào việc bảo vệ môi trường là sự phân phối công bằng các nguồn tài nguyên môi trường.

– Cấp độ địa phương, vùng: Do đậc điểm của môi trường, đặc biệt là các yếu tố môi trường như nước, không khí, việc bảo vệ môi trường sẽ trở nên có hiệu quả nếu được thực hiện ở phạm vi lớn hơn vói sự tham gia của nhiều cộng đồng hơn. Hiện nay, ở Việt Nam việc bảo vệ môi trường ở cấp độ địa phương được thực hiện theo nguyên tắc địa giới hành chính. Cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện việc bảo vệ môi trường là cơ quan hành chính nhà nước địa phương.

– Cấp độ quốc gia: Việc bảo vệ môi trường ở cấp độ quốc gia được thực hiện thông qua hoạt động quản lí thống nhất của Nhà nước trung ương. Nhà nước thông qua các công cụ và hình thức khác nhau để thực hiện việc bảo vệ môi trường, cấp độ quốc gia về bảo vệ môi trường được xem xét kĩ trong toàn bộ giáo trình này.

– Cấp độ quốc tế: Thế giới hiện nay đang chứng kiến những cố gắng lớn lao của nhân loại trong việc bảo vệ môi trường. Các tổ chức, các công ước quốc tế làn lượt ra đời để bảo vệ môi trường ở cấp độ quốc tế. Phần này sẽ được xem xét kĩ hơn trong các chương XIV, XV của giáo trình này.