Định Nghĩa Nhà Nước Là Gì / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Định Nghĩa Đất Hnk Là Gì Theo Quy Định Của Nhà Nước?

Đất HNK là gì? Mục đích sử dụng đất HNK

Theo quy định của luật đất đai 2013, tại Việt Nam đất đai được chia làm 3 nhóm là đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Đất HNK thuộc nhóm thứ 1 là đất nông nghiệp.

Đất nông nghiệp theo quy định là loại đất là loại đất được Nhà nước giao cho người dân để phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng..v..v. Là tư liệu sản xuất chủ yếu vừa là tài liệu lao động vừa là đối tượng lao động, đặc biệt không thể thay thế của ngành nông – lâm nghiệp.

Trong nhóm đất nông nghiệp thì ngoài đất HNK có thể kể đến các loại đất như: đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại, đất lúa nương, đất bằng trồng cây hàng năm, đất nương rẫy trồng cây hằng năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác,……

Tìm hiểu đất HNK là gì? Thì đây là loại đất được sử dụng để trồng các cây nông nghiệp ngắn hạn có thời gian gieo trồng và thu hoạch dưới 1 năm như lúa, mía, ngô, khoai,….

Tham khảo bảng giá mua bán đất nông nghiệp hiện nay:

Đất HNK có thể xây nhà được không?

Sau khi tìm hiểu được định nghĩa loại đất HNK là gì và mục đích sử dụng thì người dùng đều có một thắc mắc là có thể dùng đất HNK để xây nhà, lên thành đất thổ cư được không?

Theo quy định của nhà nước thì đấy trồng cây lâu năm có thể được sử dụng làm đất thổ cư. Nếu bạn muốn chuyển thành đất thổ cư thì phải làm theo các điều luật của nhà nước trong bộ luật đất đai năm 2013.

Các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép bao gồm:

Chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối;

Chuyển đất trồng cây hàng năm khác sang đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, đất làm muối, đất nuôi trồng thủy sản dưới hình thức ao, hồ, đầm;

Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất sang sử dụng vào mục đích khác trong nhóm đất nông nghiệp;

Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp;

Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất;

Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở;

Chuyển đất xây dựng công trình sự nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích kinh doanh, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại, dịch vụ sang đất thương mại, dịch vụ; chuyển đất thương mại, dịch vụ, đất xây dựng công trình sự nghiệp sang đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp.

Đất HNK khác đất CLN như thế nào?

Khi so sánh đất HNK khác đất CLN như thế nào thì bạn phải nắm chắc loại cây được trồng cho hai loại đất này.

Đất HNK chỉ trồng những cây nông nghiệp lâu năm, khai khác dài hạn trên 1 năm còn đất CLN thì ngược lại, chỉ trồng các cây ngắn hạn, thu hoạch theo mùa vụ, hết mùa thì phá bỏ trồng đợt khác.

Cả hai loại đất cùng thuộc nhóm đất nông nghiệp, theo như phân tích ở trên thì bạn hoàn toàn có thể chuyển đổi đất HNK và CLN thành đất thổ cư nếu thực hiện theo các hướng dẫn trên.

Nếu bạn còn thắc mắc về đất HNK chưa được giải đáp thì hãy liên hệ ngay với chúng tôi. Bạn cũng có thể tham khảo được những lô đất HNK bán với mức giá tốt nhất hiện nay.

Định Nghĩa Lại Về Doanh Nghiệp Nhà Nước

Sự giám sát của các cổ đông độc lập trong các doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu tình trạng tay phải bao che cho tay trái, chân ngoài đỡ chân trong. Nhờ vậy, sẽ bớt đi rất nhiều tình trạng tư túi, lợi ích xảy ra ở hầu hết các khâu trong quy trình đầu tư tại nhiều doanh nghiệp nhà nước.

Về vạch xuất phát Dù bản dự thảo vẫn giữ khái niệm “doanh nghiệp nhà nước” là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm trên 50% vốn” nhưng khi Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2014 chính thức được thông qua, định nghĩa đã thay đổi. Theo Điểm 8, Điều 4 của luật này, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Đương nhiên, thay đổi dù chỉ một vài từ cũng đều bắt nguồn từ căn cớ sâu xa.

Sau khi nhìn lại, dư luận nhận ra rằng, cùng với việc Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm xuống còn 718 doanh nghiệp, hoạt động ở 19 ngành, lĩnh vực và đa số có quy mô lớn vào cuối năm 2016. Dù việc cổ phần hóa vẫn bị đánh giá là chậm và chưa hiệu quả, đồng nghĩa, chúng ta chỉ giải quyết vấn đề này ở những doanh nghiệp nhỏ, thành tích vẫn chỉ được đo đếm bằng con số.

Đứng từ phía doanh nghiệp, quy định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đã tạo ra nhiều khoảng hở thênh thang cho lợi ích. Sự nhập nhèm giữa nhiệm vụ chính trị của một doanh nghiệp nhà nước với danh nghĩa doanh nghiệp thị trường khiến cho các doanh nghiệp “già nhà nước, non tư nhân” rộng cửa mặc cả. Trong khi đó, với vốn nhà nước có thể lên tới 99%, sự ưu ái cho doanh nghiệp dạng này khó có thể phủ nhận và cuối cùng, thua thiệt vẫn thuộc về người dân.

Tuy nhiên, cả hai luận điểm trên có thể chưa phải là nguyên nhân chính. Cũng khoảng thời gian nói trên, việc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) bước vào các vòng đàm phán cấp Bộ trưởng. Các cuộc thương thảo về các Hiệp định thương mại tự do với đối tác châu Âu cũng được tiến hành.

Đối với Việt Nam, nếu giảm được trên danh nghĩa và pháp lý số doanh nghiệp nhà nước, các nhà đàm phán đã có thể tự tin thuyết phục đối tác nước ngoài về những cải cách mà nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện. Mũi tên sau đó sẽ trúng hai đích, số lượng doanh nghiệp nhà nước chịu ràng buộc theo các hiệp định thương mại tự do sẽ giảm xuống, còn nền kinh tế Việt Nam được coi là năng động hơn, tiến dần hơn tới việc được công nhận là nền kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, sự rút lui vào giờ chót khỏi TPP của nước Mỹ đã khiến cho định chế thương mại này buộc phải thay tên đổi họ. Việt Nam tham gia vào Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với sự hào hứng không suy giảm. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp 2014 bỗng thành… lạc hậu bởi theo định nghĩa của CPTPP, doanh nghiệp nhà nước là một doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hơn 50% vốn, hoặc kiểm soát trên 50% quyền biểu quyết, hoặc giữ quyền chỉ định đa số thành viên ban quản trị hoặc bất kỳ bộ máy quản lý tương đương khác.

Nói như Tiến sĩ Lê Đăng Doanh khi trao đổi với NCĐT về vấn đề này, Việt Nam đã ký CPTPP và phải điều chỉnh khái niệm doanh nghiệp nhà nước để tuân thủ các điều khoản của thỏa thuận này. Quốc hội đã yêu cầu một sự điều chỉnh phù hợp và kịp thời, thể hiện tại Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thông qua ngày 15.6.2018.

Một số ý kiến khắt khe sẽ chỉ ra sự luẩn quẩn rồi lại trở về tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2003: doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó. Thế nhưng, vẫn thấy ngay rằng, Việt Nam đang đi đúng thông lệ của thế giới.

Mục tiêu quan trọng hơn Theo ông Nguyễn Hoàng Hải, Phó Chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), dù đã ghi nhận thay đổi nhưng khái niệm doanh nghiệp nhà nước vẫn cần: niêm yết minh bạch. Đó mới là sự hội nhập thật sự. Quả thật, đối với nền kinh tế Việt Nam hiện tại, minh bạch thông tin để các cổ đông và xã hội giám sát thì sẽ hóa giải nhiều vấn đề đang tồn tại.

Sẽ không còn những đại án gây thất thoát cả ngàn tỉ đồng xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nếu mọi thông tin đầu tư của đơn vị này đều đặt dưới con mắt giám sát của dư luận, đặc biệt là các nhà chuyên môn. Không ai dám cất lời kêu cứu, hứa hẹn dự án sẽ có lãi trong một tương lai xa xôi nào đó, bất chấp sự thật dự án dùng máy móc, thiết bị chưa vận hành đã thua lỗ triền miên như điều mà nhiều dự án trong 12 đại dự án thua lỗ của ngành Công Thương đã từng làm.

Ngoài ra, sự giám sát của các cổ đông độc lập trong các doanh nghiệp sẽ hạn chế tình trạng tư túi, làm lợi riêng. Năng lực lãnh đạo doanh nghiệp bắt buộc phải nâng cao, khi đó, chỉ còn ghế cho những người đủ năng lực, chấm dứt vĩnh viễn những điều tiếng cho rằng, nhiều doanh nghiệp nhà nước là “vườn ươm con quan”.

Trên thực tế, vấn đề trên chỉ là việc hiện thực hóa các chỉ đạo trong Nghị quyết 12-NQ/TW ngày 3.6.2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Tinh thần thể hiện trong nghị quyết này là bảo đảm tính minh bạch, công khai của doanh nghiệp nhà nước và trách nhiệm giải trình của người quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là về tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn của Nhà nước; tôn trọng cơ chế thị trường.

Thậm chí, việc tách bạch nhiệm vụ chính trị, xã hội và nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đã được đề cập để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thuộc khối này. Tiếc là, những chỉ đạo đúng đắn này lại chưa được các cấp thừa hành thực hiện nghiêm túc.

Như vậy, điểm nghẽn trong việc cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước lại nằm ở con người. Có vẻ như, không dễ dàng gì dứt khoát gạt bỏ mối lợi kiếm được từ việc trì hoãn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trả miếng bánh ngon về tay người chủ thực sự. Thế nhưng, sự chậm trễ này không chỉ ngăn cản việc phân bổ nguồn lực, đưa chúng tới các địa chỉ sinh lời tốt hơn mà còn ngăn cản sự trưởng thành theo chuẩn mức kinh tế thị trường của các thành phần kinh tế khác. Trong bối cảnh này, nền kinh tế Việt Nam đang rất cần một cây gậy quản lý không biết nhân nhượng.

Ngân Sách Nhà Nước Là Gì? Quản Lý Ngân Sách Nhà Nước

Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. (Theo Luật Ngân sách Nhà nước)

Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế, lịch sử gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và của hàng hóa, tiền tệ. Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực thực hiện duy trì và phát triển xã hội thường quy định các khoản thu mang tính bắt buộc các đối tượng trong xã hội phải đóng góp để đảm bảo chi tiêu cho bộ máy Nhà nước, quân đội, cảnh sát, giáo dục. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của các chế độ xã hội, nhiều khái niệm về ngân sách nhà nước đã được đề cập theo các góc độ khác nhau.

Trong thực tiễn hoạt động Ngân sách nhà nước là hoạt động thu (tạo thu) và chi tiêu (sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa một bên là Nhà nước với một bên là các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị.

2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước, được tiến hành dựa trên cơ sở những luật lệ nhất định.

Ngân sách nhà nước có tính pháp lý cao

Hoạt động của ngân sách nhà nước nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng và toàn bộ nền kinh tế xã hội

Ngân sách nhà nước bao gồm nhiều quỹ tiền tệ khác nhau

Chi ngân sách nhà nước là gì? Chi của ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Thực chất chi ngân sách Nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của Nhà nước.

4. Các khoản chi Ngân sách nhà nước

Trong các nền kinh tế thị trường và ở nước ta hiện nay, cách phân loại nội dung chi tiêu ngân sách Nhà nước theo tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng phổ biến. Đây cũng là cách phân loại quan trọng nhất,nó trình bày nội dung chi tiêu của Chính phủ để qua đó người ta có thể nhận rõ và phân tích, đánh giá những chính sách, chương trình của Chính phủ thông qua các kinh phí để thực hiện các chương trình, chính sách đó.

Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách Nhà nước được chia ra các nội dung sau đây:

Chi thường xuyên gồm có:

Chi về chủ quyền quốc gia: Tức là các chi phí mà các cơ quan Nhà nước cần phải thực hiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhất là trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao, thông tin đại chúng…

Chi phí do sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội để cải thiện đời sống nhân dân. Những chi phí này thuộc loại chi phí chuyển nhượng, như: Trợ cấp cho các cơ quan Nhà nước để thực hiện các hoạt động sự nghiệp, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội, hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội, trả lãi, nợ của Chính phủ.

Chi mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ.

Chi xây dựng mới và tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị.

Chi cho việc thành lập các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn vào các công ty, góp vốn vào các đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh.

Các chi phí chuyển nhượng đầu tư.

Ngoài ra, còn có thể phân loại chi ngân sách Nhà nước theo cãc ngành kinh tế, theo tính chất của quá trình tái sản xuất xã hội.

5. Quản lý chi Ngân sách nhà nước

Quản lý chi Ngân sách nhà nước là quá trình thực hiện có hệ thống các biện pháp phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung nhằm phục vụ chi tiêu cho bộ máy và thực hiện các chức năng của Nhà nước.

Thực chất quản lý chi Ngân sách nhà nước là quá trình sử dụng các nguồn vốn chi tiêu của Nhà nước từ khâu lập kế hoạch đến khâu sử dụng ngân sách đó nhằm đảm bảo quá trình chi tiết kiệm và hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của thực tế đang đặt ra theo đúng chính sách chế độ của nhà nước phục vụ các mục tiêu KT-XH.

Vấn đề quan trọng trong quản lý chi Ngân sách nhà nước là việc tổ chức quản lý giám sát các khoản chi sao cho tiết kiệm và có hiệu quả cao, muốn vậy cần phải quan tâm các mặt sau:

Quản lý chi phải gắn chặt với việc bố trí các khoản chi làm cơ sở cho việc quản lý xây dựng quy chế kiểm tra, kiểm soát.

Bảo đảm yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí và quản lý các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước.

Quản lý chi phải thực hiện các biện pháp đồng bộ, kiểm tra giám sát trước, trong và sau khi chi.

Phân cấp quản lý các khoản chi cho các cấp chính quyền địa phương và các tổ chức trên cơ sở phải phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển KT-XH của các cấp theo luật ngân sách để bố trí các khoản chi cho thích hợp.

Quản lý chi ngân sách phải kết hợp quản lý các khoản chi ngân sách thuộc vốn nhà nước với các khoản chi thuộc nguồn của các thành phần kinh tế để tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả chi.

Quản lý chi ngân sách nhà nước là hoạt động không thể thiếu ở mọi quốc gia, hoạt động này không chỉ giúp tiết kiệm những khoản chi không cần thiết mà còn hạn chế tình trạng thâm hụt ngân sách, tham ô, đục khoét.

Theo qui định của Luật NSNN, quản lý NSNN nói chung cần tuân thủ các nguyên tắc sau:

6.1. Nguyên tắc đầy đủ, trọn vẹn

Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của quản lý NSNN. Nội dung của nguyên tắc này là: Mọi khoản thu, chi phải được ghi đầy đủ vào kế hoạch NSNN, mọi khoản chi phải được vào sổ và quyết toán rành mạch. Chỉ có kế hoạch NS đầy đủ, trọn vẹn mới phản ánh đúng mục đích chính sách và đảm bảo tính minh bạch của các tài khoản thu, chi.

Nguyên tắc quản lý này nghiêm cấm các cấp, các tổ chức nhà nước lập và sử dụng quỹ đen. Điều này có ý nghĩa rằng mọi khoản thu chi của NSNN đều phải đưa vào kế hoạch NS để Quốc hội phê chuẩn, nếu không việc phê chuẩn ngân sách của Quốc hội sẽ không có căn cứ đầy đủ, không có giá trị.

6.2. Nguyên tắc thống nhất trong quản lý NSNN

Nguyên tắc thống nhất trong quản lý NSNN bắt nguồn từ yêu cầu tăng cường sức mạnh vật chất của Nhà nước. Biểu hiện cụ thể sức mạnh vật chất của Nhà nước là thông qua hoạt động thu – chi của NSNN. Nguyên tắc thống nhất trong quản lý NSNN nước được thể hiện:

Mọi khoản thu – chi của NSNN phải tuân thủ theo những quy định của Luật NSNN, phải được dự toán hàng năm và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Tất cả các khâu trong chu trình NSNN khi triển khai thực hiện phải đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực, ở Trung ương là Quốc hội, ở địa phương là Hội đồng nhân dân.

Hoạt động NSNN đòi hỏi phải có sự thống nhất với hoạt động kinh tế, xã hội của quốc gia. Hoạt động kinh tế, xã hội của quốc gia là nền tảng của hoạt động NSNN. Hoạt động NSNN phục vụ cho hoạt động kinh tế, xã hội, đồng thời là hoạt động mang tính chất kiểm chứng đối với hoạt động kinh tế, xã hội.

6.3. Nguyên tắc cân đối Ngân sách

Về mặt chính sách, thu – chi NSNN là một chương trình hoạt động của Chính phủ được cụ thể hoá bằng số liệu. NSNN phải được quản lý rành mạch, công khai để mọi người dân có thể biết nếu họ quan tâm. Nguyên tắc công khai của NSNN được thể hiện trong suốt chu trình và phải được áp dụng cho tất cả các cơ quan tham gia vào chu trình NSNN.

6.5. Nguyên tắc rõ ràng, trung thực, chính xác

Nguyên tắc này là cơ sở, tạo tiền đề cho mỗi người dân có thể nhìn nhận được chương trình hoạt động của Chính quyền địa phương và chương trình này phải được phản ánh ở việc thực hiện chính sách tài chính địa phương.

Nguyên tắc này đòi hỏi NSNN được xây dựng rành mạch, có hệ thống; Các dự toán thu, chi phải được tính toán một cách chính xác và phải đưa vào kế hoạch NS; Không được che đậy và bào chữa đối với tất cả các khoản thu, chi NSNN; Không được phép lập quỹ đen, NS phụ.

Định Nghĩa Bookie / Nhà Cái Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

Một người chuyên tạo điều kiện cho người khác được chơi cờ bạc, thường là trong các sự kiện thể thao, bằng cách đặt tỷ lệ cá cược, chấp nhận giao kèo, đặt cược và trả tiền thắng cược thay cho người khác. “Bookie” là một thuật ngữ tiếng lóng của “người cá cược”. Các nhà cái thường không kiếm tiền thông qua tự đặt cược mà bằng cách tính phí giao dịch trên những lần đặt cược của khách hàng mà được biết đến như là “vigorish” hay “the vig”. Các nhà cái cũng có cho người đặt cược vay tiền. 

Giải thích

Các hình thức đánh bạc được các nhà cái kích hoạt không phải lúc nào cũng hợp pháp. Đặt cược và cá cược thông qua nhà cái cũng có thể được coi là bất hợp pháp. Tính hợp pháp của các loại trò chơi cờ bạc khác nhau được xác định bởi chính phủ Tiểu Bang (Mỹ). Một số người đã từng gọi nhà môi giới của họ là nhà cái do hoa hồng phải trả cho họ là rất lớn và sự nài nỉ của họ để được tham gia giao dịch một cách đều đặn.