Định Nghĩa Just In Time / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | 2atlantic.edu.vn

Sản Xuất Tức Thời (Just In Time

Định nghĩa

Sản xuất tức thời trong tiếng Anh là Just in time, viết tắt là JIT. JIT là một khái niệm trong sản xuất hiện đại, được hiểu ngắn gọn nhất “đúng sản phẩm – đúng số lượng – đúng nơi – đúng thời điểm cần thiết”.

Bản chất và ý nghĩa

– JIT là một hệ thống điều hành sản xuất mà trong đó các luồng nguyên nhiên vật liệu, hàng hóa và sản phẩm lưu hành trong quá trình sản xuất và phân phối được lập kế hoạch chi tiết nhất trong từng bước, sao cho qui trình tiếp theo có thể thực hiện ngay khi qui trình hiện thời chấm dứt.

– Qua đó, không có hạng mục nào trong quá trình sản xuất rơi vào tình trạng để không, chờ xử lí, không có nhân công hay thiết bị nào phải đợi để có đầu vào vận hành. Hệ thống JIT cho phép hệ thống sản xuất vận hành hiệu quả nhất, tránh lãng phí không cần thiết.

Mục tiêu của JIT

– Mục đích cơ bản của JIT là cân bằng hệ thống, có nghĩa là đảm bảo dòng dịch chuyển đều đặn, liên tục trong suốt hệ thống.

– Làm thời gian thực hiện càng ngắn và sử dụng nguồn lực càng tốt là cách thức đạt được sự cân bằng với ba mục tiêu chính:

+ Loại bỏ sự gián đoạn: sự gián đoạn tác động ngược lại đối với hệ thống trong việc làm đều đặn dòng dịch chuyển sản phẩm và vì thế nó cần được loại bỏ. Nguyên nhân chủ yếu gây gián đoạn đó là do các yếu tố hư hỏng thiết bị, thay đổi tiến độ hay cung ứng chậm trễ.

+ Làm cho hệ thống linh hoạt: tính linh hoạt của hệ thống giúp tăng khả năng sản xuất, đảm bảo sự cân đối của nguồn lực. Hệ thống cần có những khả năng thích ứng với những thay đổi.

+ Loại bỏ sự lãng phí: sự lãng phí thể hiện ở việc sử dụng không hiệu quả các nguồn lực. Theo JIT thì có 7 lãng phí sau:

* Lãng phí do sản xuất dư thừa hoặc quá sớm

* Lãng phí do chờ đợi

* Lãng phí do vận chuyển

* Lãng phí do lưu kho nhiều

* Lãng phí vật tư trong quá trình sản xuất

* Lãng phí do phế phẩm.

* Lãng phí do các động tác hoặc hoạt động thừa.

Các nội dung trong sản xuất tức thời – JIT

(1) Tồn kho thấp

(2) Kích thước lô hàng nhỏ

(3) Bố trí mặt bằng hợp lí

(4) Sửa chữa và bảo trì định kì

(5) Sử dụng công nhân đa năng

(6) Sử dụng hệ thống “kéo”

(7) Cải tiến liên tục

Vai Trò Just In Time Là Gì Trong Ngành Quản Trị Sản Xuất

Việc làm Sản xuất – Vận hành sản xuất

1. Khám phá định nghĩa của just in time

Just in time (JIT) là một thuật ngữ chuyên ngành trong môi trường sản xuất hiện đại, áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến như hiện nay. Just in time còn được hiểu là: sản xuất đúng sản phẩm, sản phẩm ấy phải vừa đủ số lượng, đáp ứng được nhu cầu cần thiết và sản xuất đúng lúc. Đây là một phương pháp được nhiều công ty, doanh nghiệp áp dụng trong quy trình sản xuất cho các nhà máy để làm giảm thời gian sản xuất và đáp ứng kịp thời nhu cầu của các nhà cung cấp và khách hàng. Just in time bắt đầu xuất hiện trong những năm 60, 70 ở Nhật Bản, cụ thể hơn là Toyota.

Ngoài ra, sản xuất chỉ trong thời gian có hạn (just in time) là một chiến lược quản lý, sắp xếp các đơn đặt hàng nguyên liệu theo lịch trình sản xuất từ các nhà cung cấp trực tiếp. Các công ty sử dụng chiến lược tồn kho này để vừa tăng hiệu quả sản xuất, vừa giảm chất thải thông qua kế hoạch chỉ nhận mỗi hàng hóa hay nguyên liệu khi họ thực sự cần chúng cho quá trình sản xuất. Điều này có thể giảm bớt gánh nặng về các chi phí tồn kho. Just in time có tính chất quản lý ngược hơn so với các chiến lược khác. Nếu như những chiến lược khác đều ra sức nghĩ cách bán hàng, tiêu thụ sản phẩm thì just in time chủ yếu nắm giữ hàng tồn kho để cung cấp đủ số lượng sản phẩm và hấp thụ tối đa nhu cầu của thị trường.

Việc làm sản xuất – vận hành sản xuất tại Hà Nội

2. Vai trò chính của just in time là gì?

Sản xuất chỉ trong thời gian có hạn (JIT) còn được gọi là Hệ thống sản xuất Toyota (TPS) vì nhà sản xuất ô tô Toyota đã áp dụng chiến lược này vào những năm 1970.

Kanban là một hệ thống lập lịch thường được sử dụng cùng với JIT để tránh tình trạng quá tải công việc trong quá trình. Thành công của quy trình sản xuất just in time chủ yếu phụ thuộc vào quy trình sản xuất ổn định, tay nghề chất lượng cao, không có sự cố nào về máy móc và nhà cung cấp uy tín, có thể tin cậy được Cách thức hoạt động đúng lúc JIT đã giúp các nhà máy, công ty, doanh nghiệp hạn chế các trường hợp sản xuất quá tải, sản xuất sản phẩm với số lượng lớn, dẫn đến tình trạng thừa thãi, khó tiêu thụ hết. Sản xuất chỉ trong thời gian có hạn JIT cắt giảm chi phí tồn kho vì các nhà sản xuất không phải trả chi phí lưu trữ. Các nhà sản xuất cũng không phải để lại hàng tồn kho không mong muốn nếu nhận được một order “khó nhằn”.

Một ví dụ về vai trò của phương pháp just in time (JIT) là quá trình sản xuất xe ô tô của một công ty nọ. Một nhà sản xuất ô tô hoạt động với mức tồn kho thấp nhưng chủ yếu dựa vào chuỗi cung ứng của mình để cung cấp các bộ phận cần thiết để chế tạo ô tô, trên cơ sở khi cần thiết. Do đó, sau khi nhận được đơn đặt hàng, nhà sản xuất ô tô này chỉ đặt hàng vừa đủ các bộ phận cần thiết để lắp ráp xe.

3. Nhược điểm của just in time

Do đó, cần có sự cân nhắc đặc biệt để giải quyết nhược điểm này. Một trong những phương hướng giải quyết được đề ra là: “Lập kế hoạch Kanban just in time”. Kanban là một hệ thống lập kế hoạch của Nhật Bản thường được sử dụng cùng với sản xuất tinh gọn và just in time. Hệ thống làm nổi bật các khu vực có vấn đề bằng cách đo thời gian dẫn và chu kỳ trong toàn bộ quy trình sản xuất, giúp xác định các giới hạn trên đối với hàng tồn kho trong quá trình làm việc, để tránh tình trạng dư thừa.

Nổi tiếng với hệ thống kiểm kê just in time, vì vậy, Tập đoàn ô tô Toyota chỉ đặt hàng các bộ phận khi nhận được đơn đặt hàng xe mới. Mặc dù công ty đã tiến hành áp dụng phương pháp này vào những năm 1970, nhưng phải mất 15 năm để hoàn thiện nó. Đáng buồn thay, hệ thống kiểm kê just in time của Toyota suýt khiến công ty phải dừng hoạt động vào tháng 2 năm 1997, sau vụ hỏa hoạn tại nhà cung cấp phụ tùng ô tô thuộc sở hữu của Nhật Bản Aisin. Vụ hỏa hoạn đã làm suy giảm khả năng sản xuất van P cho xe của Toyota. Bởi vì Aisin là nhà cung cấp duy nhất của bộ phận này, việc ngừng hoạt động trong nhiều tuần đã khiến Toyota phải ngừng sản xuất trong vài ngày. Điều này gây ra hiệu ứng dây truyền, trong đó các nhà cung cấp phụ tùng khác của Toyota cũng phải tạm thời đóng cửa vì nhà sản xuất ô tô không có nhu cầu về các bộ phận của họ trong khoảng thời gian đó. Do đó, vụ cháy này đã tiêu tốn của Toyota 160 tỷ yên doanh thu.

4. Một số thuật ngữ hay được sử dụng trong chiến lược just in time

Housekeeping: tổ chức thể chất và kỷ luật.

Make it right the first time: Làm đúng ngay từ lần đầu tiên – loại bỏ các khiếm khuyết.

Setup reduction: Giảm cài đặt – phương pháp thay đổi linh hoạt.

Lot sizes of one: Một sản phẩm nhưng có nhiều kích thước – mức giới hạn kích thước cuối cùng của sản phẩm và tính linh hoạt.

Uniform plant load: Tải trọng đồng đều của nhà máy – san lấp như một cơ chế kiểm soát.

Balanced flow: Lưu lượng cân bằng – tổ chức thông lượng lập lịch lưu lượng.

Skill diversification: Đa dạng hóa kỹ năng – công nhân đa chức năng.

Control by visibility: Kiểm soát bằng tầm nhìn – phương tiện truyền thông cho hoạt động.

Preventive maintenance: Bảo trì phòng ngừa – chạy hoàn hảo, không có khuyết điểm.

Fitness for use: Phù hợp nhu cầu sử dụng – sản xuất, thiết kế cho quá trình.

Compact plant layout: Bố trí nhà máy nhỏ gọn – thiết kế hướng sản phẩm.

Streamlining movements: Chuyển động tinh giản – xử lý vật liệu làm mịn.

Supplier networks: Mạng lưới nhà cung cấp – phần mở rộng của nhà máy.

Worker involvement: Sự tham gia của công nhân – các hoạt động cải tiến nhóm nhỏ.

Cellular manufacturing: Sản xuất tế bào – phương pháp sản xuất cho dòng chảy.

Pull system: Hệ thống kéo – tín hiệu [kanban] hệ thống bổ sung/cung cấp lại.

5. Mục tiêu và lợi ích sản xuất của just in time

Mục tiêu và lợi ích của sản xuất của just in time có thể được nêu theo hai cách chính:

– Cách thứ nhất: xét về mặt cụ thể và định lượng, thông qua các nghiên cứu trường hợp được công bố.

Một bản tóm tắt nghiên cứu các trường hợp xảy ra với sản phẩm Daman năm 1999 đã liệt kê các lợi ích như sau: just in time đã giúp giảm thời gian chu kỳ 97%, thời gian thiết lập 50%, thời gian thực hiện từ 4 đến 8 tuần xuống còn 5 đến 10 ngày, khoảng cách chảy 90% – đạt được thông qua bốn lần tập trung (di động) các nhà máy, lập kế hoạch kéo, kanban, quản lý trực quan và trao quyền cho nhân viên.

Một nghiên cứu khác từ NCR (Dundee Scotland) vào năm 1998, một nhà sản xuất máy rút tiền tự động đặt hàng, bao gồm một số lợi ích tương tự trong khi tập trung vào phương pháp quản lý just in time. Chuyển sang tác dụng tiếp theo của just in time, vào cuối năm 1998, just in time đã giúp loại bỏ hàng tồn kho đệm, giảm hàng tồn kho từ 47 ngày xuống còn 5 ngày, thời gian lưu chuyển từ 15 ngày xuống còn 2 ngày, 60% các bộ phận đã mua được tăng lên đến 77% sau khi áp dụng just in time, và các nhà cung cấp giảm từ 480 xuống 165.

Hewlett Packard, một trong những người thực hiện just in time sớm nhất của ngành công nghiệp phương Tây, cung cấp một bộ bốn nghiên cứu trường hợp từ bốn bộ phận giữa những năm 1980. Bốn bộ phận ấy bao gồm: Greeley, Fort Collins, Hệ thống máy tính và Vancouver. Tuy nhên, Hewlett Packard chỉ sử dụng một số bộ chứ không phải tất cả các bộ phận. Vào thời điểm đó, khoảng một nửa trong số 52 sư đoàn của Hewlett Packard đã thông qua just in time.

6. Rủi ro tiềm tàng của just in time

Theo Williams, điều cần thiết là tìm các nhà cung cấp ở gần hoặc có thể cung cấp nguyên liệu nhanh chóng với thông báo trước hạn chế. Tuy nhiên, khi đặt hàng nguyên liệu với số lượng nhỏ, chính sách đặt hàng tối thiểu của các nhà cung cấp có thể gây ra một số vấn đề.

Nhân viên có nguy cơ làm việc bấp bênh khi được tuyển dụng bởi các nhà máy sử dụng các kỹ thuật sản xuất linh hoạt và kịp thời. Một nghiên cứu dài hạn về công nhân Hoa Kỳ từ năm 1970 cho thấy các chủ lao động đang tìm cách dễ dàng điều chỉnh lực lượng lao động của họ để đáp ứng với các điều kiện cung và cầu đáp ứng bằng cách tạo ra nhiều thỏa thuận công việc không chuẩn, như hợp đồng và công việc tạm thời.

Thảm họa tự nhiên và nhân tạo sẽ làm gián đoạn dòng chảy của năng lượng, hàng hóa và dịch vụ. Đến lượt, những khách hàng hạ lưu của những hàng hóa và dịch vụ đó sẽ không thể sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ của họ vì họ đang tính đến việc giao hàng đến “đúng lúc” và do đó có rất ít hoặc không có hàng tồn kho để làm việc. Sự gián đoạn đối với hệ thống kinh tế sẽ xếp tầng ở một mức độ nào đó tùy thuộc vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của thảm họa ban đầu. Thảm họa càng lớn thì ảnh hưởng xấu đến những thất bại đúng lúc. Năng lượng điện là ví dụ cuối cùng của việc giao hàng đúng lúc. Một cơn bão địa từ nghiêm trọng có thể làm gián đoạn việc cung cấp năng lượng điện trong nhiều giờ đến nhiều năm, tại địa phương hoặc thậm chí trên toàn cầu. Thiếu nguồn cung cấp trong tay để sửa chữa hệ thống điện sẽ có những hậu quả thảm khốc.

Đại dịch COVID-19 đã gây ra sự gián đoạn trong thực tiễn khi sử dụng just in time. Với nhiều hạn chế kiểm dịch đối với hoạt động thương mại và thương mại quốc tế nói chung, đại dịch đã làm gián đoạn nguồn cung trong khi thiếu dự trữ để xử lý sự cố. Bên cạnh đó, nhu cầu gia tăng đối với các vật tư y tế như PPE (Thiết bị bảo vệ cá nhân) và máy thở đã gây ra tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất hay cung cấp sản phẩm. Nếu tiếp tục sử dụng just in time trong trường hợp này, những tình huống xấu chắc chắn còn diễn ra. Tình trạng mua nhiều tích trữ cũng xảy ra ở những sản phẩm sản xuất trong nước (như mua giấy vệ sinh, khẩu trang, mỳ tôm,…). Điều này đã dẫn đến những gợi ý rằng dự trữ và đa dạng hóa nhà cung cấp nên được tập trung nhiều hơn.

Tóm lại, just in time tuy có nhiều vai trò và tác dụng, lợi ích nhưng cũng không thiếu những hạn chế, sai sót và rủi ro tiềm tàng. Vì vậy, nếu bạn làm quản lý trong ngành quản trị sản xuất thì hãy lưu ý đến những vấn đề xấu có thể xảy đến và chuẩn bị trước các phương pháp đối phó kịp thời.

Tìm Hiểu Hệ Thống Sản Xuất Tức Thời Just In Time (Jit) Và Lợi Ích C…

I. Định nghĩa về Just In Time (JIT)

Chiến lược Just-In-Time (JIT) hiểu cách đơn giản là chiến lược sản xuất các sản phẩm với đúng số lượng, tại đúng nơi và đúng thời điểm sản xuất.

Theo Just-In-Time (JIT) thì trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ thì với mỗi công đoạn của quy trình sản xuất ra một số lượng đúng bằng số lượng mà công đoạn sản xuất tiếp theo cần tới. Qúa trình này đều hoạt động trơn chu và không tạo ra giá trị gia tăng phải bỏ. Điều này cũng đúng với giai đoạn cuối cùng của quy trình sản xuất, tức là hệ thống chỉ sản xuất ra những cái mà khách hàng muốn không bị dư thừa lãng phí.

Một số cách tiếp cận khác về JIT thì cho biết là hệ thống sản xuất trong đó các luồng nguyên vật liệu, hàng hóa và sản phẩm trong quá trình sản xuất được lập kế hoạch chi tiết cho từng bước cụ thể. JIT giúp cho quy trình tiếp theo có thể thực hiện được ngay khi quy trình hiện thời chấm dứt. Việc xắp xếp một cách khoa học thì có thể giúp các hạng mục trong quy trình được trơn chu hơn. Không để tình trạng để không và chờ xử lý của cả công nhân hay thiết bị máy móc.

II. Mô hình Just in time xuất hiện và phát triển:

1.    Thuở sơ khai của JIT

Thời kì sơ khai của JIT

Qúa trình này xuất phát từ những năm 1930 khi mà các hang oto Ford Mỹ lần đầu áp dụng hệ thống dây chuyền để lắp ráp cho hệ thống xe hơi của họ.

Đến năm 1970, hang ô tô Toyota ( Nhật Bản ) đã hoàn thiện phương pháp trên và nâng chúng lên thành lý thuyết Just In Time – JIT.

Từ việc nhận thức đến phương pháp sơ khai của JIT đã phát triển hệ thống dây chuyền sản xuất giúp phát huy được hết những ưu điểm và khắc phục được nhược điểm. Với đội ngũ công nhân có tay nghề thuần thục thì được trang bị hệ thống những máy mọc linh hoạt, đa năng và có khả năng sản xuất theo nhiều mức công suất với nhiều loại sản phẩm trên cùng một dây chuyền.

Bí quyết thành công của Toyota : Không chỉ áp dụng mô hình Just In Time mà thành công của Toyota Nhật Bản còn có thêm những bước cải tiến khác.

– Sản xuất tức thời – Just in time.

– Cải tiến liên tục – Kaizen

– Luồng một sản phẩm – One pieceflow.

– Tự kiểm lỗi – Jikoda.

– Bình chuẩn hóa – Heijunka.

Bình chuẩn hóa: lấy khối lượng đơn hàng trong khoảng thời gian dài, dàn đều chúng và sản xuất đều một lượng như nhau trong mỗi ngày.

Sau này phương pháp Just In Time đã được tiếp tục được 2 giáo sư Hoa Kì là Deming và Juran phát triển và phổ biến trên khắp thế giới.

2. Tư duy luồng một sản phẩm.

Sản phẩm có chất lượng:

Với việc kiểm tra sản phẩm đến từ việc kiểm soát của mỗi công nhân tại từng công đoạn khác nhau trước khi chuyển qua công đoạn tiếp theo. Phải đạt yêu cầu họ mới thực hiện công đoạn của mình. Sản phẩm có lỗi, họ loại ra khỏi dây chuyền và ấn nút báo cho toàn hệ thống để điều chỉnh lại kế hoạch.

Không chỉ là một người làm việc đơn thuần. Mỗi công nhân còn đóng vai khách hàng khi nhận sản phẩm từ công đoạn trước chuyển sang và là người bị kiểm tra tại công đoạn sau.

Linh hoạt:

Bất cứ thay đổi nhu cầu nào của khách hàng về sản phẩm đều có thể đáp ứng được ngay.

Tạo năng suất cao:

Khi thực hiện một luồng sản phẩm có rất ít những công việc không tạo ra giá trị gia tăng thêm. Một ví dụ khác đó là tình trạng một nguyên vật liệu bị di chuyển lại giữa các bộ phận (như cách truyền thống). Đây là năng suất thực tạo nên giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Với tư duy truyền thống là thực hiện sản xuất số lượng sản phẩm lớn để thu lợi nhuận cao tuy nhiên nếu sản phẩm sản xuất ra quá nhiêu sẽ gây dư thừa và tồn kho lớn. Tốn thời gian để tìm ra sản phẩm hỏng để sửa chữa thì thành một sự lãng phí rất lớn.

Tăng diện tích hữu ích :

Vật tư, bán thành phẩm được chuyển theo qui trình sản xuất từng công đoạn. Không tốn diện tích kho bãi dự trữ.

An toàn lao động cao :

Sử dụng từng lô hàng nhỏ một nên không cần một qui trình an toàn đặc biệt nào.

Nâng cao nhuệ khí cho người lao động :

Việc để cho công nhân viên của họ tự kiểm tra sản phẩm của mình ngay khi sản xuất ra ở khâu của họ sẽ giúp họ nhận thấy ngay kết quả và mãn nguyện với công việc của mình.

Giảm chi phí lưu kho :

Giảm chi phí vốn đầu tư kho bãi, chi phí xử lí hàng lỗi mốt tồn kho.

3. Hệ thống “Kéo”:

Hệ thống này hoạt động với phương thức nhận diện nhu cầu sản phẩm dịch vụ của khách hàng. Ngay khi khách hàng lấy đi sản phẩm thì sản phẩm mới sẽ được sản xuất và bổ sung ngay tức thì (nó được áp dụng phổ biến trong các siêu thị lớn). Nếu khách hàng không sử dụng, hàng còn tồn trong kho (số lượng tối thiểu), hàng sẽ không được sản xuất hay bổ sung.

Khách hàng ở đây được hiểu với nghĩa rộng hơn: đó là người công nhân ở công đoạn tiếp theo trong dây chuyền, là nhà phân phối, nhà bán lẻ và người sử dụng cuối cùng.

III. Công cụ hỗ trợ khi áp dụng Just in time:

Để hỗ trợ cho phương pháp sản xuất Just In Time các công cụ hỗ trợ đã lần lượt ra đời và phát huy tác dụng của chúng một cách hữu hiệu hơn. Thẻ báo (Kanban) là một phương pháp hỗ trợ hữu hiệu giúp phương pháp JIT được áp dụng chính xác và hiệu quả hơn. Kanban là hệ thống quản lý thông tin kiểm soát số lượng linh kiện trong từng qui trình sản xuất. Mỗi Kanban được gắn vào hộp linh kiện khi chuyển qua từng công đoạn lắp ráp.

Các công nhân khi nhận linh kiện từ các công đoạn trước phải để lại 1 Kanban đánh dấu việc chuyển giao số lượng linh kiện.

Kanban được áp dụng theo 2 hình thức:

– Thẻ rút (Withdrawal Kanban): chi tiết chủng loại, số lượng linh kiện qui trình sau nhận từ qui trình trước.

– Thẻ đặt (Production – Ordering): chi tiết chủng loại, số lượng linh kiện qui trình sau phải thực hiện.

IV. Điều kiện áp dụng Just in time:

– Phương pháp Just In Time được áp dụng khá hiệu quả cho các Doanh Nghiệp có hoạt động sản xuất có tính chất lặp đi lặp lại.

– Phương pháp này áp dụng cho những lô hàng nhỏ với qui mô sản xuất gần như nhau và tiếp nhận vật tư trong suốt quá trình sản xuất.

– Luồng hàng hóa trong cả quá trình sản xuất và phân phối sẽ được lập chi tiết cho từng bước sao cho công đoạn tiếp theo được thực hiện ngay sau khi công đoạn trước được hoàn thành. Chính vì thế mà không có công nhân hay thiết bị nào đó phải đợi sản phẩm đầu vào lâu hơn.

Mỗi công đoạn chỉ làm một số lượng sản phẩm / bán thành phẩm đúng bằng số lượng mà công đoạn sản xuất tiếp theo cần tới.

Những công nhân tiếp nhận sản phẩm ở quy trình tiếp heo sẽ như một khách hàng của quy trình trước. Họ có trách nhiệm kiểm tra và nghiệm thu bán sản phẩm được chuyển đến trước khi thực hiện công việc của mình.

– Sử dụng mô hình Just in time đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất và nhà cung cấp. Tăng cường phân công lao động xã hội thông qua hợp tác với các Công ty liên kết.

– Muốn Just in time thành công, Doanh nghiệp cần kết hợp đồng bộ nhiều biện pháp: áp dụng dây chuyền luồng một sản phẩm (sản phẩm được chuyển theo qui trình sản xuất chứ không theo bộ phận chuyên môn nhằm giảm thiểu chi phí vận chuyển), khả năng tự kiểm lỗi (công đoạn sau kiểm tra, nghiệm thu công đoạn trước), bình chuẩn hóa (phân bổ công việc đều mỗi ngày, không có ngày quá bận, ngày ít việc).

V. Lợi ích áp dụng Just in time:

Càng ngày các Doanh Nghiệp sản xuất đều nhận ra được giá trị to lớn mà Phương pháp Just In Time mang lại cho họ.

– Giảm tối đa hiện tượng tồn kho, ứ đọng vốn.

– Giảm lao động gián tiếp.

– Công nhân được tham gia sâu trong việc cải tiến, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

– Tăng năng suất nhờ giảm thời gian chờ đợi.

– Giảm áp lực của khách hàng

– Giảm diện tích kho bãi.

– Tăng chất lượng sản phẩm.

– Giảm phế liệu, sản phẩm lỗi.

– Linh hoạt trong thay đổi qui trình sản xuất, thay đổi mẫu mã sản phẩm.

Định Nghĩa Time Deposit / Tiền Gửi Kỳ Hạn Là Gì?

Khái niệm thuật ngữ

1. Tài khoản tiền gửi trả tiền lãi cho một kỳ hạn cố định, hiểu rằng số tiền đó không thể rút ra trước khi đáo hạn mà không gửi thông báo trước. Tiền gửi có kỳ hạn cũng được biết đến như tài khoản đầu tư hoặc chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn. Những tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, được chứng minh bằng một chứng chỉ hoặc một báo cáo gửi bằng thư cho người ký gửi khi tiền lãi được trả, thường trả lãi suất cố định và có kỳ hạn bảy ngày đến bảy năm hoặc lâu hơn. Thông báo về yêu cầu rút tiền thường được bỏ qua đối với những khoản tiền gửi của khách hàng, tuy không bỏ qua với các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn của công ty với số tiền lớn.

Việc rút tiền của khách hàng cũng phải chịu tiền phạt do rút sớm và lỗ một phần tiền lãi. Quy định Q của Dự trữ Liên bang yêu cầu việc rút tiền tài khoản trong vòng sáu ngày sau khi gửi phải chịu lỗ tiền lãi của sáu ngày. Những tài khoản tiền gửi có kỳ hạn sở hữu bởi một công ty (tiền gửi có kỳ hạn ngoài cá nhân) phải chịu những yêu cầu dự trữ, nhưng với mức lãi suất thấp hơn các tài khoản giao dịch, như tài khoản séc.

Xem CERTIFICATE OF DEPOSIT; NINETY-DAY SAVINGS ACCOUNT; PASSBOOK. 

2. Tài khoản mở của tiền ký gửi có kỳ hạn là tài khoản tiền gửi, nhưng giới hạn quyền rút tiền trước khi đáo hạn. Ví dụ, tài khoản câu lạc bộ, như Câu lạc bộ Giáng sinh và câu lạc bộ kỳ nghỉ. Tiền gửi được chứng minh bằng bút toán sổ cái trên sổ sách của định chế tài chính ký gửi.