Định Luật Lucas Trong Pháp Chứng / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | 2atlantic.edu.vn

Chứng Thực Là Gì? Các Quy Định Của Pháp Luật Về Chứng Thực

Chứng thực là gì? Giá trị pháp lý của văn bản chứng thực. Những vấn đề cần lưu ý về hoạt động chứng thực theo quy định của pháp luật hiện nay.

Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể khái niệm chứng thực là gì, tuy nhiên thông qua các quy định của pháp luật tại Nghị định 23/2023/NĐ-CP Về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, chúng ta có thể hiểu chứng thực là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận cho các yêu cầu, giao dịch dân sự của người có yêu cầu chứng thực, qua đó đảm bảo tính chính xác, hợp lệ, hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, nội dung giao dịch, và giao dịch.

Hoạt động chứng thực bao gồm: Chứng thực bản sao từ bản chính, Chứng thực chữ ký và Chứng thực hợp đồng, giao dịch.

Theo Điều 2 Nghị định 23/2023/NĐ-CP, bao gồm các loại chứng thực như sau:

– Chứng thực bản sao từ bản chính: là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính.

– Chứng thực chữ ký: là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực.

– Chứng thực hợp đồng, giao dịch: là việc cơ quan có thẩm quyền chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

3. Thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực 3.1. Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Phòng Tư pháp)

Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền và trách nhiệm:

– Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận;

– Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản;

– Chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài;

– Chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản.

Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Tư pháp thực hiện chứng thực các việc quy định nêu trên, ký chứng thực và đóng dấu của Phòng Tư pháp.

3.2. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã)

Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có thẩm quyền và trách nhiệm:

– Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận;

– Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản, trừ việc chứng thực chữ ký người dịch;

– Chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở;

– Chứng thực văn bản từ chối nhận di sản;

– Chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, quyền sử dụng đất, nhà ở.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện ký chứng thực và đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã.

3.3. Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi chung là Cơ quan đại diện)

Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực các việc

– Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận;

– Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản;

– Chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài;

Viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự ký chứng thực và đóng dấu của Cơ quan đại diện.

Công chứng viên có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực các việc:

– Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận;

– Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản, trừ việc chứng thực chữ ký người dịch.

Công chứng viên ký chứng thực và đóng dấu của Phòng công chứng, Văn phòng công chứng (sau đây gọi chung là tổ chức hành nghề công chứng).

3. Giá trị pháp lý của văn bản chứng thực

Theo Điều 3 Nghị định 23/2023/NĐ-CP nêu rõ:

– Bản sao được chứng thực từ bản chính theo Nghị định này có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

– Chữ ký được chứng thực theo quy định tại Nghị định này có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản.

– Hợp đồng, giao dịch được chứng thực theo quy định của Nghị định này có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

4. Bản chính giấy tờ, văn bản không được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao

– Bản chính bị tẩy xóa, sửa chữa, thêm, bớt nội dung không hợp lệ.

– Bản chính bị hư hỏng, cũ nát, không xác định được nội dung.

– Bản chính đóng dấu mật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc không đóng dấu mật nhưng ghi rõ không được sao chụp.

– Bản chính có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức; vi phạm quyền công dân.

– Bản chính do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự.

– Giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập nhưng không có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Nguồn Chứng Cứ Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN NHẬT LỆ

NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI – 2014

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Nhật Lệ

Lý luận chung về nguồn chứng cứ ……………………………………………. 7

1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ ……………………………………………………. 7 1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm ………………………………………………………… 10 1.2.

Đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ …………………………………… 20

1.2.1. Vật chứng ………………………………………………………………………………. 20 1.2.2. Lời khai của những người tham gia tố tụng ………………………………… 21 1.3.

Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới …………………………………………………………………………… 32

1.3.1. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn…………………………………………………………. 32 1.3.2. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng. ………………………………………………………. 36 1.3.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình kết hợp tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. ……………… 41 Chương 2: NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ…………………………… 47

2.1.

Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ qua các thời kỳ lịch sử ………………………………………………………………….. 47

2.1.1. Nguồn chứng cứ trong pháp luật phong kiến Việt Nam ……………….. 47 2.1.2.

Nguồn chứng cứ trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến khi ban hành BLTTHS năm 1988 …………………………………………………………………. 52

2.1.3. Pháp luật Việt Nam về nguồn chứng cứ theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 …………………………………………………………………………… 57 2.2.

Thực trạng sử dụng nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam……………………………………………………………………………….. 64

2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự ……………………………………………………………. 64 2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự………………………………………………………… 72 Chương 3: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ……………………………………………..84 3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự … 84

3.2.

Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới, hoàn thiện chế định nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự ……………………………………. 91

3.3.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ……………. 92

3.3.1. Về khái niệm chứng cứ ……………………………………………………………. 93 3.3.2. Mở rộng nguồn chứng cứ …………………………………………………………. 94 3.3.3. Xác định quyền thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự – Luật sư, người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ ………………….. 96

3.3.4. Về các nguyên tắc thu thập chứng cứ ………………………………………… 98 3.3.5. Về chế định giám định …………………………………………………………….. 99 3.3.6. Xây dựng Luật về chứng cứ nhằm nâng cao chất lượng xét xử án hình sự …………………………………………………………………………………. 101 3.4.

Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả quy định pháp luật về nguồn chứng cứ……………………………………………………………….. 103

KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………….. 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………… 109

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TT

Viết tắt

Nội dung từ

1.

BLHS

Bộ luật hình sự

2.

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3.

CQĐT

Cơ quan điều tra

4.

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

5.

DVBC

Duy vật biện chứng

6.

KSV

Kiểm sát viên

7.

TA

Tòa án

8.

TNHS

Trách nhiệm hình sự

9.

VKS

Viện kiểm sát

DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 2.1: Tỉ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa 2009-2012

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đi cùng với sự phát triển của xã hội ngày nay, vấn đề tội phạm đang ngày một gia tăng và có những diễn biến hết sức phức tạp. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được Đảng và Nhà nước ta xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Phòng ngừa và điều tra, xử lý tội phạm là hai mặt của nhiều vấn đề mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân và toàn xã hội. Để phát hiện và xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, để làm được như vậy thì cần phải có chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để làm sáng tỏ vụ án. Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, chứng cứ luôn là một vấn đề không thể thiếu nhằm chứng minh một người có thực hiện hành vi phạm tội hay không. Chỉ có chứng cứ hợp pháp mới có giá trị chứng minh tội phạm. Một trong những điều kiện để chứng cứ được coi là hợp pháp là nó phải được rút ra từ một trong các nguồn chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS Việt Nam năm 2003. Việc nghiên cứu nguồn chứng cứ nói chung và nguồn chứng cứ trong vụ án hình sự nói riêng có một ý nghĩa lớn không chỉ về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu quan trọng để rút ra những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Do đó, nếu không tìm được nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ giải thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo theo hậu quả là các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng, không chính xác và không đầy đủ đối với vụ án hình sự. Việc làm rõ lý luận và thực tiễn về

1

2

sự – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2003 của Trường Đại học Luật Hà Nội do ThS. Bùi Kiên Điện chủ nhiệm đề tài; “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương, Luận án tiến sĩ năm 2000; Một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh, tạp chí kiểm sát số 12/2005; Nguồn chứng cứ: Lời khai của bị can, bị cáo, Vũ Xuân Thu, tạp chí kiểm sát số 10/2001… Như vậy, có thể nói ít có các công trình nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với hình thức là một đề tài độc lập, chuyên sâu. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là một vấn đề cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn – Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự. – Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: 1- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn chứng cứ (làm rõ khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm “nguồn chứng cứ” với một số khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương tiện chứng minh…). Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ, có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới; 3

4

5

6

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ 1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ Để nhận thức được về các sự vật, hiện tượng nói chung và nhận thức về nguồn chứng cứ nói riêng, con người phải dựa vào cơ sở phương pháp luận nhất định. Trong lịch sử nhân loại đã từng có các quan điểm khác nhau về nguồn chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đã từng tồn tại các quan điểm phi mác xít về vấn đề này như các quan điểm thần học, tôn giáo, quan điểm hình thức, quan điểm nhân chủng học, quan điểm niềm tin nội tâm của Thẩm phán… Lịch sử đã chứng minh để nhận thức được chính xác các sự vật, hiện tượng, con người cần dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa trên phương pháp biện chứng khoa học, việc nhận thức về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự cũng không nằm ngoài quy luật đó. Lý luận của chủ nghĩa DVBC về nhận thức thế giới được sử dụng như là cơ sở khoa học của nguồn chứng cứ và việc chứng minh thông qua những quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, vụ án hình sự được phản ánh bởi con người và các vật. Chủ nghĩa DVBC đã chỉ ra rằng phản ánh là thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại và chịu sự tác động lẫn nhau. Bằng sự tác động qua lại đó, sự tồn tại của sự vật, hiện tượng này luôn để lại dấu vết ở sự vật, hiện tượng khác. Theo BLHS Việt Nam thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt” [23, tr.50]. Theo khái niệm trên, “tội phạm trước hết là hành vi của con người, những gì

7

mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bằng hành vi thì không phải là tội phạm, hành vi phạm tội là hành vi đã thực tế xảy ra trong thế giới khách quan và là một hiện tượng thuộc thế giới khách quan” [23, tr.50]. Chính vì sự tồn tại khách quan mà tội phạm cũng để lại các dấu vết nhất định. Bằng cách thu thập các dấu vết để lại và thông qua chúng, con người có thể xác định được sự thật khách quan của vụ án. Căn cứ vào các đặc điểm hình thành và tồn tại của từng loại dấu vết mà các nhà làm luật quy định trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác nhau để đảm bảo cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Thủ tục thu thập kiểm tra nguồn chứng cứ vật chất sẽ khác so với thủ tục kiểm tra nguồn chứng cứ phi vật chất. Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được sự thật khách quan của vụ án hình sự. Chủ nghĩa DVBC khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan. Trong sự tồn tại bất tận của thế giới khách quan, nhận thức của con người là tương đối nhưng cùng với sự phát triển của tự nhiên và xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật cũng như sự phụ thuộc vào nhiệm vụ nhận thức cụ thể, nhận thức của con người về thế giới khách quan ngày càng tiến dần đến tuyệt đối. Trong TTHS, phải nói rằng tội phạm là một hiện tượng xã hội có muôn hình, muôn vẻ. Tuy nhiên, các yếu tố có ý nghĩa pháp lý hình sự của một tội phạm lại được xác định rất cụ thể. Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của tội phạm mà người làm luật quy định đối tượng chứng minh, giới hạn các vấn đề chứng minh ở một phạm vi nhất định. Đó là “sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân người phạm tội cũng như các thiệt hại do tội phạm gây ra” [12, tr.43]. Như vậy, nhiệm vụ chứng minh trong TTHS là rất cụ thể và được giới hạn trong phạm vi nhất định. Nhìn từ góc độ nhiệm vụ tố tụng đặt ra, có thể nói việc chứng minh trong TTHS có thể đạt

8

được sự thật khách quan tuyệt đối. Nói cách khác, với quan điểm này thì bất kỳ tội phạm nào xảy ra, con người đều có thể phát hiện và chứng minh được. Thứ ba, học thuyết về nhận thức của CNDVBC là cơ sở phương pháp luận đặc biệt quan trọng trong lý luận về nguồn chứng cứ trong luật TTHS nước ta. Tinh thần cơ bản của học thuyết Mác – Lê nin về nhận thức là “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [26, tr.179]. Từ nhận thức cảm tính (trực quan sinh động), con người thu nhận các thông tin về tội phạm, từ đó có sự kiểm tra, đánh giá thông qua tư duy của mình, từ đó có kết luận về các tình tiết nói riêng và về tội phạm nói chung. Học thuyết về nhận thức của CNDVBC là học thuyết về sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người; cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vật chất có trước và sau mới là ý thức. Ý thức của con người có khả năng phản ánh chính xác, khách quan hiện thực khách quan, là xuất phát điểm cực kỳ quan trọng cho lý luận về nguồn chứng cứ, cho lập pháp TTHS về nguồn chứng cứ và áp dụng các quy định của pháp luật về nguồn chứng cứ trong thực tiễn. Thực tiễn là thước đo của nhận thức. Mặc dù chứng minh trong TTHS có những nét đặc trưng riêng, là nhận thức về một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ với phạm vi và giới hạn xác định. Tuy nhiên, quan điểm này của học thuyết DVBC về nhận thức không phải là ngoại lệ của quá trình chứng minh. Do quá trình chứng minh trong TTHS có những đặc trưng riêng nên việc dùng thực tiễn làm thước đo trong nhận thức về tội phạm cũng mang những nét đặc trưng riêng. Điều này thể hiện trong biện pháp thu thập chứng cứ như các biện pháp khám nghiệm, giám định, thực nghiệm điều tra… để tái tạo lại thực tiễn tội phạm, làm cơ sở kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác và kiểm tra lại nhận thức chung về tội phạm. Thông qua các nguồn chứng cứ

9

khác nhau, con người có sự đối chiếu, so sánh các chứng cứ để tìm ra chân lý của sự việc. Thứ tư, phương pháp biện chứng đặt nền móng cho việc áp dụng các quy luật của phép biện chứng duy vật vào quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Các nội dung quan trọng của phép biện chứng trong nhận thức như nguyên tắc toàn diện, đầy đủ, cụ thể, hệ thống… đóng vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh. Phương pháp biện chứng của triết học Mác – Lê nin được thể hiện tương đối đầy đủ tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án” [12, tr.45]. CNDVBC chỉ ra rằng khi xem xét thế giới khách quan, cần đặt trong sự vận động, biến đổi không ngừng. Lê nin đã từng nói: thế giới tồn tại trong vận động. Luận điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ, không thể tách rời từng chứng cứ khi chứng minh tội phạm mà phải xem xét đánh giá tổng hợp các chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ khác nhau và đặt trong thực tế diễn biến vụ án. 1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm 1.1.2.1. Khái niệm nguồn chứng cứ Nguồn chứng cứ trong TTHS là một trong những vấn đề được các nhà lập pháp trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đề cập từ khá sớm, trong lịch sử đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu luôn cố gắng để đưa ra một khái niệm về nguồn chứng cứ hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên các quan niệm của họ luôn có sự mâu thuẫn nhất định. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do xuất phát từ những thế giới quan khác nhau, do trình độ phát triển không đều về kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật.. 10

11

Theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ được hiểu theo hai khía cạnh: thứ nhất, nguồn là hình thức biểu hiện của chứng cứ, cho phép ta nhận thức được một cách cụ thể rõ ràng về chứng cứ; thứ hai, nguồn là nơi chứa đựng chứng cứ mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ. Quan niệm này có nét gần gũi với quan niệm cho rằng nguồn chứng cứ là cái rút ra được chứng cứ: “…nguồn chứng cứ với nghĩa là nơi là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tìm ra được những tình tiết có giá trị chứng minh về tội phạm” [9, tr.5]. Trong khi đó, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: “Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguồn chứng cứ thường được gọi bằng thuật ngữ khác là phương tiện chứng minh” [24, tr.168]. Có thể thấy rằng, việc sử dụng cụm từ “phương tiện chứng minh” thay thế cho cụm từ “nguồn chứng cứ” như vậy là thiếu chính xác, bởi lẽ khái niệm nguồn chứng cứ không đồng nhất với khái niệm phương tiện chứng minh. Nếu như nguồn chứng cứ được hiểu là nơi mà từ đó các CQTHTT cũng như người THTT có thể tìm ra chứng cứ trong vụ án hình sự, thì phương tiện chứng minh được hiểu là chứng cứ được chủ thể sử dụng để chứng minh. Như vậy, chứng cứ mới được coi là phương tiện chứng minh, còn nguồn chứng cứ không thể là phương tiện chứng minh, mà chỉ là nơi mà từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ thông qua hiểu rõ bản chất của một sự vật, hiện tượng ta mới có thể nhận diện chính xác sự vật, hiện tượng đó là gì? Để làm rõ khái niệm cũng như thuật ngữ nguồn chứng cứ, ta cần phải hiểu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ. Để làm rõ bản chất của nguồn chứng cứ, ta không thể không đề cập đến chứng cứ, bởi vì chứng cứ và nguồn chứng cứ có mối quan hệ qua lại với nhau, chứng cứ và nguồn chứng cứ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ như một số học giả quan niệm được. Có thể

12

Giá Trị Pháp Lý Của Văn Bản Công Chứng Theo Quy Định Của Pháp Luật

Văn bản công chứng là kết quả hoạt động của công chứng viên. Vậy hiểu thế nào về giá trị pháp lý của văn bản công chứng?

Giá trị pháp lý của văn bản công chứng được quy định tại Điều 5 Luật Công chứng 2014, cụ thể:

Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.

Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

Lưu ý, đối với các văn bản công chứng có tài sản hình thành trong tương lại, tại thời điểm công chứng viên ký và đóng dấu chưa phát sinh hiệu lực.

Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên theo quy định của pháp luật

Khi giáo kết được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận đã tạo ra giá trị ràng buộc cao đảm bảo thực hiện và có giá trị với bên thứ ba.

Việc công chứng các bản hợp đồng, giao dịch đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, phòng ngừa rủi ro và tranh chấp, tạo ra sự ổn định của quan hệ giữa các bên trong giao dịch dân sự, tài sản, bảo đảm trật tự, kỷ cương, là cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Do đó, khi phát sinh mâu thuẫn giữa các bên mà không giải quyết được dựa trên các thỏa thuận của hợp đồng, giao dịch công chứng; bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ không phải chứng minh

Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.

– Do công chứng viên đã xác định tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch nên hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực là chứng cư trước tòa án – Điểm c Khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự 2023 quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, theo đó, những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp không phải chứng minh. Trong trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.

Việc quy định hợp đồng, các văn bản được công chứng có giá trị chứng cứ là một chế định đặc biệt đối với hoạt động công chứng. Với việc quy định như vậy đã nâng cao tinh thần trách nhiệm của các công chứng viên trong quá trình thực hiện hoạt động công chứng của mình.

Qua việc công chứng, nếu công chứng viên phát hiện ra các sai phạm cũng như dấu hiệu tội phạm có thể báo cáo với cơ quan có thẩm quyền, đồng thời việc công chứng các văn bản giấy tờ sẽ được văn phòng công chứng lưu lại một bản trong kho dữ liệu, từ đó các văn bản công chứng trở thành nguồn chứng cứ quan trọng nếu có các tranh chấp xảy ra. Và những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh bởi lẽ khi hoạt động công chứng, công chứng viên đã kiểm tra tính xác thực của các thông tin của văn bản công chứng với bản chính và ghi lời làm chứng, ký tên đóng dấu nhằm khẳng định điều đó.

Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch.

Khi văn bản công chứng đã được công chứng viên kiểm tra, đối chiếu tính xác thực với bản chính một cách đầy đủ, chính xác; đã ghi lời làm chứng của mình, ký tên, đóng dấu để khẳng định điều đó thì bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch. Tạo điều kiện thuận lợi cho người có nhu cầu công chứng có thể đạt được kết quả mà họ mong muốn.

Chứng Khoán Là Gì ? Khái Niệm Về Chứng Khoán Theo Quy Định Của Pháp Luật

Chứng khoán là chứng từ có giá dài hạn hoặc bút toán ghỉ số xác nhận các quyền, lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với vốn hoặc tài sản của tổ chức phát hành. Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán. Chứng khoán có giá là hình thức biểu hiên của tư bản giả, bản thân không có giá trị độc lập, là những bản sao bằng giấy tờ của tư bản thực. Những chứng khoán có giá mang lại thu nhập cho người sở hữu nên nó cũng là đối tượng mua bán và có giá cả. Thông thường trên chứng khoán có giá không ghi tên người sở hữu, do đó, có thể chuyển nhượng tự do từ người này sang người khác mà không cần có chữ kí của người chuyển nhượng. Trong lịch sử phát triển thị trường chứng khoán, lúc đầu chứng khoán được in bằng giấy nhưng dần dần được thể hiện dưới hình thức phi vật thể thông qua nghiệp vụ ghi chép kế toán bằng phương tiện điện tử.

Chứng khoán có các thuộc tính sau: thứ nhất, chứng khoán có tính thanh khoản, nghĩa là chứng khoán có thể được chuyển đổi thành tiền mặt; thứ hai, chứng khoán có tính sinh lời, nghĩa là chứng khoán có khả năng tạo thu nhập cho chủ sở hữu; thứ ba, chứng khoán có tính rủi ro, nghĩa là việc sở hữu, mua bán chứng khoán có thể làm giảm thu nhập của chủ sở hữu.

Quy định của pháp luật các nước về các loại chứng từ có giá là chứng khoán không hoàn toàn giống nhau. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chứng khoán bao gồm: cổ phiếu; trái phiếu; chứng chỉ quỹ đầu tư, các loại chứng khoán khác.

Quyển và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với vốn hoặc tài sản của tổ chức phát hành phụ thuộc vào loại chứng khoán. Ví đụ. Người sở hữu cổ phiếu vừa có quyền hưởng lợi vừa có quyền sở hữu chủ đối với tổ chức phát hành còn người sở hữu trái phiếu chỉ có quyền hưởng lợi (thu nhập) từ tổ chức phát hành.

Chứng khoán phát hành ra công chúng có thể ghi danh (có ghi tên người sở hữu) hoặc vô danh (không ghi tên người sở hữu).

Bạn thấy nội dung này thực sự hữu ích? Bạn thấy nội dung này chưa ổn ở đâu?

Công Chứng Là Gì Theo Quy Định Của Pháp Luật Hiện Hành

Công chứng là gì? Pháp luật quy định như thế nào về hoạt động công chứng? Những nội dung cần lưu ý về công chứng theo quy định pháp luật hiện hành.

Theo khoản 1 Điều 2 Luật công chứng 2014, Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận:

+ Tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch);

+ Tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch).

Mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

2. Đặc điểm của công chứng

– Hoạt động công chứng do công chứng viên thực hiện.

– Người yêu cầu công chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài có yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch.

– Nội dung công chứng là xác định tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự. Tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản.

– Có hai loại hợp đồng giao dịch thực hiện hoạt động công chứng, đó là các loại hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của pháp luật bắt buộc phải công chứng và các hợp đồng giao dịch do cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

2. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

– Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.

– Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.

– Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch.

Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.

Theo quy định hiện nay, tổ chức hành nghề công chứng bao gồm: Phòng công chứng và Văn phòng công chứng

4. Ý nghĩa của việc công chứng

Việc công chứng giúp các bên hạn chế được những rủi ro từ những hợp đồng, giao dịch dân sự, thương mại không được công chứng.