Định Luật Bảo Toàn Vật Chất Là Gì / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | 2atlantic.edu.vn

Sự Khác Biệt Giữa Định Luật Bảo Toàn Vật Chất Và Năng Lượng

Định luật bảo toàn vật chất và định luật bảo toàn năng lượng là hai định luật trong hóa học được sử dụng để giải thích các tính chất của các hệ nhiệt động khép kín, cô lập. Các luật này quy định rằng vật chất hoặc năng lượng không thể được tạo ra hoặc phá hủy nhưng có thể được chuyển đổi thành các dạng khác nhau hoặc được sắp xếp lại. Sự khác biệt chính giữa Định luật bảo toàn vật chất và năng lượng là định luật bảo toàn vật chất nói rằng tổng khối lượng bên trong một hệ thống kín không cho phép vật chất hoặc năng lượng thoát ra là một hằng số trong khi định luật bảo toàn năng lượng không thể được tạo hoặc hủy, nhưng có thể được thay đổi từ dạng này sang dạng khác.

NỘI DUNG

1. Tổng quan và sự khác biệt chính 2. Định luật bảo toàn vật chất 3. Định luật bảo toàn năng lượng là gì 4. Mối quan hệ giữa định luật bảo toàn vật chất và năng lượng 5. So sánh bên cạnh – Định luật bảo toàn vật chất và năng lượng trong Dạng bảng 6. Tóm tắt

Luật bảo tồn vật chất là gì?

Định luật bảo toàn vật chất là một nguyên tắc mô tả rằng tổng khối lượng bên trong một hệ kín, không cho phép vật chất hoặc năng lượng thoát ra, nên là một hằng số. Do đó số lượng khối lượng bên trong hệ thống đó được bảo tồn. Một hệ thống không cho phép năng lượng hoặc vật chất đi qua ranh giới của nó được gọi là hệ thống cách ly nhiệt động.

Luật này cũng chỉ ra rằng khối lượng không thể được tạo ra cũng như không bị phá hủy, nó chỉ có thể được sắp xếp lại hoặc thay đổi từ dạng này sang dạng khác. Những sắp xếp lại hoặc thay đổi xảy ra thông qua các phản ứng hóa học. Do đó, tổng khối lượng chất phản ứng bằng tổng khối lượng sản phẩm trong phản ứng hóa học diễn ra trong một hệ thống nhiệt động khép kín. Các phản ứng hóa học diễn ra trong hệ thống kín này có thể là,

Phản ứng hạt nhân Phân rã phóng xạ Các phản ứng hóa học khác

Luật bảo tồn năng lượng là gì?

Định luật bảo toàn năng lượng là một định luật vật lý quy định năng lượng không thể được tạo ra hoặc phá hủy nhưng có thể được thay đổi từ dạng này sang dạng khác. Nói cách khác, luật này chỉ ra rằng tổng năng lượng bên trong một hệ thống khép kín, bị cô lập không đổi. Do đó năng lượng được bảo tồn trong một hệ thống.

Q = dU + W

Trong đó δQ là lượng năng lượng được thêm vào hệ thống, δW là công việc bị mất khỏi hệ thống do công việc nhiệt động lực học được thực hiện bởi hệ thống và dU là sự thay đổi năng lượng bên trong của hệ thống. Điều này giải thích rằng năng lượng được chuyển đổi thành các dạng khác nhau, nhưng không được tạo ra hoặc phá hủy.

Mối quan hệ giữa Luật bảo tồn vật chất và năng lượng là gì?

Nó được coi là khối lượng có thể được chuyển đổi thành năng lượng và ngược lại. Đây là cách thực tế bảo tồn năng lượng lớn xảy ra. Điều này lần đầu tiên được đề xuất bởi Henri Poincaré và Albert Einstein, như một khái niệm được gọi là thuyết tương đối đặc biệt của Hồi giáo. Mối quan hệ giữa khối lượng và năng lượng có thể được đưa ra như sau:

E = mc2

Trong đó E là năng lượng, m là khối lượng và c là tốc độ ánh sáng. Tuy nhiên, trong cơ học cổ điển, hai định luật được coi là các luật riêng biệt.

Sự khác biệt giữa Luật bảo tồn vật chất và năng lượng là gì? Tóm tắt – Định luật bảo toàn vật chất so với năng lượng

Định luật bảo toàn vật chất và năng lượng được coi là hai định luật riêng biệt trong cơ học cổ điển. Nhưng sau đó đã phát hiện ra rằng có một mối quan hệ mạnh mẽ giữa hai luật. Định luật bảo toàn vật chất quy định rằng tổng khối lượng phải là một hằng số bên trong một hệ kín không cho phép vật chất hoặc năng lượng thoát ra trong khi định luật bảo toàn các trạng thái năng lượng mà năng lượng không thể tạo ra hoặc phá hủy, nhưng có thể thay đổi từ một dạng cho người khác Đây là sự khác biệt chính giữa định luật bảo toàn vật chất và năng lượng.

Hình ảnh lịch sự:

1. Hệ thống sơ đồ hệ thống của chúng tôi – Công việc riêng (CC BY-SA 4.0) qua Commons Wikimedia 2. Năng lượng tái tạo trên lưới Lưới By Kenueone (Muff) qua Commons Wikimedia

Định Luật Bảo Toàn Vật Chất: Ứng Dụng, Thí Nghiệm Và Ví Dụ

Định luật bảo toàn vật chất hoặc khối lượng là quy định rằng trong bất kỳ phản ứng hóa học nào, vật chất không được tạo ra hoặc phá hủy. Định luật này dựa trên thực tế là các nguyên tử là các hạt không thể phân chia trong loại phản ứng này; trong khi trong các phản ứng hạt nhân, các nguyên tử bị phân mảnh, đó là lý do tại sao chúng không được coi là phản ứng hóa học.

Đây luôn là trường hợp nếu không có rò rỉ gây mất vật chất; nhưng nếu lò phản ứng được niêm phong kín, không có nguyên tử nào “biến mất”, và do đó khối lượng tích điện phải bằng khối lượng sau phản ứng.

Luật này được sinh ra từ các thí nghiệm của các thế kỷ trước, được củng cố bởi sự đóng góp của một số nhà hóa học nổi tiếng, như Antoine Lavoisier.

Xét phản ứng giữa A và B 2 tạo thành AB 2 (ảnh trên). Theo định luật bảo toàn vật chất, khối lượng của AB 2 phải bằng tổng khối lượng của A và B 2, tương ứng. Khi đó, nếu 37g A phản ứng với 13g B 2 thì sản phẩm AB 2 phải nặng 50g.

Do đó, trong một phương trình hóa học, khối lượng của các chất phản ứng (A và B 2 ) phải luôn bằng khối lượng của các sản phẩm (AB 2 ).

Một ví dụ rất giống với ví dụ vừa mô tả là sự hình thành các oxit kim loại, như rỉ sét hoặc rỉ sét. Các vết gỉ nặng hơn sắt (mặc dù trông không giống như vậy) vì kim loại đã phản ứng với một khối oxy để tạo ra oxit.

Định luật bảo toàn vật chất hay khối lượng là gì?

Định luật này quy định rằng một phản ứng hóa học khối lượng của các chất phản ứng bằng với khối lượng của sản phẩm. Luật được thể hiện trong cụm từ “vật chất không được tạo ra cũng không bị phá hủy, mọi thứ đều được biến đổi”, như được nêu ra bởi Julius Von Mayer (1814-1878).

Luật được soạn thảo độc lập bởi Mikhail Lamanosov, vào năm 1745 và bởi Antoine Lavoisier vào năm 1785. Trong khi nghiên cứu của Lamanósov về Luật Bảo tồn Thánh lễ có trước Lavoisier, họ không được biết đến ở Châu Âu. vì đã được viết bằng tiếng Nga.

Các thí nghiệm được thực hiện vào năm 1676 bởi Robert Boyle đã khiến họ chỉ ra rằng khi một vật liệu được đốt trong một thùng chứa mở, vật liệu này đã tăng trọng lượng của nó; có lẽ do một sự biến đổi kinh nghiệm của chính vật liệu.

Các thí nghiệm của Lavoiser về việc đốt các vật liệu trong các thùng chứa với lượng không khí hạn chế cho thấy trọng lượng tăng lên. Kết quả này phù hợp với kết quả thu được của Boyle.

Đóng góp của Lavoisier

Tuy nhiên, kết luận của Lavoisier thì khác. Ông nghĩ rằng trong quá trình thiêu hủy, một khối lượng được chiết xuất từ ​​không khí, điều này sẽ giải thích sự gia tăng khối lượng được quan sát thấy trong các tài liệu được gửi đến thiêu đốt.

Lavoiser lưu ý rằng sự giảm quan sát được gây ra, thay vào đó, do sự giảm nồng độ khí trong các thùng chứa kín.

Luật này được áp dụng như thế nào trong một phương trình hóa học?

Định luật bảo toàn khối lượng có tầm quan trọng siêu việt trong phép cân bằng hóa học, định nghĩa cái sau là tính toán các mối quan hệ định lượng giữa các chất phản ứng và các sản phẩm có trong phản ứng hóa học.

Trong một phản ứng hóa học có sự điều chỉnh các chất can thiệp vào nó. Nó được quan sát thấy rằng các chất phản ứng hoặc chất phản ứng được tiêu thụ để tạo ra các sản phẩm.

Trong phản ứng hóa học, có sự phá vỡ liên kết giữa các nguyên tử, cũng như sự hình thành liên kết mới; nhưng số lượng nguyên tử tham gia phản ứng vẫn không thay đổi. Đây là những gì được gọi là định luật bảo tồn vật chất.

Nguyên tắc cơ bản

Luật này bao hàm hai nguyên tắc cơ bản:

-Tổng số nguyên tử của mỗi loại bằng nhau trong các chất phản ứng (trước phản ứng) và trong các sản phẩm (sau phản ứng).

-Tổng tổng các điện tích trước và sau phản ứng không đổi.

Điều này là do số lượng các hạt hạ nguyên tử không đổi. Những hạt này là neutron không có điện tích, proton có điện tích dương (+) và electron có điện tích âm (-). Vì vậy, điện tích không thay đổi trong một phản ứng.

Phương trình hóa học

Như đã nói ở trên, khi biểu diễn một phản ứng hóa học bằng phương trình (giống như của hình ảnh chính), các nguyên tắc cơ bản phải được tôn trọng. Phương trình hóa học sử dụng các ký hiệu hoặc biểu diễn của các nguyên tố hoặc nguyên tử khác nhau và cách chúng được nhóm lại trong các phân tử trước hoặc sau phản ứng.

Phương trình sau đây sẽ được sử dụng lại làm ví dụ:

Chỉ số là một số được đặt ở phần bên phải của các phần tử (B 2 và AB 2 ) ở phần dưới của nó, cho biết số lượng nguyên tử của một nguyên tố có trong phân tử. Con số này không thể thay đổi nếu không tạo ra một phân tử mới, khác với phân tử ban đầu.

Trong một phương trình hóa học, nếu phản ứng là không thể đảo ngược, một mũi tên duy nhất được đặt, chỉ ra hướng của phản ứng. Nếu phản ứng thuận nghịch, có hai mũi tên ngược chiều. Bên trái mũi tên là các chất phản ứng hoặc chất phản ứng (A và B 2 ), trong khi bên phải là các sản phẩm (AB 2 ).

Xích đu

Cân bằng một phương trình hóa học là một quy trình cho phép cân bằng số lượng nguyên tử của các nguyên tố hóa học có trong các chất phản ứng với các sản phẩm.

Nói cách khác, số lượng nguyên tử của mỗi nguyên tố phải bằng nhau ở phía các chất phản ứng (trước mũi tên) và ở phía sản phẩm của phản ứng (sau mũi tên).

Người ta nói rằng khi một phản ứng được cân bằng, Luật hành động đại chúng đang được tôn trọng.

Do đó, điều cần thiết là phải cân bằng số lượng nguyên tử và điện tích ở cả hai phía của mũi tên trong một phương trình hóa học. Ngoài ra, tổng khối lượng của các chất phản ứng phải bằng tổng khối lượng của các sản phẩm.

Đối với trường hợp phương trình được biểu diễn, nó đã được cân bằng (số A và B bằng nhau ở cả hai phía của mũi tên).

Thí nghiệm chứng minh luật Thiêu đốt kim loại

Lavoiser, quan sát quá trình đốt các kim loại như chì và thiếc trong các thùng chứa kín với lượng khí nạp hạn chế, nhận thấy rằng các kim loại được phủ một lớp vôi hóa; và ngoài ra, trọng lượng của kim loại tại một thời điểm nhất định của hệ thống sưởi bằng với trọng lượng ban đầu.

Khi tăng trọng lượng được quan sát thấy khi đốt một kim loại, Lavoiser nghĩ rằng trọng lượng vượt quá quan sát được có thể được giải thích bằng một khối lượng nhất định của một thứ gì đó được chiết xuất từ ​​không khí trong quá trình đốt. Vì lý do này, khối lượng không đổi.

Kết luận này, có thể được xem xét với một nền tảng khoa học yếu, không phải như vậy, đã cho kiến ​​thức của Lavoiser về sự tồn tại của oxy vào thời điểm ông đưa ra Luật của mình (1785).

Giải phóng oxy

Oxy được Carl Willmus Scheele phát hiện vào năm 1772. Sau đó, Joseph Priesley đã phát hiện ra nó một cách độc lập và công bố kết quả nghiên cứu của mình, ba năm trước khi Scheele công bố kết quả của mình trên cùng loại khí này.

Priesley làm nóng thủy ngân monoxide và thu được một loại khí tạo ra sự gia tăng độ rực rỡ của ngọn lửa. Hơn nữa, việc đưa chuột vào một thùng chứa khí đốt khiến chúng hoạt động mạnh hơn. Priesley gọi đây là khí khử.

Priesley đã truyền đạt những quan sát của mình cho Antoine Lavoiser (1775), người đã lặp lại thí nghiệm của mình cho thấy khí ở trong không khí và trong nước. Lavoiser nhận ra khí là một nguyên tố mới, đặt cho nó tên của oxy.

Khi Lavoisier sử dụng như một lý lẽ để đưa ra luật của mình, rằng khối lượng dư thừa quan sát được trong quá trình đốt kim loại là do thứ gì đó được chiết xuất từ ​​không khí, anh ta đã nghĩ đến oxy, một nguyên tố được kết hợp với kim loại trong quá trình đốt.

Ví dụ (bài tập thực hành) Phân hủy thủy ngân monoxide

Nếu 232, 6 thủy ngân monoxide (HgO) được đun nóng, nó sẽ phân hủy thành thủy ngân (Hg) và oxy phân tử (O 2 ). Dựa trên định luật bảo toàn khối lượng và khối lượng nguyên tử: (Hg = 206, 6 g / mol) và (O = 16 g / mol), chỉ ra khối lượng của Hg và O 2 được hình thành.

232, 6 g 206, 6 g 32 g

Các tính toán rất trực tiếp, vì chính xác một mol HgO đang bị phân hủy.

Thiêu đốt một dải băng magiê

Một dải băng magiê 1, 2 g đã được đốt trong một hộp kín chứa 4 g oxy. Sau phản ứng, vẫn còn 3, 2 g oxy không phản ứng. Bao nhiêu oxit magiê đã được hình thành?

Điều đầu tiên để tính toán là khối lượng oxy đã phản ứng. Điều này có thể dễ dàng tính toán, sử dụng phép trừ:

Khối lượng O 2 đã phản ứng = khối lượng ban đầu của O 2 – khối lượng cuối cùng của O 2

Dựa trên định luật bảo toàn khối lượng, có thể tính được khối lượng của MgO.

Khối lượng MgO = khối lượng Mg + khối lượng O

1, 2 g + 0, 8 g

2, 0 g MgO

Canxi hydroxit

Một khối lượng 14 g canxi oxit (CaO) đã phản ứng với 3, 6 g nước (H 2 O), được tiêu thụ hoàn toàn trong phản ứng tạo thành 14, 8 g canxi hydroxit, Ca (OH) 2 :

Bao nhiêu canxi oxit bạn đã phản ứng để tạo thành canxi hydroxit?

Bao nhiêu canxi oxit còn lại?

Phản ứng có thể được mô phỏng theo phương trình sau:

Phương trình được cân bằng. Do đó, nó tuân thủ luật bảo tồn của đại chúng.

Khối lượng CaO tham gia phản ứng = khối lượng Ca (OH) 2 – khối lượng H 2 O

14, 8 g – 3, 6 g

11, 2 g CaO

Do đó, CaO không phản ứng (cái còn lại) được tính bằng cách trừ:

Khối lượng CaO còn lại = khối lượng có trong phản ứng – khối lượng can thiệp vào phản ứng.

14 g CaO – 11, 2 g CaO

2, 8 g CaO

Ôxít đồng

Bao nhiêu oxit đồng (CuO) sẽ được hình thành khi 11 g đồng (Cu) phản ứng hoàn toàn với oxy (O 2 )? Cần bao nhiêu oxy trong phản ứng?

Bước đầu tiên là cân bằng phương trình. Phương trình cân bằng như sau:

Phương trình được cân bằng, vì vậy nó tuân thủ định luật bảo toàn khối lượng.

Trọng lượng nguyên tử của Cu là 63, 5 g / mol và trọng lượng phân tử của CuO là 79, 5 g / mol.

Cần xác định lượng CuO được tạo thành từ quá trình oxy hóa hoàn toàn 11 g Cu:

Khối lượng CuO = (11 g Cu) (1 mol Cu / 63, 5 g Cu) (2 mol CuO / 2 mol Cu)) (79, 5 g CuO / mol CuO)

Khối lượng CuO định hình = 13, 77 g

Do đó, sự khác biệt về khối lượng giữa CuO và Cu cho lượng oxy tham gia vào phản ứng:

Khối lượng oxy = 13, 77 g – 11 g

Hình thành natri clorua

Một khối clo (Cl 2 ) 2, 47 g đã được phản ứng với đủ natri (Na) và 3, 82 g natri clorua (NaCl) được tạo thành. Na đã phản ứng bao nhiêu?

Phương trình cân bằng:

Theo định luật bảo toàn quần chúng:

Khối lượng Na = khối lượng NaCl – khối lượng Cl 2

3, 82 g – 2, 47 g

1, 35 g Na

Định Luật Bảo Toàn Khối Lượng Là Gì?

Định luật bảo toàn khối lượng là gì?

1. Định nghĩa

Trong một phản ứng hóa học bất kỳ, tổng khối lượng các chất tạo thành từ phản ứng bằng khối lượng tất cả các chất tham gia phản ứng, chúng chỉ được chuyển đổi từ dạng này sang dạng khác.

Hay còn được phát biểu là khối lượng trong một hệ cô lập không được tạo ra cũng như không bị phá hủy bởi các phản ứng hóa học hoặc biến đổi vật lý.

2. Điều kiện 

Chất phản ứng: Bất kỳ đơn chất hay hợp chất nào tham gia trực tiếp hay gián tiếp đều được tính là khối lượng chất tham gia phản ứng ban đầu.

Không thể tạo ra hoặc phá hủy khối lượng mới, nó chỉ đơn thuần là sắp xếp lại trật tự các đơn chất và hợp chất mới.

3. Công thức áp dụng định luật bảo toàn khối lượng

Với định luật này, chúng ta có thể xác định được khối lượng của các chất tham gia phản ứng và các chất tạo thành nếu biết tổng khối lượng phản ứng.

Công thức tổng quát

mA + mB + …+ MN = mA1 + mB1 + … + mN1

Trong đó:

mA, mB, mN: Khối lượng các chất tham gia phản ứng

mA1, mB1, mN1: Khối lượng các chất tạo thành phản ứng.

Nếu đề bài đã cho biết khối lượng 2 chất tham gia là A, B và khối lượng 1 chất tạo thành là D. Dựa theo định luật, ta có thể tính được khối lượng chất tạo thành còn lại là C bằng công thức:

Bài tập ví dụ áp dụng định luật bảo toàn khối lượng

Bài tập 1: Với 10g  canxi cacbonat (CaCO3 ) người ta có thể tạo ra 3,8 gam khí cacbonic (CO2 ) và x gam canxi oxit (CaO). Hãy viết phương trình phản ứng trên và tính khối lượng CaO được tạo thành

Đáp án:

Trong phản ứng trên có 1 chất tham gia và tạo thành 2 sản phẩm mới. 

Theo định luật ta có:

mCaCO3 = mCaO + mCO2 

Vậy khối lượng CaO tạo thành là 6,2g.

Đáp án

Áp dụng định luật ta có:

mNa2SO4 + mBaCl2 = mBaSO4 + mNaCl

Vậy khối lượng của BaCl2 đã tham gia phản ứng là 20,8g.

Kết luận: Đây là toàn bộ kiến thức cho câu hỏi định luật bảo toàn khối lượng là gì? Công thức tính và bài tập ví dụ minh họa chi tiết.

Áp Dụng Định Luật Bảo Toàn Năng Lượng Và Định Luật Bảo Toàn Động Lượng

Chúng tôi trích giới thiệu với các bạn một số bản dịch từ tác phẩm Những câu hỏi và bài tập vật lí phổ thông của hai tác giả người Nga L. Tarasov và A. Tarasova, sách xuất bản ở Nga năm 1968. Bản dịch lại từ bản tiếng Anh xuất bản năm 1973.

§10. Áp dụng định luật bảo toàn năng lượng và định luật bảo toàn động lượng

GV: Để mở đầu, tôi muốn nêu ra một vài bài toán đơn giản. Bài thứ nhất: Hai vật trượt không ma sát xuống hai mặt phẳng nghiêng có độ cao H bằng nhau nhưng với hai góc nghiêng khác nhau 2. Vận tốc ban đầu của hai vật bằng không. Tìm vận tốc của hai vật tại cuối đường đi của chúng. Bài thứ hai: Chúng ta biết công thức biểu diễn vận tốc cuối của một vật theo gia tốc và quãng đường đi v = (2as) dùng cho trường hợp khi không có vận tốc ban đầu. Công thức này sẽ có dạng như thế nào nếu như vật có vận tốc ban đầu v0? Bài thứ ba: Một vật được ném từ một độ cao H với vận tốc nằm ngang v0. Tìm vận tốc của nó khi nó rơi chạm đất. Bài thứ tư: Một vật được ném lên hợp một góc với phương ngang với vận tốc ban đầu v0. Tìm độ cao cực đại mà vật lên tới.

HS A: Em sẽ giải bài thứ nhất theo cách như sau. Trước tiên, chúng ta xét một trong hai mặt phẳng nghiêng, chẳng hạn mặt phẳng nghiêng có góc nghiêng 1. Có hai lực tác dụng lên vật: trọng lực P và phản lực pháp tuyến . Ta phân tích lực P thành hai thành phần, một thành phần song song với mặt phẳng nghiêng ( P sin 1) và thành phần kia vuông góc với nó ( P cos 1). Sau đó ta viết phương trình cho những lực vuông góc với mặt phẳng nghiêng:

Vì kết quả cuối cùng không phụ thuộc vào góc nghiêng, nên nó cũng áp dụng được cho mặt phẳng nghiêng thứ hai với góc nghiêng 2.

Để giải bài toán thứ hai, em sẽ sử dụng những phương trình động học đã biết

v = v0 + at s = v0t + at2/2

Từ phương trình thứ nhất ta tìm được . Thay vào cho t trong phương trình thứ hai ta được

Để giải bài thứ ba, trước tiên em sẽ tìm thành phần vận tốc nằm ngang và thành phần vận tốc thẳng đứng của vận tốc ban đầu. Vì vật chuyển động với vận tốc không đổi theo phương ngang nên . Theo phương thẳng đứng, vật chuyển động với gia tốc g nhưng không có vận tốc ban đầu. Do đó, ta có thể sử dụng công thức √(2gH). Vì tổng bình phương hai cạnh của một tam giác vuông bằng với bình phương cạnh huyền, nên kết quả cuối cùng là

Bài toán thứ tư đã đề cập trong §5. Ta cần phân tích vận tốc ban đầu thành những thành phần nằm ngang ( cos) và thẳng đứng ( sin). Sau đó ta xét chuyển động thẳng đứng của vật và, trước tiên, ta tìm thời gian đi lên từ công thức sự phụ thuộc của vận tốc vào thời gian trong chuyển động chậm dần đều (sin), biết rằng lúc vận tốc thẳng đứng của vật biến mất. Như vậy sin = 0, từ đó sin. Thời gian đã biết, giờ ta tìm độ cao H từ công thức đường đi phụ thuộc thời gian của chuyển động chậm dần đều. Như vậy

GV: Trong cả bốn trường hợp em đều đã có đáp số đúng. Tuy nhiên, tôi không hài lòng với cách em giải những bài toán này. Chúng có thể được giải đơn giản hơn nhiều nếu em sử dụng định luật bảo toàn năng lượng. Các em có thể tự thấy điều đó.

Bài thứ nhất. Định luật bảo toàn năng lượng có dạng mgH = mv2/2 (thế năng của vật tại đỉnh mặt phẳng nghiêng bằng với động năng của nó tại chân mặt phẳng nghiêng). Từ phương trình này ta dễ dàng tìm được vận tốc của vật tại chân mặt phẳng nghiêng

Bài thứ hai. Trong trường hợp này, định luật bảo toàn năng lượng có dạng , trong đó mas là công thực hiện bởi lực đang truyền gia tốc a cho vật. Biểu thức này lập tức đưa đến , hay

Bài thứ tư. Tại điểm vật được ném lên, năng lượng của nó bằng mv 02/2. Tại điểm trên cùng của quỹ đạo của nó, năng lượng của vật là . Vì vận tốc tại điểm trên cùng bằng cos, cho nên, sử dụng định luật bảo toàn năng lượng

HS A: Vâng, em thấy khá rõ là những bài toán này có thể giải theo một cách đơn giản hơn nhiều. Tiếc là em đã không sử dụng định luật bảo toàn năng lượng.

GV: Thật không may, các thí sinh thường hay quên định luật này. Cho nên, họ bắt đầu giải những bài toán như vậy bằng những phương pháp rắc rối hơn, do đó làm tăng thêm xác suất sai sót. Lời khuyên của tôi là: hãy linh hoạt hơn và sử dụng rộng rãi định luật bảo toàn năng lượng.

Ở đây nảy sinh vấn đề: Các em có thể sử dụng định luật này thành thạo như thế nào?

HS A: Em thấy dường như không cần kĩ năng đặc biệt nào hết; định luật bảo toàn năng lượng khá đơn giản.

GV: Khả năng áp dụng chính xác một định luật vật lí không được quyết định bởi tính phức tạp hay tính đơn giản của nó. Xét một ví dụ. Giả sử một vật chuyển động với vận tốc không đổi trong một vòng tròn nằm trong mặt phẳng ngang. Không có lực ma sát. Vật chịu một lực hướng tâm. Công thực hiện bởi lực này trong một vòng chuyển động của vật là bao nhiêu?

HS A: Công bằng tích của lực và quãng đường đi mà nó tác dụng. Như vậy, trong trường hợp của chúng ta nó bằng πR = 2, trong đó R là bán kính của vòng tròn, m và v là khối lượng và vận tốc của vật.

GV: Theo định luật bảo toàn năng lượng, công không thể hoàn toàn biến mất. Công em vừa mới tính đã biến thành cái gì?

HS A: Nó dùng để làm quay vật.

GV: Tôi không hiểu. Hãy nói chính xác hơn.

HS A: Nó giữ cho vật chuyển động tròn.

GV: Lí giải của em sai rồi. Không cần có công gì hết để giữ cho vật chuyển động tròn.

HS A: Vậy em không biết làm sao trả lời câu hỏi của thầy.

GV: Năng lượng truyền cho một vật có thể được phân bố, như các nhà vật lí nói, trong các “kênh” sau đây: (1) tăng động năng của vật; (2) tăng thế năng của nó; (3) công thực hiện bởi vật đã cho lên những vật khác và (4) nhiệt sinh ra do ma sát. Đó là nguyên lí chung mà không phải thí sinh nào cũng hiểu rõ.

Giờ hãy xét công của lực hướng tâm. Vật chuyển động với một vận tốc không đổi và do đó động năng của nó không tăng. Như vậy, kênh thứ nhất bị loại. Vật chuyển động trong mặt phẳng nằm ngang và hệ quả là thế năng của nó không thay đổi. Kênh thứ hai cũng bị loại. Vật đã cho không thực hiện bất cứ công nào lên vật khác, cho nên kênh thứ ba bị loại. Cuối cùng, mọi loại ma sát đã bị loại trừ. Hệ quả là loại luôn kênh thứ tư và là kênh cuối cùng.

HS A: Nhưng khi đó có hay không có công của lực hướng tâm?

GV: Như em thấy đó, không có. Bây giờ vẫn còn cơ hội cho em đưa ra kết luận của mình. Hoặc là em thừa nhận rằng định luật bảo toàn năng lượng không đúng, và khi đó toàn bộ vướng mắc của em không còn nữa, hoặc là em tiếp tục công nhận giá trị của định luật này và rồi… Tuy nhiên, hãy cố gắng tìm cách loại đi những khó khăn của em.

HS A: Theo em vẫn nên kết luận rằng lực hướng tâm không thực hiện công nào hết.

GV: Đó là một kết luận khá hợp lí. Tôi muốn nói rằng nó chính là hệ quả trực tiếp của định luật bảo toàn năng lượng.

HS B: Mọi thứ đã sáng tỏ rồi, nhưng chúng ta làm gì với công thức cho công thực hiện bởi một vật?

GV: Ngoài lực và quãng đường đi mà nó tác dụng, công thức này còn chứa cosin của góc giữa hướng của lực và vận tốc

A = Fs cos

Trong trường hợp đã cho cos = 0.

HS A: Ồ vâng, em hoàn toàn quên mất lượng cosin này.

GV: Tôi muốn nêu ra một ví dụ nữa. Xét hai bình thông nhau nối lại bằng một cái ống hẹp có van chặn. Giả sử lúc đầu toàn bộ chất lỏng ở bình bên trái và chiều cao của nó là H (Hình 43 a). Sau đó, chúng ta mở van và chất lỏng chảy từ bình bên trái sang bình bên phải. Dòng chảy ngừng lại khi có mức cao bằng nhau H/2 ở mỗi bình (Hình 43 b). Ta hãy tính thế năng của chất lỏng ở vị trí đầu và vị trí cuối. Để tính ta nhân trọng lượng của chất lỏng trong mỗi bình với nửa chiều cao của cột chất lỏng. Ở vị trí ban đầu thế năng bằng PH/2, và ở vị trí cuối thế năng là ( P/2)( H/4) + ( P/2)( H/4) = PH/4. Như vậy, ở trạng thái cuối thế năng của vật hóa ra chỉ bằng một nửa thế năng lúc ban đầu. Vậy một nửa năng lượng đã tiêu tán đi đâu?

HS A: Em sẽ cố gắng lí giải như thầy đã khuyên. Phần thế năng PH/4 có thể đã dùng để thực hiện công lên những vật khác, sinh nhiệt do ma sát, và động năng của chính khối chất lỏng. Đúng không thầy?

GV: Khá chính xác. Hãy nói tiếp đi.

HS A: Trong trường hợp của chúng ta, chất lỏng chảy từ bình này sang bình kia không thực hiện bất kì công nào lên vật khác. Chất lỏng không có động năng ở trạng thái cuối vì nó ở trạng thái tĩnh. Như vậy cái còn lại để kết luận là một nửa thế năng đã chuyển hóa thành nhiệt do ma sát. Thật vậy, em không có khái niệm rõ ràng cho lắm loại ma sát này là gì.

GV: Em đã lí giải chính xác và đi tới kết luận đúng. Tôi muốn bổ sung thêm vài lời về bản chất của lực ma sát đó. Ta có thể tưởng tượng rằng chất lỏng được chia thành từng lớp, mỗi lớp đặc trưng một tốc độ chảy rõ ràng. Lớp càng gần thành bình thì vận tốc của nó càng nhỏ. Có sự hoán đổi phân tử giữa các lớp, hệ quả của những phân tử có vận tốc cao hơn của chuyển động trật tự đi xen vào giữa những phân tử có vận tốc thấp hơn của chuyển động trật tự, và ngược lại. Như vậy, lớp “nhanh” có tác dụng làm tăng tốc lớp “chậm” và, ngược lại, lớp “chậm” có tác dụng làm giảm tốc lớp “nhanh”. Hình ảnh này cho phép chúng ta nói tới sự tồn tại của sự ma sát nội tại giữa các lớp. Sự chênh lệch vận tốc của các lớp ở giữa bình và ở gần thành bình càng lớn thì tác dụng ma sát càng mạnh. Lưu ý rằng vận tốc của các lớp ở gần thành bình bị ảnh hưởng bởi loại tác dụng nội tại giữa các phân tử chất lỏng và các phân tử thành bình. Nếu chất lỏng làm ướt bình chứa thì lớp liền kề với thành bình thật sự là tĩnh.

HS A: Điều này có phải là ở trạng thái cuối nhiệt độ của chất lỏng có phần cao hơn ở trạng thái ban đầu?

GV: Vâng, chính xác thế. Bây giờ chúng ta sẽ thay đổi điều kiện của bài toán đi một chút. Giả sử không có tương tác giữa chất lỏng và thành bình. Do đó, tất cả các lớp sẽ chảy với vận tốc bằng nhau và sẽ không có lực nội ma sát. Khi đó làm thế nào chất lỏng chảy từ bình này sang bình kia?

HS A: Ở đây thế năng sẽ giảm vì chất lỏng cần có động năng. Nói cách khác, trạng thái minh họa ở Hình 43 b không phải là trạng thái nghỉ. Chất lỏng sẽ tiếp tục chảy từ bình bên trái sang bình bên phải cho đến khi nó đạt tới trạng thái như thể hiện ở Hình 43 c. Ở trạng thái này thế năng một lần nữa bằng với ở trạng thái ban đầu (Hình 43 a).

GV: Hiện tượng gì sẽ xảy ra với chất lỏng sau đó?

HS A: Chất lỏng sẽ bắt đầu chảy về theo hướng ngược lại, từ bình bên phải sang bình bên trái. Như vậy, mực chất lỏng sẽ thăng giáng ở hai bình thông nhau.

GV: Những quan sát như thế có thể quan sát được, chẳng hạn, ở những bình thông nhau thủy tinh chứa thủy ngân. Chúng ta biết rằng thủy ngân không dính ướt thủy tinh. Tất nhiên, những thăng giáng này sẽ bị tắt dần theo thời gian, vì không thể nào loại trừ hoàn toàn sự tương tác giữa các phân tử chất lỏng và các phân tử thành bình.

HS A: Em thấy định luật bảo toàn năng lượng có thể được áp dụng khá tích cực.

GV: Đây là một bài toán khác dành cho các em. Một viên đạn khối lượng m, đang chuyển động theo phương ngang với vận tốc v0, đến va chạm với một khối gỗ khối lượng M, treo lơ lửng bên dưới một sợi dây, và dính vào trong gỗ. Hỏi sau khi viên đạn cắm vào, khối gỗ sẽ nâng lên đến độ cao H bằng bao nhiêu, do sự lệch của dây treo khỏi vị trí cân bằng (Hình 44)?

HS A: Ta kí hiệu v1 là vận tốc của khối gỗ và viên đạn ngay sau khi đạn bay vào trong gỗ. Để tìm vận tốc này, ta dùng định luật bảo toàn năng lượng. Như vậy

Biết được vận tốc này, ta đi tính độ cao H bằng cách sắp xếp lại định luật bảo toàn năng lượng

GV (nói với HS B): Em nghĩ gì về cách giải này?

HS B: Tôi không tán thành thế. Chúng ta đã nói ở phần trước rằng trong những trường hợp như vậy cần sử dụng định luật bảo toàn động lượng. Do đó, thay cho phương trình (50), em sẽ dùng một liên hệ khác

mv0 = (m + M)v1(54)

(động lượng của viên đạn trước khi nó va chạm với khối gỗ bằng động lượng của viên đạn và khối gỗ sau đó). Từ biểu thức này ta có

GV: Chúng ta có hai quan điểm và hai kết quả khác nhau. Theo một quan điểm thì áp dụng định luật bảo toàn động năng, còn theo quan điểm kia thì áp dụng định luật bảo toàn động lượng. Quan điểm nào đúng? (nói với HS A) Em có thể nói gì để chứng minh cho quan điểm của mình?

HS A: Em đã không sử dụng định luật bảo toàn động lượng.

GV (nói với HS B): Còn em sẽ nói gì?

HS B: Em không biết làm thế nào chứng minh cho quan điểm của mình. Em nhớ là khi gặp bài toán va chạm thì định luật bảo toàn động lượng luôn luôn có giá trị sử dụng, còn định luật bảo toàn năng lượng không phải lúc nào cũng dùng tốt. Vì trong trường hợp đã cho, những định luật này đưa đến những kết quả khác nhau, nên cách giải của em rõ ràng là đúng.

GV: Trước tiên, cách giải của em thật sự khá chính xác. Tuy nhiên, ta cần xét kĩ hơn vấn đề này. Một va chạm mà sau đó các vật va chạm dính lại với nhau (hay vật này nằm trong vật kia) được gọi là “va chạm hoàn toàn không đàn hồi”. Tiêu biểu trong những va chạm như thế là sự có mặt của sự bố trí vĩnh viễn ở những vật va chạm, hệ quả của nhiệt sinh ra do ma sát. Vì thế, phương trình (50), chỉ nói tới động năng của các vật, là không áp dụng được. Trong trường hợp của chúng ta, cần sử dụng định luật bảo toàn động lượng (54) để tìm vận tốc của khối gỗ và viên đạn sau va chạm.

HS A: Ý thầy nói là định luật bảo toàn năng lượng không có giá trị đối với một va chạm hoàn toàn không đàn hồi chăng? Nhưng định luật này có tính vạn vật mà.

GV: Không ai nghi ngờ chuyện định luật bảo toàn năng lượng có giá trị đối với một va chạm hoàn toàn không đàn hồi. Động năng không được bảo toàn sau một va chạm như thế. Tôi nói riêng động năng chứ không nói toàn bộ năng lượng. Kí hiệu nhiệt sinh ra trong va chạm là Q, ta có thể viết hệ định luật bảo toàn sau đây cho va chạm hoàn toàn không đàn hồi vừa nói ở trên

Ở đây phương trình thứ nhất là định luật bảo toàn động lượng, và phương trình thứ hai là định luật bảo toàn năng lượng (không chỉ tính cơ năng, mà còn xét cả nhiệt năng).

Hệ phương trình (57) có hai biến: và Q. Sau khi xác định từ phương trình thứ nhất, ta có thể sử dụng phương trình thứ hai để tìm nhiệt lượng Q

Rõ ràng từ phương trình này là khối lượng M càng lớn, thì năng lượng chuyển hóa thành nhiệt càng nhiều. Tính giới hạn, với khối lượng M vô cùng lớn, ta thu được /2, tức là toàn bộ động năng chuyển hóa thành nhiệt. Điều này khá tự nhiên thôi: ví dụ như trường hợp viên đạn bay dính vào tường.

HS A: Có thể có va chạm nào trong đó không có nhiệt sinh ra hay không?

GV: Có, những va chạm như thế là có thể. Chúng được gọi là va chạm “hoàn toàn đàn hồi”. Chẳng hạn, va chạm giữa hai quả cầu thép có thể xem là hoàn toàn đàn hồi với một mức độ gần đúng hợp lí. Sự biến dạng đàn hồi thuần túy của hai quả cầu xảy ra và không có nhiệt sinh ra. Sau va chạm, hai quả cầu trở lại hình dạng ban đầu của chúng.

HS A: Ý thầy nói là trong một va chạm hoàn toàn đàn hồi định luật bảo toàn năng lượng trở thành định luật bảo toàn động năng?

GV: Ừ, tất nhiên rồi.

HS A: Nhưng trong trường hợp này, em không thể nào hiểu làm thế nào thầy dung hòa định luật bảo toàn động lượng và định luật bảo toàn năng lượng. Chúng ta thu được hai phương trình hoàn toàn khác nhau cho vận tốc sau va chạm. Hoặc, có lẽ, định luật bảo toàn động lượng không có ý nghĩa trong một va chạm hoàn toàn đàn hồi.

GV: Cả hai định luật đều có ý nghĩa trong một va chạm hoàn toàn đàn hồi: bảo toàn động lượng và bảo toàn động năng. Em chẳng có lí do gì để ngần ngại chuyện phối hợp hai định luật này bởi vì sau một va chạm hoàn toàn đàn hồi, các vật bay ra xa nhau ở những vận tốc khác nhau. Trong khi sau một va chạm hoàn toàn không đàn hồi các vật va chạm chuyển động với cùng vận tốc (vì chúng dính vào nhau), thì sau một va chạm đàn hồi mỗi vật chuyển động với một vận tốc xác định riêng của nó. Hai biến chưa biết đòi hỏi có hai phương trình. Ta hãy xét một ví dụ. Giả sử một vật khối lượng m đang chuyển động với vận tốc va chạm đàn hồi với một vật khối lượng M đang đứng yên. Giả sử thêm rằng sau va chạm vật đi tới đó bật ngược trở lại. Ta sẽ kí hiệu vận tốc của vật m sau va chạm là và của vật M là . Khi đó định luật bảo toàn năng lượng và động lượng có thể viết ở dạng

Lưu ý dấu trừ trong phương trình thứ nhất. Nó xuất hiện là do giả sử của chúng ta rằng vật đi tới bị bật ngược trở lại.

HS B: Nhưng thầy không phải lúc nào cũng biết trước hướng chuyển động của vật sau va chạm. Phải chăng vật m không thể tiếp tục chuyển động theo hướng cũ với một vận tốc nhỏ hơn sau va chạm?

GV: Nó có thể chứ. Trong trường hợp như vậy ta sẽ thu được một vận tốc v1 âm khi giải hệ phương trình (59).

HS B: Em nghĩ rằng hướng chuyển động của vật m sau va chạm được xác định bởi tỉ số của khối lượng m và M.

HS B: Chúng ta biết rằng sau va chạm các quả cầu có thể chuyển động ra xa nhau theo hướng hợp với nhau một góc nào đó. Chúng ta đã giả sử rằng chuyển động xảy ra theo một đường thẳng. Rõ ràng đây phải là một trường hợp đặc biệt mà thôi.

GV: Em nói đúng. Chúng ta đã xét cái gọi là va chạm xuyên tâm trong đó các quả cầu chuyển động trước và sau va chạm theo một đường thẳng đi qua tâm của chúng. Trường hợp tổng quát hơn là va chạm lệch tâm sẽ được xét tới sau. Ở đây tôi muốn biết mọi thứ đã khá rõ ràng hay chưa.

HS A: Em nghĩ là mình đã hiểu rồi. Như em thấy, trong mọi va chạm (đàn hồi hay không đàn hồi), có thể áp dụng được hai định luật bảo toàn: động lượng và năng lượng. Chỉ là bản chất khác nhau của các va chạm dẫn tới những phương trình khác nhau mô tả các định luật bảo toàn. Khi xét những va chạm không đàn hồi, cần kể đến nhiệt sinh ra trong va chạm đó.

GV: Nhận xét của em là đúng và ngắn gọn.

HS B: Như em hiểu cho đến đây thì va chạm hoàn toàn đàn hồi và va chạm hoàn toàn không đàn hồi là hai trường hợp cực độ. Chúng có luôn luôn thích hợp để mô tả những trường hợp thực tế hay không?

GV: Em hay đấy khi đưa ra vấn đề này. Những trường hợp va chạm mà chúng ta vừa xét là những trường hợp cực độ. Trong những va chạm thực tế, một lượng nhiệt nhất định luôn luôn được sinh ra (không có sự biến dạng đàn hồi lí tưởng) và các vật va chạm có thể chuyển động ra xa nhau với những vận tốc khác. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp những va chạm thực tế được mô tả khá tốt theo những mô hình đã giản lược hóa: va chạm hoàn toàn đàn hồi và va chạm hoàn toàn không đàn hồi.

Bây giờ chúng ta hãy xét một ví dụ va chạm đàn hồi lệch tâm. Một vật ở dạng một mặt phẳng nghiêng với góc nghiêng 45o đang nằm trên mặt phẳng ngang. Một quả cầu khối lượng m, đang bay ngang với vận tốc v0, đến va chạm với vật (mặt phẳng nghiêng) có khối lượng M. Hệ quả của sự va chạm là quả cầu bật lên theo phương thẳng đứng và vật M bắt đầu trượt không ma sát trên mặt phẳng ngang. Hãy tìm vận tốc bay lên thẳng đứng của quả cầu ngay sau khi va chạm (Hình 45). Em nào muốn thử giải bài toán này?

HS B: Cho phép em làm thử. Ta kí hiệu vận tốc cần tìm của quả cầu là và của vật M là . Vì va chạm là đàn hồi, nên em có quyền giả sử rằng động năng được bảo toàn. Như vậy

Em cần thêm một phương trình nữa, cái dễ thấy là em nên sử dụng định luật bảo toàn động lượng. Em sẽ viết nó ở dạng

mv0 = Mv2 + mv1(61)

Thật ra em không chắc về phương trình thứ hai vì vận tốc vuông góc với vận tốc .

Với bài toán đã cho, ta có thể chọn phương nằm ngang và phương thẳng đứng. Đối với phương ngang, định luật bảo toàn động lượng có dạng

mv0 = Mv2(62)

Từ phương trình (60) và (62) ta tìm được vận tốc

HS B: Chúng ta làm gì với phương thẳng đứng?

mv1 – Meve = 0(63)

HS B: Vì trái đất cũng tham gia vào bài toán này, cho nên rõ ràng sẽ cần sửa lại phương trình năng lượng (60).

GV: Vậy em sửa như thế nào cho phương trình (60)?

HS B: Em muốn thêm một số hạng về chuyển động của trái đất sau va chạm

Vì khối lượng trên thực tế hết sức lớn, nên vận tốc của trái đất sau va chạm trên thực tế là bằng không. Bây giờ, ta hãy viết lại số hạng /2 trong phương trình (64) có dạng ()/2. Theo phương trình (63), đại lượng trong tích này có một giá trị hữu hạn. Nếu nhân giá trị này với không (trong trường hợp đã cho là bằng không), thì tích cũng sẽ bằng không. Từ đây ta có thể kết luận rằng trái đất tham gia rất kì cục trong bài toán này. Nó thu một động lượng nhất định, nhưng đồng thời trên thực tế nó không nhận năng lượng nào hết. Nói cách khác, nó tham gia vào định luật bảo toàn động lượng nhưng không tham gia vào định luật bảo toàn năng lượng. Trường hợp này là bằng chứng đặc biệt nổi bật của thực tế rằng định luật bảo toàn năng lượng và động lượng là những định luật khác nhau về cơ bản, và độc lập với nhau.

Bài tập

22. Một vật khối lượng 3 kg rơi từ một độ cao nhất định với vận tốc ban đầu 3 m/s theo phương thẳng đứng. Tìm công thực hiện để thắng lực cản của không khí trong 10 giây, biết rằng vật thu được vận tốc 50 m/s lúc cuối khoảng thời gian 10 giây. Giả sử lực cản của không khí là không đổi.

23. Một vật trượt xuống một mặt phẳng nghiêng góc 30 o sau đó trượt tiếp trên một mặt ngang. Xác định hệ số ma sát, biết rằng quãng đường vật trượt trên mặt phẳng ngang bằng với trên mặt phẳng nghiêng.

24. Tính hiệu suất của một mặt phẳng nghiêng trong trường hợp khi một vật trượt ra khỏi nó với vận tốc không đổi.

25. Một quả cầu khối lượng m và thể tích V thả rơi vào trong nước từ độ cao H, chìm xuống độ sâu h, và sau đó thì nhảy ra khỏi nước (tỉ trọng của quả cầu nhỏ hơn của nước). Tìm lực cản của nước (giả sử nó là không đổi) và độ cao quả cầu lên tới sau khi nó nhảy ra khỏi nước. Bỏ qua sức cản không khí. Tỉ trọng của nước kí hiệu là n.

26. Một đầu tàu hỏa có khối lượng 50 tấn, đang chuyển động với vận tốc 12 km/h, móc vào một toa tàu trần khối lượng 30 tấn đang đứng yên trên cùng đường ray. Tìm vận tốc chuyển động chung của đầu tàu và toa xe ngay sau khi chuyển động ghép nối tự động hoạt động. Tính quãng đường đi được bởi hai xe sau khi ghép nối, biết lực cản bằng 5% trọng lượng.

27. Một khẩu đại bác khối lượng M, đặt tại chân một mặt phẳng nghiêng, bắn ra một viên đạn khối lượng m theo phương ngang với vận tốc ban đầu . Hỏi khẩu đại bác leo lên đến độ cao nào trên mặt phẳng nghiêng do sự giật lùi nếu góc nghiêng của mặt phẳng đó là và hệ số ma sát giữa khẩu đại bác và mặt phẳng nghiêng là k?

28. Hai quả cầu khối lượng M và 2 M treo bên dưới hai sợi dây mảnh chiều dài l buộc cố định tại cùng một điểm. Quả cầu M được kéo về một phía nghiêng một góc và thả ra sau khi truyền cho nó một vận tốc tiếp tuyến v 0 hướng về phía vị trí cân bằng. Hỏi hai quả cầu sẽ nâng lên đến độ cao bao nhiêu nếu: (1) va chạm là hoàn toàn đàn hồi, và (2) va chạm là hoàn toàn không đàn hồi (hai quả cầu dính vào nhau sau va chạm)?

29. Một quả cầu khối lượng M treo dưới một sợi dây chiều dài l. Một viên đạn khối lượng m, đang bay theo phương ngang, đến cắm vào quả cầu và mắc kẹt trong đó. Hỏi viên đạn phải có vận tốc tối thiểu bao nhiêu để cho quả cầu quay trọn một vòng tròn trong mặt phẳng thẳng đứng?

30. Hai cái nêm có cùng góc nghiêng 45 o và mỗi nêm có khối lượng M đang nằm trên một mặt phẳng ngang (Hình 46). Một quả cầu khối lượng m ( m << M) thả tự do từ độ cao H. Quả cầu va chạm với nêm này rồi tới nêm kia, sau đó bật lên theo phương thẳng đứng. Tìm độ cao mà quả cầu bật lên tới. Giả sử cả hai va chạm là đàn hồi và không có ma sát giữa hai cái nêm và mặt phẳng ngang.

31. Một cái nêm có góc nghiêng 30 o và khối lượng M nằm trên một mặt phẳng ngang. Một quả cầu khối lượng m thả tự do từ độ cao H, va đàn hồi với cái nêm và bật lên nghiêng góc 30 o so với phương ngang. Hỏi quả cầu bật lên tới độ cao bao nhiêu? Bỏ qua ma sát giữa cái nêm và mặt phẳng ngang.

Vui lòng ghi rõ “Nguồn chúng tôi khi đăng lại bài từ CTV của chúng tôi.

Thêm ý kiến của bạn

Định Luật Bảo Toàn Năng Lượng

Bảo toàn năng lượng là một trong những định luật nổi tiếng trong lĩnh vực Vật Lý. Và là một trong bốn định luật nhiệt động lực học mà bạn đã từng được học qua khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Định nghĩa bảo toàn năng lượng

Năng lượng không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi. Nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác hoặc từ vật này sang vật khác.

Đây chính là phát biểu khi nói đến bảo toàn năng lượng. Nó được xem là định luật cơ bản nhất trong vật lý học.

Bạn cũng có thể hiểu: “Trong vũ trụ, tổng năng lượng không hề thay đổi, nó chỉ có thể chuyển từ hệ này sang hệ khác”. Rõ ràng con người không thể tạo ra năng lượng, mà họ chỉ biến chuyển các dạng năng lượng với nhau mà thôi.

Sự hình thành và phát triển định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng Mayer – tổng quan về các quan niệm

Mayer (1814 – 1878) là một bác sỹ y khoa và ông làm việc trên một tàu Viễn Dương. Ông được công nhận là người đầu tiên phát minh ra định luật bảo toàn năng lượng và chuyển hóa năng lượng.

Năm 1841, ông đã viết một công trình mang tên: “Về việc xác định các lực về mặt số lượng và chất lượng”.

Năm 1542, Mayer đã tiếp tục gửi đi một công trình thứ hai, “Nhận xét về các lực của thế giới vô sinh”. Ông đã đưa ra những lập luận chung về “lực”. Sau đó là chi tiết phân tích về sự chuyển hóa “lực rơi” chính là thế năng ngày nay. Và “hoạt lực” chính là động năng ngày nay. Và lần này ông kết luận “Lực là những đối tượng không trọng lượng, không bị hủy diệt và nó có khả năng chuyển hóa:

Năm 1845, ông tiếp tục hoàn thành một công trình mang tên” Chuyển động hữu cơ trong mối liên hệ với sự trao đổi chất”. Lần này ông tính lại đương lượng cơ của nhiệt là 367 kGm/kcal.

Sau này để tỏ lòng biết ơn người ra đã đặt tên cho công thức: Cp -Cv = R là phương trình Mayer.

Joule – xây dựng cơ sở thực nghiệm

Joule (1818 – 1889), ông là một chủ nhà máy sản xuất rượu bia lớn ở Anh. Với những đóng góp xuất sắc của mình, ông được công nhận là một trong những nhà khoa học phát minh ra định luật bảo toàn năng lượng và chuyển hóa năng lượng.

Năm 1843, ông công bố công trình: “Về hiệu quả nhiệt của điện từ và hiệu quả của cơ học”.

Năm 18409 – 1850, ông thực hiện một thí nghiệm kinh điển và được đưa vào sách giáo khoa. Ông đã xác định được đương lượng cơ học của nhiệt khoảng 424 kGm/kcal, đây là một con số khá chính xác.

Helmholtz – khảo sát định luật bảo toàn năng lượng và chuyển hóa năng lượng

Helmholtz (1821 – 1849), ông cũng là một bác sỹ, gia đình truyền thống kinh doanh vàng tại Đức.

Năm 1847, ông báo cáo với hội vật lý Berlin “Vấn đề bảo toàn các lực”. Ông đã nêu lên được “tổng các lực căng và các hoạt lực trong một hệ bao giờ cũng không đổi”.

Tiếp đến ông thực hhieenjkhaor sát và đưa ra nhiều kết luận chuẩn xác, làm tiền đề phát triển sau này. Ví dụ: “Khi có giao thoa ánh sáng, năng lượng của nó không bị tiêu hủy tại chỗ mà chỉ được phân bố lại, nó chỉ bị giảm khi sóng ánh sáng bị hấp thụ và khi đó nó chuyển thành các dạng năng lượng khắc như hóa năng hay nhiệt năng”.

Ngày nay định luật bảo toàn năng lượng và chuyển hóa năng lượng được các nhà khoa học nghiên cứu và hoàn thiện hơn. Và họ khẳng định rằng khoong một quá trình vật lý nào xảy ra mà phá hủy được 2 định luật này.

Ví dụ, với vật đen tuyệt đối, Fphản xạ = Ftruyền qua = 0, thì: