Xu Hướng 3/2023 # Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Thực Dụng Của Hoa Kỳ # Top 9 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Thực Dụng Của Hoa Kỳ # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Thực Dụng Của Hoa Kỳ được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Lê Văn Bỉnh

Nhiều người trong chúng ta thường nói rằng người Mỹ –dùng chung cho cá nhân, chính trị gia, định chế, chính phủ –theo “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism).  Khi tỏ ý chê bai, thì phê phán này có nghĩa là người Mỹ không có một lý tưởng rõ ràng, hễ thấy điều gì có lợi cho mình thì làm, quên cả mục tiêu mà mình muốn theo đuổi từ ban đầu. Khi ngợi khen, thì phê phán này hàm ý là người Mỹ không câu nệ, không cứng nhắc tuân theo nguyên tắc, mà trái lại biết linh động theo tình thế, sẵn sàng thay đổi phương cách hành động cũng như đường lối, chính sách.  Sử dụng cụm từ “chủ nghĩa thực dụng” với những hàm ý này thiết nghĩ không chính xác, nếu không nói là lạm dụng chữ nghĩa, bởi lẽ hành động theo cung cách đổi tới đổi lui thì không thể gọi là theo một “chủ nghĩa” nào cả!  Thiết nghĩ nói rằng người Mỹ “thực tế”, “thực tiễn” (practical) thì có lẽ đúng hơn.

Không phải chỉ có không ít người Việt chúng ta không hiểu về chủ nghĩa thực dụng, mà ngay cả nhiều người Mỹ có học cũng khá mơ hồ về nó. Thật vậy, đầu năm 2012, đài phát thanh National Public Radio ở thành phố New York (WNYC) tường thuật rằng 3 chữ pragmatic/pragmatism/pragmatist được cư dân mạng tìm kiếm nhiều nhất, cũng như đã được các phương tiện truyền thông đại chúng dùng nhiều nhất vào năm 2011 sau khi Tổng Thống Obama tuyên bố rằng ông và lịch trình hành động của ông từ khi vận động tranh cử đến lúc bấy giờ vẫn nhất quán, nghĩa là “pragmatic” và “pragmatist.”  (Pragmatism and American Experience: An Introduction, TG Joan Richardson, NXB Cambridge, 2014, tr.1-2

Chủ nghĩa thực dụng thực ra đã được người Mỹ và thế giới công nhận là một trào lưu triết học, ra đời trên đất Mỹ từ hơn một trăm năm nay.  Nó càng ngày càng phổ cập trong đời sống cũng như trong các lãnh vực giáo dục, pháp luật, chính trị, ngoại giao vv. Hoa Kỳ.  Nhiều nhà triết học nổi tiếng thế giới đã nghiên cứu phong trào triết học mới này một cách nghiêm túc, coi đó là một sản phẩm trí tuệ của nước Mỹ đóng góp vào kho tàng triết học thế giới.

 Trước khi giới thiệu nội dung của chủ nghĩa thực dụng, thiết nghĩ nên đề cập sơ lược về triết học để từ đó chúng ta có thể nhận ra những khám phá của phong trào triết học mới này.

Sơ Lược Về Triết Học

Triết học như nói trên nhằm tra vấn những phạm trù mà người nghiên cứu quan tâm. Nhưng trên đời, có biết bao vấn đề đáng quan tâm! Theo truyền thống, triết học chia ra 5 ngành chính:

Siêu hình học (metaphysics) nghiên cứu về bản chất căn bản của hiện thực và hiện hữu. Chia ra hai chi nhánh: hiện thể học (ontology, nghiên cứu hiện thể — tức “Being”) và vũ trụ học (cosmology, nghiên cứu về nguồn gốc vũ trụ qua tôn giáo, truyền thuyết và khoa học);

Tri thức học (epistemology) nghiên cứu về bản chất, căn bản và sự phát triển của tri thức (knowledge), để có thể giúp con người khám phá ra sự thực, tìm kiếm mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin;

Luận lý học (logic) nghiên cứu về những nguyên tắc và phương pháp lý luận, có thể giúp người ta phân biệt giữa chính biện và ngụy biện;

Đạo đức học (ethics) nghiên cứu về cách cư xử, bản tính và những hệ thống giá trị của con người;

Thẩm mỹ học (aesthetics) nghiên cứu về sự sáng tạo và những nguyên tắc nghệ thuật và cái đẹp; cũng như tư tưởng, cảm nhận và thái độ khi thấy, nghe, đọc về những điều đẹp đẽ.

Ngày nay người ta còn kể thêm triết học về ngôn ngữ (philosophy of language), xem nó là quan trọng với lý do là mọi tranh cải triết lý đều từ ngôn ngữ mà ra. Câu hỏi chủ yếu “Ngôn ngữ là gì?” Ngoài ra, mỗi ngành học như khoa học, tôn giáo đều có triết lý “riêng” của mình, mà chỗ dựa chính vẫn là các ngành triết học kể trên.

Có thể nói mỗi người trong chúng ta hằng ngày đều phải đương đầu với những câu hỏi hoặc lớn hoặc nhỏ mang ít nhiều tính cách triết học: Vũ trụ từ đâu sinh ra? Tôi là ai? Cuộc đời này đáng sống hay không?  Sau khi chết linh hồn đi về đâu? Tuân thượng lệnh để giết người mà tôi biết rằng làm như vậy là sai, tôi sẽ bị tội hay không? Bạn dựa vào đâu mà nói ông ta đúng hay sai? Chị dựa vào đâu mà khen bức tranh này đẹp hay xấu? Ngay cả người chủ trương rằng tìm hiểu triết học chỉ phí thì giờ, hãy cứ tự nhiên mà sống, thì người ấy cũng cho thấy cái triết lý sống của mình!

Từ đó có thể nói nghiên cứu triết học giúp làm sáng tỏ những điều người ta viết là đúng hay sai, đáng tin hay nên ngờ vực; hiểu được lý do, hoàn cảnh của một giai đoạn lịch sử nào đó để có thể phê phán cho công bằng, vv.

Xã hội con người được xây dựng trên những tư tưởng triết học. Những định chế như chính quyền, luật pháp, tôn giáo, học đường, hôn nhân, gia đình, tổ chức thương mại, vv. thường được thiết lập theo những tư tưởng triết học nhất quán.  Thiếu tính nhất quán này, hay nếu những chuyển biến thô bạo vụng về thì dễ đưa đến đổ vỡ.  Đổ vỡ bởi vì người cầm quyền tin rằng những gì mình ra lệnh là quan trọng, là đúng, là sự thực; nhưng thuộc cấp và dân chúng lại suy nghĩ hoàn toàn trái ngược.

Chủ Nghĩa Thực Dụng

Nếu Tocqueville còn sống thêm mười năm nữa, có thể ông sẽ nghĩ khác. Thật vậy, từ đầu thập niên 1860 trở đi, sinh hoạt triết học của giới trí thức trẻ Hoa Kỳ đã chớm bắt đầu.  Phong trào triết học chủ nghĩa thực dụng không ngừng phát triển cho đến nay, lan dần vào nhiều lãnh vực văn học, nghệ thuật, giáo dục, pháp lý, vv. như đã đề cập ở trên. Nó không những được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trí thức Hoa Kỳ, mà còn được sự tiếp nhận ít dè dặt hơn, nếu không nói khả quan, của giới trí thức bên ngoài nguyên xứ của nó.

Chủ nghĩa thực dụng là một hệ thống hay một khuynh hướng trong triết học, trắc nghiệm giá trị của tất cả khái niệm qua các kết quả thực tiển. (Webster’s New World Dictionary of the American Language, NXB The World Publishing Company, 1968, tr. 1146).

Chủ nghĩa thực dụng là một chủ thuyết cho rằng ý nghĩ và tư tưởng chỉ có giá trị khi mang lại hệ quả, và rằng kết quả là trắc nghiệm duy nhất về giá trị hay sự thật của một niềm tin của con người. (New Illustrated Webster’s Dictionary of the English Language, NXB PMC Publishing Company, Inc., 1992, tr. 761)

Chủ nghĩa thực dụng: một triết lý, lý giải chủ yếu bởi C.S. Pierce và Williams James, lượng giá các xác quyết đơn thuần bằng những hệ quả thực tiển, và liên hệ đến những lợi ích của con người. (The Oxford Encyclopedia English Dictionary, NXB OUP, 1996, tr. 1137)

Chủ nghĩa thực dụng: 1. (Triết học): một phong trào gồm những lý thuyết đa dạng nhưng kết hợp với nhau, khởi đầu được khai triển bởi Charles S. Pierce và William James và được phân biệt qua chủ thuyết cho rằng ý nghĩa của một tư tưởng hay của một tiền đề (proposition) nằm ở những hậu quả thực tiển có thể quan sát được; 2. một phương pháp thực tiển, thực sự  để tiếp cận và đánh giá các tình huống và giải quyết các vấn đề (The American Heritage Dictionary of the English Language, NXB Houghton Mifflin Co., 2000, tr. 1378)

Chủ nghĩa thực dụng nghĩ về phương cách giải quyết các vấn đề theo phương cách thực nghiệm và cảm tính hơn là bằng những ý tưởng và lý thuyết cố định (Oxford Advanced America Dictionary, NXB OUP, 2011, tr. 1146)

Từ những định nghĩa tổng quát quát này, liệu người ta có thể đưa ra kết luận rằng theo CNTD thì một chủ thuyết (doctrine), hay một ý nghĩ, một tư tưởng được xem là sự thật và có ý nghĩa chỉ khi nào nó đưa đến một hệ quả hữu ích cho con người; còn nếu nó không đem lại kết quả như mong muốn, thì nó chỉ là những thứ vô bổ? Đây quả một câu hỏi quan trọng đáng được nghiên cứu cẩn thận trước khi có câu trả lời. Ngoài ra, CNTD còn được xem như một phương cách (method) đem lại giải pháp cho các tình huống. Tính cách thực tiển này giúp ích gì cho cuộc sống?

***

Trước khi giới thiệu CNTD và những người cha đẻ của nó, thiết nghĩ nên nói ngay rằng CNTD là “một cái tên mới cho những cách suy nghĩ cũ” (a new name for old ways of thinking) như William James đã đề nghị.  Theo CNTD, một ý tưởng phải được phê phán qua cách thức hoạt động của nó, hơn là qua dáng vẻ bề ngoài hay qua tiếng nói phát ra.  Phương pháp của CNTD được xem là gần gũi với phương pháp khoa học; hay nói rõ hơn là nó toan tính đưa các phương pháp khoa học vào triết học.  Điều này khiến nhiều người xem CNTD là một triết học kỳ quái của người Mỹ!

Theo CNTD, người ta không thể phê phán rằng một ý tưởng là đúng hay sai chỉ bằng đơn thuần nhìn nó. Nó là thực/đúng với điều kiện là nó chứng tỏ hiệu quả khi liên hệ đến quá khứ và tương lai và khi tổ chức các trải nghiệm hiện tại làm thỏa mãn chúng ta.  Một ý tưởng có thể đúng trong tình huống này, nhưng lại sai trong hoàn cảnh khác. Về sự chuyển động của mặt trời và những hành tinh lân cận chẳng hạn, tư tưởng nhà thiên văn học Ptolemy (100 -170) được xem là đúng trong một thời gian dài hơn cả nghìn năm, trước khi Copernicus (1473-1543) đưa ra quan điểm của mình.  Gần đây, dựa vào lý thuyết tương đối của Newton, các nhà thiên văn học hiện đại, quan sát thấy sự chuyển động giản dị hơn nhiều so với các tính toán của Copernicus.  Đối với những người theo CNTD, Ptolemy và Copernicus đều đúng cả, nghĩa là cả hai lý thuyết đều đúng cho tới khi chúng không còn hoạt động hiệu quả nữa.

Cũng cần nói thêm: CNTD chưa bao giờ long trọng tuyên bố rằng một ý tưởng được coi là đúng/thực đối với một người khi nó làm cho ông ta đạt được điều gì đó mà ông ta muốn.  Điều hoang tưởng kỳ vĩ này có thể làm cho ông ta quá tự tin và khiến ông ta ra tay chế ngự kẻ khác để nhằm đạt mục tiêu của mình. Chính điều hoang tưởng này đã gây ra thảm họa cho nhiều dân tộc sau những cuộc bầu cử gay go, hay sau những chiến thắng bất ngờ hay những vụ đảo chính đẩm máu: những người chiến thắng xem sự thành công ban đầu — tức được đưa lên nắm chính quyền –là đúng/ thực, và sẽ mãi là ý tưởng đúng/ thực vĩnh viễn. Đối với CNTD, không có “chân lý” nào tồn tại vĩnh viễn.

Triết học, như đã đề cập, chia ra nhiều ngành. CNTD đề cập đến hầu hết những ngành triết học đó, một phần vì những người sáng lập được đào tạo từ nhiều ngành nghề khác nhau; phần khác họ muốn đưa ra những chủ thuyết khác đối kháng với các trường phái cũ. Nói một cách tổng quát, CNTD là kết hợp của 3 lý thuyết chính sau đây. Thứ nhất, lý thuyết về tư tưởng (theory of mind), theo đó niềm tin là những giả định, và ý tưởng là những kế hoạch hành động.  Thứ hai, lý thuyết về ý nghĩa (theory of meaning), theo đó các ý tưởng được làm sáng tỏ bằng cách cho thấy mối quan hệ của chúng với hành động. Thứ ba, lý thuyết về sự thực (theory of truth), theo đó những niềm tin là thực chỉ khi chúng là những hướng dẫn đem lại kết quả trong các tiên liệu và hành động.  Yếu tố xuyên suốt trong ba chủ thuyết này là hành động, chứ không phải những suy xét có tính cách lý thuyết. (The Columbia History of Western Philosophy hiệu đính bởi Richard H. Popkin, do MJF Books xuất bản năm1999, tr. 592). Nói cách khác, CNTD cho rằng ý nghĩa và sự thực của một ý tưởng được định đoạt bởi những hệ quả của ý tưởng đó qua thực hành và cư xử (in practice and conduct).

 Ngoài ra, cũng nên lưu ý rằng cùng một phạm trù, nhưng các triết gia CNTD đôi khi đưa ra những quan điểm khác nhau. Ba người tiên phong sáng lập CNTD là: Charles Sanders Peirce, William James và John Dewey.

Charles Sanders Peirce (1839 – 1914)

Là người sáng lập CNTD tại Mỹ, nhưng về sau Peirce lại đổi tên pragmatism thành pragmaticism, một cái tên mà ông cho là “kỳ quặc nhưng sẽ không bị người khác bắt cóc”. Tuy nhiên ngày nay, pragmatism được phổ biến rộng rãi hơn để chỉ trào lưu triết học càng ngày càng được phát triển, trong khi đó pragmaticism chỉ được sử dụng hạn chế trong ngành ngôn ngữ học (thí dụ trong quyển “Pragmaticism: Theory and Application” của Ellyn Lucas Arwood).

Theo Peirce, nguyên tắc chủ đạo của CNTD là “nếu người ta có thể định nghĩa chính xác tất cả những hiện tượng thực nghiệm có thể nhận thức được mà sự xác nhận hay phủ nhận có thể ám chỉ, thì người ta sẽ có một định nghĩa đầy đủ về khái niệm” (if one can define accurately all the conceivable experimental phenomena which the affirmation or denial of the concept could imply, one will have a complete definition of the concept).

Ông đặc biệt quan tâm đến sự khác biệt giữa niềm tin và sự hoài nghi. Đối với ông “sự hoài nghi trên lý thuyết” (paper doubt) của Descartes không ích lợi gì; trái lại sự hoài nghi thực sự (real doubt) được củng cố sau nhiều trải nghiệm sẽ làm cho chúng ta hoãn lại những niềm tin, tức những gì mà thoạt đầu chúng ta tin là đúng/thực. Theo Peirce, những tiền đề trong triết học (proposition) –tương đương với những định đề (theorem) trong toán học– xuất phát từ một vài nghĩ suy sắp đặt thông minh (intellectual disposition) chưa đáng được gọi là niềm tin (belief); mà niềm tin là do một sự biểu thị về thói quen ứng phó trong hành động (a behavioral habit manifest in action).  Do đó, khi “sự hoài nghi thực sự” được đặt ra, thì thái độ thường có của con người sẽ bị đổ vỡ. Mặt khác, sự hoài nghi của Descartes có thể không làm cho chúng ta thay đổi cách thức hành động. Theo Peirce, tri thức, mà ông định nghĩa như là giải pháp cho những thói quen bị đổ vỡ vì sự xét lại niềm tin, mới chính là một “tiến trình phản ứng tự nhiên” (homeostatic process, như trong trường hợp cơ thể chúng ta rùng mình khi gặp lạnh, hắt hơi khi bị chói nắng). Đối với Peirce, tri thức là phương tiện dùng để ổn định cách ứng phó theo thói quen đối với sự hoài nghi. (Philosophy: 100 Essential Thinkers, Philip Stokes, NXB Arturus, 2016, tr. 126).

Trong bài nói chuyện đầu tiên với tựa đề “How to Make Our Ideas Clear”, Peirce viết: “Cốt lõi của niềm tin là sự hình thành thói quen, và những niềm tin khác nhau được phân biệt bằng các phương cách hành động mà những niềm tin đó gợi ra.  Nếu các niềm tin không khác biệt nhau trong phạm vi này; nếu chúng không hạ giảm bớt sự hoài nghi đó bằng cách sản sinh cùng qui luật hành động, thì những sự khác biệt đơn thuần về phương diện ý thức của chúng có thể khiến chúng thành những niềm tin khác nhau.” (Pragmatism: A Reader do Louis Menand hiệu đính, do A Vintage Orginal xuất bản năm 1997, tr.33)

Về đạo đức học, một phạm trù mà ông tham gia bàn luận tương đối trễ, Peirce chỉ trích là trong triết học cổ truyền, “khuynh hướng của các triết gia là luôn luôn xác quyết rất tuyệt đối”; và tuy không tranh luận rằng James và Dewey là những người theo thuyết tương đối (relativists), nhưng ông e sợ rằng triết lý của hai người này cực kỳ linh động và công trình nghiên cứu của họ có thể dẫn dắt người ta đi theo một đường hướng khác. Cùng chính vì lý do này, mà ông thay đổi chủ thuyết của mình, từ “pragmatism” thành “pragmaticism”. Theo Peirce, đạo đức học có nhiệm vụ hình thành mục tiêu cuối cùng cho cách ứng xử của con người (the summum bonum), một cứu cánh mà theo ông, có tính cách năng động, chứ không có tính cách tĩnh. Ngoài ra, Peirce còn lý luận rằng đạo đức học không phải là sự nghiên cứu những gì có tính cách lý tưởng, mà là “sự nghiên cứu những cứu cánh của hành động mà chúng ta chuẩn bị kỹ lưỡng để theo.” Trong ý hướng ấy, Peirce thích nghi đạo đức học của ông với lý tưởng thẩm mỹ về những điều hữu lý (aesthetic ideal of reasonableness). Ông tranh cải rằng cách cư xử của con người nên nhắm mục tiêu đóng góp vào sự phát triển những điều hữu lý cụ thể này, chẳng hạn trong tư duy chính trị tại Hoa Kỳ, chúng ta có thể chỉ danh phong trào dân quyền (civil rights) là giá trị cụ thể rút ra từ lý tưởng chung đã được ấn định trong Hiến Pháp (Peirce: Ethics and the Conduct of Life, viết bởi Douglas R. Anderson, trong quyển Classical American Pragmatism: Its Contemporary do S.B. Rosenthal, C.R. Hausman và D.R. Anderson hiệu đính, tr. 137-145).

Theo Louis Menand trong quyển “The Metaphysical Club: A Story of Ideas in Ameica”, tr. 161, thì khi còn là sinh viên, Peirce thích dùng tam đoạn luận (syllogism) để để chia xẻ quan điểm với cha mình trong vấn đề này:

          Tất cả con người đều bình đẳng về các quyền chính trị;

          Người da đen là con người;

          (Vì vậy) Người da đen bình đẳng về các quyền chính trị như người da trắng.

 Quan điểm dân quyền này được coi là rất quan trọng, đến nỗi nhiều người cho rằng nếu CNTD ra đời sớm và được phổ biến rộng rãi, thì cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn với 600.000 nhân mạng, và những kết quả tiêu cực vẫn còn tồn tại đến ngày nay, có thể đã không xảy ra trên đất nước Hoa Kỳ. Quan điểm này cũng không hẳn đúng. Bởi lẽ CNTD đã ra đời trên 100 năm nay rồi, mà nạn kỳ thị chủng tộc đâu có biến mất, cứ tái đi tái lại trên đất nước này; cũng như gần đây xảy ra những tranh chấp gay gắt thậm chí chết người về việc gỡ bỏ các tượng đài kỷ niệm do cánh Miền Nam dựng lên sau cuộc Nội Chiến Nam Bắc. Hình như con người khắp mọi nơi trên thế giới đã “quen” yêu chủ nghĩa nhất nguyên của mình rồi! Bỏ nó đi, thì cảm thấy mất đi bản sắc!

William James (1842-1910)

Trong quyển The Principles, James cho rằng kinh nghiệm — chứ không phải lý thuyết, những điều trừu tượng và triết học truyền thống — mới là chìa khóa giúp chúng ta hiểu biết một cách thực tiển về mình cũng như về thế giới.   Ông không đồng ý với chủ nghĩa nhị nguyên truyền thống về vật chất và tinh thần, nhưng đồng thời cũng không cho rằng tinh thần bị giảm xuống chỉ còn là vật chất. Theo ông, trí não phải được xem như là công cụ thực hiện các mục tiêu; siêu hình học hay thần học mới chứng tỏ sự hiện hữu của linh hồn. Ông phân biệt “tôi” (I) và “cái tôi” (Me). “Tôi” thì lúc nào cũng ý thức (concious); còn “cái tôi” là cái được ý thức về.  Ông phân biệt cái tôi vật chất, cái tôi xã hội và cái tôi tinh thần; chúng là đối thủ, cạnh tranh nhau, và hầu hết chúng ta bị thúc đẩy như là một khán giả lý tưởng trong việc phán xét các tương tác của chúng.

James giúp người đọc nhận ra cái cụ thể, tính hữu dụng cũng như tính tiên liệu của CNTD.  Thật vậy, trong khi trường phái học giả thần học thời trung cổ (scholasticism) tra vấn: “Cái này thật ra là gì?” để rồi rơi vào vòng lý sự, lẩn quẩn đi tìm lại tiền đề (quiddities); hay chủ nghĩa Darwin mạnh dạn hỏi: “Nguồn gốc của cái này là chi đây?” để rồi phải tiếp tục tìm kiếm câu trả lời trong khối tinh vân hổn độn (nebulas), thì CNTN đi thẳng vào “đời thường” rất thực tế: “Cái này đem lại những hậu quả gì?” Câu hỏi này nghe ra rất trần tục, nghe không có gì triết học, nhưng khiến người ta suy nghĩ để hành động và nghĩ đến tương lai.

Ngày nay sống trong xã hội đa nguyên, nhiều người trong chúng ta không thấy chủ nghĩa đa nguyên là điều mới lạ.  Nhưng không phải chủ nghĩa đa nguyên thời nào cũng thấy được và ở đâu cũng có được.  Vào thế kỷ 16-17, chủ nghĩa nhất nguyên đã đưa châu Âu văn minh đến những cuộc chiến tranh tôn giáo đẩm máu.  Sau những chém giết đó, chủ nghĩa tự do (liberalism) mới nảy sinh, và người ta mới thấy một sự dung hòa, dung hợp, độ lượng là cần thiết để có hòa bình lâu dài. CNTD kêu gọi mọi người đón tiếp chủ nghĩa đa nguyên nồng nhiệt và tích cực. Theo James, nhiều người trong chúng ta quá thờ ơ hay quá dễ dàng không nhận ra được là có nhiều người có cuộc sống không giống cuộc sống của mình.  Khi làm như thế, thì chúng ta không nhận ra được những khác biệt chính đáng.

John Dewey (1859 – 1952)

Chịu ảnh hưởng khá mạnh của thuyết tiến hóa do Charles Darwin chủ xướng, Dewey nghĩ rằng tư tưởng và trí tuệ là những công cụ được phát triển trong quá trình tiến hóa cho phép con người chỉnh đốn lại môi trường sống của mình. Theo Dewey, những niềm tin (Peirce gọi đó là những thói quen) đủ mạnh mẽ và ổn định để chúng ta tin cậy, nhưng chúng ta luôn phải mở rộng đầu óc sẵn sàng xét lại, đặc biệt là vì chúng phải tự thích nghi với những đổi thay của môi trường. Ông viết: “những ý niệm, những lý thuyết, những hệ thống tư tưởng … là những công cụ (tools). Giống như trong trường hợp tất cả các công cụ, giá trị của chúng không nhờ vào chính chúng, nhưng nhờ ở khả năng làm việc của chúng mà người ta nhìn thấy được qua các hiệu quả khi sử dụng chúng” (Dewey, The Middle Work: 12, 163). Ông cho rằng đối với chủ nghĩa thực dụng, mà sau đó ông đặt lại tên là chủ nghĩa công cụ (instrumentalism), tất cả các ý tưởng đều là công cụ.  Do đó, những ý tưởng thật sự là những ý tưởng đem lại hiệu quả tốt nhất nhằm đạt những mục tiêu của con người (real ideas are those work best for attaining human goals).

Ông viết: “Triết học tự hồi phục khi nó không còn là công cụ dùng để đối phó với những vấn đề của các triết gia, và trở thành một phương pháp (method, in đậm do người viết), được trao dồi bởi các triết gia để đối phó với những vấn đề của nhân loại.”  Ông thúc bách triết học nên trở thành công cụ dùng để đối phó với những vấn đề đặc biệt của nhân loại, hơn là với những vấn đề xa vời của các triết gia.  Ông chủ trương dùng phương pháp khoa học để chỉnh đốn lại giáo dục, luân lý, chính trị và xã hội. Dewey cho rằng Peirce là một nhà lý luận (logician); còn James là nhà nhân bản (humanist).  Về phần mình, Dewey nhấn mạnh tính cách xã hội của tri thức (the social character of knowledge).  Nhưng Peirce lại thấy rằng khảo hướng theo tự nhiên học của Dewey đối với luận lý học là quá tâm lý.

Cũng như James, Dewey nghĩ rằng con người làm ra sự thực. Sự thực không phải là thứ được làm sẵn chế sẵn. Ông viết: “Người theo CNTD nói rằng vì mỗi tiền đề là một giả định về một tra vấn còn đang tiến hành (nói gọn, một đề xuất), nên sự thực của nó là một vấn đề nghề nghiệp, một vấn đề lịch sử: nghĩa là nó trở nên thực, hoặc được làm cho thực (hoặc sai).”  (The pragmatist says that since every proposition is a hypothesis referring to an inquiry still to be undertaken (a proposal for short) its truth is a matter of its career, of its history: that it becomes or is made true (or false).

Trong khi Peirce cho rằng sự thực ở tình trạng tĩnh, nghĩa là một niềm tin hoặc vượt qua hoặc không vượt qua nổi những khắc nghiệt của tra vấn, thì Dewey –cũng như James—cho rằng sự thực và tri thức không phải là những hiện tượng tĩnh, nghĩa là không ở trong trường hợp mà những niềm tin của chúng ta hoặc phản ảnh thực tế (và do đó là đúng) hoặc không phản ảnh thực tế (và do đó là sai).

Về phương diện dân chủ, nếu học giả Pháp Tocqueville nhiệt tình ca ngợi sinh hoạt dân chủ tại Hoa Kỳ và than phiền Hoa Kỳ thiếu một nền triết học nói chung cho mình, thì Dewey mới là người chết sống với dân chủ và triết lý hóa dân chủ.  Ngoài việc cổ vũ dân chủ trên lý thuyết, Dewey còn giúp thành lập hai hiệp hội: The American Civil Liberties và The National Assosiation for the Advancement of Colored People; và năm 1937, lúc đó đã 78 tuổi, Dewey còn dẫn đầu một ủy ban sang Mexico điều tra về cái chết của Leon Trotsky được cho là bị người của Joseph Stalin ám sát. Những hoạt động tích cực này đã khiến ông được tặng cho danh hiệu “triết gia của dân chủ” của Hoa Kỳ.

Triết lý dân chủ của Dewey được xem là gạch nối giữa chủ nghĩa cá nhân (individualism) của Locke –đã được các chính trị gia Mỹ đưa vào Hiến Pháp cùng những văn bản quan trọng chính trị khác—và chủ nghĩa thực nghiệm (empiricism).  Về phương diện tái thiết chính trị xã hội, ông đưa ra một quan điểm rất thực nghiệm.  Theo ông, chúng ta sẽ chưa thoát khỏi thời kỳ siêu hình học về triết lý chính trị, nếu chúng ta vẫn tiếp tục ném vào đầu nhau những khái niệm trừu tượng mà khi dứt cuộc chiến, thì đâu vẫn vào đấy, không đạt được điều gì dứt khoát cả. Trái lại, chúng ta cần phải đối phó với mỗi vấn đề chính trị xã hội bằng một giả thuyết đặc biệt, chứ không phải bằng một lý thuyết phổ quát; tất cả các lý thuyết đều rộng trãi, còn đời sống tiến bộ tốt đẹp phải trông cậy vào những thử nghiệm nhận ra cái đúng cái sai. (Goethe có cùng quan điểm về vấn đề này khi viết “Tất cả lý thuyết đều màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.”).

Dewey viết: “Trong các khái niệm tiền-thực nghiệm, tôi chẳng thấy trường hợp nào mà kết quả cuối cùng lại là một cái gì đó giống như chiến thắng cho khái niệm này hay cho khái niệm kia. Tất cả chúng đều biến mất đi vì chúng càng trở nên không còn liên hệ gì đối với tình thế mới được khám phá; và với mối bất liên hệ được bắt gặp này, chúng trở thành vô nghĩa và không đáng được quan tâm.” (New Republic, Feb 3, 1917, trích lại từ The Story of Philosophy do Will Durant viết, Pocket Books xb năm 2006, tr. 689)

Về sự đánh giá con người, ông đưa ra tiêu chuẩn khá đặc biệt: “Người xấu là người bắt đầu xuống dốc, trở thành ít tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta tốt thế nào đi nữa. Người tốt là người đang tiến tới tốt hơn, dẫu trước đó, anh ta chẳng đáng giá gì về tinh thần.” (Reconstruction in Philosophy, trích lại trong sách trên, tr. 685). Quan điểm này của ông rất nhân bản, không khác gì quan điểm trong Phật giáo và Thiên Chúa giáo, nhưng liệu có ai áp dụng vào lãnh vực chính trị, cũng như tại tòa án chăng? Ông còn thêm rằng, tốt không có nghĩa là chỉ biết vâng lời và không hãm hại ai; tốt mà không có khả năng, thì là què quặt khập khiễng.  Theo ông, tất cả những đức tính trên đời không cứu nỗi chúng ta nếu chúng ta thiếu thông minh. Chúng ta phải tin vào tư duỵ, chứ đừng tin vào trực giác, bởi lẽ trực giác làm sao giúp nỗi chúng ta điều chỉnh với ngoại cảnh càng ngày càng đổi thay quanh ta.

Ông tin tưởng rằng giáo dục của con người cứ tiếp tục nhờ sự tham gia của từng cá nhân vào sự ý thức tranh đua trong xã hội.  Tiến trình này bắt đầu một cách vô thức từ khi sinh ra, và tiếp tục hình thành năng lực của cá nhân đó, thấm vào ý thức, hình thành thói quen, tôi luyện tư tưởng, và gợi lên trong anh ta những cảm nghĩ và xúc động… Ông cũng tin tưởng rằng giáo dục thực sự chỉ đến nhờ sự kích thích năng lực trẻ do những của tình huống xã hội trong đó đứa trẻ tìm thấy chính mình. Theo ông, tiến trình giáo dục có 2 lãnh vực: tâm lý và xã hội, không lãnh vực nào là phụ hay bị bỏ rơi mà không đưa đến tệ hại, cũng không phải là sự dung hòa cả hai. Dewey cho rằng giáo dực trẻ con phải bắt đầu từ hiểu biết tâm lý về khả năng, hứng thú và thói quen của đứa trẻ. Những thứ này phải tiếp tục được giảng giải theo hình huống phát triển mới của xã hội. Nói cách khác, cái học chỉ dừng lại khi người ta chết.

Với quan niệm giáo dục là một tiến trình sống (a process of living) chứ không phải là một sự chuẩn bị cho cuộc sống trong tương lai, Dewey chủ trương học đường phải tượng trưng cho cuộc sống –một cuộc sống thực sự và sinh động cho đứa trẻ như thể cuộc sống mà nó có tại nhà, tại khu láng giềng hay tại sân chơi. Như một định chế, học đường nên giản lược hóa đời sống xã hội hiện hữu; nên thhu nhỏ nó xuống còn là hình thức phôi thai, vì cuộc sống hiện hữu quá phức tạp đối với em. Ông cho rằng như cuộc sống giản lược hóa, học đường sẽ lớn dần thành cuộc sống gia đình, nó đảm trách và tiếp tục các hoạt động khiến em quen với đời sống gia đình. Nói khác đi, công việc của học đường là phát triển và làm sâu xa thêm cái ý thức của đứa trẻ về mái ấm gia đình. Ông cho rằng nền giáo dục hiện thời thất bại vì nó lãng quên cái nguyên tắc căn bản của học đường là một hình thức của đời sống cộng đồng.

Về những môn học dạy ở học đường, Dewey tin rằng cách duy nhất khiến cho đứa trẻ ý thức được cái di sản xã hội của nó là làm cho nó có khả năng thực hiện được những hoạt động căn bản tạo ra cái văn minh như ngày nay. Ông chủ trương đưa khoa học vào học đường, nhưng không cần những thông tin chi tiết rườm rà, mà là chỉ cho đứa trẻ thấy những yếu tố đã sẵn trong kinh nghiệm trước đây, và cung cấp cho đứa trẻ các công cụ nhờ đó mà kinh nghiệm có thể điều chỉnh lại dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Nếu giáo dục là cuộc đời, thì trọn cuộc đời, ngay từ lúc ban đầu, đã bao gồm các lãnh vực khoa học, nghệ thuật, văn hóa và thông đạt. Tiến bộ không nằm trong việc tiếp tục nghiên cứu, mà nằm trong việc phát triển những thái độ mới và những quan tâm mới đối với kinh nghiệm. Dewey tin rằng đặt ra bất kỳ cứu cánh nào bên ngoài gaío dục, như đưa ra mục tiêu và tiêu chuẩn, là tước đoạt đi nhiều cái ý nghĩa của quá trình giáo dục, và có khuynh hướng làm cho chúng ta trông cậy vào những kích thích tố sai lầm và từ ngoài để đối phó với đứa trẻ. (Dewey on Education: Selections, do Matin S. Dworkin xb năm 1959, tr.19 – 27)

 ***

Thế hệ thứ hai của CNTD với Richard Rorty, Hilary Putman, Richard Posner, Susan Haack, vv. ở Hoa Kỳ; Jurgen Habernas, Richrad Bernstein vv. ở châu Âu; Cheryl Misak ở Canada vv. đã giúp hồi sinh CNTD và đưa tinh túy của nó vào các lãnh vực ngoại giao, luật pháp và văn hóa.  Đây là một điều đáng cho chúng ta tìm hiểu thêm trong tương lai.

Lê Văn Bỉnh

Virginia, tháng 11 năm 2017

Tài Liệu Đề Nghị Đọc Thêm Để Tìm Hiểu CNTD

100 Years of Pragmatism: William James‘s Revolutionary Philosophy, do John J. Stuhr hiệu đính, Indiana University Press xb 2010

The American Pragmatists, do Cheryl Misak viết, Oxford University Press xb 2013

Pragmatism: An Introduction, do Michael Bacon viết, Polity Press xb 2012

The Promise of Pragmatism: Modernism and the Crisis of Knowledge and Authority, do John Patrick Diggins viết, The Chicago University Press xb 1994

Pragmatism in Law & Society, do Michael Brint & William Weaver hiệu đính, Westview Press xb 1991.

Hits: 986

Đi Tìm Nghĩa Của Loài Hoa Violet

Giới thiệu về loài hoa Violet

Violet là loài hoa với sắc tím thủy chung và hương thơm tinh tế, đây là loài hoa nổi tiếng đến từ Mỹ và Hy Lạp. Ý nghĩa của hoa Violet của nó bắt nguồn từ những huyền thoại, tôn giáo, truyền thuyết có vị trí nổi bật trong ngôn ngữ của các loài hoa của người dân Victoria. Mang trong mình hình dáng nhỏ nhắn, xinh tươi cùng vẻ đẹp quyến rũ và cuốn hút quyện vào sự tinh tế nên hoa Violet luôn là biểu tượng cho tình yêu đôi lứa. Hình ảnh hoa Violet có hình dạng như hộp đựng mực của thợ mộc nên hoa có tên là Sumire, trong đó sumi có tên là mực, ire có nghĩa là hợp đựng.

Hoa violet mang màu tím thủy chung son sắt

Violet là loài hoa với sắc tím thuỷ chung và hương thơm tinh tế, đây là loài hoa nổi tiếng đến từ Mỹ và Hy Lạp, ý nghĩa của nó bắt nguồn từ biểu tượng trong huyền thoại, truyền thuyết, tôn giáo, và có vị trí nổi bật trong ngôn ngữ các loài hoa của người dân Victoria. Mang trong mình hình dáng xinh xắn cùng vẻ đẹp quyến rũ và cuốn hút quyện vào sự tinh tế và thanh lịch ngập tràn nên hình ảnh hoa violet thường gắn liền với sự lãng mạn cho tình yêu đôi lứa. Dường như violet có nhiều điều để nói với những ý nghĩa bao hàm về niềm tin và lòng chung thủy.

Đặc điểm của hoa Violet

Hoa violet là hoa gì? Đây là câu hỏi được nhiều người thắc mắc. Hoa violet nghe cái tên có vẻ rất sang, rất Tây nhưng thực chất nó là loài hoa dân giã với màu tím lãng mạn ngập tràn. Hoa violet có thường được gọi là hoa chân chim, loài hoa này thuộc họ mao lương. Giới các nhà khoa học đặt cho hoa violet với cái tên khá dài – Delphimum ajacis L.

Cây hoa violet tím đa dạng và phong phú với hàng trăm chủng loại và kiểu dáng. Chúng ta thường thấy loại hoa violet có đốm ở trên lá, một số có cánh hoa viền trắng lượn sóng. Violet là loại cây ưa khí hậu ấm áp với ánh nắng mặt trời. Vì thế, để cây hoa violet sinh trưởng và phát triển tốt nên trồng ở nhiệt độ không quá lạnh, không nên để nơi thiếu ánh sáng mặt trời. Khi chăm sóc, cây hoa violet không thích hợp tưới nước lạnh, đặc biệt là tưới lên lá non sẽ làm cho lá hình thành nhưng đốm màu nâu.

Cây hoa violet rất nhỏ nhắn, hoa có màu tím

Thông thường, hoa violet sẽ nở vào mùa xuân, hạ, thu. Nhưng nếu được chăm sóc tốt và cung cấp đủ ánh sáng cây cũng có thể cho hoa vào mùa đông. Vì đặc điểm này, chúng ta có thể trồng hoa violet quanh năm.

So với các loại cây hóa khác thì cây hóa violet nhỏ nhắn hơn rất nhiều. Và tùy vào điều kiện khí hậu ở các nước mà màu sắc hoa và lá có sự thay đổi. Chúng ta thường thấy hoa violet có màu tím – gam màu khơi gợi những điều ngọt ngào và lãng mạn. Ngoài ra còn có hoa violet xanh, violet màu trắng, violet đỏ, hồng hoặc pha màu nhưng rất hiếm.

Ý nghĩa hoa violet dựa vào gam màu. Màu tím của hoa violet tượng trưng cho sự thủy chung, hình dáng nhỏ nhắn như vô cùng ấn tượng, phảng phất sự nhẹ nhàng, thắm đượm vẻ duyên dáng và uyển chuyển.

Truyền thuyết hoa Violet

Hoa Violet nở rộ xinh tươi

Chắc chắn mỗi khi nhắc đến loài hoa Violet này thì sẽ có rất nhiều người thắc mắc tại sao loài hoa này lại mang tên Violet đúng không nào? Bởi nếu so sánh với tên gọi của hoa hồng, hoa lan, hoa cúc, … thì hoa Violet lại có một cái tên có thể nói là khá ấn tượng và không giống với những loại hoa khác.

Theo như truyền thuyết kể về loài hoa này thì Violet bắt nguôn từ tên gọi của nàng Violeta – một cô gái bạc mệnh nhưng trong cô luôn tràn đầy niềm tin, sự sắt son và chung thủy đối với tình yêu của mình. Đó là một câu chuyện có một kết thúc thật buồn về chuyện tình của chàng Anfaret và nàng Violeta khi vướng phải định kiến giàu nghèo trong xã hội mà gây nên một bị kịch cho một tình yêu tuyệt đẹp.

Chính vì thương tiếc cho mối tình dang dở đó mà mọi người đã lấy tên nàng Violeta đặt tên cho loài hoa tượng trưng cho lòng chung thủy này.

Ở một tỉnh miền nam nước Pháp, nơi có những cánh đồng cỏ xanh rì như những dải lụa xanh thăm thẳm, lóng lánh trong ánh nắng là những dòng suối trong veo, những thảm hoa tươi thắm sặc sỡ màu sắc của sự phồn vinh, những đàn bò thản nhiên gặm cỏ, từng đàn gia súc chen chúc nhau, nơi đó có một trang trại rộng xa ngút ngàn của một vị Bá Tước đầy quyền uy và giàu có

Ông ta có tất cả mọi thứ quí giá nhất trên đời, nhưng điều mà ông ta hãnh diện nhất đó chính là cậu con trai duy nhất. Cậu chủ Anfaret là một chàng trai thật tuyệt vời, rất đẹp trai, thông minh, hào hoa phong nhã và rất tài hoa. Chàng có sức hút rất mãnh liệt với tất cả các cô gái con nhà quí tộc trong vùng, chàng là niềm tự hào của cả dòng tộc. Cuộc sống bình yên trôi qua, cho đến một ngày xuất hiện cô gái làm vườn mới, tên nàng là Violeta.

Violeta là một cô gái con nhà nghèo nhất trong vùng, nàng có một sắc đẹp hiền dịu trong trắng khiến cả khu vườn như bừng sáng. Và cũng chính gương mặt như thiên thần ấy đã làm cho trái tim chàng Anfaret rung động và tình yêu đã đến. Vượt qua khoảng cách giai cấp, họ đến với nhau thật nồng nàn say đắm

Cha chàng trai đã nổi trận lôi đình, ông cảm thấy thật nhục nhã và ra sức ngăn cản tình yêu của họ, mẹ chàng thì ngày càng căm ghét ra sức hành hạ nàng Violet, nhưng nàng vẫn cắn răng chịu đựng tất cả. Nhưng lẽ đời vốn vậy, tình yêu càng ngăn cản thì càng trở nên nồng thắm hơn.

Rồi một hôm cha mẹ chàng cũng phát hiện ra và trận bão phẫn nộ xoáy trút lên người nàng Violeta . Ông ta nhốt Anfaret vào phòng rồi cho gọi Violetta đến, ông yêu cầu nàng phải lựa chọn giữa việc từ bỏ tình yêu này hoặc là Anfaret sẽ bị đuổi ra khỏi nhà.

Nhưng tất cả những cản trở đó cũng không ngăn cấm được tình yêu của hai người, họ vẫn quyết tâm ở bên nhau dù có phải đương đầu với giông bão

Rồi một ngày, vợ chồng Ba Tước cũng đành xuống nước nhẫn nhịn tính kế khác. Hai ông bà đưa ra điều kiện rằng Anfaret phải sang Pháp học xong 5 năm khi đã sẵn sàng công danh sự nghiệp thì ông sẽ cho hai nguời làm lễ cưới và chấp nhận Violeta làm con dâu của dòng tộc này.

Cánh đồng hoa Violet cực kì lãng mạn

Vâng lời cha, Anfaret và Violeta tuy không muốn rời xa nhưng vì hạnh phúc viên mãn của cái kết tình yêu tuyệt đẹp kia nên họ đanh phải chia xa.

Ngày trở về Anfaret như điên cuồng đi tìm kiếm khi không thấy nguời yêu của mình nữa, anh đâu biết rằng trong thời gian 5 năm đằng đẵng kia cô đã phải chịu đựng bao nhiêu khổ cực và sự tàn nhẫn từ ông bà Bá Tước. Bao nhiêu bức thư anh gửi về chẳng hề đến được tay của Violeta, nhưng còn đau đớn hơn nữa khi cô nghe bà Bá Tước nói rằng Anh sắp cưới vợ bên Pháp và nhờ bà chuyển lời đến cô mong cô đừng đợi chờ anh nữa. Hơn thế nữa, họ còn nhẫn tâm hành hạ nàng Violet và đỉnh điểm là đuổi nàng ra khỏi nhà một cách nhẫn tâm

Sau bao năm ròng rã tìm kiếm nàng Violeta thì Anfaret cũng đã tìm được nàng, nhưng ôi không ! Chàng đã đến muộn và không gặp được nàng trước lúc lìa đời, chàng Anfaret tuyệt vọng kêu gào tên Violeta trong đau đớn,

Cha mẹ chàng nhìn thấy cảnh đau thương đó đã gục xuông trước mặt nàng mong nàng tha thứ…nhưng nàng nào còn biết gì? – Cha mẹ đã vừa lòng chưa?- Anfaret gào lên thảm thiết – các người đã thoả mãn chưa? Nàng đã ra đi thật rồi, nàng bỏ ta rồi, ta còn sống để làm gì nữa” – Ánh mắt và giọng nói của Anfaret như vang từ cõi xa xăm nào đó…. Rồi một ngày cuối Đông, vì kiệt sức và cũng vì quá đau khổ chàng Anfaret đã gục ngã trút hơi thở sau cùng bên mộ nàng Violeta.

Mùa Đông lạnh lẽo trôi qua, mùa xuân lại trở về nơi trang trại. Một buổi sáng thức dậy, người ta bỗng chợt nhìn thấy trên mộ hai người xuất hiện một nhánh hoa màu tím vươn cao trong gió, một màu tím ngát thắm sắc cả khu vườn, vươn cao mạnh mẽ như tình yêu bất diệt của chàng Anfaret và nàng Violeta. Người ta tiếc thương cho cô gái nết na hiền dịu, tiếc thương cho một mối tình ngang trái chung thuỷ ấy bèn đặt tên cho loài hoa ấy là VIOLET, loài hoa mang tên người con gái bạc mệnh. Một màu hoa mang màu tìm thuỷ chung!

Ý nghĩa của hoa Violet

Với màu tím u buồn nên hoa violet được người Hy Lạp xem là biểu tượng của sự tang tóc và đại diện cho những điều sầu não nên hoa violet được chọn làm hoa chia buồn. Chính vì thế, người La Mã thường đặt chúng trên những ngôi mộ và sử dụng chúng để trang trí hầm mộ, tượng trưng cho tình cảm dành cho những người đã qua đời. Chính vì thế, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi vào bất kì một khu nghĩa trang nào đều thấy sự hiện diện của những bông hoa violet. Tuy nhiên, mùi hương ngọt ngào của loài hoa này lại có hàm ý cho sự hoà bình và thịnh vượng, một màu tím chung thủy.

Thời Trung Cổ, chọn loài hoa violet tuyệt đẹp này làm loài hoa bảo vệ con người trước những linh hồn của quỷ dữ. Đồng thời, nó cũng là loài hoa biểu tượng của tình yêu và lòng trung thành nên được chọn làm hoa tình yêu. Giai đoạn này, hình ảnh hoa violet còn được biết đến là loài hoa mang công dụng chữa bệnh rất lớn, người dân Trung Cổ đã dùng lá violet để chữa bệnh vôi hóa, làm thuốc mỡ và thuốc sát trùng, và như là một cách chữa bệnh mất ngủ.Có rất nhiều cô thiếu nữ đã từng mê mẩn và tôn thờ loài hoa violet – loài hoa mang sắc tím thủy chung ngọt ngào này như một biểu tượng của sự thủy chung, tình yêu bền vững. Cho dù khi đã lớn lên già đi, loài hoa này vẫn sẽ là loài hoa đong đầy kỷ niệm ngọt ngào về tình yêu và ý nghĩa của tình yêu đối với nhiều cô gái.

Hơn nữa trong Kitô giáo, hoa violet gắn liền với Đức Maria. Một câu chuyện kể rằng, khi Thượng đế ban loài hoa này xuống nhân gian thì nó có màu trắng, cho đến một ngày, khi Chúa bị treo cây thánh giá và Đức Maria khi nhìn thấy con trai mình bị hành hạ đau đớn như thế cũng khiến lòng quặn thắt và đau đớn khôn cùng nên bà đã biến những đoá violet trắng trong nhân gian chuyển đổi thành màu tím u buồn.

Nếu bạn muốn mượn một bó hoa Violet tuyệt đẹp để gửi gắm những tâm tư của mình thì đây có lẽ là điều tuyệt vời đấy. Bởi hoa violet này có một ý nghĩa đáng kinh ngạc tượng trưng cho niềm tin, lòng chung thủy sắt son, đặc biệt là sự đa dạng màu xanh có nghĩa rằng bạn sẽ luôn luôn là sự thật cho người nhận.

Hoa Violet trong cuộc sống

Không chỉ là loài hoa mang biểu tượng của một tình yêu bất diệt, trong cuộc sống hoa Violet còn là biểu tượng của sự kiên định, nhẫn nại và một lòng quyết tâm thực hiện được điều gì đó.

Hoa Violet tím tuyệt đẹp tượng trưng cho niềm tin bất diệt

Hình ảnh của hoa Violet càng gần gũi với cuộc sống của chúng ta hơn nữa khi con người ngày càng đối mặt với những áp lực, căng thẳng nên dễ nảy sinh ra những căng thẳng dẫn đến việc dễ dàng bỏ cuộc. Ngay lúc này một bó hoa Violet như tiếp thêm niềm tin và sức mạnh bởi Violet còn là biểu tượng của niềm tin – tin vào những điều tốt đẹp sẽ đến. Có lẽ vì những điều đó mà chúng ta càng thêm tin yêu và ngưỡng mộ loài hoa có hình dáng bé nhỏ này.

Hoa Violet trong tình yêu

Hoa Violet thủy chung Là niềm yêu dấu của từng lứa đôi Trái tim em, cõi tình tôi Người ơi xin hãy tuyệt vời như hoa– Khuyết danh –

Hoa Violet biểu trưng cho tình yêu bất diệt

Một số người xem những bông hoa Violet nở rộ là biểu tượng của “tính khiêm tốn”, với nhiều người khác nó lại mang ý nghĩa “Sự chung thủy”. Đây là loài hoa tưởng chừng như rụt rè, nhưng lại giữ một vị trí rất cao trong nghệ thuật bày tỏ bằng hoa của con người. Người Hy lạp chọn bông hoa có hương thơm nhẹ nhàng cổ điển này để làm bông hoa của thần Aphrodite, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Những cánh hoa violet nhẹ nhàng, rụt rè, xấu hổ được gắn liền với “tính khiêm tốn” hay còn gọi là “Shrinking Violet” (Người rụt rè, hay xấu hổ). Có rất nhiều cô thiếu nữ đã từng mê mẩn và tôn thờ loài hoa violet – loài hoa mang sắc tím thủy chung ngọt ngào này như một biểu tượng của sự thủy chung, tình yêu bền vững. Cho dù khi đã lớn lên già đi, loài hoa này vẫn sẽ là loài hoa đong đầy kỷ niệm ngọt ngào về tình yêu và ý nghĩa của tình yêu đối với nhiều cô gái.

Hoa Violet tượng trưng cho điều gì ?

Người dân Victoria sử dụng hoa như một phương tiện giao tiếp và gán cho chúng những ý nghĩa đặc biệtvà ý nghĩa của hoa Violet cũng không kém phần tinh tế. Khi gặp mặt nhau họ thường trao tặng cho nhau những bó hoa violet như một lời chúc cao cả nhất. Violet là biểu tượng cho đức tính khiêm tốn nên khi họ muốn khen tặng ai về sự khiêm tốn thì họ liền gửi ngay một bó hoa violet xinh đẹpnày. Còn đối với violet màu trắng có nghĩa là sự thẳng thắn, nhưng cũng là sự ngây thơ.

Hoa Violet trắng tinh khôi thuần khiết

Đặc điểm hoa violet mang màu tím thuỷ chung và chân thành nên hình ảnh hoa violet tím nở rộ là loài hoa đại diện cho tình cảm gia đình và hôn nhân dài lâu. Chính vì thế, trong các ngày lễ tình yêu, ngày gia đình hay kỉ niệm ngày cưới thì hoa violet được chọn là hoa đại diện. Đặc biệt, trong hoa cưới, chúng đại diện cho lời hứa và lòng chung thủy. Trong những giấc mơ, chúng được cho là đại diện cho khả năng kết hôn hoặc cam kết.

Hoa Violet xinh tươi, kiều diễm

Hoa Violet dành tặng vào những dịp quan trọng nào ?

Ngày nay hoa như là một món đặc sản xuất hiện ở khắp nơi trong các dịp quan trọng như Valentine, Quốc tế phụ nữ 8/3, .. Một bó hoa tươi thắm trao tay người nhận không chỉ mang ý nghĩa là một món quà giản đơn mà ẩn sau đó còn là lời gửi gắm, như một lời nói hộ lòng người tặng. Hoa Violet xinh đẹp sẽ thay bạn giải quyết những nỗi băn khoăn khi không biết lựa chọn món quà nào thật dặc biệt tặng cho những người thân yêu. Một bó hoa Violet nở rộ sẽ là đại diện cho một tình yêu vĩnh cữu, niềm tin, và cho cả sự lãng mạn của tình yêu lứa đôi.

Lọ hoa Violet tuyệt đẹp tượng trung cho tình yêu lứa đôi

Một số hình ảnh đẹp về hoa violet

Màu tím của hoa violet đại diện cho tình yêu thủy chung

Khóm hoa violet làm xao xuyến lòng ai

Hoa violet tím pha trắng đẹp xinh và vô cùng ấn tượng

Hoa violet xanh rất hiếm gặp hiện nay

Hoa violet trắng tinh khôi và thuần khiết làm thổn thức lòng ai

Bó hoa violet tím tặng người mình thương thay lời yêu sâu thẳm từ trong tim

Mua hoa Violet đẹp nhất ở đâu?

Nếu bạn muốn lựa chọn một bó hoa thật xinh đẹp và ý nghĩa để trao tặng cho những người thân yêu của mình thì còn chần chờ gì nữa mà không đến với chúng tôi – Hoa Tươi 360 là nơi hội tụ tất cả những loài hoa với vẻ đẹp muôn màu, muôn vẻ như: hoa hồng, hoa lan, hoa mẫu đơn, hoa cẩm chướng, hoa ly, hoa bách hợp,…. Những bông hoa này luôn được chọn lọc tỉ mỉ và được các nghệ nhân của shop khéo léo thiết kế nên những sản phẩm vô cùng độc đáo, sáng tạo. Cùng với các dịch vụ hoa đa dạng như: hoa sinh nhật, hoa khai trương, hoa chia buồn, hoa tốt nghiệp, hoa mừng sức khỏe…Hơn nữa ở Hoa Tươi 360 có một đội ngũ giao hàng tận tâm, đúng giờ và miễn phí trên tất cả quận, huyện thành phố.

Shop Hoa Tươi 360 hân hạnh chào đón quý khách

Tìm Hiểu Bí Mật Của Nước Hoa Unisex Là Gì ?

Nước hoa unisex là gì?

Các bạn có thể hiểu ngắn gọn : Nước hoa Unisex là loại nước hoa dùng phù hợp cho mọi giới tính, nam nữ đều có thể sử dụng chung loại sản phẩm này.

Từ unisex được dùng lần đầu tiên vào năm 1968 trên tạp chí Life của Mỹ, và từ đó đến nay nó đã trở thành một trào lưu trong nhiều lĩnh vực từ thời trang, mỹ phẩm và tất nhiên là cả nước hoa.

Lí do ra đời nước hoa unisex là gì?

Rất nhiều thắc mắc mục đích ra đời của nước hoa unisex là gì , liệu có phải dành cho những nhiều giới tính thứ 3 không. Nhưng không phải. Lý do ra đời của nước hoa unisex chính là sự chán ghét của các chuyên gia, các nhà chế tạo nước hoa với phong cách truyền thống. Họ muốn tìm ra những sản phẩm nước hoa chiết phù hợp với tất cả nhu cầu của cả nam và nữ. Tất cả các thương hiệu lớn tìm kiếm một mùi hương với sự lôi cuốn chỉ cần làm theo một công thức. Ngay cả Coco Chanel cũng không thích sản phẩm của mình bị gò bó trong mùi hương nữ tính quá mức kiểu như Chanel No5 – sản phẩm được xem là thành công nhất của bà.

Mùi hương của nước hoa unisex như thế nào?

Nước hoa unisex là những mùi hương tôn thêm sự quyến rũ của từng cá thể, nghĩa là có thể mạnh mẽ, ấm nóng khi lên da của chàng, và dịu dàng, gợi cảm khi lên da thịt nàng. Hay nói một cách khác, nước hoa unisex hợp với cái tôi của từng cá nhân, chứ không đánh đồng họ bằng công thức có sẵn về giới tính.

Theo một số nhà sáng tạo, lý do nước hoa unisex phát triển trong những năm gần đây, đó là định kiến xã hội về một người phụ nữ phải “tề gia” hay một người đàn ông phải là “trụ cột” đã cởi mở hơn. Bởi vậy, từ xu hướng thời trang cũng như lối sống giữa hai giới đã gần nhau hơn. Và đương nhiên, xu hướng mùi hương cũng gần nhau hơn. Mùi hương nước hoa unisex sẽ có tất cả: cỏ, gỗ, trầm hương của nước hoa nam và hương hoa, phấn của nước hoa dành cho nữ.

Chủ Nghĩa Phát Xít Là Gì? Những Điều Cần Phải Biết Khi Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Phát Xít

Tìm hiểu về chủ nghĩa phát xít

Một số thông tin cụ thể về khái niệm chủ nghĩa phát xít là gì cùng với ý nghĩa biểu tượng của chủ nghĩa phát xít sẽ giúp đỡ bạn nắm vững bản chất của đế chế này.

Chủ nghĩa phát xít được định nghĩa là gì? Chủ nghĩa phát xít đó là hình thức chuyên chính của tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa phát xít có tham vọng thống lĩnh thế giới. Và để đạt được tham vọng thống trị đó, hệ tư tưởng này sẵn sàng thực thi các chính sách khủng bố, đàn áp một cách tàn bạo và điên cuồng như những kẻ khát máu.

Chủ nghĩa đế quốc, hiểu theo một cách khác, đó là một hệ tư tưởng chính trị mà theo nhiều độc giả được cấu thành bởi một số đặc điểm điển hình như quân phiệt, độc tài quân sự chiến lược, chống cộng sản, chủ nghĩa toàn trị và chuyên chế mang tính dân tộc bản địa hẹp hòi của cục phận giai cấp tư sản. Vậy bản chất chủ nghĩa đế quốc là gì? Chủ nghĩa đế quốc hình thành những chủ trương nhằm triệt tiêu mọi quyền tự do và đồng đẳng của con ngườ i. Không chỉ thế, đế chế này luôn khủng bố, đàn áp tàn bạo nhân dân đồng thời gây cuộc chiến tranh xâm lược nhằm thống trị thế giới. Có thể thấy, chủ nghĩa đế quốc là đế chế chống lại cộng sản và chủ nghĩa tự do và độc lập.

Trong lịch sử vẻ vang chưa tồn tại biểu tượng của chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên, cho tới nay, người ta vẫn ngầm hiểu rằng biểu tượng trên lá cờ của Đức Quốc Xã ra đời năm 1920 đó là hình ảnh thay mặt cho chủ nghĩa phát xít.

Lá cờ của Đức Quốc Xã nền đỏ, có một vòng tròn trắng và ở ở chính giữa là chữ “Vạn” (Swastika) màu đen. Với Hitler, đây đó là biểu tượng chiến thắng của trận đấu đấu vì một thế giới mới của chủ nghĩa phát xít. Thế nhưng, so với những người dân yêu chuộng hòa bình thì đằng sau những tội ác rợn người của Hitler, đây lại là khuôn mặt của quỷ dữ. Nhìn vào hình ảnh đó, người ta lập tức liên tưởng tới những gì bạo tàn, độc đoán mà chủ nghĩa phát xít đã reo rắc cho loài người.

Đến nay vẫn nhiều người băn khoăn về ý nghĩa biểu tượng của chủ nghĩa phát xít bởi sự nhầm lẫn trong chữ “Vạn” của Phật giáo với chữ Thập ngoặc trong lá cờ của chủ nghĩa phát xít.

Liệu có một sự liên hệ nào về ý nghĩa của chữ “Vạn” trên cờ Đức với chữ “Vạn” trong Phật giáo hay là không? Lời đáp là hoàn toàn không có, mặc dù về hình thức nhìn nó rất giống nhau.

Chữ Vạn trong đạo Phật: Đây là chữ Vạn biểu thị công đức vô lượng của Đức Phật, có ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn.

Chữ Vạn của người Aryan: Theo tìm hiểu thì Aryan là một dân tộc bản địa mà với Hitler đó là nguồn gốc xa xưa của nước Đức. Đây là dân tộc bản địa thượng đẳng nhất. Vì thế, ý nghĩa của biểu tượng này là thể hiện cho chủ trương phát xít Đức nói riêng và chủ trương phát xít nói chung. Đó là việc thống trị độc tài và vô cùng tàn bạo.

Lá cờ với biểu tượng của chủ nghĩa phát xít

Có bao nhiêu nước phát xít trong lịch sử vẻ vang?

Trên thế giới có bao nhiêu nước phát xít? Lời đáp đó là 3 nước phát xít lớn. Đó đó là Đức Quốc xã, Ý và Nhật Bản. Đây đó là nguồn cơn gây ra trận đấu tranh thế giới thứ hai đẫm máu ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Ba nước này hợp thành một khối Trục nhằm tăng cường quân sự chiến lược, đàn áp các quốc gia và khu vực khác nhau trên thế giới bằng cuộc chiến tranh.

Quyết sách phát xít Đức do Adolf Hitler và Đảng Quốc xã kiểm soát. Đây là một nhà nước phát xít toàn trị, nắm mọi quyền hành cai quản trên mọi mặt của đời sống. Đặc trưng thuận lợi nhận biết nhất của chủ trương phát xít Đức đó là nạn phân biệt chủng tộc. Đặc biệt quan trọng là tư tưởng bài trừ Do Thái mà tàn bạo và khốc liệt nhất là cuộc diệt chủng Holocaust.

Cũng như phát xít Đức, phát xít Ý cũng luôn có lực lượng cầm quyền đó là Đảng phát xít do Mussolini lãnh đạo. Thời gian tồn tại của chủ nghĩa phát xít tại Ý từ thời điểm năm 1922 đến năm 1943. Mặc dù tồn tại trong hơn hai mươi năm, nhưng đây đó là kiểu mẫu cho những hình thức chủ nghĩa phát xít khác. Sự khốc liệt của nó không bằng phát xít Đức nhưng mạng lưới hệ thống này đã và đang lấy đi sinh mạng của hàng chục ngàn ngàn người chống đối.

Nằm ở hai thế kỷ, từ thời điểm năm 1868 đến 1947, chủ nghĩa phát xít ở Nhật sụp đổ sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Trong suốt quãng thời gian tồn tại, đế quốc Nhật cũng tàn bạo, độc đoán không kém gì hai đất nước liên minh là phát xít Đức và Ý.

Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa phát xít

Toàn cảnh ra đời của chủ nghĩa phát xít là gì? Cùng tìm hiểu cụ thể về toàn cảnh cùng nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa phát xít.

Lấn sân vào giai đoạn 1929-1933, ở những nước tư bản phương Tây xuất hiện cuộc rủi ro đáng tiếc tài chính, xã hội vô cùng lớn. Điều này đã dẫn đến những xu hướng chính trị đấm đá bạo lực cực đoan và được cho là tiền đề cho việc ra đời của chủ nghĩa phát xít.

Cuộc rủi ro đáng tiếc tài chính đã khiến cho dân chúng ở khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ vô cùng khốn khổ. Bảo mật an ninh trật tự không được đảm bảo. Đặc biệt quan trọng là việc xuất hiện của xu hướng đấm đá bạo lực xã hội được tạo ra bởi tầng trẻ tuổi không có nghề nghiệp và mất định hướng về tương lai.

Để sở hữu thể ngã ngũ tình trạng hỗn độn đó, cơ quan chính phủ các quốc gia Phương Tây đặt niềm tin vào việc tăng cường các cuộc chạy đua vũ trang. Họ quân phiệt hóa nền kinh tế thị trường và toàn bộ thể chế chính trị xã hội. Đây đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít.

Khi tìm hiểu chủ nghĩa phát xít là gì, nếu như chỉ biết về định nghĩa hay ý nghĩa biểu tượng của chủ trương này thì chưa đủ. Việc nắm bắt được đặc điểm của chủ nghĩa phát xít sẽ cho bạn cái nhìn toàn diện hơn về chủ trương này. Những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa phát xít như sau:

Đối phó với nguy cơ bạo loạn, xâm lược và thủ tiêu dân chủ đó là mục tiêu rất tốt của chủ nghĩa phát xít. Chúng xây dựng một nhà nước với đảng phát xít nắm quyền hùng mạnh nhằm thực thi điều này.

Các nước theo chủ nghĩa phát xít xây dựng quân đội hùng mạnh. Với cơ cấu tổ chức, vị trí chính trị của những sĩ quan quân đội giống chủ trương quân phiệt.

Để thực hiện mục tiêu của mình, chủ nghĩa phát xít luôn sẵn sàng đàn áp các trào lưu của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội hay các nền tảng tư tưởng dân chủ khác.

Chủ nghĩa phát xít luôn luôn đặt mục đích thủ tiêu nền kinh tế thị trường thị trường, đồng thời thiết lập nền kinh tế thị trường dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, phục vụ lợi ích quốc gia.

Chủ nghĩa phát xít kích động tư tưởng phân biệt chủng tộc một cách cực đoan, khẳng định tư tưởng dân tộc bản địa.

Đặc điểm của chủ nghĩa phát xít là gì?

Tại sao nói chủ nghĩa phát xít là cuộc chiến tranh? Bởi vì chủ nghĩa phát xít là chủ nghĩa độc đoán nhất trong lịch sử vẻ vang loài người, đồng thời luôn nhận định rằng chủ nghĩa này đã đi đến bước cuối cùng tốt đẹp tuyệt vời nhất trong lịch sử vẻ vang của hệ tư tưởng chính trị.

Chủ nghĩa phát xít ảo tưởng rằng đây đó là hệ tư tưởng ưu việt nhất. Không chỉ thế, đế chế phát xít cũng tự cho mình có quyền sinh sát để vô hiệu hóa, thủ tiêu toàn bộ những con người không thuộc chủng người phát xít. Chủ nghĩa phát xít sử dụng vũ lực cùng cuộc chiến tranh trong việc xử lý các quan hệ quốc tế hay quốc nội.

Để thực hiện quyền lực đó, chủ nghĩa phát xít ra sức đàn áp trên mọi mặt, từ tài chính, văn hóa truyền thống, chính trị… một cách độc ác và tàn bạo. Bởi những điều này mà nhắc tới chủ nghĩa phát xít, người ta nghĩ ngay tới những trận đấu tranh thảm khốc và thương tâm.

Để biết chủ nghĩa phát xít có phải chủ nghĩa quân phiệt, tất cả chúng ta cần hiểu khái niệm chủ nghĩa quân phiệt là gì?. Đó chỉ là một trào lưu tư tưởng của một cơ quan chính phủ với chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự chiến lược, nhằm yên cầu quyền lợi của quốc gia. Chủ nghĩa quân phiệt sử dụng thay máu chính quyền như một thứ vũ khí.

Thực chất chủ nghĩa quân phiệt chỉ là một yếu tố tạo nên chủ nghĩa phát xít. Chứ nó không đồng nhất với nhau. Bên cạnh các yếu tố như chủ nghĩa dân tộc bản địa hẹp hòi, chủ nghĩa toàn trị, chuyên chế, tư bản,… quân phiệt giúp kiến tạo nên chủ nghĩa phát xít.

Chủ nghĩa phát xít ở Đức là tiêu biểu nhất để tất cả chúng ta tìm hiểu chủ nghĩa phát xít là gì. Bước ra từ cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức chìm trong rủi ro đáng tiếc tài chính vô cùng trầm trọng. Cơ quan chỉ đạo của chính phủ Đức bấy giờ đã cho in ồ ạt tiền để trả nợ. Đây là chính sách vô cùng sai lầm vì nó dẫn tới tình trạng siêu mức lạm phát. Từ đó gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế thị trường ở quốc gia này. Đặc biệt quan trọng tài chính Đức càng lao đao hơn khi thị trường thị trường chứng khoán ở Mỹ sụp đổ vào tháng 10/1929.

Ở thời điểm lúc đó, Đảng Quốc xã Đức với việc dẫn dắt của Adolf Hitler đã nhận được trách nhiệm và hứa hẹn với toàn dân về một chính quyền sở tại TW mạnh mẽ. Quốc xã Đức hứa sẽ tăng thêm không gian sống, cũng như tạo ra sức mạnh tài chính và tạo công ăn việc làm cho nhân dân. Vì thế, Đảng Quốc xã Đức nhanh chóng được thay thế vị trí lãnh đạo của Đảng Công dân Đức.

Ngay sau Đảng Quốc xã khi lên nắm quyền, Adolf Hitler đã đưa ra nhiều chính sách đàn áp đẫm máu. Gây ra những tội ác vô cùng nghiêm trọng và tàn khốc. Một trong số đó là tội ác diệt chủng. Cho dù không phải là đối tượng người dùng cuộc chiến tranh, nhưng nếu bị liệt vào list lớp người “hạ đẳng” thì cũng sẽ Đức Quốc xã tiêu diệt không thương tiếc.

Ở thời điểm từ thời điểm năm 1941 đến 1945, những người dân dân Do Thái đã sát hại một cách có mạng lưới hệ thống. Dưới bàn tay tàn bạo liên kết thành mạng lưới hệ thống của Đức Quốc xã và bè phái, chúng đã tạo ra một cuộc diệt chủng tàn bạo nhất trong lịch sử vẻ vang loài người.

Ngoài ra, Đức Quốc xã cũng tiến hành nhiều cuộc đàn áp, tiêu diệt khác. Đối tượng người tiêu dùng của chúng là những nhóm sắc tộc và chính trị có quyền lợi, tư tưởng, mục tiêu đối lập với phát xít Đức. Số lượng 6 triệu người Do Thái bị chết là số lượng minh chứng cho tội ác dã man của chủ trương này.

Một trong những nguyên nhân căn bản nhất dẫn tới cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô cùng tàn khốc. Đó đó là tới từ phát xít Đức. Năm 1983 Đức Quốc xã đánh chiếm Áo. Năm 1939 xâm chiếm Tiệp Khắc. Tháng 9/1939 Hitler cho quân xâm lược Ba Lan. Đây đó là sự kiện châm ngòi phát triển mạnh thế chiến thứ hai. Năm 1940 Đức cùng phe Trục đã chinh phạt chinh phạt gần hết châu Âu và rình rập đe dọa xâm lược nước Anh.

Phe Liên minh thắng thế trong chiến tranh thế giới thứ hai đó là tín hiệu cho việc sụp đổ của phát xít Đức. Khi Hồng quân Liên Xô tiến gần Phủ thủ Tướng, Hitler- vị tướng tàn bạo, khát máu nhất trong lịch sử vẻ vang nhân loại đã tự sát cùng vợ trong hoàng cung. Tiếp đó là việc đầu hàng vô điều kiện kèm theo của quân lính vũ trang Đức. Sự kiện lưu lại kết quả cuối cùng của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, cũng là việc sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa phát xít Đức đó là văn kiện đầu hàng Đức ký vào trong ngày 7/5/1945.

Nói về bản chất của chủ nghĩa phát xít thì ở Nhật có lẽ xuất hiện sớm hơn so với phát xít Đức hay Ý. Một số ít dòng họ ở Nhật với thế lực quân phiệt qua việc dựa trên sức mạnh các võ sĩ samurai đã lên nắm quyền cai trị nước Nhật từ thế kỷ IX. Lúc này, triều đình ở Nhật chỉ với là hình thức.

Cho tới năm 1867 thì chủ trương samurai mới được huỷ bỏ, quyền lực của triều đình Nhật mới được phục hồi bởi Nhật hoàng Minh Trị. Mặc dù vậy thì những thế lực quân phiệt vẫn nắm những quyền lực chính, nghị viện thì chỉ có rất ít quyền lực. Cũng từ đây giai cấp tư sản của Nhật ra đời và nhanh chóng lớn mạnh, đồng thời thực thi sự thống trị độc tài chuyên chế.

Chính sách đối ngoại đó là việc ra sức thôn tính các nước xung quanh với mục đích là biến Nhật trở thành đế quốc hùng mạnh nhất của châu Á. Về chính sách đối nội, bè lũ quân phiệt của Nhật phản đối lập Cơ quan chỉ đạo của chính phủ dân sự, thực thi việc đàn áp dã man các cuộc biểu tình.

Adolf Hitler – Thủ lĩnh của chủ nghĩa phát xít ở Đức quốc xã

Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai với thắng lợi về phe Liên minh đã quét sạch chủ nghĩa phát xít trên toàn thế giới. Tuy nhiên, ngày này trên thế giới, ở đâu này đã và đang xuất hiện một xu hướng mới. Gọi là chủ nghĩa phát xít mới. Tuy hình thức không hoàn toàn giống chủ nghĩa phát xít trước đó. Nhưng mức độ nguy hiểm khiến tất cả chúng ta phải quan ngại.

Một nhóm người theo chủ nghĩa này đã tổ chức tuần hành hết sức rầm rộ tại thành phố Odessa – Ukraine. Mục đích là tưởng niệm cựu thủ lĩnh nhóm dân tộc bản địa cực đoan “Máu và danh dự”. Cuộc tuần hành đã gặp phải sự phản đối của những nhà hoạt động địa phương. Kết quả là một cuộc đụng độ diễn ra đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người vô tội. Điều đáng lo ngại là trong thành phần Quốc hội của Ukraine có thành phần theo chủ nghĩa phát xít mới.

Còn ở Đức – quốc gia mà có chủ nghĩa phát xít tàn khốc tiên phong hàng đầu trong lịch sử vẻ vang loài người đã xuất hiện nhóm người theo chủ nghĩa phát xít mới. Với tên gọi National Socialist Underground (NSU), nhóm người này đã tiến hành hàng loạt những vụ giết hại mang độc cơ sắc tộc. Địa điểm những vụ giết hại này ghép lại tạo thành logo của nhóm trên map nước Đức.

Những điều này mang đến dự báo về sự việc hồi sinh không mong muốn. Đó là việc hồi sinh của tư tưởng, đế chế Hitler tàn khốc. Là sự việc trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít trong thời đại mới. Với nhiều hình thức, thủ đoạn, tham vọng tàn bạo, tinh vi hơn. Sự trỗi dậy ngày một rõ ràng của chủ nghĩa phát xít mới rình rập đe dọa tới nền hòa bình của thế giới hiện nay.

Chủ nghĩa đế quốc là gì? Bản chất của chủ nghĩa đế quốc

Chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì? Nguyên nhân, Đặc điểm, Bản chất và Ý nghĩa

Tu khoa lien quan:

khái niệm phát xít là gì

tội ác của chủ nghĩa phát xít

chủ nghĩa phát xít là gì trắc nghiệm

chủ nghĩa phát xít hình thành năm nào

chủ nghĩa phát xít được định nghĩa là gì

chủ nghĩa phát xít hình thành năm bao nhiêu

Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Thực Dụng Của Hoa Kỳ trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!