Xu Hướng 6/2023 # Tiến Bộ Xã Hội Ở Việt Nam # Top 7 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Tiến Bộ Xã Hội Ở Việt Nam # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Tiến Bộ Xã Hội Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nguyễn Minh Trí1

 

Tóm tắt: Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện tiến bộ xã hội góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, việc thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam, còn những hạn chế. Bài viết phân tích làm rõ quan điểm về tiến bộ xã hội và thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam trong quá trình đổi mới; qua đó góp phần vào cung cấp thêm các căn cứ khoa học cho những quyết sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm hoàn thiện chính sách thực hiện tiến bộ xã hội ở nước ta hiện nay.

Từ khóa: Tiến bộ xã hội, đổi mới, Việt Nam. 

Phân loại ngành: Xã hội học

 

Abstract: Over the past more than 30 years of renovation, Vietnam  has  made  important achievements in implementing social progress, contributing to improving the material and non- material aspects of life of the people. However, besides the achievements, there are things to be improved in the implementation. In the article, the author analyses to clarify the viewpoint on social progress and its implementation in Vietnam in the renovation process; thereby contributing to providing more scientific bases for the decisions of the Vietnamese Party and State in order to complete the policy for the implementation today.

Keywords: Social progress, renovation, Vietnam. 

Subject classification: Sociology

 

1. Đặt vấn đề

Trong tiến trình phát triển của nhân loại, tiến bộ xã hội là một trong những vấn đề cơ bản của mỗi thời đại, bởi nó được đặt ra cùng với sự tồn tại của con người, gắn với ước mơ, khát vọng vì một cuộc sống hạnh phúc của con người. Vì lẽ đó, việc xác định giá trị đích thực của phát triển, đồng thời tập hợp, sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn lực thực hiện tiến bộ xã hội trở thành nhu cầu cấp thiết.

Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc thực hiện tiến bộ xã hội ở nước ta vẫn còn những hạn chế, như tình trạng phân hóa giàu nghèo, tỉ lệ thất nghiệp cao, giảm nghèo chưa bền vững, bất bình đẳng trong thu nhập, chênh lệch mức sống ngày càng tăng… Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục nghiên cứu quan điểm về tiến bộ xã hội và thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam trong quá trình đổi mới là một trong những việc làm cần thiết cả về mặt lí luận và thực tiễn. Đây cũng chính là những nội dung chủ yếu của bài viết này.

2. Quan điểm về tiến bộ xã hội

Để có thể nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tiến bộ xã hội, trước hết cần phải làm rõ các quan điểm về tiến bộ xã hội trong dòng lịch sử phát triển của nhân loại. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, khi đề cập đến tiến bộ xã hội, nhà Triết học Hy Lạp Platon cho rằng, xã hội loài người, trong bản tính của nó sẽ vận động theo chiều hướng đi lên.

Trong  sự  vận  động  ấy,  chính  trị,  pháp quyền, nhà nước lần lượt thay đổi các hình thức của chúng và hình thức sau luôn ưu việt hơn hình thức trước, song do ông coi thế giới là một mặt cầu đóng kín nào đó, cho nên trong quan niệm của Platon, sự vận  động của  xã  hội  không phải  là  quá trình vô tận, mà là những đường vòng có giới hạn, ở đó chu kỳ lặp lại những giai đoạn đã qua [2, tr.44-45]. Còn ở phương Đông, Khổng Tử cho rằng, sự suy tàn của chế độ nhà Chu lúc đó biểu hiện sự vận động của xã hội theo hướng suy vong, do đó, ước mơ của ông về xã hội tiến bộ chỉ có thể  quay trở  về thời  vua  Thuấn,  vua Nghiêu. Trong quan niệm của Khổng Tử, sự suy vong đó chủ yếu trong lĩnh vực quan hệ đạo đức của xã hội, và sự suy đồi đó biểu hiện qua các tệ nạn xã hội như “tiếm ngôi việt vị”, chư hầu chiếm dụng lễ nghĩa của Thiên Tử, đại phu chiếm dụng lễ nghĩa của chư hầu. Cùng với nạn “tiếm ngôi việt vị”, chế độ triều cống cũng bị các chư hầu tự ý phá bỏ [1, tr.252]. Do đó, để duy trì một xã hội kỉ cương, đòi hỏi phải luôn chú ý đến thực hiện tiến bộ xã hội, mà cụ thể là “Không sợ thiếu chỉ sợ không đồng đều, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên” (“Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi bất an”) và ông quan niệm “tiên vương”, “tiên thánh” là mẫu mực cho hành vi  của  thiên  hạ,  với  chủ  trương  việc  noi gương đời xưa, việc bắt chước đạo đức của các bậc tiên thánh, tiên vương được coi là xu hướng vận động tất nhiên của các xã hội. Mặc  dù  còn  những  hạn  chế  nhất  định, nhưng nếu chúng ta biết kế thừa và phát triển cái hay của Khổng Tử là đề cao sự tu dưỡng đạo đức con người, thì điều đó vẫn có tác dụng thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.

Trải  qua  hơn  1000  năm  đêm  trường trung cổ, quan điểm tiến bộ xã hội không được tiếp tục phát triển, bởi dưới sự thống trị của nhà thờ Kitô giáo, con người và xã hội loài người đã sa vào những nghịch lí của sự tiến bộ, vì một mặt, con người được xem như Đấng sáng tạo; nhưng mặt khác lại là nô lệ của Chúa, còn các quy luật khách quan của lịch sử thì bị thần học phủ định.

Một trong những nhà triết học tiêu biểu trước C.Mác có công phân tích đầy đủ về mặt triết học về tiến bộ xã hội là G.Hêghen, nhà Triết học cổ điển Đức. Ông cho rằng, tiến bộ xã hội chính là sự vận động tiến về phía trước của cái kém hoàn thiện đến cái hoàn thiện hơn. Theo ông,  cái chưa hoàn thiện mang trong mình mặt đối lập của nó – cái hoàn thiện. Cái hoàn thiện tồn tại ngay trong tiềm năng, trong tính xu hướng của cái chưa hoàn thiện. Có thể thấy rằng, điều cốt lõi trong lí thuyết của ông về tiến bộ xã hội là ở chỗ đã nhận ra và lí giải một cách sâu sắc tính biện chứng của sự vận động xã hội, đã xem xét lịch sử xã hội như một quá trình thống nhất và hợp quy luật. Mặc dù đề cao tính đặc thù của mỗi thời đại, song Hêghen vẫn khẳng định rằng, mỗi thời đại là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình phát triển chung của nhân loại; ông xem tiến bộ xã hội chính là quá trình vận động của ý niệm. Thêm vào đó, ngay trong triết học xã hội, Hêghen cũng tự mâu thuẫn với chính mình. Trong khi ông cho rằng, sự phát triển, theo lôgíc nội tại của nó, luôn luôn là vô cùng, vô hạn thì ông lại biện minh rằng sự tồn tại của nhà nước quân chủ lập hiến Phổ là đỉnh cao của sự phát triển lịch sử [2, tr.50].

Trong  quan  điểm  của  chủ  nghĩa  Mác, mặc dù không có một tác phẩm nào trình bày một cách chuyên biệt về tiến bộ xã hội, song những quan điểm ấy được thể hiện gián tiếp qua hệ thống chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong mối  quan  hệ  với  phát  triển  xã  hội. C.Mác viết: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên” [7, tr.21], quá trình vận động tiến lên của các hình thái kinh tế – xã hội do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất; quá trình này diễn ra hết sức phong phú,  phức tạp,  đầy mâu thuẫn  với  những bước quanh co và những bước thụt lùi; song quá trình luôn luôn diễn ra theo hướng tiến bộ, nghĩa là theo hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Điều này cũng đã được V.I.Lênin khẳng định: “Lịch sử thế giới tiến lên một cách đều đặn, bằng phẳng,  không có  -  đôi  khi  -  những bước nhảy lùi lớn, thì là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lí luận” [6, tr.8]. Như vậy, theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, tiến bộ xã hội luôn bao hàm và thể hiện sự vận động liên tục không ngừng. Thông qua sự vận động, tiến bộ xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng đi lên và theo đó thì đời sống xã hội loài người cũng luôn theo xu thế ngày càng được nâng lên. Vận động trong xã hội chính là sự vận động của hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn về chất.

Quan điểm Hồ Chí Minh về tiến bộ xã hội. Bằng sự hiểu biết sâu sắc về thực tiễn cách mạng Việt Nam, trên nền tảng tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản tư tưởng hết sức quý giá, trong đó có quan điểm về tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội của Hồ Chí Minh thể hiện rõ qua quan điểm về chủ quyền dân tộc, độc lập dân tộc, quyền tự do dân tộc, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã nhấn mạnh: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền  không  ai  có  thể  xâm  phạm  được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu nói ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [8, t.4, tr.4]. Chính sự bình đẳng giữa con người, giữa các dân tộc là tiền đề để thực hiện tiến bộ xã hội và Người khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [8, t.1, tr.461], “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho con người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…” [8, t.1, tr.461].

Tiến bộ xã hội theo Hồ Chí Minh còn phản ánh mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Người giải thích: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già không lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” [8, t.9, tr.591]. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của phát triển kinh tế là hướng đến cải thiện đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng cao cho nhân dân. Nói cách khác, tiến bộ xã hội có được khi mỗi người ngày càng có điều kiện phát triển, trong đó, điều kiện tiên quyết là được làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình.

Như vậy, thông qua khái quát lịch sử tư duy về tiến bộ xã hội trong lịch sử, có thể nói, tiến bộ xã hội là một phạm trù lịch sử, có nội hàm hết sức phong phú, được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, song các quan  điểm  trên  đều  thống  nhất  ở  những điểm cơ bản như sau: Một là, tiến bộ xã hội có nội hàm rộng, phản ánh sự vận động tiến lên trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vì một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, bác  ái,  tiến  bộ  tồn  tại  với  đời  sống  con người. Hai là, tiến bộ xã hội là kết quả hoạt động sáng tạo của con người, thể hiện quá trình tác động tích cực sự phát triển toàn diện  phát  triển  các  quan  hệ  xã  hội  công bằng, dân chủ và văn minh. Ba là, tiến bộ xã hội là một trong những yếu tố thể hiện đặc  trưng  cho  mỗi  cộng  đồng  người,  là thước  đo trình độ tiến bộ trong phạm  vi từng quốc gia, dân tộc và mở rộng trong phạm vi khu vực, quốc tế, phù hợp với từng thời kì, giai đoạn lịch sử cụ thể.

Trên  cơ  sở  kế  thừa  những  thành  quả nghiên cứu trong lịch sử về tiến bộ xã hội, chúng tôi quan niệm: tiến bộ xã hội là phạm trù triết học phản ánh con đường tiến lên của xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, mang lại những giá trị thiết thực về vật chất và tinh thần cho mọi người dân.

Như vậy, tiến bộ xã hội có nội hàm rất rộng phản ánh sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục…, bao quát các phương diện vật chất và tinh thần. Tiến bộ xã hội được xem xét, đánh giá trong từng phạm vi quốc gia, dân tộc, khu vực và quốc tế phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Tiến bộ xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có những tiêu chí như sau [3, tr.142-144]:

– Lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học ngày càng cao và với quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tăng trưởng nhanh, có chất lượng cao và bền vững;

– Quyền làm chủ của nhân nhân đối với mọi mặt đời sống xã hội được đảm bảo; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trong sạch vững mạnh. Dân chủ được phát huy, kỷ luật, kỷ cương được tôn trọng;

– Văn hóa, giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ được mở mang, trình độ dân trí phát triển, quan hệ giữa con người với con người lành mạnh; những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội được đẩy lùi. Đây là thước đo trí tuệ và đạo đức của tiến bộ xã hội;

– Môi trường sinh thái được bảo vệ và cải thiện;

– Con người có điều kiện phát triển từng bước  về  thể  chất,  trí  tuệ,  đạo  đức,  nghề nghiệp;  có  cuộc  sống  ngày  càng  ấm  no, hạnh phúc; được cống hiến và hưởng thụ công bằng thành quả của sự phát triển.

Một xã hội vận động theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội là một xã hội ngày càng giàu có về của cải vật chất, đem lại cho con người cuộc sống ngày càng đầy đủ, sung túc hơn. Cái đích hướng tới của tiến bộ xã hội phải là con người, là sự phát triển toàn diện con người.

Nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của tiến bộ xã hội, trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” [4, tr.77-78]. Quan điểm này tiếp tục được các đại hội kế thừa, phát triển và xem con người là trung tâm chiến lược phát triển; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước,  từng  chính  sách  phát  triển.  Đại  hội Đảng XII đã nêu rõ: “gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân” [5, tr.299].

Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến bộ xã hội, là kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Ngày nay, tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội được thể hiện ở các thành tựu phát triển kinh tế, trạng thái chính trị – xã hội, trình độ học vấn, bảo vệ sức khoẻ, lối sống, ý thức đạo đức, thế giới quan, kỷ luật lao  động, văn hoá lao động, qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất…  Xã hội nào đem lại nhiều khả năng hơn cho sự phát huy sức mạnh và  năng lực sáng tạo của con người, hoàn thiện bản chất con người thì xã hội đó được coi là tiến bộ.

3. Thực trạng thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam

3.1. Thành tựu thực hiện tiến bộ xã hội

Thứ nhất, về kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam hơn 30 năm đổi mới đã có những bước phát triển ngoạn mục, đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, quy mô nền kinh tế đã lớn hơn rất nhiều so với trước. Tổng  sản  phẩm  trong  nước  (GDP)  tăng trưởng  với  tốc  độ  trung  bình  hàng  năm 6,6%  giai  đoạn  1986-2017  và  đạt  7,08% năm 2018. Trong đó, giai đoạn tăng trưởng cao nhất 1992-1997 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 8,1%. So với một số quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trên thế giới trong hơn 30 năm qua, bình quân tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc là 9,4%, trên Hàn Quốc và Malaysia là 5,9%, trên Thái Lan là 5,2%, trên Mỹ là 2,6%, Nhật Bản là 1,7% và Đức là 1,8% [12]. Quy mô kinh tế Việt Nam từ chỗ xếp thứ 90 thế giới năm 1990 đã tăng lên 171,2 tỷ USD, xếp thứ 57 thế giới năm 2013. Việt Nam từ một quốc gia thuộc nhóm các nước nghèo nhất thế giới đã  trở thành quốc gia có  thu nhập trung bình thấp vào năm 2008. Năm 2018, quy mô nền kinh tế đạt 240,5 tỷ USD gấp 34 lần năm 1986, đưa Việt Nam lọt vào top 50 trong bảng xếp hạng các nền kinh tế mạnh nhất thế giới [10].

Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn. Theo số liệu Tổng cục  Thống  kê,  năm  1986,  ngành  nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất là 38,1%; dịch vụ 33%, ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất là 28,9%. Đến năm 2018, cơ cấu kinh tế đã có những thay đổi quan trọng: dịch  vụ  vươn  lên  trở thành  ngành đóng góp cao nhất trong GDP với tỷ trọng 41,1%, sau đó là ngành công nghiệp chiếm 34,3%, ngành nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 14,6%. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch  từ  lĩnh  vực  nông  nghiệp  sang  công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng lao động làm việc trong công nghiệp và dịch vụ tăng từ 11,2% và 16,3% (năm 1989) lên 26,6% và 35,2% vào quý 2/2018; trong nông nghiệp giảm từ 71,5% xuống còn 38,2%; tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật (đặc biệt là tỷ lệ người lao động có trình độ cao đẳng và đại  học  trở  lên)  tăng  nhanh  từ  1,9%  lên 12,5% cũng tại thời điểm nêu trên [10].

Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, có độ mở và hội nhập cao. Kết quả đó có sự góp phần quan trọng của mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam. Hội nhập quốc tế là một yếu tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.

Thứ hai, về xã hội. Kết quả tăng trưởng kinh tế cao và ổn định ở Việt Nam trong những năm qua đã tạo điều kiện thuận lợi để Đảng, Nhà nước ta huy động các nguồn lực giải quyết những vấn đề xã hội vì một xã hội văn minh, tiến bộ như:

-  Thu  nhập  bình  quân  đầu  người  có nhiều cải thiện. Nếu như từ năm 2007 trở về trước, Việt Nam là nước có thu nhập thấp với bình quân thu nhập đầu người dưới 1.000  USD/người/năm, thì  từ  năm  2008, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình  thấp,  với  thu  nhập  bình  quân  đầu người là 1.154 USD/người/năm và tăng lên 2.540  USD/người/năm  vào  năm  2018 [9, tr.816]. Thu nhập của người dân tăng qua các năm đã góp phần cải thiện chi tiêu cho đời sống, bình quân đầu người theo giá hiện hành tăng từ 705.000 đồng năm 2008 lên 2.016.000 đồng năm 2016 [9, tr.833]. Như vậy, với tốc độ tăng trưởng cao, việc làm ổn định, thu nhập tăng nên chi tiêu sinh hoạt trong các hộ gia đình ngày càng được cải thiện,  góp  phần  nâng  cao,  cải  thiện  chất lượng sống.

-  Giải  quyết  việc  làm.  Ở  Việt  Nam, nguồn thu nhập chủ yếu của các hộ gia đình là từ lao động, vì vậy, việc quan tâm giải quyết việc làm là một trong những yếu tố cơ bản của tiến bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của  Đảng,  sự  điều  hành  của  Chính  phủ thông qua các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện các dự án về tín dụng việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, gắn dạy nghề với tạo việc làm, nhờ đó tăng cơ hội  việc  làm  và  hoàn  thiện  quan  hệ  lao động. Nhìn lại những năm qua, công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả tích cực. Giai đoạn 1991-2000, trung bình hàng năm cả nước giải quyết cho khoảng từ 1-1,2 triệu người có công ăn việc làm; giai đoạn 2001-2005,  mức  giải  quyết  việc  làm  đạt khoảng 1,4-1,5 triệu người và giai đoạn từ năm 2010 – 2015, con số đó đã tăng lên, giải  quyết  việc  làm,  tạo  việc  làm  cho khoảng 7,8 triệu người, trong đó lao động ở nước  ngoài  khoảng  469  nghìn  người  [5, tr.238]; công tác đào tạo nghề được quan tâm, từng bước phát triển, góp phần đưa tỉ lệ lao động đã qua đào tạo từ dưới 10% năm  1990  tăng  lên  51,6%  năm  2015  và 56%  năm  2017;  tỉ  lệ  thất  nghiệp  giảm xuống  còn  2,24%  [9,  tr.153].  Các  phiên giao dịch việc làm, hệ thống thông tin thị trường lao động từng bước gắn kết người lao động và người sử dụng lao động.

– Công tác xóa đói, giảm nghèo. Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng hướng vào con người, nhất là những người nghèo. Việt Nam được dư luận quốc tế đánh giá là một trong những nước điển hình trong việc thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỉ về  xóa đói, giảm nghèo. Theo chuẩn quốc gia, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 5,8% năm 2016; tính theo chuẩn nghèo tiếp cận  đa  chiều,  giảm  từ  14,2%  năm  2010 xuống còn 7,9% năm 2017, riêng các huyện nghèo giảm 4% [9, tr.837]. Theo báo cáo của  Chính  phủ  về  Kết  quả  thực  hiện  kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2017, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2018, đến nay, hầu hết các đối tượng chính sách  xã  hội,  trẻ  em  dưới  6  tuổi,  người nghèo,  đồng  bào  dân  tộc  thiểu  số  ở  các vùng khó khăn đã có bảo hiểm y tế; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trên 34,3 triệu người, hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho trên 15,1 triệu người. Quyết tâm chính trị trong cuộc đấu  tranh  giảm  nghèo  của  Đảng  và  Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho mọi người dân thụ hưởng những thành quả của tăng trưởng kinh tế,  từ đó vươn lên thoát nghèo,  cải thiện đời sống vật chất và tinh thần.

– Giáo dục và đào tạo. Phát triển giáo dục và đào tạo không chỉ có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, mà còn tác động đến sự phát triển cơ bản của người dân, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội bền vững. Nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số ở các vùng khó khăn, trẻ em không nơi nương tựa… tiếp cận giáo dục cơ bản, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí và các chính sách ưu đãi khác. Trong những năm qua, giáo dục và đào tạo có sự phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa các loại hình lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ  và  phổ  cập  tiểu  học;  đến  cuối  năm 2010,  hầu  hết  các  tỉnh,  thành  đạt  chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2016- 2017 chiếm 97,94%; tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ toàn quốc là 95,1%; 100% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non [9, tr.120]. Như vậy, thực hiện tiến bộ xã hội trong giáo dục trong thời kì đổi mới đã được cải thiện, đặc biệt là tạo cơ hội, điều kiện học tập cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, con em gia đình  nghèo  và  trẻ  khuyết  tật  có  những bước  tiến  rõ  rệt.  Hệ  thống  giáo  dục  đã bước  đầu  được  đa  dạng  hóa  cả  về  loại hình,  phương  thức  và  nguồn  lực,  từng bước hội nhập với xu thế chung của giáo dục thế giới. Từ một hệ thống giáo dục chỉ có các trường công lập và chủ yếu là loại hình chính quy, đến nay đã có các trường ngoài công lập, có nhiều loại hình không chính quy, có các trường mở, có phương thức đào tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài.

– Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tỉ lệ tử vong ở trẻ em dưới  5  tuổi  đã  giảm  từ  81‰  năm  1990 xuống còn khoảng 21,5‰ năm 2017; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 13,4%; tỉ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc xin chiếm 96,4% [9, tr.802]. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 73,5 tuổi năm 2017. Nếu so sánh công tác chăm sóc sức khỏe với các nước trong khu vực thì đây là một thành tựu rất lớn của chính sách y tế (Thái Lan, tuổi thọ bình quân là 72 tuổi; Malaysia, tỉ suất chết ở trẻ sơ sinh khoảng 16% và tuổi thọ bình quân là 73,3 tuổi). Tính đến năm 2017, cả nước có 13.583 cơ sở khám, chữa bệnh [9, tr.785], tổ chức bộ máy y tế được hoàn thiện từ cơ sở đến các tỉnh, thành phố theo hướng  phổ  cập,  chuyên  sâu  và  hiện  đại, chất lượng đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao và tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế bao phủ đến  83%  dân  số  (tương  đương  7.5915,2 nghìn người) [9, tr.198]. Điều này đã tạo điều kiện chăm sóc tốt hơn về y tế cho các tầng lớp dân cư trong xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.

-  Chỉ  số  phát  triển  con  người  (HDI). Cùng với những thành tựu đạt được trong công tác giải quyết việc làm, thu nhập ngày càng tăng, tỉ lệ giảm nghèo nhanh, chăm sóc sức khỏe nhân dân có những chuyển biến tích cực góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, chỉ số HDI ở nước ta không ngừng được cải thiện, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội trong quá trình phát triển. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc: chỉ số HDI của Việt Nam được cải thiện qua các năm,  từ  mức  0,683  năm  2000  lên  mức 0,695  năm  2016  và  0,700  năm  2017  [9, tr.776].  Chỉ  số  HDI  của  Việt  Nam  hiện đang thuộc nhóm trung bình cao. Điều này đã chứng tỏ sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta có xu hướng tăng, đời sống nhân dân tiếp tục cải thiện và từng bước đảm bảo tiến bộ xã hội.

– Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc đã đạt được những kết quả đáng trân trọng, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới hoặc được xếp hạng là di sản văn hóa quốc gia (Vịnh Hạ Long, Vườn  Quốc  gia Phong Nha – Kẻ Bàng, Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội  An,  Hoàng  thành  Thăng  Long,  Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ, Ca trù, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Đờn ca tài tử, Mộc bản triều Nguyễn…) đã được  giữ gìn, bảo tồn, tôn tạo. Sản phẩm văn  hóa,  văn  học  nghệ  thuật  ngày  càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển  mạnh  mẽ.  Nhiều  phong  trào,  hoạt động văn hóa đạt được những kết  quả cụ thể, thiết thực; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới” và các phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa… đã tạo môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá  trị nhân  văn của dân tộc. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa.

3.2. Hạn chế trong thực hiện tiến bộ xã hội

Một là, nền kinh tế nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Mặc dù tăng trưởng kinh tế cao, bình quân hàng năm đạt 6,3%, nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra của Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm  2011-2020,  ở  mức  7-8%.  Tỉ  lệ  lao động và vốn góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức cao (8,4% và 53,3% năm 2018), yếu tố TFP đóng góp vào tăng trưởng  kinh  tế  còn  hạn  chế,  mới  ở  mức 38,3% năm 2018. Đặc biệt, yếu tố thể chế chưa  được  cải  thiện,  nhiều  thói  quen  và cách quản lý cũ vẫn hiện diện trong các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách … Theo Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2018, chất lượng thể chế Việt Nam xếp hạng 94/140 nước trên thế giới [11].

Hai là, mặc dù tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm từ 2,88% năm 2010 còn 2,24%  năm  2017  [9,  tr.150],  nhưng  với trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam vẫn còn yếu về chất lượng, thiếu về số lượng, gần 80% lao động chưa qua đào tạo [9, tr.142], một bộ phận lao động đã qua đào tạo hoặc được sử dụng không đúng ngành nghề đào tạo, hoặc phải đào tạo lại mới  có  thể  làm  việc  trong  các  doanh nghiệp,  thiếu  nghiêm  trọng  lao  động  kỹ thuật trình độ cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng,…); số người nghèo, thất nghiệp còn nhiều.

Ba là, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và nhất là tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình  trạng  tái  nghèo  còn  nhiều.  Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất trong tổng số dân cư đã tăng từ 4,43% lần (1992-1993) lên 9,8 lần (năm 2016) [9, tr.142]. Khoảng cách chênh lệch giữa tầng lớp có thu nhập cao và tầng lớp có thu nhập thấp ngày càng gia tăng do cơ hội và thành quả tăng trưởng kinh tế không được chia sẻ một cách đồng đều, mà lại có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống khá giả hơn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nhóm 1 (20% người có thu nhập  thấp  nhất)  là  711.000  đồng/tháng, nhóm 5 (20% người có thu nhập cao nhất) là 7.547.000 đồng/tháng. Hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm 1 và nhóm 5 có xu hướng  ngày  càng  dãn  ra  -  9,8  lần  (năm 1995 là 6,99 lần, năm 2006 là 8,4 lần, năm 2013 là 9,55 lần) [9, tr.825]. Điều này cho thấy khoảng cách thu nhập bình quân ở Việt Nam giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng gia tăng.

Bốn là, nội dung, phương pháp giáo dục còn lạc hậu; chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, bất cập; tỉ lệ lao động có trình độ chuyên  môn  cao,  tay  nghề  giỏi  còn  ít. Ngành nghề đào tạo chưa thật sự gắn kết với nhu cầu thị trường lao động. Một bộ phận lao động trẻ được đào tạo chính quy chưa có việc làm hoặc làm những việc trái với  ngành,  nghề,  lĩnh  vực  đào  tạo.  Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực ở một số ngành, lĩnh vực, tổ chức khá phổ biến. Còn tồn tại khá rõ rệt về điều kiện học tập, cơ sở trường  lớp  giữa  thành  thị  và  nông  thôn, miền xuôi và miền ngược.

Năm là, khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân còn hạn chế. Trong lĩnh  vực  chăm  sóc  sức  khỏe  nhân  dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người  dân.  Chất  lượng  khám,  chữa  bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm [5, tr.256]. Cơ chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn bất cập. Sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức khỏe  và  các  dịch  vụ  khác  ngày  càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống ở thành thị.

Sáu là, lối sống ích kỷ, vụ lợi cá nhân cũng bắt đầu hình thành và ngày càng xâm nhập vào nhiều tầng lớp trong xã hội. Lối sống thiên về hưởng thụ, sống gấp đang huỷ hoại dần nhân cách của nhiều người dẫn đến nhiều giá trị truyền thống dần trở nên mai một. Trong khi đó, khủng hoảng niềm tin cũng đang là một trở ngại lớn đối với việc thiết lập các quan hệ xã hội và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị. Cùng với đó, tệ xâm hại tình dục, ngược đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn của học sinh, sinh viên  có  xu  hướng  gia  tăng;  bạo  lực  học đường phổ biến ở cả những học sinh nữ; một bộ phận thầy, cô giáo suy giảm nhân cách, đạo đức làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh  nghề  giáo…  làm  gia  tăng  sự  khủng hoảng niềm tin trong xã hội.

4. Giải pháp thực hiện tốt hơn tiến bộ xã hội ở Việt Nam

Thứ nhất,  quát triệt, nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc việc thực tiến bộ xã hội trong  từng  bước,  từng  chiến  lược,  từng chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung trong toàn bộ hệ thống chính trị của Việt Nam. Từ đó tạo nên sự thống nhất về nhận  thức  và  hành  động  trong  hệ  thống chính trị hướng đến mục tiêu phát triển vì con người.

Thứ  hai, thúc  đẩy  tăng  trưởng kinh  tế nhanh,  bền  vững  vì  mục  tiêu  tiến  bộ  và công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện đồng bộ,  hiệu  quả  các  chủ  trương, chính sách phát  triển  kinh  tế,  huy  động  tối  đa  mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế; sử dụng các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại đảm bảo thực hiện an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội.

Thứ ba, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập, bảo đảm chất lượng đời sống dân cư. Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thiếu việc làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể giúp người dân bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Có việc làm và tăng thu nhập sẽ giúp người dân có khả năng đáp ứng được những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần, giúp họ tiếp cận được với các dịch vụ chất lượng tốt, nâng cao vị thế trong xã hội, hòa nhập với môi trường xung quanh. Đại hội Đảng XII xác  định: “Tạo cơ  hội để  mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động” [5, tr.135]. Quán triệt tinh thần đó, các cấp, ngành cần đẩy mạnh khuyến khích đầu tư xã hội, tạo ra nhiều việc làm, xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Trong đó, coi trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động phải gắn với quy hoạch kinh tế – xã hội, các chương trình phát triển kinh tế, ngành nghề và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương. Tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hộ lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động  là  giải  pháp  quan  trọng  trong  giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động hiện nay.

Thứ  tư, Đảng  và  Nhà  nước  cần  phải quyết  liệt  đưa  mục  tiêu  giảm  nghèo  đa chiều vào nội dung chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Chỉ đạo các tỉnh,  thành  xây  dựng  kế  hoạch  chi  tiết chương trình, chính sách giảm nghèo hàng năm  theo  lộ  trình  cụ  thể  với  những  giải pháp thiết thực, sát nhu cầu trợ giúp của người nghèo với điều kiện cụ thể của tỉnh, thành,  tránh  đốt  cháy  giai  đoạn;  rà  soát, phân loại hộ nghèo, cận nghèo một cách khách quan, chính xác để có biện pháp hỗ trợ thích hợp.

Thứ năm, tăng cường quản lý xã hội trên nền  tảng  dân  chủ,  thượng  tôn  pháp  luật. Thực thi chính sách phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển y tế ngoài công lập, thí điểm hình thành cơ sở khám, chữa bệnh theo hình thức hợp tác công – tư và mô  hình  quản  lí  bệnh  viện  như  doanh nghiệp công ích; đẩy nhanh tiến độ thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; khuyến khích, hỗ trợ cho mọi ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy đổi mới, phát triển, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công nghệ, văn hóa, nghệ thuật,…

Sáu là, tăng cường và đổi mới công tác tuyên  truyền,  nâng  cao nhận  thức  trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy; đồng thời, hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục để tạo  dựng  đời  sống  tinh  thần  lành  mạnh trong nhân dân.

5. Kết luận

Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, đời sống vật chất và văn hóa không ngừng được cải thiện, vị thế nước ta không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã tác động tiêu cực đến cuộc sống của người lao động, như thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập… Do đó, việc đảm bảo tiến bộ xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, cần được nhận thức đúng đắn, triển khai thực hiện có hiệu quả, nhằm hiện  thực  hóa  mục  tiêu  “dân  giàu,  nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 

Ghi chú:

1 Trường Đại học Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh.

 

Tài liệu tham khảo:

[1]    Doãn Chính (2015),  Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2]   Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2000), Tiến bộ xã hội: Một số vấn đề lí luận cấp bách, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

[3]   Ngô Văn Dụ, Hồng Hà (2006), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Nghij quyết Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4]   Đảng Cộng sản Việt  Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5]   Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),   Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

[6]   V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

[7]   C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[8]   Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.1,4,9,12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[9]   Tổng cục Thống kê (2018), Niên giám thống kê Việt Nam năm 2017, Nxb Thống kê, Hà Nội.

[10]  http://www.gso.gov.vn, truy cập ngày 15-3-2019

[11]  http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/anh- chinh/item/2892-doi-moi-quan-ly-nha-nuoc- ve-kinh-te-thich-ung-voi-hoi-nhap-quoc-te-va- cach-mang-cong-nghiep-40.html

[12]  http://www.brandsvietnam.com/17031-32- nam-doi-moi-Viet-Nam-lot-Top-50-nen-kinh- te-the-gioi, truy cập ngày 15-3-2019

 

Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 – 2020

 

Pháp Luật An Sinh Xã Hội Ở Việt Nam

Thực trạng pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam

Ở nước ta, vấn đề an sinh xã hội được đặt ra từ rất sớm. Là một nước chủ yếu là nông nghiệp, nền kinh tế còn chưa phát triển, lại thường phải gánh chịu nhiều thiên tai, địch hoạ nên mầm mống về an sinh xã hội đã có trong các câu ca dao như: “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, hoặc “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… các câu thành ngữ ấy đã thể hiện tính cộng đồng ở nước ta; góp phần điều chỉnh các hành vi trong xã hội về các hoạt động mang nội dung an sinh xã hội và dần dần được Nhà nước (kể từ thời phong kiến cho đến nay) xây dựng thành các chính sách.

Nguồn tài chính để thực hiện an sinh xã hội chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước, sự đóng góp của người dân là rất ít. Với cơ chế điều hành theo kiểu hành chính, mệnh lệnh đã dẫn đến là Nhà nước không phát huy được những nguồn lực cho hoạt động an sinh xã hội. Về phía xã hội thì lãng phí nguồn lực nhưng phân phối lại mang tính bình quân. Còn về phía người lao động thì hoàn toàn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Đến khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện đường lối đổi mới, đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các hoạt động an sinh xã hội mới có sự thay đổi về cơ bản.

Giai đoạn 1986 đến nay, cũng như các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường ở Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế – xã hội năng động hơn, đa dạng và phong phú hơn. Người dân có nhiều cơ hội, điều kiện hơn để phát huy tiềm năng sức sáng tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động xã hội. Mặt khác kinh tế thị trường cũng đặt ra nhiều thách thức như: Phá sản, thất nghiệp là những nguy cơ luôn tiềm ẩn các tệ nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo là điều khó tránh khỏi… Những rủi ro này làm tăng nhu cầu về an sinh xã hội của người dân. Đặc trưng cơ bản của an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn này là đã có sự chuyển giao dần “công việc” từ Nhà nước sang cho xã hội, cho cộng đồng.

Nổi bật nhất trong các bộ phận an sinh xã hội của Việt Nam đó là BHXH. Đây là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội nhằm góp phần ổn định đời sống người lao động và gia đình họ trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hết tuổi lao động, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Nếu như trước đây, đối tượng BHXH ở nước ta chỉ bó hẹp trong phạm vi công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang; tài chính BHXH chủ yếu là do ngân sách Nhà nước đảm nhận thì đến nay:

– Đối tượng tham gia BHXH mang tính xã hội rộng lớn, được áp dụng đối với mọi người lao động trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế số người tham gia BHXH không ngừng tăng lên hàng năm. Năm 1995, có 2,85 triệu người tham gia BHXH thì đến cuối năm 2003 là 5,24 triệu người.

– Hình thành được hệ thống BHXH Việt Nam thống nhất từ Trung ương xuống địa phương. Với hệ thống tổ chức này, lần đầu tiên việc thực hiện các nhiệm vụ thu BHXH chi trả cho các đối tượng, xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH đã được tập trung vào một đầu mối. Về thực hiện chế độ, nếu tính cả 8 năm qua, BHXH đã giải quyết cho 1.055 triệu người nghỉ hưu và trợ cấp BHXH một lần, bình quân mỗi năm tăng 40 vạn người, bằng khoảng 1% nguồn lao động xã hội. Trong khi đó, các đối tượng được hưởng trợ cấp lại đều chưa có tài khoản cá nhân, phương thức chi trả chủ yếu là chi trực tiếp.

– Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước. Với mức đóng góp 5% của người lao động và 15% của người sử dụng lao động theo Điều lệ BHXH đã làm cho quỹ BHXH hình thành trên thực tế và trở thành quỹ tài chính độc lập với ngân sách Nhà nước. Như vậy, các quan hệ tài chính trong BHXH đã được thể hiện rõ ràng các nguồn thu và các khoản chi BHXH đã được cân đối một cách tổng thể. Sự đóng góp BHXH của các bên còn thể hiện quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong BHXH.

– Việc tổ chức BHXH được tập trung thống nhất và phân định rõ chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH và cơ quan quản lý sự nghiệp BHXH. Sự quản lý quỹ BHXH tập trung thống nhất đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với người lao động, nâng cao trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho người lao động của cơ quan BHXH và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về BHXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

– Việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo cơ chế mới dựa trên nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các quyền lợi về BHXH. Nguyên tắc này đã làm thay đổi một cách cơ bản nhận thức của hàng triệu lao động và người sử dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH, làm cho chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, bảo đảm sự công bằng những người lao động và người sử dụng lao động về nghĩa vụ BHXH.

– Nhìn chung, chính sách BHXH hiện hành đã góp phần tích cực vào việc làm lành mạnh hóa thị trường lao động ở nước ta, góp phần thực hiện bình đẳng xã hội và ổn định xã hội.

– BHYT được triển khai ở nước ta đến nay được 12 năm. Mặc dù những năm đầu còn gặp rất nhiều khó khăn, song từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 58/1998/NĐ-CP kèm theo Điều lệ BHYT mới, công tác quản lý và tổ chức thực hiện chính sách BHYT từ Trung ương đến các địa phương đã đi vào nền nếp. BHYT với bản chất nhân văn, có tính cộng đồng cao đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân. Số người tham gia BHYT liên tục tăng qua các năm, kể cả BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện. Nếu như năm 1993 (năm đầu triển khai BHYT) chỉ có 3,8 triệu người tham gia, số thu đạt 111 tỷ đồng, thì đến năm 2003, số người tham gia đã lên tới 16,8 triệu người, chiếm 21% dân số cả nước.

Bên cạnh đó, chế độ BHXH hiện hành đang đặt ra một số vấn đề cần có giải pháp phù hợp. Đó là:

– Đối tượng tham gia BHXH còn rất hẹp. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam hiện nay thì cả nước có khoảng 39 triệu lao động, trong đó có khoảng 9 triệu lao động có quan hệ lao động nhưng mới có khoảng 6 triệu người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc (chiếm khoảng 14% lực lượng lao động xã hội). Trong số đó, chỉ có khoảng 4,4 triệu người đóng BHXH mà chủ yếu là lao động thuộc khu vực Nhà nước, số lao động làm việc ở các cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh (kể cả liên doanh) tham gia BHXH còn thấp, khoảng gần 5.000 doanh nghiệp với số lượng người lao động khoảng gần 400.000 người, con số này chỉ chiếm khoảng 20% tổng số lao động ngoài quốc doanh thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Như vậy, còn lại một số lượng lớn lao động chưa được tham gia BHXH, đặc biệt là trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… ngoài quốc doanh.

– Số tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động từ trước đến nay còn rất lớn làm ảnh hưởng tới việc giải quyết quyền lợi của người lao động. Tính đến năm 2001 ước tính thất thu khoảng hơn 300 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là chưa có giải pháp tích cực chống thất thu, chế tài chưa đủ mạnh để buộc người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ.

– Mức đóng BHXH hiện nay còn thấp, nếu giữ nguyên tỷ lệ 20% thì có khả năng bị hụt quỹ trong tương lai.

– Trong các chế độ BHXH hiện hành còn chưa có chế độ bảo hiểm thất nghiệp, trong khi thị trường lao động biến động, khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp tăng, người lao động mất việc làm chưa được hưởng hỗ trợ cần thiết…

– Về chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp: cách xác định tai nạn lao động theo như quy định hiện nay là chưa rõ ràng, đặc biệt trường hợp tai nạn lao động trên đường đi từ nhà ở đến nơi làm việc và ngược lại rất khó xác định. Đây là vấn đề gây bất cập nhất, có khả năng phát sinh tiêu cực trong việc thực hiện chế độ trợ cấp này. Một điểm hạn chế nữa là việc trả trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp dựa trên tiền lương tối thiểu là chưa phù hợp với nguyên tắc đóng – hưởng BHXH.

– Loại hình BHYT tự nguyện hiện nay tuy số người tham gia tăng nhanh, song mức phí phải đóng lại quá thấp (chủ yếu tập trung ở mức từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng/người/năm), trong khi đó giá thuốc, giá viện phí lại có xu hướng tăng lên đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khám chữa bệnh.

Về ưu đãi xã hội

Kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay, Đảng và nhân dân đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách ưu đãi đối với người có công và đạt được những thành tựu to lớn. Chính sách ưu đãi người có công không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội qua từng thời kỳ. Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác thương binh, liệt sỹ và người có công có bước phát triển mới về chất, đó là việc ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với nước, cùng với hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi được ban hành có tác dụng to lớn sâu rộng về chính trị, xã hội được toàn dân hưởng ứng. “Pháp luật ưu đãi người có công đã được xây dựng hoàn thiện từ thấp tới cao và gần đây nhất là Pháp lệnh ưu đãi người có công, là một bước tiến dài trong việc pháp điển hoá pháp luật, đáp ứng đòi hỏi tất yếu của cuộc sống, kế thừa những mặt hợp lý, xây dựng những quy phạm pháp luật mới trở thành công cụ quản lý của Nhà nước, góp phần ổn định chính trị – xã hội”.1

Ưu đãi xã hội đối với người có công bước đầu đã bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công khai, công bằng xã hội. Người có công được chăm lo, đền đáp, đền ơn trả nghĩa, người cống hiến hy sinh nhiều được chăm lo ưu đãi nhiều hơn. Họ được ưu tiên, ưu đãi trong giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm ngoài ra những trường hợp như thương binh nặng, thân nhân liệt sỹ, bà mẹ Việt Nam anh hùng được ưu tiên về nhà ở, đất ở, được chăm lo, phụng dưỡng về vật chất và tinh thần của địa phương và các đoàn thể xã hội.

Theo thống kê qua việc tổng kết cuộc cách mạng chính trị của Bộ chính trị – Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam có: “1,1 triệu người chiến đấu hy sinh, 600.000 thương binh, 300.000 người mất tích trong chiến đấu; 2 triệu người dân bị giết hại; 2 triệu người bị tàn tật; 2 triệu người bị nhiễm chất độc hoá học; 500.000 trẻ em bị dị dạng”.2

Những năm qua, việc thực hiện chế độ trợ cấp ưu đãi người có công đã đạt được kết quả tích cực. Đã chi trả chế độ trợ cấp một lần cho khoảng 3 triệu người hoạt động kháng chiến được Nhà nước khen tặng Huân, Huy chương tổng kết thành tích kháng chiến. Hoàn thành trả trợ cấp ưu đãi một lần cho khoảng 4 triệu người và khoảng 1,5 triệu thương binh, thân nhân liệt sỹ, lão thành cách mạng, Bà mẹ Việt Nam anh hùng… tiếp tục hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng.3 Theo số liệu thống kê từ Bộ Lao động Thương binh – Xã hội, từ năm 1996 – 2002 ngân sách Nhà nước đã chi trả trợ cấp một lần và hàng tháng cho những người có công với cách mạng, chi cho công tác qui tập mộ liệt sỹ, tu bổ nghĩa trang, nuôi dưỡng thương bệnh binh, trợ cấp cho cán bộ đi các chiến trường B,C,K với tổng số tiền lên tới: 14.361 tỷ đồng.

Pháp lệnh sau 8 năm thực hiện, mặc dù có một ý nghĩa và vai trò to lớn trong đời sống xã hội nhưng cũng đã bộc lộ một số mặt hạn chế. Pháp lệnh chưa ghi nhận đầy đủ đối tượng hưởng chế độ ưu đãi xã hội. So với điều kiện, tiêu chuẩn, xác nhận đối tượng người có công và so sánh ngay với điều kiện, tiêu chuẩn, xác nhận đối tượng cụ thể, chúng ta thấy có những đối tượng là người có công thực thụ lại không thuộc diện hưởng chế độ ưu đãi qui định ở Pháp lệnh này. Một số quy định ở Pháp lệnh về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công thể hiện chung chung, thiếu tính cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng, đôi khi còn trừu tượng; chế độ ưu đãi về trợ cấp qui định ở Pháp lệnh có nhiều yếu tố chưa phù hợp. Các khoản trợ cấp, phụ cấp và các khoản chi khác cho người có công được tính tương ứng với tiền lương. Vấn đề cơ bản là chế độ trợ cấp ưu đãi chưa bóc tách khỏi chế độ tiền lương, chế độ BHXH. Có loại trợ cấp qui định bất hợp lý.

Tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi, kéo theo nhu cầu điều chỉnh của pháp luật ưu đãi xã hội, đặc biệt Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng, cương lĩnh phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nêu lên mục tiêu “Ưu đãi xã hội phải phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội” thì vấn đề sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng là một tất yếu khách quan.

Cứu trợ xã hội Trong những năm qua đi cùng với quá trình đổi mới đất nước, xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa… chúng ta đã thu được những thành quả lớn về kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, nước ta là nước nghèo, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai (bão lụt, hạn hán…) thường xuyên xảy ra gây thiệt hại không nhỏ về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và điều kiện phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội. Mặt trái của kinh tế thị trường: phân hoá giàu nghèo, chạy theo lối sống thực dụng suy giảm đạo đức, lối sống, thất nghiệp… đang là những nguyên nhân làm tăng đối tượng xã hội: Người già cô đơn, người lang thang, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tệ nạn xã hội… Đây là nhóm đối tượng cần có sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần của Nhà nước và xã hội. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoạt động này (chỉ tính riêng năm 2000) là 648,8 tỷ đồng và những năm sau đó vẫn tiếp tục tăng. Riêng hai năm 2000 – 2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800 nghìn người lao động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được tập trung cải tạo và dạy nghề giúp họ trở lại con đường làm ăn lương thiện.

Với mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội” chúng ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y tế, giáo dục, nước sạch.. do vậy đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân, trong đó có nhóm người yếu thế đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát triển phúc lợi xã hội một loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực hiện như: chính sách cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cụ thể là một hệ thống văn bản pháp quy đã được xây dựng như: Pháp lệnh người tàn tật được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 30/7/1998, Pháp lệnh người cao tuổi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28/4/2000, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội… Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia đình mất nhà, mất tài sản, phương tiện sản xuất, thiếu đói… đều có chính sách trợ giúp của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, người tàn tật nặng không có nguồn nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm… và đặc biệt thường xuyên nhận được sự chăm sóc của cộng đồng xã hội. Hệ thống chính sách đã thể hiện sự bình đẳng, công bằng xã hội.

Tuy nhiên, các qui định về cứu trợ xã hội cũng còn có những hạn chế nhất định như: Số đối tượng được hưởng chính sách cứu trợ còn quá ít, cá biệt vẫn còn có tỉnh chưa thực hiện trợ cấp cứu trợ xã hội xã, phường hoặc chưa nâng mức trợ cấp theo qui định tại Nghị định số 07/2000/NĐ-CP. Công tác xây dựng và bảo vệ kế hoạch ngân sách địa phương cho công tác cứu trợ xã hội còn yếu, nhiều Sở Lao động – Thương binh và Xã hội không quan tâm đến mục chi ngân sách này. Trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý của cán bộ còn hạn chế, nhất là đối với số cán bộ cơ sở (cấp huyện, xã). Công tác quản lý, điều tra thống kê đối tượng đã được quan tâm chỉ đạo, nhưng do thiếu cán bộ, phương tiện và kinh phí nên làm chưa thường xuyên và đầy đủ. Hệ thống văn bản hướng dẫn đôi khi còn chậm, nội dung còn có điểm chồng chéo. Công tác thanh tra, kiểm tra đã được tiến hành nhưng chưa triệt để…

Một số ý kiến đóng góp

An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Để chính sách này đảm bảo tốt hơn đời sống cho người dân, góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam là hết sức cần thiết.

Thứ nhất, về nguyên tắc luật an sinh xã hội phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau đây: Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được hưởng an sinh xã hội; Nhà nước thống nhất quản ý vấn đề an sinh xã hội; kết hợp hài hoà giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; bình đẳng, dân chủ, công khai và công bằng xã hội; nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” kết hợp với “lấy số đông bù số ít”; đa dạng hoá, xã hội hoá các hoạt động an sinh xã hội.

Thứ hai, về mặt văn bản pháp luật: Tiếp tục đẩy mạnh tiến độ xây dựng, rà soát văn bản. Bám sát chủ trương của Đảng, định hướng phát triển kinh tế, xã hội, hình thành khung chính sách, xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện cho đồng bộ; cần phải có một quy định chặt chẽ, nghiêm minh để xử lý những người có hành vi vi phạm đến chính sách an sinh xã hội; cần phải có qui định trong việc giải quyết tranh chấp về an sinh xã hội; trong tương lai chúng ta nên xây dựng một chính sách tổng thể cho vấn đề an sinh xã hội và thể hiện chính sách đó trong một đạo luật về an sinh xã hội, hơn là đưa ra các chính sách đơn lẻ cho từng mảng nhỏ của an sinh xã hội và giải quyết từng mảng nhỏ đó trong từng đạo luật hạn chế.4

Thứ ba, về cơ chế thực hiện: Cơ chế thực hiện pháp luật nói chung và an sinh xã hội nói riêng đòi hỏi hệ thống pháp luật xây dựng trên cơ sở phù hợp với thực tiễn. Khi pháp luật an sinh xã hội còn nhiều vấn đề cần giải quyết thì cần phải tập trung nghiên cứu hoàn thiện những vấn đề sau đây:

Về cứu trợ xã hội:* Cần phải mở rộng hình thức giúp đỡ đối tượng hưởng trợ cấp cứu trợ thường xuyên như có chính sách khuyến khích động viên các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện xã hội hoá công tác cứu trợ xã hội. * Mức cứu trợ hàng tháng cho các đối tượng còn thấp trong khi trượt giá năm sau cao hơn năm trước, do vậy cần phải có cách tính để ổn định cuộc sống cho họ. * Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra. * Cần phải rà soát, giảm bớt những thủ tục hành chính đối với đối tượng khi được nhận trợ cấp xã hội. * Cần phải đẩy mạnh công tác quản lý nắm chắc đối tượng tại cơ sở: lập sổ quản lý đối tượng tại xã, phường, định kỳ 6 tháng, 1 năm, rà soát danh sách và tổng hợp báo cáo.

Để đáp ứng yêu cầu của đất nước, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội phải trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu lập pháp đã đạt được cũng như điều chỉnh các quan hệ mới theo điều kiện thực tế là rất cần thiết. An sinh xã hội là nhu cầu thiết yếu của con người. Xã hội càng phát triển, đời sống của người dân nói chung và đối tượng “yếu thế” nói riêng càng được tăng lên. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang có những bước phát triển vượt bậc, tuy nhiên, tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng có nguy cơ gia tăng. Hệ thống an sinh xã hội còn hẹp (nhất là đối với khu vực phi chính thức), nguồn lực đầu tư cho trợ giúp xã hội còn quá ít trong đó đối tượng, phạm vi cần được sự bảo trợ của xã hội lại quá lớn. Vì vậy, hệ thống an sinh xã hội cũng có sự thay đổi theo xu hướng phát triển chung thì mới có thể phù hợp. Để có được một hệ thống an sinh xã hội phát triển, đủ sức chống đỡ với các rủi ro xã hội không chỉ là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia mà còn là sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế.

Chính Sách An Sinh Xã Hội Ở Việt Nam

Thứ ba, 21 Tháng 11 2017 11:17

1. Quan niệm về an sinh xã hội tại Việt Nam

Một số tác giả cho rằng “an sinh xã hội” chủ yếu là “bảo hiểm xã hội”(2) và có thể được hiểu là “sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”(3).

(2) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro về sức khỏe khi ốm đau, tai nạn, tuổi già và khi bị thất nghiệp thông qua các hình thức, cơ chế bảo hiểm xã hội để bù đắp một phần thu nhập bị mất hoặc bị suy giảm.

Mô hình chính sách an sinh xã hội theo vòng đời

3. Thực trạng chính sách an sinh xã hội

Các văn bản chính sách. Hiện nay, Việt Nam có 146 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội (1997-2013) ( . Trong đó, văn bản thuộc “Nhóm chính sách hỗ trợ giáo dục tối thiểu” – Quyết định 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23-12-1997 của Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập, là chính sách an sinh xã hội được ban hành sớm nhất và hiện nay vẫn đang áp dụng. Các văn bản chính sách an sinh xã hội không được ban hành đồng đều trong các năm: giai đoạn 1997-2005 có 11 văn bản, nhưng năm 1999, 2001 và 2003 không có văn bản nào. Còn lại 135 văn bản được ban hành năm 2006-2013, trung bình mỗi năm ban hành 16-17 văn bản (Riêng năm 2013 ban hành nhiều nhất với 31 văn bản).

Các nhóm nội dung chính sách an sinh xã hội.Trong 146 văn bản, có hai văn bản chính sách về an sinh xã hội chung là Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 1-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết 70/NQ-CP của Chính phủ ngày 1-11-2012 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15/NQ/TW. Còn lại 144 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội được chia thành bốn nhóm chính sách an sinh xã hội, cụ thể:

Chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn với 18 văn bản hiện hành (2000-2013) và được chia thành hai nhóm nhỏ: trợ giúp xã hội gồm 16 văn bản chính sách hiện hành(2000-2013) và hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị trường gồm 2 văn bản chính sách hiện hành (2010-2011);

An sinh xã hội theo nghĩa hẹp, bao gồm các khoản trợ cấp(11): Các khoản trợ cấp bằng tiền gồm phúc lợi trợ cấp bằng tiền hàng tháng, trợ cấp đột xuất trong trường hợp thảm họa, thiên tai; trợ cấp cho người có thu nhập thấp; trợ cấp tiền điện (từ năm 2011); Phúc lợi bảo hiểm xã hội bao gồm lương hưu trong đó có lương hưu cho những người nghỉ hưu trước tháng 7-1995 (do ngân sách nhà nước chi trả) và lương hưu cho những người nghỉ hưu sau tháng 5-1995 (do Bảo hiểm Việt Nam chi trả); Trợ cấp cho người có công với cách mạng; Hỗ trợ công chức làm việc tại các vùng khó khăn, hỗ trợ xây dựng công trình ngăn lũ, tái định cư các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số (kể từ năm 2009); hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực nông thôn (kể từ 2009); trợ cấp cho các xã biên giới với Lào và Campuchia (từ 2009); hỗ trợ xây dựng nông thôn mới (từ 2010), hỗ trợ sản xuất, nuôi trồng thủy sản ở hải đảo (từ 2010).

Hệ thống an sinh xã hội được xây dựng nhằm vào các mục tiêu như giúp người dân giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, phòng chống các rủi ro và góp phần thúc đẩy phát triển(14). Do vậy, để có thể đánh giá đầy đủ, khách quan và chính xác chất lượng và hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội cần nghiên cứu từ góc độ người dân về an sinh xã hội. Câu hỏi đặt ra ở đây là người dân, hộ gia đình thu nhập như thế nào từ an sinh xã hội? Câu hỏi lớn hơn là: An sinh xã hội lũy tiến như thế nào? Câu trả lời mang tính chất giả thuyết và nghịch lý là người dân có thu nhập từ an sinh xã hội với mức giá trị tuyệt đối và tương đối không lớn và không lũy tiến. Dựa vào kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, các nhà nghiên cứu xác định được các thành phần và cấu trúc thu nhập từ an sinh xã hội(15) của các hộ gia đình. Cụ thể, thu nhập bình quân đầu người là 6,1 triệu đồng /năm, trong đó thu nhập từ an sinh xã hội chiếm 4% tương đương với 264 nghìn đồng. Thu nhập từ an sinh xã hội có cấu trúc gồm sáu thành phần (trợ cấp giáo dục, trợ cấp y tế, bảo hiểm xã hội cho người đang làm việc, phúc lợi xã hội và bảo hiểm xã hội – hưu trí). Trong đó, bảo hiểm xã hội – hưu trí chiếm tỷ trọng lớn nhất tới 61,8%, trợ cấp y tế là 22,6%, phúc lợi xã hội là 9,2%, bảo hiểm xã hội cho người đang làm việc chiếm tỷ trọng nhỏ nhất với 1,6%. Điều này cho thấy, chính sách an sinh xã hội đã bỏ rơi nhóm tuổi lao động đang làm việc và đặt trọng tâm quá nặng vào bảo hiểm hưu trí. Theo cấu trúc 3 thành phần của an sinh xã hội vẫn thấy rõ các hộ gia đình Việt Nam chủ yếu thu nhập từ bảo hiểm xã hội (hưu trí và bảo hiểm hiểm xã hội cho người đang làm việc) với tỷ trọng 63,4%, trợ cấp xã hội y tế, giáo dục 27,4% và phúc lợi xã hội chỉ chiếm 9,2%.

Cả mức thu nhập và tỷ trọng thu nhập từ an sinh xã hội của các hộ gia đình ở thành thị đều cao hơn so với các hộ gia đình ở nông thôn: cụ thể thu nhập từ an sinh xã hội bình quân đầu người /năm ở thành thị là 10,2 triệu đồng, gấp đôi so với 4,7 triệu đồng ở nông thôn; tỷ trọng thu nhập an sinh xã hội ở thành thị là 166%, nhiều gấp đôi so với tỷ trọng 78% ở nông thôn.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2017

(2) Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2013) trích theo Trung tâm Nghiên cứu phát triển: Rà soát chính sách gắn kết xã hội tại Việt Nam, OECD, Development Center, 2014, tr.139.

Hiểu Đúng Về Xã Hội Dân Sự Ở Việt Nam

QĐND – Gần đây vấn đề xã hội dân sự (XHDS) được nhiều cá nhân, tổ chức, nhiều hãng thông tấn, báo chí nước ngoài quan tâm, bàn luận. XHDS được cộng đồng quốc tế xem như một nhân tố của xã hội hiện đại và trên thực tế XHDS cũng không phải xa lạ đối với xã hội ta.

Luật về quyền lập hội của người dân theo Hiến pháp 2013 tuy đến nay chưa có, song quyền đó cũng đã được bảo vệ bằng nhiều đạo luật và nhiều văn bản dưới luật. Theo thống kê chưa đầy đủ, ở nước ta hiện có 380 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố (so với 115 hội vào năm 1990); 18 tổ chức công đoàn ngành, 6.020 tổ chức ở cấp địa phương và hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực xã hội.

Xã hội dân sự, nói chính xác là các tổ chức XHDS đóng vai trò xây dựng cộng đồng, trợ giúp Nhà nước. Tổ chức XHDS tồn tại không chỉ trong xã hội tư bản mà cả trong chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam XHDS thấm nhuần về mặt văn hóa cộng đồng, tính đoàn kết, tương trợ và tính đồng thuận xã hội. Tổ chức XHDS có thể đóng vai trò tích cực, là người phản biện đối với chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách ôn hòa và có trách nhiệm. Song, thực tế ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng cho thấy, tổ chức XHDS, bao gồm cả các đảng chính trị (không nằm trong hệ thống chính trị Nhà nước) cũng có thể trở thành lực lượng đối kháng với Nhà nước, là nòng cốt cho những cuộc bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội, thậm chí có thể kết nối với các thế lực thù địch bên ngoài gây chiến tranh, làm tổn hại đến độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

Gần đây, trong các cuộc chính biến ở Trung Đông, Bắc Phi vào cuối năm 2010, mở đầu từ Tuy-ni-di, lan sang Ai Cập, Y-ê-men, Li-bi đến Xi-ry đã thấy rõ vai trò đòn bẩy của các tổ chức phi chính phủ (NGOs) Mỹ và phương Tây. Các đài phát thanh, các kênh truyền hình, cùng với các tổ chức chính trị xã hội đối lập trong nước đã kích động, dẫn dắt những cuộc biểu tình đường phố trở thành làn sóng bạo động, lật đổ chính phủ. Gần đây những sự kiện diễn ra ở U-crai-na, các đảng chính trị, thực chất là các tổ chức XHDS cũng giữ vai trò xung kích. Theo thống kê chưa đầy đủ, ở U-crai-na có tới 180 đảng chính trị. Khi những cuộc biểu tình dẫn đến bạo lực, ngay cả đối với những người phát động nó cũng không thể kiểm soát được tình hình. Những tổ chức phát-xít, tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, theo trào lưu này đã ra đời, dẫn dắt phong trào quần chúng.

Tất nhiên, như người ta thường nói: “Mọi sự so sánh đều khập khiễng”. Ở U-crai-na, có những điểm khác so với Trung Đông, Bắc Phi, thay vì các tổ chức XHDS là các đảng chính trị; thay vì đòi lật đổ chính phủ độc tài, tham nhũng, ở đây người ta đòi lật đổ Tổng thống và Chính phủ vì muốn tăng cường quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên, ở các nước, tổ chức, thủ đoạn chính trị, khẩu hiệu và phương thức đấu tranh của các tổ chức XHDS gần như giống nhau: Về tổ chức, các tổ chức XHDS (về chính trị) thường được tạo dựng bởi những nhân vật có quan điểm chính trị đối lập, những người “bất đồng chính kiến” được gọi là “ngọn cờ”. Về thủ đoạn chính trị, các tổ chức XHDS thường dựa vào cơ sở pháp lý quốc gia và quốc tế. Về khẩu hiệu và phương thức hoạt động, các tổ chức XHDS thường tuyên bố mục tiêu của họ là vì quyền lợi của người dân, vì sự tiến bộ của xã hội và chỉ hoạt động “ôn hòa”, “bất bạo động”. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của họ luôn hướng vào mục tiêu làm xói mòn uy tín, công kích vào chế độ xã hội và Đảng cầm quyền. Đồng thời họ tuyên truyền các quan điểm dân chủ nhân quyền của phương Tây, bất chấp các đặc thù về truyền thống lịch sử, văn hóa và hoàn cảnh chính trị và pháp luật quốc gia.

Những năm gần đây, các thế lực thù địch cũng tìm mọi cách thúc đẩy hình thành thể chế “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam, mà tiền đề là hình thành các tổ chức XHDS chính trị.

Phương thức hoạt động trước hết họ là lợi dụng quy định của Hiến pháp, các công ước quốc tế về quyền con người thu hút người tham gia, đăng tải bài viết, cổ vũ, thành lập nhóm sáng lập hội, đoàn, đồng thời cổ vũ cho các hoạt động mạng tính “ôn hòa, bất bạo động”. Hiện nay, trên các diễn đàn mạng, họ tập trung đòi quyền tự do ngôn luận, báo chí, đặc biệt là tự do internet, nhằm phát triển tổ chức và phổ cập quan điểm dân chủ, nhân quyền phương Tây. Họ đã cường điệu những sai lầm, khuyết điểm của Đảng, Nhà nước; bôi nhọ, vu cáo nhiều cán bộ lãnh đạo cơ quan, tổ chức, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật, hòng làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội XHCN.

Mặc dù luật về quyền lập hội theo Hiến pháp 2013 đang trong quá trình xây dựng, song trên thực tế quyền này đã được bảo đảm ở Việt Nam. Nhiều tổ chức XHDS tự nguyện, tự chủ về mọi mặt đã ra đời và có đóng góp tích cực trên các lĩnh vực xã hội, nhất là về nhân đạo, từ thiện, an sinh xã hội. Nhiều tổ chức phi chính phủ nước ngoài cũng đã có mặt tại Việt Nam. Những tổ chức này không chỉ được thừa nhận mà còn được Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ. Theo thống kê, công bố tại Hội nghị quốc tế về hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (trong 2 ngày 28 và 29-11-2013 tại Hà Nội) số lượng các tổ chức phi chính phủ quốc tế có quan hệ với Việt Nam lên đến 990 tổ chức vào năm 2013.

Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đối với các tổ chức XHDS là minh bạch, rõ ràng: Tôn trọng và trân trọng mọi tổ chức xã hội tự nguyện hướng vào mục tiêu xây dựng xã hội ta trở thành một xã hội văn minh, trong đó các quyền con người và quyền công dân được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Không phủ nhận rằng, Nhà nước ta, xã hội ta còn những khiyếm khuyết, song thực tế cũng cho thấy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nhận ra và quyết tâm khắc phục những sai lầm khuyết điểm đó. Bởi vậy, chúng ta không chấp nhận bất cứ ai-cá nhân hay nhóm xã hội nào, giai tầng nào mưu toan lợi dụng quyền được thành lập và hoạt động của cái gọi là XHDS để nhằm mục đích giành quyền lực hay vì quyền lực nhà nước, xóa bỏ chế độ chính trị, tước đoạt thành quả cơ bản của cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua.

ĐỨC THÀNH (1) – Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG, HN, 2011, Tr 87

Cập nhật thông tin chi tiết về Tiến Bộ Xã Hội Ở Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!