Xu Hướng 12/2023 # Tăng Cường Năng Lực Hội Nhập Quốc Tế Lĩnh Vực Môi Trường # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tăng Cường Năng Lực Hội Nhập Quốc Tế Lĩnh Vực Môi Trường được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thách thức từ hội nhập quốc tế lĩnh vực môi trường

Chỉ rõ những thách thức của Việt Nam trong hội nhập quốc tế lĩnh vực môi trường, ông Hoàng Văn Thức – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cho rằng, về phía các cơ quan quản lý Nhà nước, năng lực đội ngũ cán bộ tham gia công tác hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về môi trường nói riêng chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế của quá trình hội nhập; làm ảnh hưởng đến việc thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã tham gia là thành viên; đồng thời làm giảm tính tích cực, chủ động của Việt Nam khi tham gia, đóng góp trong các hoạt động và sự kiện quốc tế. Bên cạnh đó, hạn chế về nguồn lực đầu tư cho các hoạt động hội nhập quốc tế; xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ công tác quản lý, thực thi các cam kết và nghĩa vụ về môi trường…

“Khối doanh nghiệp tư nhân đang gặp phải khó khăn và rủi ro nhất định trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao về môi trường ở các thị trường quốc tế trong quá trình xuất khẩu hàng hóa” – ông Thức chia sẻ về các khó khăn của các doanh nghiệp tư nhân; đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải tháo gỡ các khó khăn, tăng cường năng lực hội nhập quốc tế về môi trường.

Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực môi trường

Theo đề xuất của Tổng cục Môi trường, Đề án “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực môi trường” được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi hội nhập quốc tế sâu, rộng hiện nay và xu thế hội nhập quốc tế trong tương lai, đóng góp cho bảo vệ môi trường và hội nhập về kinh tế, hướng tới phát triển bền vững đất nước.

Với ý nghĩa tích cực đó, Đề án “Tăng cường năng lực hội nhập quốc tế lĩnh vực môi trường” được xây dựng trên cơ sở quán triệt chủ trương, đường lối và định hướng về hội nhập quốc tế và bảo vệ môi trường của Đảng và Nhà nước. Đề án sẽ đưa ra những giải pháp có tính toàn diện nhằm tăng cường năng lực hội nhập quốc tế về môi trường cho cơ quan quản lý các cấp, doanh nghiệp và người dân; đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nghĩa vụ về môi trường đã cam kết trong các khuôn khổ quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Nhất trí cao với vai trò và tầm quan trọng của Đề án, phát biểu hoàn thiện nội dung  Đề án, các đơn vị tham dự đề nghị chú trọng vào việc tăng cường năng lực thể chế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực môi trường; có cơ chế khuyến khích các chuyên gia trong và ngoài nước; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; quan tâm thu hút khối tư nhân tham gia chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực môi trường…

Phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp, Thứ trưởng Lê Công Thành cho rằng, trong thời gian qua, hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường nói riêng đã góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam với vai trò là một thành viên tích cực, có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế; đồng thời mang lại những lợi ích về nhiều mặt cho đất nước.

Ngày nay, việc hội nhập này tiếp tục diễn biến theo theo xu thế sâu hơn về nội dung và mức độ, rộng hơn về phạm vi và hình thức. Thứ trưởng cho rằng, đây cũng vừa là cơ hội, tiềm năng; nhưng cũng vừa là thách thức đối với nước ta, do vậy việc chủ động xây dựng và triển khai một chương trình tổng thể, toàn diện nâng cao năng lực hội nhập quốc tế đối với các lĩnh vực tài nguyên và môi trường, trong đó có lĩnh vực môi trường có vai trò rất quan trọng; không chỉ nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước, mà còn giúp các doanh nghiệp phát triển và hội nhập quốc tế.

Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự rằng buộc theo những quy định chung của khối. (Giáo trình Kinh tế quốc tế, trang 235).

Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là sự mở cửa nền kinh tế, đón nhận những luồng gió mới từ bên ngoài vào, kích thích các yếu tố, điều kiện trong nước để phát triển kinh tế. Những cơ hội và thách thức mà hội nhập kinh tế quốctế đem lại cho các quốc gia thành viên của nó là:

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xoá bỏ từng bước, từng phần của rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia.

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện mở rộng thị trường ngoài nước, khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển kinh tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội vươn lên của các quốc gia đang và kém phát triển. Thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế các quốc gia này phát huy tối ưu các lợi thế so sánh của mình đồng thời cũng tiếp nhận công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại trên thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác để phát triển nhưng đồng thời cũng là quá trình đấu tranh rất phức tạp của các quốc gia (nhất là các quốc gia chưa phát triển) để bảo vệ lợi ích của mình, chống lại sự áp đặt phi lý của các cường quốc mạnh.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới để nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường.

Các quốc gia dù là cường quốc kinh tế hay kém phát triển nhưng trong xu hướng chung thì đều hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Sự hội nhập đó đem lại cả những thời cơ và thách thức cho những quốc gia này. Quốc gia nào biết nắm lấy thời cơ, tận dụng thời cơ đồng thời biết đương đầu, đối phó với những thách thức thì quốc gia ấy ắt sẽ mạnh.

Thật vậy, khi mà hiện nay nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới có mối liên hệ phụ thuộc ngày càng chặt chẽ thì sự liên kết, hội nhập giữa các quốc gia này là điều hoàn toàn tất yếu. Quá trình đó diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế và sự phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu. Trong thời đại mới này không thể có một quốc gia nào lại tồn tại được nếu không có bất cứ một sự liên hệ nào với thế giới bên ngoài và cũng không có quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà lại không có nhiều sự liên kết hợp tác với các quốc gia khác. Hội nhập là quy luật tất yếu khi lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Chính vì thế, trong thời đại mới này hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu khách quan.

Bàn Về Hội Nhập Quốc Tế

Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới do sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, cũng như các mối liên kết ngày càng chặt chẽ và trao đổi ngày càng mở rộng giữa các quốc gia, các tổ chức và cá nhân trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa diễn ra trước hết và chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế, đặc biệt về thương mại do trong thương mại, tác động qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia diễn ra thường xuyên và rõ nét nhất.

Tuy còn nhiều tranh cãi về nhận thức, song nhiều học giả đã nhất trí cho rằng tính đến nay toàn cầu hóa đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu vào Thế kỷ XV; Giai đoạn thứ hai bắt đầu khoảng 400 năm trước. Chúng ta đang sống trong Giai đoạn thứ ba manh nha từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và phát triển đậm nét từ những năm 1970 với những đặc điểm sau: 1) cách mạng khoa học – công nghệ bùng nổ với những thành tựu kỳ diệu, đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh và mạnh; 2) từ những năm cuối thế kỷ XX xuất hiện nhiều vấn đề lớn toàn cầu, trở thành những vấn đề an ninh phi truyền thống – như an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, suy thoái môi trường… mà bất cứ một nước đơn lẻ nào, dù mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết được nếu không có sự gắn kết, hợp tác giữa các quốc gia.

Do đó, toàn cầu hóa là một hiện tượng khách quan, một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển cũng như quan hệ quốc tế của các quốc gia, mang lại cả cơ hội lẫn thách thức, cả tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực. Chính sự phát triển của toàn cầu hóa đã đặt các quốc gia, bất kể giàu hay nghèo, lớn hay nhỏ trước yêu cầu phải hội nhập quốc tế để tranh thủ điều kiện cho phát triển. Vì vậy, có thể nói toàn cầu hóa là căn cứ của hội nhập, và hội nhập là phương tiện để các quốc gia giành cơ hội cho sự phát triển của chính mình và góp phần vào sự phát triển của cộng đồng. Có lẽ vì thế đầu năm 1999, Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos đã khẳng định toàn cầu hóa không chỉ là “xu thế” mà đã là một “thực tế” trong đời sống quốc tế.

Không mấy ai hiểu đầy đủ khái niệm hội nhập quốc tế. Tranh luận vẫn tiếp diễn với ba cách tiếp cận khác nhau: cách thứ nhất theo chủ nghĩa liên bang, tức là xem hội nhập là sản phẩm cuối cùng chứ không phải là một quá trình, với quan tâm chủ yếu dành cho thể chế; cách tiếp cận thứ hai thể hiện ở sự liên kết giữa các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, thư tín, thông tin, du lịch, đào tạo… trong một cộng đồng an ninh hợp nhất như Hoa Kỳ, hay cộng đồng an ninh đa nguyên như Liên minh châu Âu (EU); và cách tiếp cận thứ ba xem hội nhập dưới góc độ là hành vi mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác giữa các chủ thể với nhau.

Hội nhập quốc tế – cơ hội, đi kèm thách thức

Hội nhập quốc tế diễn ra không chỉ trên cấp độ toàn cầu, mà còn ở nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao dưới danh nghĩa “liên kết” hoặc “nhất thể hóa” như liên kết tiểu khu vực, liên kết khu vực, liên kết liên khu vực, liên kết liên châu lục, liên kết trên bình diện song phương hoặc đa phương. Hội nhập quốc tế thực chất là hợp tác nhưng ở trình độ cao hơn, đáp ứng những đòi hỏi chặt chẽ hơn như gắn kết với nhau, chia sẻ với nhau lợi ích, nguồn lực, quyền lực; tuân thủ các quy tắc chung, luật chơi và chuẩn mực chung theo một quá trình phát triển liên tục từ thấp đến cao, với những hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực hoặc từng cơ chế hội nhập. Hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ đó mở rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Cũng có một số trường hợp hội nhập không bắt đầu từ kinh tế, mà bắt đầu từ chính trị hay văn hóa như trường hợp gia nhập LHQ, hay trường hợp Việt Nam gia nhập ASEAN, nhưng trong quá trình phát triển, kinh tế vẫn chiếm vị trí trọng tâm.

Theo những quy tắc nêu trên, thời gian sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện một loạt các tổ chức mang tính liên kết khu vực như: Cộng đồng kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribe và Thị trường chung CARICOM, Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), tổ chức ASEAN… Thực tế cho thấy ngày nay không một quốc gia nào có thể “đơn thương độc mã” trên con đường phát triển. Dù phải chấp hành những quy tắc chung, thậm chí có lúc phải hy sinh một số quyền lợi dân tộc nào đó…, nhưng khu vực nào, quốc gia nào biết tranh thủ những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, tận dụng cơ hội, dám đương đầu kiên quyết với thách thức, phát huy thế mạnh của mình trong tiến trình hội nhập thì sẽ phát triển vượt bậc. Những bước phát triển thần kỳ của “bốn con hổ châu Á” (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hong Kong) là minh chứng cụ thể cho thế giới thấy rằng, chẳng có quốc gia nào trên hành tinh này là không có triển vọng nếu biết khai thác tiến trình hội nhập. Cựu Tổng thư ký LHQ Kofi Annan cũng nhận xét chính xác là, những nước kém phát triển không thực thi hội nhập là “kẻ thua cuộc”, “bị bỏ rơi” trong thế giới bất bình đẳng hôm nay.

Qua thực tiễn diễn ra trên thế giới hội nhập, cũng như toàn cầu hóa vừa có cơ hội, vừa có thách thức, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực nên hội nhập quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa tranh thủ, vừa cạnh tranh, vừa bác bỏ, vừa đề xuất. Tác động tích cực hay cơ hội của hội nhập có thể tóm gọn trong những điểm sau: tạo điều kiện mở rộng thị trường, phát triển thương mại và các quan hệ kinh tế khác, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiến bộ hơn; cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh, trên cơ sở đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và của doanh nghiệp; tăng cường nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ-kỹ thuật; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp từng nước tiếp cận thị trường quốc tế; các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và kinh nghiệm phát triển của thế giới; tiếp thu giá trị văn hóa tiên tiến và các ưu việt của văn minh nhân loại; duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế…

Thách thức diễn ra khá gay gắt: cạnh tranh gia tăng, nếu không có cách khắc phục thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, thậm chí phá sản, nền kinh tế không phát triển được, thậm chí giảm sút; sự phụ thuộc vào thị trường bên ngoài tăng lên, do đó nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của tình hình quốc tế; khoảng cách giàu nghèo mở rộng nếu phân phối không công bằng; đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển, quyền lực nhà nước có thể bị thách thức, bản sắc văn hóa có thể bị xói mòn; chuyển dịch cơ cấu khó khăn ở những nơi tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại…

Các mặt tiêu cực hay bất lợi không tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống của mỗi quốc gia, nhưng gây thiệt hại nhiều hay ít cho chủ thể hội nhập tùy thuộc vào tiềm năng và khả năng đối phó của mỗi nước và suy cho cùng, lợi ích thu được vẫn lớn hơn cái giá phải trả. Điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế lại là sự lựa chọn của hầu hết các quốc gia. Các chuyên gia cho biết, chỉ tính đến năm 2011 đã có hơn 500 hiệp định về mậu dịch khu vực (RTA) được ký kết, hơn 100 liên minh thuế quan được thiết lập. Đặc biệt từ những năm cuối 1990 đến nay, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch tự do song phương và đa phương (BFTA) phát triển mạnh do bế tắc của vòng đàm phán Doha. BFTA có ưu thế là đàm phán không phức tạp lắm, nhanh chóng đạt được kết quả và thực hiện cũng thuận lợi hơn. Xu thế này hiện đang chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi lớn cấu trúc của hệ thống thế giới hiện nay.

Thực tiễn cho thấy hội nhập quốc tế diễn ra chủ yếu trên bốn lĩnh vực chính: hội nhập kinh tế là trọng tâm, là đòn bẩy thúc đẩy các lĩnh vực khác hội nhập; hội nhập trên các lĩnh vực khác lại tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hội nhập kinh tế phát triển và thành công; hội nhập chính trị bằng cách tham gia các tổ chức chính trị sẵn có như việc gia nhập LHQ, hay Việt Nam tham gia ASEAN để hoạt động vì nghĩa vụ quốc tế và nhằm nâng cao vai trò vị thế của quốc gia ở khu vực và trên thế giới; hội nhập an ninh-quốc phòng nhằm góp phần củng cố hòa bình, ổn định cho nước mình và cho khu vực; góp phần bảo vệ Tổ quốc… với nhiều hình thức đa dạng; và hội nhập văn hóa-xã hội là hợp tác để chia sẻ giá trị, giới thiệu bản sắc của đất nước và dân tộc mình, tranh thủ những ưu việt của văn hóa và văn minh nhân loại để làm giàu thêm nền văn hóa của nước mình.

Việt Nam với hội nhập quốc tế

Với tư cách là một thành viên của cộng đồng các quốc gia, Việt Nam không thể đứng ngoài tiến trình phát triển này, không thể không hòa mình vào xu thế chung của thế giới. Tư tưởng hội nhập đến với Việt Nam từ rất sớm. Trong lời kêu gọi LHQ (12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), trong đó khẳng định “đối với các nước dân chủ, VNDCCH sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”, cụ thể là “dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của LHQ”. Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay. Sau khi giành được thắng lợi hoàn toàn, đất nước thống nhất, vượt qua một số năm khó khăn do khủng hoảng kinh tế – xã hội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta tuy lúc đó chưa đề cập đến khái niệm “hội nhập”. Đại hội đã nhận định, “Cách mạng khoa học – kỹ thuật là đặc điểm nổi bật của thời đại”, có vai trò ngày càng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước trong cục diện mới của thế giới, và khẳng định, nếu “đóng cửa hay khép kín nền kinh tế nội địa sẽ là nguy cơ tụt hậu”. Từ đó, Đại hội chủ trương “tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới hợp tác kinh tế và khoa học-kỹ thuật”, tham gia rộng rãi vào sự phân công hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi.

Có thể nói với nhận thức của Đảng ta về tình hình mới và việc để ra chủ trương này, tư duy hội nhập quốc tế đã bắt đầu hình thành. Tư duy này được củng cố thêm bằng quyết định của Đại hội Đảng lần thứ VII “thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, (sau này trong quá trình phát triển chuyển thành “sẵn sàng là bạn” và cuối cùng khẳng định “là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới”). Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, khái niệm “hội nhập” được chính thức đề cập cùng với chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới” hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực. Tăng cường hoạt động ở LHQ, trong Cộng đồng các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác”.

Từ sau Đại hội VII, thực hiện các chủ trương nêu trên song song với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với một loạt nước, ta đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, mở đầu bằng hội nhập khu vực: gia nhập ASEAN và ngay sau đó tham gia AFTA (Liên minh kinh tế ASEAN) năm 1995, tiếp đó hội nhập liên khu vực, liên châu lục thông qua việc tham gia ASEM năm 1996 với tư cách là một thành viên sáng lập và tham gia APEC năm 1998. Đồng thời từ đầu năm 1996, ta đã bắt đầu đàm phán với Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và sau 10 năm đàm phán căng thẳng, ngày 01/01/2007 ta trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức kinh tế toàn cầu này.

Sau khi đã hội nhập ở hai cấp độ (khu vực và liên khu vực), Đại hội IX (2001) đề ra chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” và tháng 11/2011 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Với những thành công đạt được trong việc triển khai Nghị quyết 07-NQ/TW của BCT (khóa IX), Đại hội khóa X tiếp tục khẳng định “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, đồng thời “mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”, nhấn mạnh chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, còn đối với các lĩnh vực khác chỉ mới chủ trương mở rộng hợp tác.

Trong thời gian này trên lĩnh vực đối ngoại, ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với một số nước, đến nay quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đã được thiết lập với 14 nước bao gồm tất cả 5 nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ.

Đến Đại hội XI (2011) khi quan hệ của nước ta với cộng đồng thế giới đã ngày càng mở rộng, ta đã có quan hệ ngoại giao với 181 nước trên thế giới, quan hệ kinh tế thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được những thành tựu nổi bật. Ta đã hội nhập kinh tế ở cấp độ toàn cầu, hợp tác văn hóa – xã hội đã được tăng cường, hợp tác an ninh quốc phòng đã được xác lập và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, ta đã là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng, trên cơ sở đó vị thế quốc tế của nước ta đã được nâng cao trên trường quốc tế, các nước đã thừa nhận ta là một đối tác tin cậy, Đại hội đã đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Tháng 4/2013, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22 về vấn đề này.

Chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã được ghi trong Cương lĩnh sửa đổi năm 2011 và trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013.

Như vậy là qua 18 năm kể từ khi gia nhập ASEAN (1995) đến nay (2013), đi từ hợp tác đến liên kết, hội nhập, từ hội nhập khu vực, liên khu vực đến hội nhập kinh tế toàn cầu, tiến hành từng bước vững chắc cả trong việc đề ra chủ trương lẫn trong thực tiễn hành động, Đảng ta mới đi đến quyết định chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đưa hội nhập của Việt Nam sang một giai đoạn mới – hội nhập toàn diện, hội nhập trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế sâu hơn, hiệu quả hơn, góp phần tích cực và có hiệu quả phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Điều này cho thấy tinh thần vừa sáng tạo, vừa cân nhắc thận trọng, đi từng bước vững chắc trong đề xuất chủ trương cũng như trong hành động thực tiễn thắm đượm bản sắc Việt Nam, đồng thời thể hiện ý chí và quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong chủ trương hội nhập quốc tế. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, hội nhập là một quá trình phấn đấu kiên trì để nước ta trở thành một bộ phận cấu thành có vị trí, có vai trò xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trong các mối quan hệ đa diện, đa dạng và đa tầng nấc với nhiều loại chủ thể khác nhau, vừa quan tâm đúng mức đến lợi ích cộng đồng. Đó cũng là sự vận dụng sáng tạo và thành công bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, bài học đã từng đưa dân tộc ta đến những chiến thắng huy hoàng.

Hội nhập quốc tế trong tình hình thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tuy thành tựu đạt được là rất quan trọng, nhưng ta còn nhiều mặt yếu kém cần khắc phục, nhất là tư duy hội nhập chưa được quán triệt đầy đủ, khả năng cạnh tranh tuy có ít nhiều tiến bộ nhưng còn yếu kém.

Để phát huy thành tựu, khắc phục những tồn tại yếu kém, thực hiện hội nhập có kết quả, khác với thời kỳ trước đây khi ta hội nhập kinh tế quốc tế là chính, nay chuyển sang hội nhập quốc tế toàn diện bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng… với sự tham gia của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, cần có một chiến lược tổng thể, dài hạn trên cơ sở tổng hợp khả năng và yêu cầu của các ngành và các địa phương, xác định lộ trình và cấp độ hội nhập bởi vì trong quá trình triển khai hội nhập, có ngành, có lĩnh vực hay địa phương mới tham gia liên kết khu vực, có ngành, có lĩnh vực đã đi ngay vào hội nhập ở cấp độ toàn cầu. Trên cơ sở có chiến lược dài hơi, có lộ trình thích hợp, ta mới thực hiện được phương châm chủ động và tích cực như yêu cầu của Nghị quyết 22-NQ/TW của BCT.

Hội nhập quốc tế là con đường hai chiều, giống như trong công nghệ thông tin cần có sự tương thích giữa đầu trong và đầu ngoài. Hội nhập không phải là mục tiêu cuối cùng, nó chỉ là phương tiện góp phần quan trọng vào việc bảo đảm mục tiêu tối hậu là lợi ích quốc gia, phát triển và bảo vệ đất nước. Do đó phải thực hiện đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là “hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực”. Do đó trong hội nhập không phải chỉ nghĩ đến việc ta hợp tác cái gì, với ai cho có lợi (tất nhiên trong hội nhập phải tìm những điểm giao thoa về lợi ích giữa ta và đối tác- đối tác có thể ít, có thể nhiều- thì mới thỏa đáng và mới có hiệu quả) mà điều rất quan trọng là phải khắc phục những điểm yếu của ta, làm cho ta mạnh lên. Để củng cố và phát huy tối đa nội lực, ta phải ra sức thực hiện ba khâu đột phá chiến lược đã được nêu tại Đại hội lần thứ XI của Đảng, tức là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển nhanh nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ. Đây cũng chính là một phần quan trọng trong đổi mới tư duy, hình thành tư duy hội nhập.

Ta hội nhập quốc tế trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, một vấn đề chưa có tiền lệ và khác với nhiều nước. Nhưng đã hội nhập, ta phải thực hiện các cam kết quốc tế, phải chấp hành các quy tắc đã định, phải hoạt động trên một sân chơi chung, do đó quá trình hội nhập là một quá trình điều chỉnh luật pháp trên cơ sở thỏa hiệp, có trường hợp phải đấu tranh, để có thể vừa theo quy tắc chung, vừa giữ được nguyên tắc của ta mà không gây thiệt hại cho ta; cũng có trường hợp không có cách nào thỏa hiệp được khi quy tắc chung đi ngược lại nguyên tắc và lợi ích của ta, gây thiệt hại cho ta thì phải tính toán kỹ, cân nhắc, so sánh nếu cái lợi thu hoạch được ở các mặt khác lớn hơn thiệt hại ta phải chịu thì ta có thể chấp nhận. Hội nhập là một xu thế lớn (theo Diễn đàn Davos là một thực tế) khó có ai được lợi 100%, không bị thiệt hại gì, chung cuộc làm sao cái lợi nhiều hơn cái thiệt, lợi càng nhiều càng tốt vì hội nhập là một quá trình như trên đã nói vừa hợp tác, vừa đấu tranh để kiên định lợi ích quốc gia dân tộc. Trong quá trình hội nhập, ta không thể bị động, mà cần phải phát huy sáng kiến, chủ động đề xuất ý kiến để điều chỉnh một số quy tắc đã định trên cơ sở vừa bảo đảm lợi ích của ta, vừa quan tâm, chiếu cố đến lợi ích của Cộng đồng, của các đối tác, các chủ thể hội nhập khác.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, hội nhập quốc tế là hoạt động chứa đựng tất cả những yếu tố chủ yếu của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ độc lập, tự chủ đến rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, từ hòa bình, hữu nghị đến hợp tác và phát triển. Do đó các chủ thể tham gia hội nhập phải nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, vận dụng kiên định đường lối đó trong quá trình hội nhập. Đồng thời cần nắm vững xu thế lớn, xu thế chủ đạo của thời đại là “hòa bình, hợp tác và phát triển” để yên tâm hội nhập, vì hội nhập quốc tế phù hợp với xu thế đó của thời đại.

Vài gợi ý về ngành Ngoại giao trong hội nhập quốc tế

Trong các văn kiện cơ bản của Đảng và Nhà nước như Cương lĩnh (sửa đổi năm 2011), Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013), Nghị quyết của Đại hội Đảng, các văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng, BCT, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ… khi đề cập đến đường lối đối ngoại hay nhiệm vụ đối ngoại đều nhấn mạnh “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, là một bộ phận cấu thành quan trọng của đường lối và nhiệm vụ đối ngoại nói chung.

Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (giữa) trò chuyện với các Đại biểu dự Hội nghị Ngoại giao 26.

Do tính chất quan trọng của Hội nhập quốc tế (toàn diện) nên BCT đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng đứng đầu nhằm chỉ đạo, phối hợp hoạt động hội nhập quốc tế từ trung ương đến địa phương.

Từ trước tới nay, Bộ Ngoại giao là cơ quan chính thực hiện đường lối đối ngoại về mặt nhà nước với hai chức năng chủ yếu: Thứ nhất, làm tham mưu cho Đảng và Chính phủ, nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách đối ngoại; Thứ hai, thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại của các Bộ, ngành và các địa phương (thực chất là một số địa phương có ít nhiều hoạt động đối ngoại) trong sự kết hợp chặt chẽ với Ban đối ngoại TW Đảng và cơ quan chịu trách nhiệm về ngoại giao nhân dân; phối hợp và điều hòa, hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động đối ngoại của các Bộ, ngành và các địa phương cho phù hợp với đường lối đối ngoại chung. Do hoạt động đối ngoại bao gồm cả đối ngoại chính trị, đối ngoại kinh tế và đối ngoại văn hóa trong khi phân công chưa thật rõ ràng, nên thời gian qua không ít trường hợp Bộ Ngoại giao phải làm thay, nhất là về văn hóa – xã hội.

Nay theo Quyết đinh 22-QĐ/TW của BCT phải đẩy mạnh hội nhập quốc tế (toàn diện), Ngoại giao cần tập trung vào vấn đề Hội nhập quốc tế với hai chức năng nêu trên. Cụ thể là về: Một là tham mưu về chủ trương, phương hướng, lộ trình hội nhập quốc tế để Ban chỉ đạo quốc gia hướng dẫn các Bộ, ngành và các địa phương; Hai là giúp Ban chỉ đạo theo dõi, thống nhất quản lý, điều hòa và phối hợp hoạt động hội nhập của các Bộ, ngành và các địa phương. Chức năng này so với trước đây mở rộng hơn, nhiều hơn và phức tạp hơn.

Ngoài ra, Bộ Ngoại giao có điều kiện theo dõi và nắm bắt tình hình quốc tế kịp thời nên có thể cung cấp thông tin cần thiết, nhất là về biến động trong tình hình quốc tế cho Ban Chỉ đạo và các chủ thể hội nhập.

Nguyễn Mạnh CầmNguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao

Fmc: Lĩnh Vực Y Tế Thẻ

FMC có nghĩa là gì? FMC là viết tắt của Lĩnh vực y tế thẻ. Nếu bạn đang truy cập phiên bản không phải tiếng Anh của chúng tôi và muốn xem phiên bản tiếng Anh của Lĩnh vực y tế thẻ, vui lòng cuộn xuống dưới cùng và bạn sẽ thấy ý nghĩa của Lĩnh vực y tế thẻ trong ngôn ngữ tiếng Anh. Hãy nhớ rằng chữ viết tắt của FMC được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp như ngân hàng, máy tính, giáo dục, tài chính, cơ quan và sức khỏe. Ngoài FMC, Lĩnh vực y tế thẻ có thể ngắn cho các từ viết tắt khác.

FMC = Lĩnh vực y tế thẻ

Tìm kiếm định nghĩa chung của FMC? FMC có nghĩa là Lĩnh vực y tế thẻ. Chúng tôi tự hào để liệt kê các từ viết tắt của FMC trong cơ sở dữ liệu lớn nhất của chữ viết tắt và tắt từ. Hình ảnh sau đây Hiển thị một trong các định nghĩa của FMC bằng tiếng Anh: Lĩnh vực y tế thẻ. Bạn có thể tải về các tập tin hình ảnh để in hoặc gửi cho bạn bè của bạn qua email, Facebook, Twitter, hoặc TikTok.

Như đã đề cập ở trên, FMC được sử dụng như một từ viết tắt trong tin nhắn văn bản để đại diện cho Lĩnh vực y tế thẻ. Trang này là tất cả về từ viết tắt của FMC và ý nghĩa của nó là Lĩnh vực y tế thẻ. Xin lưu ý rằng Lĩnh vực y tế thẻ không phải là ý nghĩa duy chỉ của FMC. Có thể có nhiều hơn một định nghĩa của FMC, vì vậy hãy kiểm tra nó trên từ điển của chúng tôi cho tất cả các ý nghĩa của FMC từng cái một.

Ý nghĩa khác của FMC

Bên cạnh Lĩnh vực y tế thẻ, FMC có ý nghĩa khác. Chúng được liệt kê ở bên trái bên dưới. Xin vui lòng di chuyển xuống và nhấp chuột để xem mỗi người trong số họ. Đối với tất cả ý nghĩa của FMC, vui lòng nhấp vào “thêm “. Nếu bạn đang truy cập phiên bản tiếng Anh của chúng tôi, và muốn xem định nghĩa của Lĩnh vực y tế thẻ bằng các ngôn ngữ khác, vui lòng nhấp vào trình đơn ngôn ngữ ở phía dưới bên phải. Bạn sẽ thấy ý nghĩa của Lĩnh vực y tế thẻ bằng nhiều ngôn ngữ khác như tiếng ả Rập, Đan Mạch, Hà Lan, Hindi, Nhật bản, Hàn Quốc, Hy Lạp, ý, Việt Nam, v.v.

Hội Nhập Quốc Tế Là Gì? Tại Sao Chúng Ta Cần Phải Hội Nhập Quốc Tế?

Hội nhập quốc tế là gì? Tại sao chúng ta cần phải hội nhập quốc tế?

bài viết của TS. Phạm Quốc Trụ, Học viện Ngoại giao đề cập một số khía cạnh về bàn luận và thực tế của khái niệm hội nhập quốc tế, tụ hội vào chủ đề định nghĩa và định hình bản chất, nội hàm, các thể loại và tính chất của hội nhập quốc tế; nghiên cứu tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc tế như là một xu thế lớn của thế giới hiện đại.

Hội nhập quốc tế là một quá trình tăng trưởng tất yếu, do bản chất thế giới của lao động và gắn kết giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế đối tượng cũng là động lực hàng đầu xúc tiến tiến trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, mức độ và trên nhiều ngành không giống nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập vừa mới trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng đất nước. bây giờ, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.

Những năm Hiện nay, hội nhập quốc tế đang trở thành ngôn từ khá thân quen với hầu hết người VN. Trong công sở, nhà trường, ở quán nước trên hè phố, thậm chí cả ở thôn quê, người ta đều sử dụng nó một hướng dẫn rất thông dụng. tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm này; đặc biệt, hiểu nó một mẹo đa số và ngọn nghành thì chẳng có mấy người. Giới học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất không giống nhau và vẫn thường xuyên tranh biện về nhiều góc cạnh của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh nước ta vừa mới “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua, việc định hình đúng ý nghĩa, bản chất, nội hàm, thiên hướng vận động cũng như hệ lụy của hội nhập quốc tế là rất quan trọng và có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập chiến lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá trình hội nhập.

Để đóng góp vào cuộc trao đổi nói trên, post này đề cập một số góc cạnh về lý luận và thực tế của định nghĩa hội nhập quốc tế, tập kết vào vấn đề khái niệm và xác định bản chất, nội hàm, các hình thức và thuộc tính của hội nhập quốc tế; phân tích tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc tế giống như là một xu thế to của thế giới hiện đại.

1. 

khái niệm

định nghĩa

 hội nhập quốc tế

Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các ngành chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương xúc tiến sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh rủi ro tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.

Trên thực tiễn hiện giờ, có nhiều phương pháp hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba phương pháp tiếp cận chủ yếu sau:

phương pháp tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho rằng hội nhập (integration) là một hàng hóa cuối cùng hơn là một tiến trình. món hàng đó là sự tạo dựng một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ. Để phân tích sự link, những người theo trường phái này chú ý chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế[1].

cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch[2] là trụ cột, nhìn thấy hội nhập trước tiên là sự liên kết các quốc gia thông qua tăng trưởng các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất giống như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên giống như kiểu Tây Âu. như vậy, hướng dẫn tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một công cuộc vừa là một món hàng cuối cùng.

phương pháp tiếp cận thứ ba nhìn thấy xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các nước mở rộng và sử dụng sâu sắc hóa liên kết hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục đích theo đuổi.

phương pháp tiếp cận thứ nhất có nhiều giới hạn vì nó k đặt hiện tượng hội nhập trong tiến trình phát triển mà chỉ Nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía cạnh luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình Nhà nước liên bang. cách tiếp cận này khó áp dụng để nghiên cứu và giải thích thực tế của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều thể loại và mức độ khác nhau như hiện tại trên toàn cầu. không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng kéo đến một Nhà nước liên bang. cách tiếp cận thứ hai có điểm hay là Quan sát nhận hiện tượng hội nhập vừa trong quá trình lớn mạnh vừa trong tình trạng tĩnh cuối cùng, song song mang ra được những nội dung khá cụ thể và sát thực tế của công cuộc hội nhập, góp phần phân tích và cho biết nhiều vấn đề của hiện tượng này. phương pháp tiếp cận thứ ba tập hợp vào hành vi của hiện tượng, k để ý nhìn thấy xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng của hội nhập, thành ra, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong mức độ lý giải bản chất của tiến trình hội nhập.

Ở VN, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với công cuộc Việt Nam tham gia ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế không giống. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng note là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt vừa mới xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một định nghĩa mà tiếng Anh gọi là “international economic integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là hướng dẫn sử dụng với hàm ý chính trị và lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được dùng chủ yếu trong bối cảnh cộng tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.

Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về hiện tượng tăng trưởng các gắn kết kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước chẳng phải là thế giới chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến tranh toàn cầu II, đặc biệt là trong khuôn khổ các đơn vị kinh tế khu vực như Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), đối tượng chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê và phân khúc chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v… Trong thực tế sử dụng ở Viet Nam cho đến nay, các thuật ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập quốc tế” đủ nội lực thay thế nhau và gần như k có sự không giống biệt về ý nghĩa.

Mặc dầu vậy, hiện tại vẫn không có một khái niệm nào về định nghĩa “hội nhập quốc tế” giành được sự tán đồng hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới sử dụng chính sách ở VN. Từ các khái niệm khác nhau nổi lên hai phương pháp hiểu chính. Thứ nhất, phương pháp hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các đơn vị quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự xây dựng cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với trạng thái phá sản, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tìm hiểu theo phương pháp này, không ít người thậm chí đang đánh đồng hội nhập với cộng tác quốc tế. Cả hai hướng dẫn hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đa số và thiếu chuẩn xác.

Từ luận và thực tế nêu trên, chúng ta cần xác định một hướng dẫn tiếp cận phù hợp so với định nghĩa “hội nhập quốc tế” để làm hệ thống xây dựng kế hoạch hội nhập quốc tế của VN trong giai đoạn mới. Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là nhìn thấy xét hội nhập như là một tiến trình xã hội có nội hàm toàn diện và liên tục vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là công cuộc các nước tiến hành các hoạt động gia tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự share về lợi ích, mục đích, trị giá, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc đơn vị quốc tế. giống như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng quyền lợi hay nguyện vọng của nhau, k chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự share và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, tiến trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của liên kết quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này đủ nội lực dưới dạng: (i) hoặc là một đơn vị liên chính phủ (các thành viên luôn luôn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là một đơn vị siêu quốc gia (các member trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, ảnh thái này đủ nội lực giống như mô ảnh nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…), (iii) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai ảnh thái trên (các member trao một phần chủ quyền đất nước cho một cơ cấu siêu đất nước và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).

Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các đất nước, chủ thể chính của liên kết quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.

2. Nội hàm của hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế đủ sức diễn ra trên từng ngành nghề của đời sống thế giới (kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, kiến thức, giáo dục, thế giới, v.v.), nhưng cũng đủ nội lực đồng thời diễn ra trên nhiều ngành với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và thể loại (song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.

a) Hội nhập kinh tế quốc tế

Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn phương[3] đến song phương[4], tiểu khu vực/vùng[5], khu vực[6], liên khu vực[7] và thế giới[8]. Hội nhập kinh tế đủ sức diễn ra theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, quá trình hội nhập kinh tế được chia thành năm mô ảnh cơ bản từ thấp đến cao như sau[9]:

(i) Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho nhau các khuyến mãi thương mại trên cơ sở tiết kiệm thuế quan, nhưng còn hạn chế về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và cấp độ tiết kiệm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các gợi ý cụ thể của mô ảnh link kinh tế ở công đoạn thấp nhất.

(ii) Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc tiết kiệm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại món hàng nội khối, nhưng luôn luôn duy trì chính sách thuế quan độc lập so với các nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Những năm Hiện nay, phần đông các hiệp định FTA mới có phạm vi ngành nghề điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài ngành nghề sản phẩm, các hiệp định này còn có những quy định tự do hóa so với nhiều lĩnh vực khác giống như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP- vừa mới đàm phán).

(iii) Liên minh thuế quan (CU): Các member ngoài việc tiết kiệm và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế quan chung so với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: nhóm ANDEAN và Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.

(iv) phân khúc chung (hay đối tượng duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách thuế quan chung so với ngoài khối, các thành viên còn phải xóa bỏ các hạn chế so với việc lưu chuyển của các nguyên nhân sản xuất khác (vốn, lao động…) để tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn thiết lập đối tượng duy nhất (Thị trường chung châu Âu) trước khi trở thành một liên minh kinh tế.

(v) Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao nhất dựa trên cơ sở một đối tượng chung/duy nhất cộng thêm với việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU cho đến nay.

Một nước có thể song song tham gia vào nhiều quá trình hội nhập với tính chất, phạm vi và thể loại khác nhau. tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy công đoạn chỉ đủ nội lực diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh tế châu Âu đã song song thực hiện thiết lập khu vực mậu dịch tự do và liên minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền móng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội buôn về chính trị và Quan sát chung, được các nước ưu tiên thúc đẩy như một đòn bẩy cho hợp tác và tăng trưởng trong bối cảnh thế giới hóa[10].

b) Hội nhập chính trị

Hội nhập về chính trị là tiến trình các nước tham dự vào các cơ chế quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể hiện cấp độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, gốc lực và đặc biệt là quyền lực. Một đất nước có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế thông qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia không giống trên cơ sở xây dựng các mối quan hệ quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như ASEAN, EU) hay một đơn vị có quy mô thế giới (chẳng hạn giống như Liên Hiệp quốc).

Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, link giữa các thành viên còn hạn chế và các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền định đoạt chính sách riêng. ASEAN hiện tại vẫn đang trong công đoạn đầu quá trình hội nhập chính trị, nên luôn luôn còn tồn tại nhiều sự khác biệt và độ tin cậy giữa các member còn hạn chế. Về mặt tổ chức quyền lực, ASEAN là một khuôn khổ liên chính phủ. Hoàn tất thiết lập Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột (Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội) sẽ làm gia tăng cường quá trình hội nhập chính trị trong ASEAN, tạo điều kiện để ASEAN bước tới một giai đoạn hội nhập cao hơn nữa.

giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế chính trị và độ tin cậy hoàn toàn của các member. Về mặt tổ chức quyền lực, các thành viên chỉ giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các quyền lực còn lại cho một cơ cấu siêu đất nước. EU bây giờ là một mô ảnh hội nhập chính trị cao.

c) Hội nhập an ninh-quốc phòng

Hội buôn về an ninh-quốc phòng là sự tham dự của đất nước vào tiến trình quan hệ họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh. Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham dự vào các thỏa thuận song phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc share và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng…

Có nhiều kiểu liên kết an ninh-quốc phòng không giống nhau, trong đó nổi lên những thể loại chủ yếu được nhiều nước sử dụng giống như sau:

– Hiệp ước phòng thủ chung: Đây là thể loại khá thông dụng trong thời kỳ Chiến tranh lạnh khi mà toàn cầu được cơ bản chia thành hai hệ thống (gọi là hệ thống hai cực) giữa một bên là các nước thế giới chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo và bên kia là các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ giỏi nhất. Hàng loạt tổ chức phòng thủ chung đã được hai phe lập ra để thực hiện các mục tiêu chính trị và an ninh-quốc phòng, chẳng hạn như đơn vị Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)[12], tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO)[13], tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO)[14], Hiệp ước Liên minh Úc-Niudilân-Mỹ (ANZUS)[15], tổ chức Hiệp ước Vác-xô-vi[16]. nguyên tắc của các đơn vị phòng thủ chung là: (i) các nước tham dự phải có chung kẻ thù bên ngoài, khi một nước nào đó tấn công một thành viên của khối thì nước đó được coi là kẻ thù của cả khối và toàn bộ các member cùng hành động chống lại kẻ thù đó; (ii) các thành viên có chính sách phòng thủ chung; (iii) các member cùng đóng góp lực lượng vũ trang tham dự vào lực lượng chung của khối đặt dưới một bộ chỉ huy chung.

Đây là bí quyết liên kết quân sự rất cao, đòi hỏi các member phải đồng về suy nghĩ hệ và cùng chia sẻ cao về ý kiến, chính sách an ninh-quốc phòng, kế hoạch quân sự và có trình độ tăng trưởng kỹ thuật quân sự cũng như năng lực tác chiến không quá chênh lệch. phương thức link này cũng đòi hỏi các member phải chấp nhận chịu sự giới hạn về chủ quyền quốc gia và trao một phần thẩm quyền đất nước cho một cơ chế chung siêu đất nước.

– Hiệp ước liên minh quân sự song phương: Đây là thể loại cổ điển rất thông dụng trong lịch sử quan hệ quốc tế xưa và nay. phần đông, nếu như không nói là hầu hết, các nước đều có hiệp ước liên minh với một hoặc một số nước khác, trong đó có quy định về giúp đỡ quân sự trong những tình huống cần thiết. Mỹ có hiệp ước liên minh quân sự song phương với Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Philipin. Việt Nam cũng vừa mới có Hiệp ước liên minh với Liên Xô cũ, Lào và Cămpuchia.

– Các dàn xếp an ninh tập thể: Đây là hình thức link an ninh dựa trên nguyên tắc các thành viên cam kết k tấn công nhau, nếu có một thành viên vi phạm, sẽ dùng sức mạnh hợp tác của cả khối để ngăn chặn và giúp giải quyết xung đột. Hội quốc liên và sau này là Liên Hiệp quốc, Liên đoàn Ả-rập, tổ chức thống nhất châu Mỹ (OAS), tổ chức Thống nhất châu phi (AU), Cộng đồng chính trị-an ninh mà ASEAN đã xây dựng là những mô ảnh cụ thể của bí quyết link an ninh tập thể.

d) Hội lấy về văn hóa-xã hội

Hội lấy về văn hóa-xã hội là tiến trình xây dựng cửa, đàm luận kiến thức với các nước khác; share các giá trị kiến thức, tinh thần với thế giới; tiếp thụ các trị giá văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham dự vào các đơn vị hợp tác và tăng trưởng văn hóa-giáo dục và không gian khu vực và cộng tác chặt chẽ với các nước member hướng tới thiết lập một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng to hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví dụ, tham dự Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dục-xã hội với các nước.

Hội nhập văn hóa-xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu sắc công cuộc hội nhập, thực sự liên kết các nước với nhau bằng chất keo bền vững hơn cả. quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia không giống nhau ngày càng gần gũi và share với nhau nhiều hơn về các giá trị, công thức tư duy và hành động; xây dựng sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa các chính sách không gian của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người dân mỗi nước được thụ hưởng tốt hơn các giá trị kiến thức của nhân loại, các phúc lợi xã hội đa dạng; đặc biệt, tạo dựng và củng cố tình cảm gắn bó thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn quốc gia của riêng mình (ý thức công dân khu vực/toàn cầu).

3. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu 

lớn

 của 

niên đại

bây giờ

Hội nhập quốc tế là một công cuộc tất yếu, do bản chất không gian của lao động và gắn kết giữa con người. Các cá nhân mong muốn tồn tại và tăng trưởng cần có liên kết và link với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng link với nhau tạo thành xã hội và các quốc gia-dân tộc. Các đất nước lại liên kết với nhau tạo thành những thực thể quốc tế to hơn và tạo dựng nền móng toàn cầu.

Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải xây dựng rộng các phân khúc quốc gia, tạo dựng đối tượng khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động lực chủ yếu xúc tiến công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung.

Từ sau Chiến tranh toàn cầu II, đặc biệt là kể từ chấm dứt Chiến tranh lạnh, cùng với thành đạt mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thế giới nhờ hàng loạt tiến bộ khẩn trương về khoa học-công nghệ, xu thế hòa bình-hợp tác, cố gắng tự do hóa-mở cửa của các nước đang thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế trên nhiều ngành, đặc biệt là trong kinh tế, tăng trưởng rất mau và trở thành một xu thế to của liên kết quốc tế hiện đại. quá trình này diễn ra trên nhiều cấp độ: song phương, đa phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và thế giới. mức độ hội nhập cũng ngày một sâu sắc hơn, bao quát toàn diện hơn. Hầu hết mọi nước trên thế giới đang và đang tích cực tham gia vào công cuộc này.

Trên cấp độ thế giới, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc và hàng loạt các tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc, trong đó gồm nhiều thiết chế thuộc nền tảng Bretton Woods (đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế và bank Thế giới), ra đời với số lượng thành viên tham gia ngày một nhiều hơn, bao quát hầu hết các nước trên toàn cầu. Đây là một tổ chức hợp tác toàn diện, bao quát hầu hết mọi lĩnh vực và có quy mô toàn cầu. Trong một số ngành nghề, Liên hiệp quốc đang có thành công vượt lên trên sự cộng tác thông thường và đủ nội lực nói vừa mới đạt đến trình độ ban đầu của hội nhập (lĩnh vực chính trị-an ninh, ngành nghề nhân quyền, ngành nghề tài chính). Trong ngành nghề thương mại, tiến trình hội nhập toàn cầu được xúc tiến với việc ra đời của một định chế đa phương đặc biệt quan trọng, đó Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), sau đó được tiếp nối bằng tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tính từ lúc năm 1995. ngày nay, 153 đất nước và vùng lãnh thổ đang tham gia với nhân cách thành viên chính thức của tổ chức này, khoảng 30 quốc gia khác vừa mới trong tiến trình đàm phán tham gia. Trong hơn một thập kỷ qua, WTO vừa mới tăng trưởng mạnh mẽ nền tảng “luật chơi” về thương mại quốc tế, bao quát hầu hết các ngành nghề của quan hệ kinh tế giữa các member giống như sản phẩm, dich vụ, nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt may, hàng rào kỹ thuật, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chống bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ, dựng lại trị giá tính thuế hải quan, giám định sản phẩm, quy tắc xuất xứ, quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của WTO trở thành nền tảng của toàn bộ các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song phương trên thế giới ngày nay. Vòng đàm phán Đô-ha, bắt đầu từ hơn mười năm trước, đã liên tục mở rộng và củng cố các quy định của WTO theo hướng tự do hóa hơn nữa.

Ở mức độ khu vực, quá trình hội nhập tăng trưởng rất nhanh trong những thập niên 1960 và 1970, đặc biệt “nở rộ” từ thập niên 1990 trở lại đây. Hàng loạt tổ chức/thể chế khu vực đang ra đời ở khắp các châu lục. hầu như không một khu vực nào trên toàn cầu cho đến nay không có các tổ chức/thể chế khu vực của riêng mình. Các tổ chức/thể chế khu vực về chính trị-an ninh và đặc biệt là kinh tế, chiếm nhiều nhất. Chỉ riêng trong ngành kinh tế, tính đến giữa tháng 5/2011 có 489 hiệp định về mậu dịch khu vực (RTAs) giữa các thành viên của WTO đang được thông báo cho Ban Thư ký WTO, trong đó 90% là các thỏa thuận mậu dịch tự do (FTAs) và 10% là các liên minh thuế quan (CU)[17]. bên cạnh đó, có tới hàng trăm RTAs đang trong công cuộc đàm phán hoặc sẵn sàng đàm phán. Nhiều tổ chức/thể chế link kinh tế liên khu vực được tạo dựng, ví dụ như APEC, ASEM, ASEAN với các partners ngoài khu vực chẳng hạn giống như Mỹ và EU (dưới dạng các PCA và FTA), EU với một số tổ chức/thể chế hoặc quốc gia ở các khu vực khác, v.v…

Bên cạnh các mức độ toàn cầu và khu vực, công cuộc hội nhập giữa các nước còn được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng hiệp ước liên minh (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định partners toàn diện, hiệp định partner chiến lược, hiệp định kinh tế-thương mại (BFTA, BCU…). Từ cuối thập niên 1990 trở lại đây, khuynh hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch tự do (BFTA) phát triển đặc biệt mạnh mẽ. Hầu hết các nước đều vừa mới ký hoặc đã trong công cuộc đàm phán các BFTA. Thậm chí, có nước hiện đang ký hoặc đàm phán tới hàng chục hiệp định BFTA (Singapore, Thái Lan, Nhật, Úc…). Điều này được giải thích chủ yếu bởi bế tắc của vòng đàm phán Đôha và những ưu điểm của BFTA so với các hiệp định đa phương (dễ đàm phán và nhanh đạt được hơn; việc thực hiện cũng thuận tiện hơn).

Về phạm vi ngành nghề và cấp độ hội nhập, xem xét các thỏa thuận liên kết khu vực và song phương trong thời gian Hiện nay, đủ sức thấy rất rõ rằng các lĩnh vực hội nhập ngày càng được xây dựng rộng hơn. Bên cạnh khuynh hướng đẩy mạnh hội nhập kinh tế, các nước cũng quan tâm thúc đẩy hội nhập trong các ngành nghề khác, đặc biệt là chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội. tiến trình hội nhập toàn diện trong EU đang đạt đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một thực thể gần như một nhà nước liên bang. ASEAN cũng đang tiến hành mở rộng và sử dụng sâu sắc tiến trình hội nhập khu vực một hướng dẫn toàn diện hơn thông qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội. Hàng loạt các hiệp định đối tác toàn diện hay partners kế hoạch song phương được ký kết gần đây bao quát khá toàn diện các ngành hợp tác và link giữa các bên. Nếu chỉ xét riêng về mặt kinh tế, thì các thỏa thuận Khoảng thời gian mới đây, chẳng hạn giống như Hiệp định Mậu dịch tự do ASEAN-Úc-Niudilân, Hiệp định Mậu dịch tự do Mỹ-Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do Hàn Quốc-Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do Nhật-Singapore, chứa đựng hầu hết các ngành và vì vậy vượt xa đối với các hiệp định FTA truyền thống. Quan sát chung, các hiệp định FTA mới toàn diện hơn và bao hàm cả những ngành “nhạy cảm” (ví dụ giống như mua sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động, môi trường, hàng rào kỹ thuật) thường không được đề cập trong hầu hết các hiệp định FTA ký trước đó. bên cạnh đó, các hiệp định FTA mới đưa ra các quy định về tự do hóa triệt để hơn, thể hiện mức độ hội nhập cao hơn. gợi ý, trong lĩnh vực hàng hóa, tiết kiệm thuế quan mạnh hơn và sớm mang về 0%, giới hạn tối đa số lượng các hàng hóa loại trừ.

rạch ròi, hội nhập quốc tế vừa mới trở thành một xu thế to và một đặc trưng quan trọng của thế giới ngày nay. k ít người khẳng định rằng chúng ta vừa mới sống trong niên đại thế giới hóa. Nói một phương pháp không giống, thời đại hội nhập thế giới. Xu thế này chi phối toàn bộ liên kết quốc tế và sử dụng refresh to lớn cấu trúc của hệ thống toàn cầu cũng giống như bản thân các chủ thể và mối liên kết giữa chúng.

4. Lợi và bất lợi của hội nhập quốc tế

Thứ nhất, công cuộc hội nhập giúp xây dựng rộng phân khúc để thúc đẩy thương mại và các liên kết kinh tế quốc tế không giống, từ đó xúc tiến phát triển và tăng trưởng kinh tế-xã hội.

Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực xúc tiến dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các món hàng và doanh nghiệp; song song, làm tăng mức độ thu hút đầu tư vào nền kinh tế.

Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia, nhờ cộng tác giáo dục-đào tạo và tìm hiểu khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.

Thứ tư, hội nhập sử dụng tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận đối tượng quốc tế, gốc tín dụng và các partner quốc tế.

Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các món hàng sản phẩm, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm tìm việc sử dụng cả ở trong lẫn ngoài nước.

Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình ảnh và xu thế tăng trưởng của thế giới, từ đó đủ sức đề ra chính sách tăng trưởng thêm vào cho quốc gia và k bị lề hóa.

Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của kiến thức, văn minh của thế giới, sử dụng giàu kiến thức dân tộc và thúc đẩy tiến bộ không gian.

Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một thế giới xây dựng, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.

Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như cấp độ duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.

Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước quy tụ cho phát triển; cùng lúc xây dựng ra cấp độ phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để khắc phục những chủ đề chú ý chung của khu vực và toàn cầu .

tuy nhiên, hội nhập không chỉ mang lại những quyền lợi, ngược lại, nó cũng đặt các nước trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó đặc biệt là:

Một, hội nhập sử dụng gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều công ty và lĩnh vực kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là đóng cửa, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế-xã hội.

Hai, hội nhập sử dụng tăng trưởng sự lệ thuộc của nền kinh tế đất nước vào phân khúc bên ngoài và, cho nên, khiến nền kinh tế easy bị thương tổn trước những biến đổi của đối tượng quốc tế.

Ba, hội nhập không phân phối công bằng lơi ích và nguy cơ cho các nước và các group khác nhau trong xã hội, vì vậy có rủi ro làm tăng khoảng phương pháp giàu-nghèo.

Bốn, trong tiến trình hội nhập, các nước vừa mới tăng trưởng phải đối mặt với nguy cơ dịch chuyển cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do xu hướng tụ họp vào các ngàng sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. vì vậy, họ easy có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại hoàn cảnh.

Năm, hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước (theo quan niện truyền thống về độc lập, chủ quyền) và khó khăn so với việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đã tăng trưởng.

Sáu, hội nhập đủ sức sử dụng tăng trưởng nguy cơ bản sắc dân tộc và kiến thức truyền thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.

Bảy, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ tăng trưởng của hiện trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…

giống như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả quyền lợi lẫn bất lợi so với các nước. bên cạnh đó, chẳng hề cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đa số toàn bộ các ích lợi và gánh mọi bất lợi giống như đã nêu trên. Các quyền lợi và bất lợi Nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối với mỗi nước một không giống, do các nước khác nhau về điều kiện, môi trường, trình độ phát triển… Việc khai thác được ích lợi đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều thành phần, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực hiện. thực tiễn, nhiều nước đang khai thác rất tích cực các thời cơ và quyền lợi của hội nhập để đạt được tăng trưởng và tăng trưởng kinh tế-xã hội cao, ổn định trong nhiều năm thường xuyên, khẩn trương vươn lên hàng các nước công nghiệp mới và xây dựng được vị thế quốc tế đáng nể, song song xử lý khá thành đạt các bất lợi và thách thức của quá trình hội nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc, Malaixia, Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều quyền lợi từ hội nhập, song giải quyết chưa tốt mặt trái của công cuộc này, nên phải đối mặt với nhiều chông gai, thách thức to, có thể kể tới trường hợp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđônêxia, Việt Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… Mặc dù vậy, suy cho cùng ích lợi mà hầu hết các nước đang thu được trên thực tế từ tiến trình hội nhập vẫn to hơn cái giá mà họ phải trả cho những ảnh hưởng tiêu cực xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này lý giải vì sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của hầu hết các nước trên toàn cầu hiện giờ.

nguồn: http://www.nghiencuubiendong.vn/

Tăng Cường Sinh Lực, Tráng Dương

Mô tả sản phẩm

Giới thiệu về rượu:

Hoa Anh Túc

Rượu hoa anh túc được dân nhậu dùng ngay tên của Kế hoạch 138 mà lãnh đạo tỉnh Yên Bái giao cho hai cơ quan ban ngành là: Sở Nông nghiệp và Công an tỉnh cùng với các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải kiểm soát, xử phạt những người trồng cây thuốc phiện. Bởi vậy “Rượu 138” hay còn gọi là rượu ngâm anh túc – rượu thuốc phiện đều là một

Tác dụng của rượu:

Rượu Hoa Anh Túc

Đối với hệ hô hấp: Morphin là một chất ức chế mạnh và cao đối với hệ hô hấp. Liều có tác dụng đối với hệ hô hấp nhỏ hơn là liều giảm đau. Cơ chế của hậu qủa này là do sự cảm nhận thấp của hệ thần kinh hô hấp đối với mức độ của Carbon Dioxid. Dấu hiệu ức chế hô hấp bao gồm thở nhanh và thở dốc. Nếu dùng qúa liều hô hấp có thể trở nên khó khăn và có thể  ngưng hô hấp. Tác dụng của Codein đối với hệ hô hấp yếu hơn là Morphin. Morphin cũng ức chế cơn ho với lều nhỏ hơn liều dùng để giảm đau. Codein có tác dụng long đờm yếu hơn nhưng thường được dùng nhiều hơn vì ít tác dụng phụ.

Đối với hệ tuần hoàn: Morphin  gây ra gĩan mạch ngoại vi và giải phóng Histamin có thể dẫn đến huyết áp thấp. Vì thế phải dùng rất cẩn thận đối với bệnh nhân mệt lả do thiếu máu.

Đối với vết vị trường: Morphin dùng với liều rất thấp gây ra bón do nó làm tăng trương lực  và giảm sự thúc đẩy co cơ trong thành ruột đồng thời làm giảm dịch nội tiết tiêu hóa. Ngoài ra, nó gia tăng sức ép trong ống mật. Những hậu qủa này gây ra ói mửa, bụng đau cơn đau mật. Codein tác dụng yếu hơn đối với vết vị trường.

Đối với hệ sinh dục niệu: Morphin gia tăng trương lực nơi đường tiểu và cơ bàng quang.

Rượu Hoa Anh Túc

Thành phần rượu thuốc phiện:

Nhựa thuốc phiện, alcaloid (morphin, codein, papaverin…).

Công dụng:

Hỗ trợ điều trị chứng bất lực, liệt dương và yếu sinh lý.

Kéo dài cuộc yêu và đạt được thăng hoa.

Giúp tăng cường sinh lý ở nam giới.

Quy cách đóng gói:

Tất cả sản phẩm thuốc của chúng tôi đều được hút chân không, dán nhãn chúng tôi phân phối tại Việt Nam và có tem chống hàng giả, hàng nháy.

Liều lượng và cách sử dụng:

Thuốc được sắc hoặc ngâm rượu. Cách sắc như sau: 01 thang thuốc sắc từ 2 – 3 lần, mỗi lần sắc đổ 03 chén nước(bát nước) vào nồi sắc cô đặc lấy 01 chén nước để uống.

Mỗi lần điều trị ít nhất  10 thang thuốc (20 ngày). Sau 20 ngày khách hàng có thể đến các cơ sở y tết để kiểm tra hoặc theo dõi phản ứng của cơ thể để xem bệnh tình đã thuyên giảm hay khỏi hẳn chưa để có kế hoạch điều trị.

Thuốc không có tác dụng phụ, có thế uống duy trì lâu dài và uống kết hợp vài loại thuốc khác.

Cam kết và liên hệ:

Chúng tôi cam kêt 100% thuốc được nhập khẩu

Bệnh không thuyên giảm xin hoàn lại tiền.

Lưu ý:

Tùy theo độ tuổi, cơ địa, tình trạng bệnh của mỗi người, thuốc sẽ có tác dụng khác nhau. Ví dụ: vài người có tuổi, chức năng cơ thể suy giảm thì phải sử dụng thuốc kiên trì, thậm chí duy trì lâu dài

Giá tiền: 900.000 vnđ / lít. Cam kết rượu nguyên chất nước nhất, rượu khoai, rượu sắn, nồng độ 45 độ

Giao thuốc và thu tiền tại nhà: Liên hệ nhân viên kinh doanh Mrs Nụ 0979.272.888

Tham khảo các loại thuốc khác có tại thuocyhocdantoc.com:

CAM KẾT HOÀN LẠI TIỀN NẾU BỆNH KHÔNG THUYÊN GIẢM SAU QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ

Khuyến cáo

– Thuốc dân tộc cổ truyền được làm từ các loại cây cỏ, thảo dược. Có thể uống kết hợp với các loại thuốc khác mà không gây tác dụng phụ hay phản ứng hóa học. và do đó cũng gần như không phải kiêng khem trong quá trình sử dụng thuốc.

– Việc điều trị dứt điểm bệnh phụ thuộc vào cơ địa của từng người, tình trạng bệnh lý và quan trọng nhất vẫn là xác định đúng bệnh, uống đúng loại thuốc. Thông thường một thang thuốc được kết hợp từ nhiều loại thảo dược khác nhau, vậy nên ngoài đặc trị bệnh cần chữa thì thuốc còn có lợi cho các cơ quan chức năng khác trong cơ thể. Có thể nói nếu thuốc không có tác dụng cho chức năng này thì vẫn sẽ có tác dụng cho chức năng khác trong cơ thể, vì vậy người dùng có thể hoàn toàn yên tâm khi sử dụng thuốc. – Đối với các bệnh mãn tính, bệnh nặng, người bệnh cần đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế. Trong quá trình điều trị Tây y cần theo dõi, kiểm tra tình trạng bệnh thường xuyên. Không nên để bệnh tình chuyển biến nặng, ngoài gây khó khăn cho việc điều trị, gây nguy hiểm đến tính mạng thì nó còn dễ gây biến chứng khác cho cơ thể. – Điều trị Tây y có tác dụng ngay tức thời và được khuyến cáo cho những trường hợp bệnh nặng. Tuy nhiên nếu dùng thuốc Tây trong một thời gian dài ngoài việc tốn kém thì thuốc sẽ gây ra các tác dụng phụ không mong muốn như nhờn thuốc, suy nhược cơ thể, ảnh hưởng đến các chức năng khác trong cơ thể như dạ dày, thần kinh… Phương pháp điều trị cổ truyền chỉ có tác dụng về lâu dài, nó tương tự như một liều thuốc bổ cho các chức năng trong cơ thể. Nếu như thuốc Tây thường chỉ có thành phần hóa học nhất định để tập trung vào việc chữa chức năng cơ thể nhất định bị tổn thương thì thuốc thảo dược thường được kết hợp từ nhiều vị thuốc khác nhau. Trong một số trường hợp nếu duy trì uống thuốc trong một thời gian dài, thuốc y học cổ truyền vẫn có thể chữa được một số bệnh mà thuốc Tây y không chữa được dứt điểm.

Cập nhật thông tin chi tiết về Tăng Cường Năng Lực Hội Nhập Quốc Tế Lĩnh Vực Môi Trường trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!