Xu Hướng 3/2023 # Quyền Và Nghĩa Vụ Của Nhà Thầu Nước Ngoài Hoạt Động Tại Việt Nam # Top 4 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Quyền Và Nghĩa Vụ Của Nhà Thầu Nước Ngoài Hoạt Động Tại Việt Nam # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Quyền Và Nghĩa Vụ Của Nhà Thầu Nước Ngoài Hoạt Động Tại Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đăng lúc: 11:26, Thứ Hai, 07-10-2019 – Lượt xem: 1017

Theo quy định tại Mục 40, Điều 1 của Nghị định số 100/2018/NĐ-CP có quy định:

Nhà thầu nước ngoài có các quyền sau:

b) Khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân thực hiện các công việc theo quy định;

c) Được bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong kinh doanh tại Việt Nam theo giấy phép hoạt động xây dựng được cấp.

Nhà thầu nước ngoài có các nghĩa vụ sau:

a) Lập Văn phòng điều hành tại nơi có dự án sau khi được cấp giấy phép hoạt động xây dựng; đăng ký địa chỉ, số điện thoại, số fax, e-mail, dấu, tài khoản, mã số thuế của Văn phòng điều hành.

– Đối với các hợp đồng thực hiện lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, nhà thầu nước ngoài có thể lập Văn phòng điều hành tại nơi đăng ký trụ sở của chủ đầu tư.

– Đối với hợp đồng thực hiện thi công xây dựng, giám sát thi công xây dựng công trình đi qua nhiều tỉnh, nhà thầu nước ngoài có thể lập Văn phòng điều hành tại một địa phương có công trình đi qua để thực hiện công việc;

b) Đăng ký, hủy mẫu con dấu, nộp lại con dấu khi kết thúc hợp đồng theo quy định của pháp luật. Nhà thầu nước ngoài chỉ sử dụng con dấu này trong công việc phục vụ thực hiện hợp đồng tại Việt Nam theo quy định tại giấy phép hoạt động xây dựng;

c) Đăng ký và nộp thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam, thực hiện chế độ kế toán, mở tài khoản, thanh toán theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phục vụ hoạt động kinh doanh theo hợp đồng;

d) Thực hiện việc tuyển lao động, sử dụng lao động Việt Nam và lao động là người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam về lao động; chỉ được phép đăng ký đưa vào Việt Nam những chuyên gia quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật và người có tay nghề cao mà Việt Nam không đủ khả năng đáp ứng;

e) Thực hiện hợp đồng liên danh đã ký kết với nhà thầu Việt Nam hoặc sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam đã được xác định trong hồ sồ đề nghị cấp giấy phép hoạt động xây dựng;

g) Mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với công việc của nhà thầu gồm: Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với nhà thầu tư vấn đầu tư xây dựng; bảo hiểm tài sản hàng hóa đối với nhà thầu mua sắm; các loại bảo hiểm đối với nhà thầu thi công xây dựng và các chế độ bảo hiểm khác theo quy định của pháp luật Việt Nam;

h) Đăng kiểm chất lượng vật tư, thiết bị nhập khẩu cung cấp theo hợp đồng nhận thầu;

l) Thực hiện các chế độ báo cáo theo quy định trong giấy phép hoạt động xây dựng;

Thuế Nhà Thầu Nước Ngoài

Download File: https://goo.gl/LgNdDK Download File dự phòng: http://bit.ly/2P6VHk4

Thuế NTNN áp dụng đối với các tổ chức và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hay thỏa thuận với bên Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Thuế NTNN không phải là một sắc thuế riêng biệt, mà bao gồm thuế GTGT và TNDN, hoặc thuế TNCN đối với các khoản thu nhập của cá nhân.

Thuế NTNN áp dụng cho một số khoản thanh toán bao gồm lãi tiền vay, tiền bản quyền, phí dịch vụ, tiền thuê, phí bảo hiểm, dịch vụ vận chuyển, chuyển nhượng chứng khoán, hàng hóa cung cấp tại Việt Nam hoặc kèm theo dịch vụ thực hiện ở Việt Nam.

Phương pháp nộp thuế NTNN

Các nhà thầu nước ngoài có thể lựa chọn một trong ba phương pháp nộp thuế sau đây: phương pháp khấu trừ, phương pháp ấn định tỷ lệ và phương pháp hỗn hợp.

Phương pháp 1- Phương pháp khấu trừ

Theo phương pháp này, các nhà thầu nước ngoài sẽ phải đăng ký kê khai và nộp thuế GTGT, nộp tờ khai thuế TNDN và GTGT tương tự như các công ty Việt Nam. NTNN có thể áp dụng phương pháp khấu trừ nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

Có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc là đối tượng cư trú thuế tại Việt Nam;

Thời hạn kinh doanh tại Việt Nam theo hợp đồng nhà thầu; hợp đồng nhà thầu phụ từ 183 ngày trở lên; và

Áp dụng chế độ kế toán Việt Nam, hoàn tất tờ khai đăng ký thuế và được cấp mã số thuế.

Bên Việt Nam phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế địa phương về việc nhà thầu nước ngoài sẽ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ trong vòng 20 ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng.

Nếu NTNN thực hiện nhiều hợp đồng tại cùng một thời điểm, nếu có một hợp đồng đủ điều kiện theo quy định và NTNN đăng kí nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thì các hợp đồng khác cũng phải thực hiện nộp thuế theo phương pháp NTNN đã đăng kí.

Các NTNN sẽ nộp thuế TNDN ở mức thuế suất là 20% trên lợi nhuận.

Phương pháp 2 – Phương pháp ấn định tỷ lệ

NTNN nộp thuế theo phương pháp ấn định tỷ lệ không phải đăng ký khai/nộp thuế GTGT và không phải nộp tờ khai thuế TNDN và GTGT. Thay vào đó, thuế GTGT và TNDN sẽ do bên Việt Nam khấu trừ theo các tỷ lệ được ấn định trên tổng doanh thu tính thuế. Các tỉ lệ này thay đổi tùy thuộc vào hoạt động do NTNN thực hiện. Thuế GTGT do bên Việt Nam giữ lại thường được coi là khoản thuế GTGT đầu vào được khấu trừ trong tờ khai thuế GTGT của bên Việt Nam.

Việc kê khai thuế NTNN theo phương pháp ấn định tỷ lệ của Nhà thầu nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho hoạt động khai thác, thăm dò, phát triển và sản xuất dầu khí được quy định riêng.

Phương pháp 3 – Phương pháp hỗn hợp

Phương pháp hỗn hợp cho phép NTNN đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ (tức là thuế GTGT đầu ra trừ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ), nhưng nộp thuế TNDN theo các tỷ lệ ấn định tính trực tiếp trên tổng doanh thu tính thuế.

NTNN muốn áp dụng phương pháp hỗn hợp phải đáp ứng đủ những điều kiện sau:

Có cơ sở thường trú hoặc là đối tượng cư trú thuế tại Việt Nam;

Thời hạn kinh doanh tại Việt Nam theo hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ từ 183 ngày trở lên; và

Tổ chức hạch toán kế toán theo các quy định của pháp luật về kế toán và hướng dẫn của Bộ tài chính.

Xác định thuế nhà thầu phải nộp

(1) Doanh thu tính thuế GTGT là toàn bộ doanh thu do cung cấp dịch vụ, dịch vụ gắn với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mà Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài nhận được, chưa trừ các khoản thuế phải nộp, kể cả các khoản chi phí do Bên Việt Nam trả thay Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài (nếu có). Trường hợp theo thỏa thuận tại hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ, doanh thu Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài nhận được không bao gồm thuế GTGT phải nộp thì doanh thu tính thuế GTGT phải được quy đổi thành doanh thu có thuế GTGT và được xác định theo công thức sau:

(2) Doanh thu tính thuế TNDN là toàn bộ doanh thu không bao gồm thuế GTGT mà Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài nhận được, chưa trừ các khoản thuế phải nộp. Doanh thu tính thuế TNDN được tính bao gồm cả các khoản chi phí do Bên Việt Nam trả thay Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài (nếu có). Trường hợp, theo thỏa thuận tại hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ, doanh thu Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài nhận được không bao gồm thuế TNDN phải nộp thì doanh thu tính thuế TNDN được xác định theo công thức sau:

1 – Tỷ lệ thuế TNDN tính trên doanh thu tính thuế

Một số công văn cần chú ý Tiền lãi vay và các khoản chi phí phải trả cho bên nước ngoài (Công văn số 724/TCT-CS ngày 02/3/2018 của Tổng cục thuế)

Theo hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các khoản lãi tiền vay trả cho Ngân hàng nước ngoài thuộc diện được miễn thuế theo hiệp định tránh đánh thuế hai lần thì sẽ được miễn thuế nhà thầu ( Thuế NTNN ) phải nộp tại Việt Nam. Tuy nhiên, các khoản chi phí khác phải trả cho Ngân hàng nước ngoài như khoản phí thu xếp vốn, phí cam kết là các khoản tách biệt, không bao gồm trong lãi vay thì Công ty ở Việt Nam có trách nhiệm kê khai, nộp thuế nhà thầu thay cho Ngân hàng nước ngoài. Công ty ở Việt Nam được khấu trừ thuế GTGT nộp thay nhà thầu nước ngoài và được hạch toán khoản thuế TNDN nhà thầu nộp thay vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN nếu khoản chi phí khác phải trả cho Ngân hàng nước ngoài không bao gồm thuế nhà thầu.

Thuế nhà thầu khi mua máy móc có kèm dịch vụ (Công văn số 13409/CT-TTHT ngày 02/4/2018 của Cục thuế Hà Nội)

Trường hợp Công ty ký hợp đồng với Nhà thầu nước ngoài ( Thuế NTNN ), hợp đồng tách riêng giá trị máy móc thiết bị, dịch vụ vận chuyển, lắp đặt, bảo hành … thì Công ty nộp thuế thay cho nhà thầu nước ngoài theo phương pháp trực tiếp như sau:

– Về thuế GTGT: Tỷ lệ thuế GTGT tính trên doanh thu tính thuế cụ thể như sau:

Đối với máy móc, thiết bị: Công ty thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT tại cơ quan hải quan khi thực hiện thủ tục nhập khẩu.

Đối với dịch vụ: Thiết kế xây lắp, xây dựng, lắp đặt (không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị), thử nghiệm và vận hành thử, đào tạo, bảo hành, quản lý gói thầu và dịch vụ khác: áp dụng tỷ lệ là 5%

Đối với dịch vụ vận chuyển; xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị: áp dụng tỷ lệ là 3%.

– Về thuế TNDN: Tỷ lệ thuế TNDN tính trên doanh thu tính thuế cụ thể như sau:

Đối với máy móc, thiết bị: áp dụng tỷ lệ là 1%

Đối với dịch vụ: Thiết kế xây lắp, thử nghiệm và vân hành thử, đào tạo, bảo hành, quản lý gói thầu và dịch vụ khác: áp dụng tỷ lệ là 5%

Đối với dịch vụ vận chuyển, xây dựng, lắp đặt có bao thầu hoặc không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị: áp dụng tỷ lệ là 2%.

Thuế nhà thầu trong trường hợp sử dụng nhà thầu phụ (Công văn số 2044/TCT-CS ngày 28/05/2018 của Tổng cục thuế)

Công ty là Nhà thầu phụ nước ngoài thực hiện công việc được quy định tại Hợp đồng nhà thầu ký với Nhà thầu chính có giao bớt một phần giá trị công việc cho nhà thầu phụ Việt Nam mà các nhà thầu phụ Việt Nam này không nằm trong danh sách nhà thầu và các hạng mục tương ứng được liệt kê kèm theo Hợp đồng nhà thầu ký giữa Nhà thầu chính với bên Việt Nam thì doanh thu tính thuế TNDN của Công ty không được tính trừ phần giá trị công việc, giá trị thuê máy móc, thiết bị, thuê nhân công… do nhà thầu phụ Việt Nam thực hiện.

Tỷ giá tính thuế nhà thầu nước ngoài – Thuế NTNN (Công văn số 2586/TCT-CS ngày 28/6/2018 của Tổng cục thuế và Công văn số 48097/CT-TTHT ngày 10/07/2018 của Cục thuế Hà Nội)

Từ ngày 01/01/2015, trường hợp Nhà thầu nước ngoài có tài khoản mở tại Ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam phát sinh doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá mua vào của NHTM nơi Nhà thầu nước ngoài mở tài khoản tại thời điểm phát sinh giao dịch thanh toán.

Trường hợp Nhà thầu nước ngoài không mở tài khoản tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam nhưng nhận được doanh thu bằng ngoại tệ (đô la Mỹ) do Bên Việt Nam thanh toán cho nhà thầu nước ngoài thông qua tài khoản mở tại ngân hàng thương mại tại Việt Nam của Bên Việt Nam thì áp dụng tỷ giá bán ra của ngân hàng thương mại nơi Bên Việt Nam mở tài khoản để quy đổi doanh thu tính thuế của Nhà thầu nước ngoài từ đô la Mỹ sang đồng Việt Nam theo quy định. Đối với doanh thu quy đổi từ các ngoại tệ khác ra đồng Việt Nam thì sử dụng tỷ giá tính chéo của Đồng Việt Nam với một số ngoại tệ khác để xác định trị giá tính thuế theo quy định tại Điều 3 Quyết định 2730/QĐ-NHNN.

Dịch vụ chuyển phát từ Việt Nam sang nước ngoài (Công văn số 2157/TCT-CS ngày 04/6/2018 của Tổng cục thuế)

Trường hợp một Công ty tại Việt Nam ký hợp đồng hợp tác vận chuyển bưu chính với Công ty khác ở nước ngoài để vận chuyển, giao nhận bưu phẩm (gồm giấy phép hải quan, báo chí, tạp chí, sách, các tài liệu, hồ sơ in ấn, mẫu và sản phẩm thương mại) theo hai chiều từ Việt Nam đi nước ngoài và ngược lại thì thuế nhà thầu ( Thuế NTNN ) được áp dụng đối với dịch vụ chuyển phát theo chiều Việt Nam đi nước ngoài theo quy định nêu trên. Trường hợp chia cước thanh toán dịch vụ bưu chính quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài theo quy định của Luật Bưu chính, các điều ước quốc tế về Bưu chính mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia ký kết mà các dịch vụ này được thực hiện ở ngoài Việt Nam thì thuộc đối tượng không áp dụng Thông tư số 103/2014/TT-BTC.

Cấp mã số thuế để kê khai nộp thuế nhà thầu theo phương pháp hỗn hợp (Công văn số 3065/TCT-KK ngày 09/8/2018 của Tổng cục thuế)

Trường hợp thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam muốn tham gia hoạt động kinh doanh dưới hình thức nhà thầu nước ngoài không thành lập pháp nhân tại Việt Nam và ký kết thông qua các hợp đồng thương mại với khách hàng Việt Nam thì phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu theo quy định tại Nghị định số 90/2007/NĐ-CP ngày 31/5/2007 của Chính phủ quy định về quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu do cơ quan có thẩm quyền cấp, thương nhân nước ngoài thực hiện đăng ký thuế theo quy định tại Khoản 3 Điều 7 Thông tư 95/2016/TT-BTC.

Việc thực hiện kê khai, nộp thuế nhà thầu ( Thuế NTNN ) theo phương pháp hỗn hợp của thương nhân nước ngoài sau khi đăng ký thuế được thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 4431/TCT-KK ngày 23/9/2016 của Tổng cục Thuế về việc kê khai thuế nhà thầu.

Thế Nào Là Nhà Thầu Nước Ngoài?

Theo quy định của pháp luật về đấu thầu thì: “Nhà thầu nước ngoài là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài hoặc cá nhân mang quốc tịch nước ngoài tham dự thầu tại Việt Nam” và “Nhà thầu trong nước là tổ chức được thành lập theo pháp luật Việt Nam hoặc cá nhân mang quốc tịch Việt Nam tham dự thầu.”

Mở rộng ra ở các lĩnh vực khác, có thể hiểu nhà thầu nước ngoài là tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; và cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam.

Vậy cá nhân nào được coi là cư trú tại Việt Nam? Theo pháp luật về cư trú, thì “Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú” . “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.

Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.

Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.

Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú”.

Theo như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam ký kết và hướng dẫn của Thông tư số 205/2013/TT-BTC của Bộ Tài Chính thì “cơ sở thường trú” là một cơ sở kinh doanh cố định của một doanh nghiệp, thông qua đó, doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình. Để được xem là có cơ sở thường trú ở Việt Nam, thì một tổ chức nước ngoài phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

“Duy trì tại Việt Nam một “cơ sở” như một tòa nhà, một văn phòng hoặc một phần của tòa nhà hay văn phòng đó, một phương tiện hoặc thiết bị,…; và

Cơ sở này có tính chất cố định, nghĩa là được thiết lập tại một địa điểm xác định và/hoặc được duy trì thường xuyên. Tính cố định của cơ sở kinh doanh không nhất thiết phụ thuộc vào việc cơ sở đó phải được gắn liền với một vị trí địa lý cụ thể trong một độ dài thời gian nhất định; và

Doanh nghiệp tiến hành toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở này.”

Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật thì “Hợp đồng nhà thầu là hợp đồng, thỏa thuận hoặc cam kết của nhà thầu nước ngoài với bên Việt Nam”. Kết hợp với khái niệm này, ta có thể hiểu nhà thầu nước ngoài là một bên trong quan hệ hợp đồng nhà thầu, là chủ thể trực tiếp tham gia vào quan hệ này với bên Việt Nam.

Đạo Đức Công Vụ Trong Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt Nam

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

BÙI THỊ HỒNG VÂN

§¹O §øC C¤NG Vô TRONG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI – 2014

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Hồng Vân

MỤC LỤC

Công vụ, công chức và đạo đức công chức ………………………………. 7

1.1.1.

Công vụ ………………………………………………………………………………….. 7

1.1.2.

Công chức …………………………………………………………………………….. 10

1.1.3.

Quan niệm về đạo đức công chức …………………………………………….. 11

1.2.

Đạo đức công vụ …………………………………………………………………… 14

1.2.1.

Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ …………………… 14

1.2.2.

Quá trình hình thành đạo đức công vụ ………………………………………. 25

Kết luận chƣơng 1 …………………………………………………………………………….. 32 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ……………………………………………. 33 2.1.

Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở Việt Nam ………………………………………………………………………………. 33

2.1.1.

Quá trình hình thành và phát triển chế định đạo đức công vụ trong pháp luật Việt Nam ………………………………………………………… 33

2.1.2.

Đạo đức công vụ theo pháp luật Việt Nam hiện nay …………………… 36

2.2.

Thực trạng đạo đức công vụ của công chức …………………………… 41

2.2.1.

Việc thực hiện trách nhiệm, bổn phận của công chức …………………. 41

2.2.2.

Những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ ………………………….. 42

2.2.3.

Nguyên nhân hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ …………………. 53

Kết luận chƣơng 2 …………………………………………………………………………….. 60 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY …………………………………………………………………………… 61 3.1.

Phƣơng hƣớng nâng cao đạo đức công vụ ở nƣớc ta hiện nay … 61

3.1.1.

Nâng cao đạo đức công vụ nhằm xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân …………………………………………………………………………… 61

3.1.2.

Nâng cao đạo đức công vụ theo hướng xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp và đội ngũ công chức vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có trình độ chuyên môn …………………………………………………….. 65

3.2.1.

Pháp điển hóa các giá trị đạo đức công chức thành những cam kết bắt buộc công chức thực hiện trong thực thi công vụ …………….. 72

3.2.2.

Xây dựng chế định tuyển dụng và sát hạch công chức thường xuyên …… 81

3.2.3.

Tăng cường công tác thanh tra công vụ, kiểm tra giám sát, ngăn ngừa và xử phạt vi phạm nhằm nâng cao đạo đức công vụ ………….. 83

3.2.4.

Thực hiện trách nhiệm giải trình của công chức trong thực thi công vụ…… 86

3.2.5.

Tăng cường giáo dục đạo đức công vụ ……………………………………… 89

3.2.6.

Nâng cao đạo đức công vụ trên cơ sở xây dựng chế độ vật chất, phúc lợi xã hội phù hợp…………………………………………………………… 94

Kết luận Chƣơng 3 ……………………………………………………………………………. 99 KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………….. 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………… 102

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính đòi hỏi xây dựng một nền hành chính chính quy, chuyên nghiệp thực sự là của dân, do dân, vì dân, cùng với quá trình đó là “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”[15]. Những phẩm chất đó như là những biểu hiện tập trung đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và chuyển đổi từ nền hành chính cai quản sang nền hành chính phục vụ thực hiện các dịch vụ công đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công vụ của tất cả mọi đối tượng cán bộ, công chức, viên chức khi thực thi công vụ. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu vấn đề Đạo đức công vụ không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Sở dĩ như vậy là vì lý do chủ yếu sau đây: Một là: Đạo đức công vụ là vấn đề cơ bản nhất để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội. Có thể nói sau khi xây dựng dựng được hệ thống chính sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chức năng quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện thế nào, hiệu quả, hiệu lực ra sao phụ thuộc đáng kể vào việc thực thi công vụ của đội ngũ công chức nhà nước. Nói cách khác đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ có ảnh hưởng quyết định. Vì vậy nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ cấp bách trong tiến trình cải cách nền hành chính. Hai là: Nhà nước ta luôn xác định nhân tố con người đóng vai trò then chốt trong công cuộc cải cách hành chính, xây dựng được một đội ngũ công chức giỏi về nghiệp vụ và đáp ứng được những chuẩn mực của đạo đức công vụ là một trong những yêu cầu cấp bách góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng thời nâng cao đạo đức công vụ còn là một trong những công cụ hữu hiệu phục vụ cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực.

1

Ba là: Trong nhà nước pháp quyền, người dân có vị trí đặc biệt. Xu hướng chung là các chức năng của nhà nước đang hướng tới phục vụ, đáp ứng lợi ích của người dân. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó mục tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Với bản chất như vậy và để thực hiện mục tiêu đó thì đội ngũ công chức phải thực sự là người có đạo đức. Hơn nữa trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công vụ phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới. Bốn là: về phương diện thực tiễn, sau 28 năm tiến hành công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Tình trạng trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức đang có nhiều vấn đề; suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức. Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân, trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đại hội XI của Đảng nhận định: Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước, đe dọa sự ổn định của đất nước [15]. Như vậy việc nghiên cứu đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay để tìm ra phương hướng, giải pháp khắc phục tình trạng này đã trở thành một đòi hỏi bức thiết không chỉ của nền hành chính quốc gia, mà còn là nhu cầu của toàn xã hội. Về phương diện lý luận, mặc dù trong những năm gần đây, chúng ta đã có những công trình, đề tài nghiên cứu về công vụ, công chức, đạo đức cán bộ, công chức. Song từ góc độ của Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật và trong môi trường xây dựng nhà nước pháp quyền để nghiên cứu đạo đức công vụ vẫn còn bỏ

2

3

trong khuôn khổ giới hạn của luận văn thạc sỹ, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về đạo đức công vụ của công chức hành chính nhà nước. Đây cũng là sự tự giới hạn của việc nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước, thông qua các hoạt động thực thi công vụ của công chức. Khi đánh giá thực trạng, luận văn nhấn mạnh hạn chế, yếu kém, nguyên nhân của nó chủ yếu trên các lĩnh vực: thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng và phát triển đội ngũ công chức và chỉ giới hạn trong hoạt động công vụ của công chức từ năm 1986 đến nay. 5. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài Ở nước ta có nhiều đề tài công trình khoa học ở nhiều giác độ, phạm vi, giới hạn khác nhau về vấn đề đạo đức công vụ. Học viên đã tiếp cận một số công trình khoa học về Đạo đức công vụ được công bố như: – Đề tài khoa học cấp bộ “Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của TS. Nguyễn Ngọc Hiến – Học viện hành chính quốc gia, chủ nhiệm đề tài.Công trình này – Tìm hiểu về nền hành chính nhà nước của tác giả Nguyễn Hữu Khiển, năm 2003. – Đạo đức trong nền công vụ của nhóm tác giả Tô tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo biên soạn năm 2002; Đề tài này giới thiệu các kinh nghiệm cũng như giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam về nâng cao đạo đức trong nền công vụ. – Công vụ, công chức nhà nước của tác giả Phạm Hồng Thái, ấn hành năm 2004. Công trình này tập trung làm rõ những khía cạnh lý luận, pháp lý về công vụ, công chức nhà nước, nhưng công trình không có những luận bàn về đạo đức công vụ, đạo đức công chức trong thi hành công vụ. – Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, của tác giả Bùi Thế Vĩnh, ấn hành năm 2003.Các tác giả đã đưa ra một số giải pháp chung để xây dựng đạo đức cán bộ công chức trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, sự vận dụng kinh nghiệm nước ngoài trong việc thúc đẩy tiến trình luật hóa đạo đức công chức ở Việt Nam.

4

– Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay – Vấn đề và giải pháp của tác giả Nguyễn Duy Quý, ấn hành năm 2006. – Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của hai tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc, ấn hành năm 2003 – Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức công vụ (Đề tài cấp bộ 2006 – 2007) do tác giải Phạm Hồng Thái làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã có những luận bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ, đồng thời đã phân tích sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ. – Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay- thực trạng và xu hướng biến động(Đề tài cấp bộ năm 20022003 do Nguyễn Thế Kiệt – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài). – Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005 của Mai Xuân Hợi. – Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ của Lê thị Hằng – Viện triết học năm 2008. – Trách nhiệm công chức và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ của Cao Minh Công – Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 2012 – Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Hữu Khiển đăng trên Tạp chí triết học số 10/2003. – Nghiên cứu so sánh qui định về đạo đức công vụ của một số quốc gia và Việt Nam của tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan, ấn hành năm 2012. Đề tài này đề cập đến những vấn đề chung về đạo đức công vụ, so sánh đối chiếu quy định về đạo đức công vụ của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho hệ thống quản lý đạo đức công vụ của Việt Nam. – Luật cán bộ công chức năm 2008; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật tố cáo năm 2011; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các công trình trên đã đề cập đến nhiều nội dung phong phú như bàn về đạo

5

6

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1.1. Công vụ, công chức và đạo đức công chức Để nghiên cứu, đánh giá về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trước hết cần thống nhất quan điểm về công vụ, công chức, đạo đức công vụ của công chức, do đó Luận văn giành một phần để làm rõ những khái niệm công vụ, công chức. Vì nếu không xác định rõ, thì mọi điều viết về đạo đức công vụ cũng không có tính xác định. 1.1.1. Công vụ Công vụ là khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong khoa học chính trị, nhất là trong hoạt động của nhà nước. Trong cuốn Thuật ngữ hành chính, các tác giả viết: Công vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo qui định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội [60]. Khái niệm công vụ gắn chặt với nền hành chính nhà nước, là một loại lao động đặc thù thể hiện bộ phận quản lý nhà nước; thực thi pháp luật, đưa pháp luật và đời sống; quản lý và sử dụng hiệu quả công sản và ngân sách nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. “Công vụ là một hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trong quá trình quản lý các mặt của đời sống xã hội” [22]. Nói đến công vụ là nói đến hoạt động của nhà nước, một lĩnh vực đặc thù, mang tính quyền lực công, được thực thi bởi một đội ngũ công chức hành chính nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong quá trình quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đề cập đến công vụ là đề cập đến trách nhiệm của công chức thực hiện quyền và nghĩa vụ

7

nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Về mặt pháp lý, trách nhiệm thường được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ. Do đó, công vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của pháp luật. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ có hiệu lực, hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ. Các quốc gia có thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau thì quan niệm về hoạt động công vụ cũng có điểm khác nhau. Tuy nhiên, bản chất và mục tiêu cuối cùng của hoạt động công vụ đều giống nhau. Khái niệm công vụ có thể được xem xét, hiểu và tiếp cận dưới nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau: Thứ nhất, công vụ được hiểu là hoạt động của công chức thực hiện hoạt động hành chính nhà nước. Thứ hai, công vụ được hiểu là hoạt động của công chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước và lực lượng vũ trang. Cách hiểu này nhằm tách biệt những hoạt động có tính chính trị với với hoạt động có tính chuyên môn nghề nghiệp. Thứ ba, công vụ được hiểu là các công việc của nhà nước, có nghĩa hoạt động của mọi thiết chế, tổ chức nhà nước đều thực hiện công vụ. Cách hiểu như vậy quá rộng, gần giống với quan niệm về dịch vụ công của các nước Anh, Mỹ, người ta coi cả hoạt động lập pháp, quốc phòng an ninh cũng là “dịch vụ công”. Nhưng quan niệm này cũng có yếu tố hợp lý là có thể thấy mọi hoạt động của nhà nước trong một chừng mực nhất định đều mang tính chất phục vụ nhân dân. Trong đó những hoạt động mạng tính chất quyền lực công thì gọi là công vụ, còn những hoạt động của các tổ chức sự nghiệp nhằm mục đích phục vụ công cộng thì gọi là “dịch vụ công”. Thứ tư, công vụ được hiểu là hoạt động của bộ, công chức, viên chức hoạt động trong mọi cơ quan, đơn vị sự nghiệp của nhà nước và cả cán bộ, chiến sỹ làm việc trong các lực lượng vũ trang. Từ đây nảy sinh vấn đề là không nhận thấy cái đặc thù của từng loại hoạt động nhà nước: hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng điểm chung nhất của các quan niệm đó là tính chất phục vụ xã hội của hoạt động công vụ đều

8

9

1.1.2. Công chức Công chức là bộ phận cấu thành của nền công vụ. Khái niệm công chức bao giờ cũng song hành và gắn liền với sự hình thành, phát sinh và phát triển của nền công vụ. Năng lực, hiệu quả hoạt động của nền công vụ được quyết định bởi trình độ, năng lực của công chức. Công chức được hiểu một cách chung nhất là những người thừa hành quyền lực nhà nước trong thực thi công vụ một cách chuyên nghiệp. Thuật ngữ công chức ở Việt Nam được sử dụng qua mỗi giai đoạn lịch sử với phạm vi rộng, hẹp khác nhau, theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ công chức năm 2008: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [47, Điều 4, Khoản 2]. Bên cạnh đó Luật còn quy định “công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Khác với các nước, công chức ở Việt Nam bao gồm: công chức trong các cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam, công chức Nhà nước, công chức của các tổ chức chính trị – xã hội, công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, công chức trong cơ quan, đơn vị quân đội và công an. Như vậy, nghiên cứu đạo đức công vụ là nghiên cứu đạo đức trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức.

10

1.1.3. Quan niệm về đạo đức công chức Thuật ngữ “đạo đức” trong tiếng Anh là morality, trong tiếng Pháp là marale đều có gốc từ tiếng La tinh là moris, có nghĩa là những lề thói đạo nghĩa. Trong tiếng Hy Lạp, thuật ngữ ethicos (hạnh kiểm, luân lý) cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Sau này, người phương Tây cũng dùng cả thuật ngữ ethique với nghĩa là đạo đức. Trong tiếng Việt thuật ngữ “đạo đức” được giải thích theo nhiều cách khác nhau: Đạo đức là “Phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội” “phẩm chất tốt đẹp của con người” [63]. Có người giải thích đạo đức là từ ghép, được tạo bởi hai thành tố “đạo” và ” đức”; “đạo” là “một cái đạo lý, một cái lẽ nhất định, là ai cũng phải noi đấy mà theo”; ” đức” có nghĩa là ” cái đạo để lập thân, thiện, làm thiện, cảm hóa đến người [14]. Theo cách giải thích của Đào Duy Anh thì chữ “đạo đức” được tạo bởi hai thành tố “đạo” và “đức”, “đạo” có nghĩa là đường đi, còn “đức” có nghĩa là có nghĩa là nguyên lý tự nhiên, được vào lòng người là đức – Cái lý – pháp người ta nên noi theo [morale,vertu 1]. Như vậy, về mặt ngôn ngữ đạo đức được hiểu ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, đạo đức là những chuẩn mực, những quy tắc trong hành vi, cách xử sự giữa con người với con người; Thứ hai đạo đức là công lý, lẽ phải, chuẩn mực phù hợp với quy luật của tự nhiên và xã hội, là “cái lẽ sống, lẽ phải, đạo ở đời”; Thứ ba đạo đức phẩm chất, nét đẹp của con người. Như vậy, về mặt ngữ, nghĩa của từ, người phương Đông và phương Tây đều gặp nhau ở một điểm là đều coi “đạo đức” là những chuẩn mực xã hội, mang tính hướng thiện, là công lý, lẽ phải nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi con người. Từ đó có thể hiểu: đạo đức là “tổng hợp những nguyên tắc, quan điểm, chuẩn mực về điều thiện, điều ác, lương tâm, lẽ công bằng, điều vinh, điều nhục… nhằm hướng con người đến cái chân, cái thiện, cái mỹ…; chống lại cái giả, cái ác, cái xấu”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa thế giới, đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức, Người đã sử dụng nhiều phạm trù, khái niệm đạo đức như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính đã có trong Nho giáo; dân chủ, công bằng, tự do, bình đẳng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hylạp, La Mã.

11

Người không sử dụng thuật ngữ “đạo đức cán bộ, công chức, mà sử dụng thuật ngữ đạo đức cách mạng, đạo đức cán bộ”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong [32]. Người căn dặn cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý; cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm; cái gì mới mà hay, thì ta phải làm [29]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để trau dồi đạo đức cách mạng, người cán bộ phải luôn rèn luyện, tu dưỡng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quan liêu. Theo Hồ Chí Minh thì “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [33]. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được khái quát thành nội dung sau: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đạo đức cách mạng cũng chính là đạo đức của người cán bộ, công chức. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang; Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân [30]. Người còn nói Đạo đức của người cách mạng không phải là những giáo điều suông mà là đạo đức của hành động. Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong [30]. Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức đó, đạo đức cán bộ còn là” lời nói đi đôi với việc làm (ngôn hành hợp nhất), nêu gương làm tốt, đấu tranh và khắc phục thói hư, tật xấu. “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức, muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” [30]. Như vậy, cán bộ phải là người phục vụ trung thành của nhân dân, gắn bó

12

chặt chẽ với nhân dân, hết lòng, hết sức tận tuỵ phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đó là tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức người cán bộ cách mạng, đó cũng chính là đạo đức cán bộ, công chức Trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng vừa chuyên, rèn luyện đạo đức theo gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đạo đức cán bộ, công chức theo quan điểm của Đảng ta được khái quát thành các nội dung sau: – Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. – Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. – Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Mặt khác các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Đảng cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời, chú ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện [17]. Những quan điểm chuẩn mực chung về đạo đức cán bộ, đảng viên được cụ thể hóa trong nhiều văn bản của Đảng, đặc biệt là những quy định về những việc đảng viên không được làm, đồng thời cũng là những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, công chức không chỉ trong công vụ, mà còn trong lối sống sinh hoạt hàng ngày của họ.

13

Trên cơ sở quan niệm về đạo đức, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cán bộ, có thể hiểu: Đạo đức công chức là hệ thống các nguyên tắc, quan điểm, quy phạm về lẽ phải, sự công bằng, về điều thiện, cái ác, cái đúng, cái sai trong đời sống xã hội, đời sống nhà nước thể hiện ý chí, tâm tư tình cảm của công chức, nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi hành vi, cách xử sự của công chức trong hoạt động công vụ, nhiệm vụ, cũng như thái độ của họ trong công vụ. Tư tưởng, quan điểm về đạo đức công chức là cơ sở nền tảng để xây dựng một nền đạo đức công vụ phục vụ nhân dân của công chức. Những tư tưởng, quan điểm đó là cơ sở để thể chế hóa thành pháp luật. 1.2. Đạo đức công vụ 1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ Đạo đức công vụ ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền tảng của quan điểm: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [44]. Nhân dân là chủ, cán bộ, công chức là công bộc của dân. Trong điều kiện như vậy, đạo đức công vụ trong tình hình mới có những nội dung cơ bản sau đây: Cán bộ, công chức phải là công bộc của dân, tận tụy phục vụ dân. Mọi hoạt động đều lấy nhân dân làm mục đích phục vụ. Công chức các cơ quan quản lý hành chính tham mưu xây dựng, ban hành các chính sách, thể chế quản lý; phải quán triệt tinh thần phục vụ dân, thuận lợi cho dân trong làm ăn, sinh sống, thực hiện các quyền con người; thuận tiện trong việc cung cấp các dịch vụ hành chính cho dân; không sách nhiễu phiền hà, không được cửa quyền khi giải quyết việc của dân với thái độ xin cho, ban ơn (thể hiện trong việc giải quyết thủ tục hành chính, cấp các loại giấy phép). Công chức làm việc ở các đơn vị sự nghiệp phải cung cấp tốt dịch vụ cho cá nhân, tổ chức, xóa bỏ cơ chế xin cho, ban ơn thời bao cấp, đồng thời hạn chế tình trạng thương mại hóa khi chuyển sang cơ chế thị trường (thể hiện ở các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, các dịch vụ văn hóa tinh thần, các loại dịch vụ dân

14

sinh khác). Công chức, viên chức, nhân viên (thuộc khu vực doanh nghiệp, khu vực công) cung cấp các loại dịch vụ mang tính chất dịch vụ hàng hóa phải đảm bảo chất lượng tốt, giá thành hợp lý, không phiền nhiễu khách hàng (các loại dịch vụ điện, nước, bưu điện, môi trường, cơ sở hạ tầng). Cán bộ, công chức có thái độ, tinh thần làm việc tận tụy, có trách nhiệm cao với công việc. Sự tận tụy phải được thể hiện ở hiệu quả, chất lượng công vụ. Công chức hành chính thể hiện ở hiệu quả tham mưu, góp phần xây dựng các chính sách, thể chế đúng, khả thi tạo được động lực mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Công chức chuyên môn sự nghiệp thể hiện ở sự tận tụy với công việc; có sản phẩm, phục vụ có chất lượng, cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đảm bảo đúng là một Nhà nước phục vụ ở các lĩnh vực y tế, giáo dục, dân sinh khác; có sức cạnh tranh tốt hơn so với dịch vụ ngoài Nhà nước; thể hiện rõ tính ưu việt của Nhà nước. Phẩm chất trong sạch của cán bộ, công chức: Không tham nhũng, tham ô tài sản Nhà nước và của dân. Thực hiện công vụ vô tư, với thái độ phục vụ không đòi hỏi, sách nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức, nhân dân. Không vụ lợi, lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để mưu lợi riêng. Lành mạnh trong lối sống, sinh hoạt.Thực hiện tiết kiệm cho Nhà nước, cơ quan. Có lối sống giản dị, phong cách làm việc, quan hệ với đồng nghiệp, nhân dân tốt. Tinh thần đồng đội, hợp tác trong thực hiện công vụ: Có tinh thần hợp tác, phối hợp với đồng nghiệp trong cơ quan để cùng thực hiện công vu; biết tập hợp, phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể; Nhận việc khó về mình, không tranh công, đổ lỗi; gặp việc khó cùng hợp tác tìm cách giải quyết; luôn có tinh thần giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành nhiệm vụ. Tạo cơ hội để đồng nghiệp phát triển, tiến bộ; Tinh thần vì tập thể, vì việc công; xây dựng cơ quan, tập thể thành đơn vị mạnh. Tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo: Đạo đức công vụ thể hiện ở tính kỷ luật, thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và theo sự phân công của cấp trên. Tận tâm, tận lực hoàn thành nhiệm vụ với ý thức tổ chức kỷ luật và tính tự giác cao của người cán bộ, công chức.Kỷ luật công vụ thể hiện ở việc chấp hành nghiêm các quy định, nội quy, chế độ làm việc của cơ quan, tổ chức. Không tùy

15

tiện, tự do, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương, làm việc tùy thích cá nhân… Cùng với tính kỷ luật, đạo đức công vụ bao hàm và đòi hỏi phải có tinh thần sáng tạo, phát huy sáng kiến của mỗi cán bộ, công chức để hoàn thành nhiệm vụ. Không thụ động, máy móc, quan liêu. Có sự sáng tạo trong tư duy, phong cách, phương pháp làm việc; đề xuất sáng kiến để hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao. Kết hợp đúng đắn giữa tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo là một phẩm chất cơ bản rất cần thiết của đạo đức công vụ trong một nền công vụ hiện đại, phát triển. Đạo đức công vụ khác với đạo đức thông thường nói chung: Thứ nhất: chủ thể đặt ra các qui tắc đạo đức công vụ là cơ quan nhà nước, tổ chức, những nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước hoặc được hình thành dần trong đời sống nhà nước bởi công chức và xã hội; do đó một phần đạo đức công vụ được thể chế hóa trong các văn bản của cơ quan nhà nước. Thứ hai, việc thực hiện các qui tắc đạo đức công vụ vừa mạng tính tự nguyện,tự giác, vừa mang tính bắt buộc. Người vi phạm quy tắc đạo đức công vụ có thể bị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý kỷ luật.Việc áp dụng các biện pháp chế tài này là sự đánh giá chính thống của xã hội đối với người vi phạm các qui tắc đạo đức công vụ. Ngoài ra, các qui tắc đạo đức công vụ còn mang tính xã hội; do đó khi không thực hiện các qui tắc đạo đức công vụ, người công chức còn bị cộng đồng đánh giá. Đạo đức công vụ là một hiện tượng có cơ cấu của nó. Khi xem xét đạo đức công vụ tức đạo đức của công chức khi thực thi công việc của nhà nước, phải dựa trên hai yếu tố cơ bản: Công việc: tức mọi công việc đều phải hướng đến giá trị cốt lõi của công việc đó. Công việc do công chức đảm nhận mang ý nghĩa xã hội rất cao và do đó cần phải thực sự quan tâm đến giá trị công việc…Con người thực thi công việc đó: Để hướng đến những giá trị cốt lõi, con người thực thi công việc đó phải là “người có đạo đức”. Tuy nhiên, đạo đức con người trong trường hợp công chức là sự tổng hòa của các loại đạo đức: cá nhân; công dân, xã hội và nhà nước. Hai yếu tố trên tạo nên đạo đức công vụ. Và cả hai yếu tố đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa với nhau tạo nên điều kiện “cần và đủ” cho sự hình thành đạo đức

16

Cập nhật thông tin chi tiết về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Nhà Thầu Nước Ngoài Hoạt Động Tại Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!