Xu Hướng 9/2023 # Quy Trình Bổ Nhiệm Cán Bộ Năm 2023 # Top 16 Xem Nhiều | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Quy Trình Bổ Nhiệm Cán Bộ Mới Nhất Năm 2023 # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Quy Trình Bổ Nhiệm Cán Bộ Năm 2023 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong bài viết này, TBT Việt Nam sẽ giúp Quý độc giả hiểu rõ hơn về quy trình bổ nhiệm cán bộ. Mời Quý vị cùng theo dõi nội dung bài viết:

Bổ nhiệm cán bộ là gì?

Để hiểu rõ vấn đề bổ nhiệm cán bộ cần nắm rõ định nghĩa cán bộ, bổ nhiệm.

Theo quy định tại Điều 4 Luật Cán bộ Công chức 2008 (sửa đổi, bổ sung 2023):

” Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước “.

Như vậy, cán bộ là một chức danh dành cho cá nhân và được phân thành bốn cấp, đó là cán bộ cấp trung ương, cán bộ cấp tỉnh, cán bộ cấp huyện và cán bộ cấp xã.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Luật Cán bộ Công chức 2008 (sửa đổi, bổ sung 2023): ” Bổ nhiệm là việc cán bộ, công chức được quyết định giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc một ngạch theo quy định của pháp luật “.

Từ các định nghĩa trên có thể khái quát định nghĩa bổ nhiệm cán bộ như sau: Bổ nhiệm cán bộ là việc một cá nhân được quyết định giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc một ngạch theo quy định của pháp luật.

Hồ sơ bổ nhiệm cán bộ

Hồ sơ bổ nhiệm cán bộ bao gồm những giấy tờ cơ bản sau:

– Sơ yếu lí lịch theo mẫu quy định, có xác nhận của cơ quan quản lý cán bộ (không quá 06 tháng tính đến ngày trình);

– Giấy khai sinh (bản sao);

– Giấy chứng nhận sức khỏe để đảm bảo đủ điều kiện về sức khỏe có thể đảm nhận và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao (do cơ quan y tế có thẩm quyền cấp và có giá trị trong 06 tháng);

– Bản kê khai tài sản, thu nhập theo mẫu quy định;

– Các văn bằng, chứng chỉ về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, lí luận chính trị,…do cơ quan có thẩm quyền chứng nhận;

– Các nhận xét, đánh giá theo quy định bao gồm những nội dung cơ bản như:

+ Tự nhận xét, đánh giá của cán bộ có xác nhận của chủ thể có thẩm quyền; + Nhận xét, đánh giá của chi bộ nơi cá nhân được bổ nhiệm công tác; + Nhận xét, đánh giá của phòng, ban phụ trách cán sự đảng; + Nhận xét, đánh giá của đại diện cấp ủy nơi cán bộ cư trú về trách nhiệm của công dân của bản thân và gia đình cá nhân được bổ nhiệm.

– Kết luận về tiêu chuẩn chính trị và kết quả thẩm định về tiêu chuẩn, hồ sơ cá nhân được bổ nhiệm;

– Một số các giấy tờ, tài liệu khác theo quy định của pháp luật.

– Tờ trình về chủ trương, dự kiến phân công công tác đối với cán bộ được đề nghị bổ nhiệm;

– Văn bản thẩm định, báo cáo của của đơn vị tổ chức hành chính;

– Văn bản đề xuất nhân sự đề nghị bổ nhiệm của đơn vị;

– Bản nhận xét của chi bộ về tiêu chuẩn chính trị của cá nhân được bổ nhiệm;

– Và các giấy tờ khác tùy theo từng ngành, tổ chức.

Quy trình bổ nhiệm cán bộ

Theo quy định tại Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg, quy trình bổ nhiệm cán bộ được khái quát chung như sau:

Bước 1. Cơ quan, đơn vị có nhu cầu bổ nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt về chủ trương, số lượng và dự kiến phân công công tác đối với chức vụ sẽ bổ nhiệm.

Bước 2. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền đồng ý, lãnh đạo đơn vị đề xuất nhân sự cụ thể qua các bước sau:

– Thủ trưởng và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề xuất phương án nhân sự căn cứ vào nguồn cán bộ trong quy hoạch hoặc ý kiến giới thiệu của cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị;

– Tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị xem xét kết luận những vấn đề mới nảy sinh (nếu có);

– Đảng ủy hoặc Thường vụ Đảng uỷ cơ quan có ý kiến bằng văn bản về nhân sự được đề nghị bổ nhiệm;

– Lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự hoặc cấp có thẩm quyền giới thiệu;

Bước 3. Ban hành quyết định bổ nhiệm.

Lưu ý: Đối với các trường hợp đề nghị cấp có thẩm quyền bổ nhiệm phải làm tờ trình kèm theo các hồ sơ cần thiết theo quy định hiện hành.

Trường hợp cần tư vấn thêm về Quy trình bổ nhiệm cán bộ, Quý vị có thể liên hệ chúng tôi theo Tổng đài tư vấn 1900 6560, trân trọng!

Chống Tiêu Cực Trong Công Tác Bổ Nhiệm, Đề Bạt Và Quy Hoạch Cán Bộ

Ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)

Ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương chủ trì hội nghị.

Dự hội nghị có các vị lãnh đạo Ban Tổ chức Trung ương; đại diện lãnh đạo Bộ Nội vụ, Ban Công tác đại biểu Quốc hội; thường trực các tỉnh ủy, thành ủy, lãnh đạo, chuyên viên ban tổ chức các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương. Hội nghị được tổ chức trực tuyến đến 71 điểm cầu trên cả nước.

Trong tháng 12 và quý IV-2023, toàn ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã tập trung cao độ, quyết liệt, nêu cao tinh thần trách nhiệm, khẩn trương triển khai khối lượng lớn các nhiệm vụ công tác bảo đảm tiến độ, chất lượng, nổi bật là: Tham mưu ban hành Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Tham mưu Đề án Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược và hoàn thành giới thiệu nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ 2023-2026 trình xin ý kiến Trung ương; Tham mưu cấp ủy triển khai việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội.

Ban Tổ chức Trung ương chủ trì tham mưu việc “Lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư”, trình Hội nghị Trung ương 9 khóa XII. Toàn Ngành đã tập trung cao độ tham mưu, hoàn thành 9 đề án, nhiệm vụ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư; khẩn trương tiến hành hướng dẫn kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp theo quy định; tiến hành sơ kết, tổng kết, tham gia ý kiến vào các dự thảo văn bản của Trung ương và cụ thể hóa tại địa phương, đã tạo sức lan tỏa, đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết về công tác tổ chức xây dựng Đảng trong toàn hệ thống chính trị.

Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính đánh giá những kết quả toàn ngành đạt được tương đối toàn diện về mọi mặt, cơ bản hoàn thành các đề án, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; góp phần ngăn chặn đẩy lùi tiêu cực trong công tác quy hoạch và bỏ phiếu tín nhiệm, góp phần nâng cao uy tín, củng cố niềm tin của nhân dân với cấp ủy, tổ chức đảng.

Đề cập tới một số nhiệm vụ trọng tâm của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng trong quý I-2023, đồng chí Phạm Minh Chính nêu rõ, toàn ngành tiếp tục tham mưu tổ chức triển khai, thực hiện tích cực, có hiệu quả các nghị quyết Trung ương 4, 6, 7, 8 Khóa XII: Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XI, XII, Kế hoạch 04-KH/TW về xây dựng, chỉnh đốn đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, Kế hoạch 07-KH/TW về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị về sáp nhập các đơn vị hành chính cấp huyện, làng xã chưa đủ tiêu chí theo Nghị quyết của Quốc hội và Kết luận số 34 của Bộ Chính trị gắn với tình hình thực tế địa phương, cơ quan, đơn vị; Nghị quyết số 26-NQ/TW và Kế hoạch 10-KH/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; thực hiện Quy định 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương trở thành việc làm tự giác, thường xuyên và nếp văn hóa của mỗi cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc quy định của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên.

Ngành Tổ chức Xây dựng Đảng triển khai Kế hoạch, phương hướng thực hiện chương trình công tác năm 2023. Trong đó, theo dự kiến chương trình công tác năm 2023, trong quý I-2023, toàn ngành triển khai thực hiện bốn đề án, nhiệm vụ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Tập trung tham mưu chuẩn bị tốt các điều kiện tổ chức hội nghị toàn quốc ngành tổ chức xây dựng Đảng năm 2023.

Tham mưu tổ chức triển khai hoạt động của các tiểu ban chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Ban tổ chức cấp ủy các cấp tham mưu thành lập các tiểu ban chuẩn bị đại hội đại biểu của cấp mình, đồng thời, tham gia tích cực các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng và đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2023-2023…. Ngành tập trung tổng kết công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ này, tập trung tổng kết Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI, XI gắn với thực hiện Chỉ thị 05 và nghiên cứu tổng kết Điều lệ Đảng – ông Phạm Minh Chính nêu rõ.

Toàn ngành tiếp tục rà soát đánh giá cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 Khóa XII, các quy định của Đảng mới ban hành và nắm chắc tình hình cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý nhằm kịp thời tham mưu nhân sự thay thế cán bộ đến tuổi nghỉ hưu, nghỉ công tác, đồng thời chuẩn bị tốt công tác nhân sự nhiệm kỳ tới.

Ông Phạm Minh Chính nêu rõ cần phải nắm chắc công tác cán bộ để tổ chức kiện toàn, đặc biệt chống tiêu cực trong công tác bổ nhiệm, đề bạt và quy hoạch cán bộ đồng thời khẩn trương thực hiện hoàn thành việc kiểm điểm tập thể, cá nhân ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương năm 2023; việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, đảng viên theo đúng quy định, hướng dẫn của Trung ương, nhất là theo Quy định số 132-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 16-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương, đảm bảo đánh giá chính xác sự phấn đấu và hiệu quả của tổ chức đảng, đảng viên.

Ngành Tổ chức Xây dựng Đảng tiếp tục tham mưu thực hiện và giải quyết đầy đủ, kịp thời, chặt chẽ các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động theo phân cấp, nhất là các chế độ, chính sách Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2023. Tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh, nhất là triển khai Kế hoạch tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đặc biệt chú ý nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ sát với tình hình thực tế.

Tham mưu cấp ủy các cấp tiếp tục tăng cường công tác xây dựng, củng cố các loại hình tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tiếp tục theo dõi nắm bắt tình hình công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, diễn biến nội bộ và an ninh chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị… đồng thời thẩm định tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác quy hoạch, nhất là quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương và công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, đảng viên đi công tác, học tập ở nước ngoài đảm bảo kịp thời, chính xác theo đúng quy định.

Ông Phạm Minh Chính lưu ý cần tiếp tục coi trọng và đẩy mạnh công tác truyền thông, tập trung vào những vấn đề mới, được dư luận quan tâm; đồng thời, tăng cường phản ánh những mặt trái, hạn chế, yếu kém để rút kinh nghiệm và kịp thời chấn chỉnh.

Ngành tích cực chuẩn bị Lễ công bố và trao Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng mang tên “Búa liềm vàng” lần thứ III – năm 2023 gắn với kỷ niệm Ngày thành lập Đảng 3-2 nhằm tạo sự lan tỏa, đồng thuận sâu rộng trong toàn xã hội và trong nhân dân về công tác xây dựng Đảng.

Bảo Vệ Đề Án Trước Bổ Nhiệm Cán Bộ, Ghi Nhận Từ Quảng Ninh

Ngoài việc chuyển tải những ý tưởng có tính khả thi trong công việc thông qua nghiên cứu, trình bày và kiến nghị giải pháp thực hiện, khi bảo vệ đề án, ứng viên phải trả lời các câu hỏi chất vấn trực tiếp trước hội đồng thẩm định và đại biểu dự hội nghị. Ðó là cơ hội bộc lộ năng lực, trình độ, mặt mạnh, yếu của ứng viên một cách rõ nét. Ðây cũng được coi là khóa “đào tạo” ngắn hạn nhằm rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp vấn đề; kỹ năng thuyết trình, xử lý tình huống – một trong những yêu cầu quan trọng đối với cán bộ trên cương vị lãnh đạo, quản lý ở tầm cao hơn. Cùng quan điểm này, đồng chí Trần Thế Khoa, người bảo vệ thành công đề án “Xây dựng và phát triển Trung tâm giáo dục thường xuyên và đào tạo cán bộ tỉnh Quảng Ninh thành cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học uy tín, đáp ứng yêu cầu hội nhập”, và được bổ nhiệm Phó Giám đốc Trung tâm, cho rằng, cách làm này tạo tâm lý thoải mái cho cán bộ trẻ khi phải “cạnh tranh” với các ứng viên lớn tuổi hơn. Sự công khai, minh bạch trong bổ nhiệm cán bộ đã cho cán bộ trẻ niềm tin, xác định những mục tiêu cụ thể để phấn đấu. Và quan trọng hơn là sau bổ nhiệm, những giải pháp đã đề ra trong đề án trở thành hiện thực.

Khác với cảnh đìu hiu thường thấy ở một số trung tâm giáo dục thường xuyên, khi đến Trung tâm giáo dục thường xuyên và đào tạo cán bộ tỉnh Quảng Ninh, các lớp học ngoại ngữ hoạt động khá sôi nổi. Vừa tiễn hai cô giáo người nước ngoài, đồng chí Trần Thế Khoa phấn khởi chia sẻ: “Chúng tôi đang nghiên cứu, từng bước áp dụng phương pháp học ngoại ngữ của các trường đại học ở Ca-na-đa, Ấn Ðộ, Mỹ, Trung Quốc… Ngoài luyện kỹ năng nghe, nói với người nước ngoài, giảng dạy bằng giáo án điện tử, chúng tôi khuyến khích hình thức học ngoài trời, với nhiều hoạt động như hướng dẫn du lịch tại các điểm danh lam thắng cảnh, viện bảo tàng…”. Là một giáo viên vững chuyên môn, từng đảm nhiệm cương vị Trưởng khoa tiếng Anh, được đào tạo cơ bản ở trong nước và nước ngoài, khi được bổ nhiệm Phó Giám đốc, đồng chí luôn trăn trở cùng Ban Giám đốc tìm hướng phát triển Trung tâm theo hướng đào tạo đa ngành, mở rộng hợp tác quốc tế, liên kết với các trường đại học trong nước mở các lớp đào tạo văn bằng 2; chú trọng công tác bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học và các lớp bồi dưỡng ngắn hạn khác cho cán bộ, công chức nhằm thực hiện tốt Ðề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2011-2023.

Cách làm cần nhân rộng

Ðã có nhiều năm gắn bó, tâm huyết với công tác tổ chức – cán bộ, đồng chí Ðỗ Thị Hoàng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Quảng Ninh, chia sẻ với chúng tôi những câu chuyện về “nghề” tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ trẻ. Ðồng chí cho biết, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ, nhất là ở địa phương có những đặc thù như Quảng Ninh, Tỉnh ủy đã tập trung đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước; chú trọng đổi mới quy trình đề bạt, bổ nhiệm cán bộ theo hướng mở rộng dân chủ, công khai. Quy định về việc bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ thông qua bảo vệ đề án là một nét mới, vừa góp phần chọn đúng cán bộ có năng lực, vừa tạo động lực để cán bộ phấn đấu. Sau khi hiệu quả từ việc thực hiện quy định này được kiểm chứng, nhiều cấp ủy, địa phương, đơn vị đã vận dụng, học theo như: các thành ủy: Hạ Long, Cẩm Phả; các huyện ủy: Ðông Triều, Tiên Yên; các sở: Kế hoạch và Ðầu tư, Công thương, Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường; cơ quan Tỉnh đoàn, Hội Nông dân…

Cách làm của Quảng Ninh là, trên cơ sở cán bộ được quy hoạch khi thống nhất danh sách cán bộ dự kiến bổ nhiệm (từ hai đồng chí trở lên), tổ chức sẽ thông báo cho cán bộ có tên trong danh sách chuẩn bị đề án công tác. Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ và lãnh đạo đơn vị có nhu cầu bổ nhiệm thống nhất định hướng nội dung đề án để cán bộ chuẩn bị. Cán bộ được dự kiến bổ nhiệm phải trình bày đề án trước Hội đồng thẩm định (có từ năm đến bảy người) và lấy phiếu giới thiệu tín nhiệm của toàn thể cán bộ, công chức cơ quan, đối với đơn vị có dưới 50 người trong biên chế; với đơn vị có hơn 50 người thì thành phần gồm cán bộ chủ chốt là trưởng, phó phòng ban, đơn vị trực thuộc và chuyên viên chính trở lên. Hội đồng thẩm định và cán bộ dự hội nghị có thể nêu câu hỏi chất vấn trực tiếp. Kết quả kiểm phiếu tín nhiệm và kết quả đánh giá chất lượng đề án bằng hình thức bỏ phiếu kín của các thành viên Hội đồng thẩm định là cơ sở quan trọng để xem xét đánh giá, bổ nhiệm cán bộ. Trường hợp không có người nào trong danh sách đạt số phiếu tín nhiệm hơn 50% trở lên thì phải báo cáo bằng văn bản, trình cấp có thẩm quyền xem xét.

Từ năm 2006 đến nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh đã giới thiệu để bầu cử 274 đồng chí; luân chuyển, điều động và bổ nhiệm 260 đồng chí, trong đó có 69 đồng chí trình bày đề án công tác (đạt 100% so tổng số được bổ nhiệm tại chỗ, bằng 26,5% so tổng số cán bộ được bố trí, bổ nhiệm) và bổ nhiệm lại 61 đồng chí (trình bày báo cáo kiểm điểm công tác và phương hướng nhiệm vụ trước khi bỏ phiếu tín nhiệm đề nghị bổ nhiệm lại). Cách làm này đã góp phần nâng cao chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ các cấp của Quảng Ninh.

Có thể có cán bộ sau bổ nhiệm vẫn chưa thể hiện hết vai trò trên cương vị mới, và không phải đề án nào cũng đi vào cuộc sống như mong muốn. Tuy nhiên, cách làm của Quảng Ninh thể hiện sự sáng tạo, đề cao tính dân chủ, công khai trong công tác cán bộ; giúp cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị đánh giá đầy đủ, khách quan năng lực cán bộ; là cơ sở giám sát, nhận xét quá trình thực hiện nhiệm vụ đối với cán bộ được bổ nhiệm một cách công tâm, minh bạch./.

Quy Định Mới Về Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã

Theo Thông tư, công chức cấp xã phải có đủ các tiêu chuẩn chung quy định tại Điều 3 Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn, cụ thể: đủ 18 tuổi trở lên; tốt nghiệp trung học phổ thông; về trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt nghiệp đại học trở lên của ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên đối với công chức làm việc tại các xã: miền núi, vùng cao, biên giới, hải đảo, xã đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; được cấp chứng chỉ sử dụng công nghệ thông tin theo chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông.

Căn cứ tiêu chuẩn của công chức cấp xã quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư này và điều kiện thực tế của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định: ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh công chức cấp xã trong từng kỳ tuyển dụng; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với từng chức danh công chức cấp xã về quản lý nhà nước, lý luận chính trị; ngoại ngữ, tiếng dân tộc thiểu số (đối với địa bàn công tác phải sử dụng tiếng dân tộc thiểu số trong hoạt động công vụ).

Ngoài ra, các quy định tại Nghị định số 34/2023/NĐ-CP và Thông tư này là căn cứ để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện tổ chức thực hiện việc quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, thực hiện các chế độ, chính sách hoạt thực hiện tinh giản biên chế. Đối với công chức đã tuyển dụng trước khi Thông tư này có hiệu lực thi hành mà chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư này thì trong thời hạn 05 năm kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành phải đáp ứng đủ theo quy định.

Điều kiện, tiêu chuẩn tuyển dụng công chức cấp xã trong trường hợp đặc biệt

Việc xác định tốt nghiệp đại học loại giỏi trở lên ở trong nước, loại khá trở lên ở nước ngoài được căn cứ vào xếp loại tại bằng tốt nghiệp.

Các trường hợp tuyển dụng đặc biệt quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 21 Nghị định số 112/2011/NĐ-CP đã được sửa đổi bổ sung tại Khoản 12 Điều 1 Nghị định số 34/2023/NĐ-CP có thời gian 5 năm (đủ 60 tháng) trở lên làm công việc phù hợp với yêu cầu của chức danh công chức cấp xã cần tuyển dụng (không kể thời gian tập sự, thử việc), có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Nếu có thời gian công tác không liên tục, chưa nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần thì được cộng dồn, gồm: viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập, đã có thời gian làm viên chức 05 năm (đủ 60 tháng) trở lên, tính từ thời điểm được tuyển dụng viên chức (không kể thời gian tập sự); người hưởng lương trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an) và người làm công tác cơ yếu, đã có thời gian công tác 05 năm (đủ 60 tháng) trở lên trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an) hoặc làm công tác cơ yếu, tính từ thời điểm có quyết định tuyển dụng chính thức vào quân đội, công an hoặc tại các tổ chức của lực lượng cơ yếu.

Cán bộ cấp xã giữ chức vụ quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP khi thôi đảm nhiệm chức ụ cán bộ cấp xã thì được xem xét, tiếp nhận vào công chức cấp xã không qua thi tuyển nếu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn: có đủ các tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 1 Thông tư này; còn số lượng và vị trí chức danh công chức cấp xã cần tuyển dụng; đáp ứng được ngay yêu cầu nhiệm vụ của chức danh công chức cấp xã cần tuyển dụng; trường hợp trước khi bầu giữ chức vụ cán bộ cấp xã chưa phải là công chức cấp xã thì thời gian giữ chức vụ cán bộ cấp xã ít nhất là 05 năm (đủ 60 tháng) trở lên; tại thời điểm tiếp nhận không trong thời gian bị xem xét kỷ luật; bị điều tra, truy tố, xét xử và không trong thời hạn bị thi hành kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi tiếp nhận công chức cấp xã không qua thi tuyển, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải thành lập Hội đồng kiểm tra, sát hạch, trừ trường hợp trước khi được bầu giữ chức vụ cán bộ cấp xã đã là công chức cấp xã.

Miễn thực hiện chế độ tập sự

Theo Thông tư, người được tuyển dụng vào chức danh công chức cấp xã: Văn phòng – thống kê; Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính – kế toán; Tư pháp – hộ tịch; Văn hóa – xã hội, được miễn thực hiện chế độ tập sự khi có đủ các điều kiện sau: đã có thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc bằng hoặc lớn hơn thời gian tập sự quy định tại Khoản 2 Điều 22 Nghị định số 112/2011/NĐ-CP tương ứng với chức danh công chức cấp xã được tuyển dụng; trong thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 8 Thông tư này, người được tuyển dụng công chức cấp xã đã làm những công việc phù hợp với nhiệm vụ của chức danh công chức cấp xã được tuyển dụng.

Công chức làm việc tại các xã: miền núi, vùng cao, biên giới, hải đảo, xã đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian tập sự được hưởng 100% bậc lương khởi điểm theo trình độ đào tạo. Thời gian tập sự không được tính vào thời gian để xét nâng lương theo niên hạn.

Người được tuyển dụng công chức cấp xã nếu không có đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 8 Thông tư này thì phải thực hiện chế độ tập sự; thời gian người được tuyển dụng đã làm những công việc quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 8 của Thông tư này (nếu có) được tính vào thời gian tập sự.

Mỗi chức danh công chức cấp xã được bố trí 01 người trở lên, Ủy ban nhân dân cáp tỉnh quy định việc bố trí tăng thêm người ở một số chức danh công chức cấp xã phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng xã, phường, thị trấn (trừ chức danh Trưởng Công an xã và Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp xã) nhưng không vượt quá tổng số cán bộ, công chức cấp xã quy định tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 34/2023/NĐ-CP.

Căn cứ vào quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về việc giao số lượng cán bộ, công chức cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định tuyển dụng, phân công, điều động, luân chuyển và bố trí người đảm nhiệm các chức danh công chức cấp xã phù hợp với chuyên ngành đào tạo và đáp ứng các yêu cầu của vị trí chức danh công chức.

Ngoài ra, Thông tư cũng quy định chi tiết việc xếp lương đối với cán bộ, công chức cấp xã; kiêm nhiệm chức danh và mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh; người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố…

Giải quyết chính sách

Giải quyết chính sách đối với số cán bộ, công chức cấp xã dôi dư do đã bố trí vượt quá quy định tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 34/2023/NĐ-CP và số lượng người hoạt động chuyên trách dôi dư do đã bố trí vượt quá quy định tại Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 34/2023/NĐ-CP; công chức cấp xã dôi dư do không đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 1 Thông tư này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tổng hợp và đề xuất với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện: tinh giản biên chế theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế; Nghị định số 113/2023/NĐ-CP ngày 31/8/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP; giải quyết chế độ thôi việc theo quy định của Luật Cán bộ, công chức; nghỉ hưu trước tuổi; nghỉ công tác chờ đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 09/3/2023 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội; điều chuyển, bổ sung cho các xã, phường, thị trấn thuộc địa bàn cấp huyện hoặc ở địa bàn cấp huyện khác thuộc tỉnh; hoặc chuyển thành công chức từ cấp huyện trở lên theo quy định tại Nghị định số 161/2023/NĐ-CP ngày 29/11/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập…

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 25 tháng 12 năm 2023./.

Anh Cao

Cán Bộ Và Công Tác Cán Bộ Trong Tình Hình Mới

Ngày đăng: 19/01/2023 03:32

Hội nghị trực tuyến toàn quốc tập huấn về công tác tổ chức, cán bộ và quản lý công chức, viên chức tháng 06/2023

Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về: quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền trách nhiệm cá nhân và tập thể”(1).

Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn đáp ứng nhiệm vụ tr­ước mắt và lâu dài. Đảng ta yêu cầu: để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Đảng bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, cần khắc phục tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp; làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ cấp chiến lược, đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ và Người coi đây là công việc gốc của Đảng. Bản lĩnh người cán bộ cách mạng là sự kết tinh những phẩm chất nhân cách ở họ, tạo nên năng lực “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, thể hiện tập trung ở tính kiên định, sáng tạo, quyết làm và biết làm. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải có một đội ngũ cán bộ như thế cách mạng mới thắng lợi. Người khẳng định: “Phải đào tạo một đội ngũ cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc. Có thế Đảng mới thành công”(2). Người cán bộ có bản lĩnh là người rất trung thành, kiên định với sự nghiệp cách mạng, bao giờ cũng kiên quyết làm theo sự phân công của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào cũng không thay đổi. Đó là người biết tùy cơ ứng biến, hết sức sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong bất cứ thời kỳ nào của cách mạng, cán bộ và công tác cán bộ cũng là vấn đề trọng yếu. Công tác cán bộ chẳng những có ý nghĩa to lớn đối với công tác xây dựng Đảng, mà còn góp phần quyết định đến việc thành bại trong tổ chức và lãnh đạo cách mạng của Đảng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém“(3).

Cán bộ và công tác cán bộ là công việc quan trọng của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, đòi hỏi những ngư­ời làm công tác cán bộ (cấp ủy, thủ trư­ởng và cơ quan cán bộ) phải nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm, đư­ờng lối của Đảng về công tác cán bộ. Thời gian qua, công tác cán bộ đã đạt đ­ược những thành tích nhất định. Đảng ta có đội ngũ cán bộ đ­ược rèn luyện, thử thách trong chiến đấu, học tập, công tác, nhiệt tình, trách nhiệm, hăng hái, năng động và sáng tạo; đại bộ phận giữ được phẩm chất, đạo đức, có quan hệ máu thịt với nhân dân, đ­ược nhân dân tín nhiệm, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đó là nguồn lực to lớn hết sức qúy báu cần đư­ợc tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Bố trí và sử dụng cán bộ là nội dung quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, là yếu tố cơ bản để xem xét, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện công tác cán bộ của cơ quan chức năng và cấp ủy quản lý trực tiếp cán bộ. Bố trí, sử dụng cán bộ đúng và hiệu quả không chỉ đòi hỏi tính nguyên tắc mà còn phải linh hoạt và khéo léo, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác cán bộ qua các thời kỳ cách mạng đã góp phần xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng trong các cấp, các ngành; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; triển khai hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn. Nhờ làm tốt công tác tuyển chọn, bố trí sử dụng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng ngày càng tăng về số lượng, phát triển về chất lượng và trở thành nguồn lực quan trọng của Đảng qua các thời kỳ và trên mọi lĩnh vực.

Tuy nhiên, thực tê cho thấy đang còn nhiều bất cập, yếu kém trong công tác cán bộ. Không chỉ là những tồn tại trong việc coi nhẹ nguyên tắc, bỏ qua một số quy trình xem xét đánh giá, bổ nhiệm và sử dụng, ở nhiều nơi còn xuất hiện tình trạng tiêu cực trong bố trí, sử dụng cán bộ. Do chư­a làm tốt công tác quy hoạch cán bộ nên đã dẫn đến hệ quả là trong các cơ quan đảng, đoàn thể và nhà n­ước còn tình trạng vừa thiếu, vừa thừa: thiếu cán bộ có trình độ, năng lực, chuyên môn giỏi, cán bộ kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật đầu ngành, thừa cán bộ yếu cả về phẩm chất đạo đức lẫn năng lực chuyên môn và chưa được đào tạo cơ bản… Những bất cập, yếu kém đó là một trong những nguyên nhân làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, làm chậm tiến trình cải cách và đổi mới đất nước. Nguy hiểm hơn, đó là kẽ hở để những kẻ mang nặng chủ nghĩa cá nhân chui vào hàng ngũ của Đảng, là tiền đề cho nạn tham nhũng phát triển gây bất bình trong xã hội.

Nguyên nhân của thực trạng yếu kém đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo đảm sự liên thông, gắn kết”(4). Ngoài ra, còn có nguyên nhân là do các cơ quan tham mư­u không chủ động đề xuất xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ. Công tác quy hoạch ch­ưa đ­ược bàn bạc thống nhất, công khai và tập trung dân chủ trong các cấp ủy đảng, chư­a đ­ược coi là khâu trọng yếu trong công tác cán bộ. Công tác đào tạo nguồn cán bộ có trình độ cao còn bộc lộ những hạn chế; đào tạo, bồi dư­ỡng chư­a gắn với nhu cầu, kế hoạch sử dụng, ch­ưa nhằm vào mục tiêu, đối t­ượng cụ thể, nhiều trường hợp chủ yếu để đối phó với yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ; chất lư­ợng đào tạo, bồi dưỡng ch­ưa cao, quản lý đào tạo còn lỏng lẻo. Nhìn chung, công tác cán bộ các cấp còn nhiều bất cập, ch­ưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n­ước.

Nhận thức rõ điều này, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, có năng lực, nhất là: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài”(5). Ch­ương trình tổng thể cải cách hành chính nhà n­ước giai đoạn 2023 – 2023 đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển đất n­ước, đảm bảo đến năm 2023 đội ngũ cán bộ, công chức có số l­ượng, cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại; tuyệt đại bộ phận cán bộ có phẩm chất tốt và đủ năng lực thực thi công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất n­ước và phục vụ nhân dân.

Trước những yêu cầu nhiệm vụ của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, hơn lúc nào hết, các cơ quan chức năng, các cấp ủy đảng phải tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI), đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chính đốn Đảng”, tập trung thực hiện đổi mới phương pháp làm việc, trọng tâm là xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, đảng viên về số lượng và chất lượng, thực hiện tốt việc bố trí và sử dụng cán bộ. Công tác nhân sự cần phải được tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc và công tâm, tạo cơ sở cho việc bố trí đúng, sử dụng hiệu quả. Để làm tốt công tác bố trí, sử dụng cán bộ đòi hỏi phải tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ với các nội dung chính sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì trong việc bố trí, sử dụng cán bộ.

Sự vững mạnh của đội ngũ cán bộ, trước hết phụ thuộc vào trách nhiệm chính trị của cấp ủy và cán bộ chủ trì. Việc thực hiện các khâu, các bước trong công tác bố trí, sử dụng cán bộ đúng là kết quả của sự thống nhất trong nhận thức của cấp ủy, cán bộ chủ trì và của tập thể cán bộ, đảng viên. Do đó, song song với việc tiến hành chặt chẽ, đồng bộ các bước của công tác tổ chức cán bộ cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức, trước hết là đối với cấp ủy, cán bộ chủ trì. Việc tuyên truyền giáo dục phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác tổ chức và xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng. Cần tiến hành tốt các đợt sinh hoạt chính trị, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ để nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc bố trí, sử dụng cán bộ.

Hai là, đánh giá đúng cán bộ.

Nếu đánh giá đúng cán bộ sẽ bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý. Sinh thời, V.I.Lênin chỉ rõ: nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh hiện nay đó là then chốt, nếu không thế thì tất cả mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn. Để đánh giá đúng cán bộ, trước hết phải cụ thể hóa tiêu chuẩn đối với từng chức danh cán bộ. Đây là căn cứ, là tiêu chí rất quan trọng để các cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới. Có như thế thì người mới có tài, tài mới có dụng. Chỉ khi biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực.

Ba là, dân chủ, công khai, minh bạch trong bố trí, sử dụng cán bộ.

Dân chủ, công khai, minh bạch trong bố trí, sử dụng cán bộ là biểu hiện của việc chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng. Song song với phát huy trách nhiệm của các cấp ủy và người đứng đầu, cơ quan tổ chức cán bộ cần phải tạo điều kiện để đảng viên và nhân dân tham gia theo dõi, phản biện, giám sát kết quả phấn đấu, rèn luyện của cán bộ, làm cơ sở để điều chỉnh, bổ sung kế hoạch, quy hoạch, đồng thời góp phần ngăn ngừa những sai phạm, tiêu cực trong công tác cán bộ.

Trong bố trí, sử dụng cán bộ cần tránh quan niệm coi đây là công việc bí mật và chỉ lấy ý kiến của một vài người trong phạm vi hẹp làm quyết định của tập thể. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng cần làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đề cao vai trò trách nhiệm trong việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tất cả các khâu, các bước của việc bố trí, sử dụng cán bộ. Luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên, lên trước. Đồng thời, phải thực sự gương mẫu, tỉnh táo, trung thực, khách quan, công bằng, giữ vững tính nguyên tắc trong thực hiện.

Tổ chức đảng, đảng viên, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội cần đề cao, phát huy tinh thần trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ trì các cấp. Hướng dẫn và tổ chức cho quần chúng góp ý xây dựng đội ngũ cán bộ đúng nguyên tắc, đúng quy chế; kịp thời phát hiện, đấu tranh khắc phục những biểu hiện thiếu dân chủ, công khai, minh bạch, khắc phục cách làm chuyên quyền, độc đoán, cục bộ trong bố trí, sử dụng cán bộ.

Bốn là, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, gắn đào tạo với sử dụng.

Đảng ta khẳng định: nhân tài không phải là sản phẩm tự phát, mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu; tài năng có thể mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng chỗ, đúng lúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng và Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu, phải trọng nhân tài, trọng cán bộ. Có làm tốt công tác đào tạo cán bộ mới có thể có những cán bộ tốt phục vụ Đảng, phục vụ chế độ. Thực tế đã chứng minh, cơ quan, đơn vị nào không có cán bộ tốt, không được đào tạo cơ bản, làm việc theo lối chủ nghĩa kinh nghiệm thì chất lượng, hiệu quả công việc sẽ không cao, thiếu sự đột phá, thiếu sự sáng tạo.

Để xây dựng nguồn lực cán bộ có chất lượng, các cấp ủy, tổ chức đảng cần làm tốt công tác quy hoạch, tạo điều kiện để cán bộ tham gia các khóa đào tạo và bồi dưỡng. Nội dung đào tạo và bồi dưỡng phải sát thực tiễn, sát chức trách, nhiệm vụ của cán bộ. Song song với đào tạo và bồi dưỡng tại các nhà trường, học viện cần làm tốt công tác luân chuyển cán bộ và đưa cán bộ đi thực tế ở cơ sở để tích lũy kinh nghiệm và bồi dưỡng năng lực thực tiễn. Tránh lối làm việc theo chủ nghĩa kinh nghiệm, cán bộ không được đào tạo cơ bản, hoặc quá coi trọng bằng cấp mà không chú ý đến năng lực thực tiễn và sự tín nhiệm của quần chúng; không gắn chặt giữa đào tạo với sử dụng cán bộ. Khắc phục tình trạng sau khi bố trí không quan tâm đến kiểm tra, giám sát, không giúp đỡ cán bộ nên cán bộ không đáp ứng được yêu cầu của công việc.

Năm là, kịp thời bổ sung, hoàn thiện quy chế về việc sử dụng, bố trí cán bộ.

Đổi mới công tác tổ chức cán bộ trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện các văn bản pháp lý. Việc xây dựng, ban hành các quy chế về công tác cán bộ nói chung, bố trí, sử dụng cán bộ nói riêng sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, mọi người tham gia ý kiến có hiệu quả.

Cấp ủy và cán bộ chủ trì các cấp cần kịp thời rà soát, bổ sung các quy chế về công tác cán bộ. Quy định cụ thể việc thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt, cần có quy định về việc liên đới chịu trách nhiệm khi cán bộ giới thiệu nhân sự vào các cơ quan của Đảng, Nhà nước và xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút, không hoàn thành nhiệm vụ.

Cán bộ và công tác cán bộ là nội dung quan trọng, là công tác trọng yếu về tổ chức và xây dựng lực lượng của Đảng, nhân tố cơ bản quyết định mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị./.

PGS.TS KHQS. Trần Nam Chuân – Viện Chiến lược Quốc phòng

(1),(4),(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2023, tr. 205-206, tr.194, tr.207.

(2) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2002, tr.287.

(3) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, CTQG, H.1995, tr.269-273, 269.

tcnn.vn

Quy Định Mới Về Kỷ Luật Cán Bộ, Công Chức, Viên Chức

(Chinhphu.vn) – Chính phủ đã ban hành Nghị định số 112/2023/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.

Nghị định quy định rõ về nguyên tắc xử lý kỷ luật. Theo đó, xử lý kỷ luật phải đảm bảo khách quan, công bằng; công khai, minh bạch; nghiêm minh, đúng pháp luật.

Mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần bằng một hình thức kỷ luật. Trong cùng một thời điểm xem xét xử lý kỷ luật, nếu cán bộ, công chức, viên chức có từ 02 hành vi vi phạm trở lên thì bị xử lý kỷ luật về từng hành vi vi phạm và áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi vi phạm nặng nhất, trừ trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức bãi nhiệm, buộc thôi việc; không tách riêng từng nội dung vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức để xử lý kỷ luật nhiều lần với các hình thức kỷ luật khác nhau.

Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian thi hành quyết định kỷ luật tiếp tục có hành vi vi phạm thì bị áp dụng hình thức kỷ luật như sau: a- Nếu có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật ở hình thức nhẹ hơn hoặc bằng so với hình thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật đang thi hành; b- Nếu có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật ở hình thức nặng hơn so với hình thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi vi phạm mới.

Khi xem xét xử lý kỷ luật phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ tiếp thu và sửa chữa, việc khắc phục khuyết điểm, vi phạm, hậu quả đã gây ra.

Không áp dụng hình thức xử phạt hành chính hoặc hình thức kỷ luật đảng thay cho hình thức kỷ luật hành chính; xử lý kỷ luật hành chính không thay cho truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu hành vi vi phạm đến mức bị xử lý hình sự.

Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức đã bị xử lý kỷ luật đảng thì hình thức kỷ luật hành chính phải bảo đảm ở mức độ tương xứng với kỷ luật đảng. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật đảng, cơ quan, tổ chức, đơn vị phải xem xét, quyết định việc xử lý kỷ luật hành chính.

Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, tinh thần, danh dự, nhân phẩm trong quá trình xử lý kỷ luật.

Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm lần đầu đã bị xử lý kỷ luật mà trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày quyết định xử lý kỷ luật có hiệu lực có cùng hành vi vi phạm thì bị coi là tái phạm; ngoài thời hạn 24 tháng thì hành vi vi phạm đó được coi là vi phạm lần đầu nhưng được tính là tình tiết tăng nặng khi xem xét xử lý kỷ luật.

Các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật

Nghị định quy định rõ những trường hợp sau chưa xem xét xử lý kỷ luật:

1- Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian nghỉ hằng năm, nghỉ theo chế độ, nghỉ việc riêng được cấp có thẩm quyền cho phép.

2- Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian điều trị bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức; bị ốm nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền.

3- Cán bộ, công chức, viên chức là nữ giới đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc cán bộ, công chức, viên chức là nam giới (trong trường hợp vợ chết hoặc vì lý do khách quan, bất khả kháng khác) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

4- Cán bộ, công chức, viên chức đang bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật, trừ trường hợp theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

Các trường hợp được miễn trách nhiệm kỷ luật

Những trường hợp được miễn trách nhiệm kỷ luật gồm:

1- Được cơ quan có thẩm quyền xác nhận tình trạng mất năng lực hành vi dân sự khi có hành vi vi phạm.

2- Phải chấp hành quyết định của cấp trên theo quy định tại Khoản 5 Điều 9 Luật Cán bộ, công chức.

3- Được cấp có thẩm quyền xác nhận vi phạm trong tình thế cấp thiết, do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự khi thi hành công vụ.

4- Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm đến mức bị xử lý kỷ luật nhưng đã qua đời.

Các hành vi bị xử lý kỷ luật

Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức, viên chức; những việc cán bộ, công chức, viên chức không được làm; nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; vi phạm đạo đức, lối sống hoặc vi phạm pháp luật khác khi thi hành công vụ thì bị xem xét xử lý kỷ luật.

Mức độ của hành vi vi phạm được xác định như sau:

1- Vi phạm gây hậu quả ít nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ tác hại không lớn, tác động trong phạm vi nội bộ, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.

2- Vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ, tác hại lớn, tác động ngoài phạm vi nội bộ, gây dư luận xấu trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân, làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.

3- Vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ, tác hại rất lớn, phạm vi tác động đến toàn xã hội, gây dư luận rất bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân, làm mất uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.

4- Vi phạm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là vi phạm có tính chất, mức độ, tác hại đặc biệt lớn, phạm vi tác động sâu rộng đến toàn xã hội, gây dư luận đặc biệt bức xúc trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân, làm mất uy tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác.

Các hình thức xử lý kỷ luật

Nghị định quy định đối với cán bộ có 4 hình thức xử lý kỷ luật gồm: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm.

Đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có 4 hình thức xử lý kỷ luật gồm:  Khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; buộc thôi việc.

Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có 5 hình thức xử lý kỷ luật gồm: Khiển trách; cảnh cáo; giáng chức; cách chức; buộc thôi việc.

Vũ Phương Nhi

Cập nhật thông tin chi tiết về Quy Trình Bổ Nhiệm Cán Bộ Năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!