Xu Hướng 10/2023 # Quy Định Về Hưởng Bảo Hiểm Thất Nghiệp # Top 13 Xem Nhiều | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Quy Định Về Hưởng Bảo Hiểm Thất Nghiệp # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Quy Định Về Hưởng Bảo Hiểm Thất Nghiệp được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Căn cứ pháp lý

Luật Việc làm năm 2013;

Nghị định số 28/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp.

Bảo hiểm thất nghiệp là gì?

Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Người lao động tham gia ký kết các hợp đồng lao động/ hợp đồng làm việc sau phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp:

Hợp đồng lao động không xác định thời hạn

Hợp đồng lao động xác định thời hạn

Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.

Mức tiền đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động

Tại doanh nghiệp cả người lao động và người sử dụng lao động đều có nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động như sau:

Người lao động đóng 1% tiền lương tháng;

Người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia.

Trong đó, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, với mức lương đóng tối đa như sau:

Người lao động theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định: Mức lương đóng tối đa = 20 tháng lương tối thiểu vùng.

Tiền lương tính đóng bảo hiểm thất nghiệp 2023 Mức lương đóng bảo hiểm thất nghiệp tối thiểu năm 2023

Theo quy định tại điểm 2.6  khoản 2 Điều 6 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2023 thì mức lương tối thiểu đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động như sau:

Đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường thì mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng.

Đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh đòi hỏi lao động qua đào tạo, học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng;

Đối với người lao động làm công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 5%; công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương của công việc hoặc chức danh có độ phức tạp tương đương, làm việc trong điều kiện lao động bình thường.

Theo quy định của pháp luật hiện nay, lương tối thiểu vùng năm 2023 đã được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo phương án chưa tăng lương tối thiểu vùng năm 2023 như kết quả bỏ phiếu của Hội đồng Tiền lương Quốc gia; tức mức lương tối thiểu vùng 2023 vẫn sẽ giữa như năm 2023 là: Vùng 1 giữ nguyên 4.420.000 đồng/tháng; vùng 2 là  3.920.000 đồng/tháng; vùng 3 là 3.430.000 đồng/tháng; vùng 4 là 3.070.000 đồng/tháng.

Mức lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tối đa của năm 2023

Mức lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tối đa theo quy định khoản 3 Điều 6 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2023 sẽ là 20 tháng lương cơ sở.

Hiện nay theo Nghị định 128/2023/QH14 thì mức lương cơ sở của năm 2023 vẫn giữ nguyên là 1,49 triệu đồng/tháng.

Như vậy, mức lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tối đa là: 20 x 1,49 = 29,8 triệu đồng/tháng.

Chế độ khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Theo quy định tại Điều 42 Luật Việc làm 2014 thì người lao động nhận được 04 quyền lợi khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp, gồm:

Trợ cấp thất nghiệp.

Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm.

Hỗ trợ Học nghề.

Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.

Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp Người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau

Chấm dứt hợp đồng lao động trừ các trường hợp: người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động  đối với trường hợp giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng lao động không xác định thời hạn; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.

Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động.

Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:

Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;

Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;

Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;

Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;

Người lao động chết.

Cách tính hưởng bảo hiểm thất nghiệp

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp (nhưng không được quá 05 lần mức lương cơ sở hoặc mức lương tối thiểu vùng).

Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp bao gồm

Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp (Mẫu tải văn bản);

Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động;

Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;

Quyết định thôi việc;

Quyết định sa thải;

Quyết định kỷ luật buộc thôi việc;

Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

Sổ bảo hiểm xã hội.

Về thủ tục đăng ký để hưởng bảo hiểm thất nghiệp

Để hưởng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động thực hiện 04 bước sau:

Bước 1: Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, phải nộp trực tiếp 01 bộ hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp tới trung tâm dịch vụ việc làm.

Bước 2: Đến trung tâm dịch vụ việc làm nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp theo ngày ghi trong phiếu hẹn.

Bước 3: Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, tới cơ quan bảo hiểm xã hội nhận trợ cấp thất nghiệp tháng đầu tiên.

Bước 4: Hàng tháng đến trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện thông báo tìm kiếm việc làm theo đúng quy định.

Một số trường hợp đặc biệt

Người lao động được ủy quyền nộp hồ sơ hoặc gửi qua đường bưu điện trong những trường hợp sau:

Ốm đau, thai sản có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền.

Bị tai nạn có xác nhận của cảnh sát giao thông hoặc cơ sở y tế có thẩm quyền;

Hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, địch họa, dịch bệnh có xác nhận của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn.

Nếu hồ sơ đủ điều kiện: Nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp và nhận trợ cấp theo nội dung tại Quyết định.

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp

Mức hưởng hằng tháng = 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp.

Trong đó:

Với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, mức hưởng hằng tháng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.

Với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quy định (ngoài nhà nước) thì mức hưởng hằng tháng tối đa không qúa 05 lần mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.

Số tháng được hưởng trợ cấp thất nghiệp

Đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng bảo hiểm thất nghiệp: Được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp.

Cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Một người chỉ được nhiều lần tiền trợ cấp thất nghiệp nhưng chỉ được hưởng tối đa tổng không quá 12 tháng.

Những quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, về thủ tục được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Công ty Luật Việt An – Tiễn sĩ, Luật sư: Đỗ Thị Thu Hà sẽ nêu và tư vấn giúp các bạn qua video này: Cơ sở pháp lý, Luật áp dụng, Đối tượng nào được hưởng trợ cấp thất nghiệp, Điều kiện được hưởng trợ cấp thất nghiệp, Thủ tục bao gồm những gì, Cách tính bảo hiểm thất nghiệp như thế nào, Và những lưu lý khi làm thủ tục thất nghiệp được Ts. Ls Đỗ Thị Thu Hà hướng dẫn các bạn qua video sau:

Thất Nghiệp Và Bảo Hiểm Thất Nghiệp

Thất nghiệp là hiện tợng tất yếu, khách quan trong nền kinh tế thị trờng, nhng nếu tỷ lệ thất nghiệp vợt quá giới hạn cho phép thì nó sẽ trở thành vấn đề xã hội gay cấn, để lại hậu quả trên các mặt kinh tế, xã hội, tâm lý. Chính vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp ra đời nh một yếu tố đóng vai trò thăng bằng trong nền kinh tế, đối với ngời lao động, ngời sử dụng lao động, đối với Nhà nớv và xã hội. Thế nhng ở nớc ta mới chỉ có chế độ trợ cấp mất việc hoặc thôi việc, và các chế độ này đang bộc lộ một số nhợc điểm. Thực trạng đó đòi hỏi cần sớm có một chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam mà không nên tìm các giải pháp tình thế.

Thất nghiệp đợc coi là hiện tợng tất yếu của nền kinh tế thị trờng. Tuy nhiên, do ảnh hởng của ý thức hệ và nhận thức xã hội nên vấn đề thất nghiệp, đặc biệt là nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp đợc các nhà kinh tế học lý giải rất khác nhau. Ngời đầu tiên nghiên cứu về thất nghiệp là Uyliam Petty1. Do ảnh hởng của chủ nghĩa trọng thơng nên Uyliam Petty cho rằng, để giảm bớt tình trạng thất nghiệp thì phải đẩy mạnh xuất khẩu ra bên ngoài để thu hút lực lợng lao động thừa trong xã hội (đây cũng là một nguyên nhân để các nớc t bản mở rộng thuộc địa). Tuy nhiên, Adam Smith mới là ngời nghiên cứu một cách có hệ thống về việc làm và thất nghiệp, ông đã phân tích các nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp. Cùng với Ricardo, Adam Smith khẳng định rằng, nạn nhân khẩu thừa (tức thất nghiệp) là không thể tránh khỏi trong nền kinh tế thị trờng. Adam Smith cho rằng, việc sử dụng máy móc đã gạt bớt công nhân ra khỏi quá trình sản xuất. Đồng thời, sự biến động của sản xuất làm cho công việc của ngời lao động trở nên bấp bênh, dễ bị thất nghiệp. Ngoài ra, do sự tích tụ t bản trong quá trình phát triển của chủ nghĩa t bản nên những ngời sản xuất nhỏ dễ bị phá sản làm tăng đội quân thất nghiệp. Adam Smith còn cho rằng, sự can thiệp quá mức của Nhà nớc làm cản trở việc di chuyển của ngời lao động giữa các ngành trong thị trờng lao động, làm ảnh hởng đến việc giải quyết việc làm, tăng thêm tình trạng thất nghiệp. Sau Adam Smith và Ricardo, nhà kinh tế học Keynes trong ” Lý thuyết về việc làm, lãi suất và tiền tệ” đã nghiên cứu rất sâu về thất nghiệp trên cơ sở phân tích cung – cầu về lao động trong thị trờng và các mối quan hệ kinh tế xã hội khác. Keynes thừa nhận vấn đề thất nghiệp không phải là những hiện tợng độc lập của đời sống kinh tế mà là kết quả của những tính quy luật nhất định trong việc đạt đợc cân bằng của hệ thống kinh tế. Theo ông, nạn thất nghiệp sẽ tồn tại dới dạng ” bắt buộc“, là một trạng thái mà trong đó ” tổng cung về lao động của những ngời lao động muốn làm việc thì tại mức tiền lơng danh nghĩa đó nếu lớn hơn khối lợng làm việc hiện có“. Ông cho rằng, để giảm thất nghiệp thì cần phải tạo nhiều chỗ làm việc trên cơ sở tăng đầu t cho sản xuất. Lý thuyết của Keynes mặc dù còn những phiến diện và hạn chế của lịch sử nhng những luận điểm mà ông nêu ra vẫn còn có ý nghĩa đến ngày nay.

Khi nền kinh tế thị trờng phát triển ở mức cao, các lý thuyết về việc làm và thất nghiệp của Keynes và các nhà kinh tế học trớc đó đã tỏ ra bất lực trớc tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng mà các biện pháp nêu trong lý thuyết của họ đã không khắc phục đợc. Nhiều nhà kinh tế học đã đa ra những lý thuyết mới về thất nghiệp, phân tích các nguyên nhân và các tác động kinh tế, tác động xã hội của thất nghiệp. Một trong số các nhà kinh tế đa ra lý thuyết mới về thất nghiệp đó là Samuelson2. Ông đã phân tích cung-cầu về lao động để thấy rõ bản chất của thất nghiệp: “Thất nghiệp là một vấn đề trung tâm trong các xã hội hiện đại”. Khi mức thất nghiệp cao, tài nguyên bị lãng phí và thu nhập của dân giảm. Trong những thời kỳ nh vậy, nền kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn và ảnh hởng đến tình cảm và cuộc sống của gia đình trong nhân dân. Một thiệt hại nghiêm trọng nữa do thất nghiệp đa lại

đó là sự mất đi về số lợng là những khoản lãng phí to lớn nhất trong nền kinh tế hiện đại.

Dới giác độ của thị trờng lao động, theo tính chất đầy đủ của việc làm, ngời ta chia ra ngời có đủ việc làm, ngời thiếu việc làm và ngời thất nghiệp. Những khái niệm này đợc định nghĩa khác nhau ở từng nớc. Riêng khái niệm thất nghiệp hiện nay cũng rất khác nhau. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số ngời trong lực lợng lao động muốn làm việc, nhng không thể tìm đợc việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành.

Không phải ở tất cả các quốc gia, thất nghiệp đều xuất hiện dới một dạng thống nhất, mà ngợc lại nó đợc thể hiện dới các loại hình thức khác nhau. Nên việc tiến hành phân loại chúng là một việc làm hết sức cần thiết, nó vừa mang tính lý luận và thực tiễn. Qua việc phân loại sẽ giúp chúng ta hiểu thêm đợc bản chất của vấn đề, từ đó có những chính sách thích hợp.

Thất nghiệp đợc phân loại dựa trên một số căn cứ sau:

– Căn cứ vào ý chí của ngời lao động thì thất nghiệp đợc chia làm 2 loại: thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện.

+ Thất nghiệp tự nguyện là loại thất nghiệp tạm thời do ngời lao động chỉ đi làm việc với mức lơng cao, hay nói cách khác, những ngời thất nghiệp tự nguyện là những ngời không chấp nhận một mức lơng hiện hành trên thị trờng, nên không nhận việc mà trở nên thất nghiệp.

+ Thất nghiệp không tự nguyện là những ngời mong muốn làm việc với mức lơng hiện hành vào thời điểm đó, nhng vẫn không tìm đợc việc làm.

Phân loại thất nghiệp dựa trên căn cứ ý chí của ngời lao động giúp chúng ta phân định một cách rạch ròi các đối tợng đợc hởng trợ cấp thất nghiệp, từ đó bảo đảm cho quá trình quản lý và chi trả trợ cấp cho đối tợng này diễn ra nhanh chóng và chính xác, đáp ứng đợc yêu cầu của ngời lao động.

– Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, ngời ta chia thất nghiệp thành 3 loại: thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp tiềm tàng, thất nghiệp dai dẳng.

+ Thất nghiệp tạm thời: là loại thất nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, do thay đổi nghề nghiệp, thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi ở, hoặc trong thời gian mới tốt nghiệp ra trờng cha xin đ- ợc việc. Thất nghiệp tạm thời xảy ra ngay cả khi nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Phần lớn những ngời thất nghiệp tạm thời là những ngời thất nghiệp tự nguyện.

+ Thất nghiệp tiềm tàng: là tình trạng ngời lao động ở nông thôn không có việc làm trong một thời gian, vì không đúng mùa nông nghiệp. Loại thất nghiệp tiềm tàng này đang ngày càng phát triển, nhất là ở các nớc cha phát triển hoặc đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Phân loại dựa vào thời gian thất nghiệp tạo điều kiện để Nhà nớc xây dựng đợc các kế hoạch sắp xếp, bố trí thêm công việc cho ngời lao động, dần dần đảm bảo hạn chế thời gian để trống của họ. Đây là một việc làm hết sức cần thiết, vì có nh vậy, chúng ta mới tránh đợc những tiêu cực trong xã hội do thất nghiệp là nguyên nhân chính gây ra ” nhàn c vi bất thiện“.

+ Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa “cung” và “cầu” về lao động ở một số ngành hay một số vùng kinh tế.

+ Thất nghiệp chu kỳ: xảy ra khi tổng mức cầu về lao động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân thấp hơn tổng mức cung về lao động, tức là tơng ứng với thời kỳ suy thoái trong chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế thị trờng. Với cách phân loại này, Nhà nớc có thể đa ra đợc những chính sách u tiên, u đãi đối với một số ngành nghề đang cần thu hút lao động, hoặc nâng cao một số yêu cầu đối với ngời lao động làm việc trong một số ngành nghề đã quá d thừa về nhân công, từ đó lấy lại thế cân bằng giữa các ngành nghề và tránh sự suy thoái của nền kinh tế. Nếu Nhà nớc thực hiện tốt nhiệm vụ này thì thất nghiệp chu kỳ và thất nghiệp cơ cấu sẽ đợc hạn chế đợc một bớc.

Thất nghiệp dẫn đến “cú sốc” giảm sút thu nhập của hộ gia đình và mọi hậu quả tiêu cực đi kèm theo.ở Ba Lan, theo điều tra xã hội học năm 1991, 93% những gia đình có ngời thất nghiệp không đạt thu nhập ở mức nhu cầu tối thiểu của xã hội, 52% gia đình thuộc diện nghèo đói3. Rất tiếc, ở Việt Nam cha tiến hành điều tra về tình trạng thu nhập của những hộ gia đình có ngời bị thất nghiệp, nhng chắc chắn rằng họ đang phải ” vật lộn” với cuộc sống để duy trì sự tồn tại của mình.

– Chí phí bằng tiền (chủ yếu là tiền từ ngân sách và các quỹ xã hội)

– Lãng phí sản phẩm xã hội do không sử dụng đầy đủ các yếu tố sẵn có của sản xuất xã hội.

Tăng nhanh thất nghiệp trở thành một trong những vấn đề nhức nhối nhất của x∙ hội. Thất nghiệp không chỉ đồng nghĩa với tình trạng vật chất ngày càng xấu đi mà còn kèm theo những hậu quả tâm lý – xã hội mà ngời thất nghiệp cũng nh xã hội phải gánh chịu.

Những kết quả điều tra xã hội học và nghiên cứu kinh nghiệm chỉ ra rằng, ngời mất việc làm sẽ trải qua giai đoạn diễn biến tâm lý nhất định. Giai đoạn đầu là sự lạc quan và tin tởng tìm đợc chỗ làm việc mới; giai đoạn này thờng ngắn. Giai đoạn tiếp theo là thời kỳ bi quan và mất dần hy vọng. Thời gian thất nghiệp kéo dài dẫn đến vô vọng và buông xuôi số phận, ngời thất nghiệp mặc cảm với chính mình, suy giảm tinh thần và khả năng tự tìm việc làm, phôi phai dần những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp đã có.

Mất việc làm sẽ dẫn đến không thể thoả mãn những nhu cầu cơ bản nh: nhu cầu hoạt động trong một tổ chức, tiếp xúc với môi trờng ngoài gia đình, có cơ hội tự đánh giá và so sánh với những thành viên khác của tổ chức, định hớng hoạt động và tổ chức cơ cấu thời gian trong ngày, trong tuần…

Để thoát khỏi ” tam giác đen” này là rất khó khăn.

Bảo hiểm thất nghiệp có vai trò không chỉ đối với cá nhân ngời lao động, doanh nghiệp mà còn đóng vai trò thăng bằng trong nền kinh tế

– Đối với ngời lao động: Bảo hiểm thất nghiệp có hai chức năng chủ yếu: chức năng bảo vệ và chức năng khuyến khích. Trợ cấp thất nghiệp chính là khoản đợc sử dụng để giúp ngời lao động có đợc một cuộc sống tơng đối ổn định sau khi bị mất việc. Với chức năng khuyến khích, bảo hiểm thất nghiệp kích thích ngời thất nghiệp tích cực tìm việc làm và sẵn sàng làm việc. Do đó, bảo hiểm thất nghiệp vừa là công cụ góp phần giải quyết thất nghiệp, vừa là một chính sách xã hội rất quan trọng.

– Đối với ngời sử dụng lao động: do có bảo hiểm thất nghiệp, nên khi thất nghiệp xảy ra; họ không phải tăng thêm chi phí để trả trợ cấp mất việc làm cho ngời lao động. Hơn nữa, khi ngời lao động biết rõ việc đợc trợ cấp thất nghiệp, họ sẽ yên tâm làm việc hơn. Điều này khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định phát triển sản xuất.

– Đối với x∙hội: chế độ trợ cấp thất nghiệp là một chính sách xã hội. Nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ tạo ra sự ổn định về mặt xã hội và ngợc lại nó làm cho xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, mất ổn

Thất nghiệp tác động rất lớn đến tinh thần, tâm lý. Để ngăn chặn và hạn chế những hành vi tiêu cực có thể xảy ra khi ngời lao động bị mất việc làm, thì có lẽ không có biện pháp nào phát huy tác dụng nh chính sách trợ cấp thất nghiệp. Rõ ràng với chính sách này ngời lao động cũng yên tâm phần nào về cuộc sống để dồn sức lo tìm kiếm một công việc mới, ổn định dần và tiến đến việc cải thiện đời sống của gia đình mình trong tơng lai.

– Đối với Nhà nớc:bất kỳ một quốc gia nào, vào thời gian nào cũng tồn tại một đội quân thất nghiệp với mức độ và tỷ lệ khác nhau. Thờng trong giai đoạn hng thịnh của nền kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp thấp và trong giai đoạn khủng hoảng thì tỷ lệ này sẽ cao. Nếu có bảo hiểm thất nghiệp, gánh nặng ngân sách sẽ giảm hơn khi thất nghiệp xảy ra. Mặt khác, khi đã có trợ cấp thất nghiệp, Nhà nớc không còn phải lo đối phó với các cuộc biểu tình, không phải chi nhiều ngân sách để giải quyết các tệ nạn xã hội, tội phạm do nguyên nhân thất nghiệp gây ra.

Nh vậy, việc hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội là việc làm hết sức cần thiết vì quyền đợc bảo hiểm x∙hội là một trong những quyền cơ bản của con ngời. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948, có đoạn: ” Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên của xã hội có quyền đợc hởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó đợc đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con ngời...”. Điều 25 có ghi: ” Mỗi ngời có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khoẻ cho bản thân và gia đình, có quyền đợc bảo đảm trong trờng hợp thất nghiệp“.

Việc làm và giải quyết việc làm nhằm hạn chế thất nghiệp cũng là một phạm trù thuộc quyền con ngời: ” Tự do thoát khỏi nỗi sợ hãi về đói nghèo đã đợc tuyên bố nh là khát vọng cao cả nhất của loài ngời“6. ” Mọi ngời đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, đợc có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và đợc bảo vệ chống lại thất nghiệp“7.

Ông Rơ-nê Đuy-mông, một chuyên gia ngời Pháp trong cuốn “Một thế giới không thể chấp nhận đợc” đã nói: ” Đối với tôi, dù mầu sắc chính trị thế nào, quyền đầu tiên của con ngời là quyền đợc sống, quyền đợc ăn, sinh ra từ quyền đợc làm việc; nếu con ngời bị khai trừ ra khỏi xã hội hiện đại, bị tớc quyền đợc làm việc là một hình thức ám sát trá hình“. Nh vậy, quyền đợc bảo hiểm xã hội, quyền đợc làm việc là một trong những quyền cơ bản của con ngời. Nó không những đợc quy định ở trong pháp luật quốc gia mà còn đợc quy định trong pháp luật quốc tế. Sự ra đời của chế độ trợ cấp thất nghiệp đã biến quyền con ngời, quyền công dân trở thành hiện thực.

Sức ép về việc làm đối với nớc ta còn rất lớn. Vẫn còn một tỷ lệ cao số lao động cha có việc làm hay nói cách khác họ bị thất nghiệp8. Trong khi cha có bảo hiểm thất nghiệp để bù đắp một phần thu nhập do bị mất việc làm, theo quy định của Bộ luật Lao động, khi ngời lao động chấm dứt hợp đồng lao động thì đợc trợ cấp mất việc, hoặc trợ cấp thôi việc, do doanh nghiệp chịu trách nhiệm thanh toán 100%. Những quy định này bộc lộ một số nhợc điểm sau:

– Bộ luật Lao động có quy định về chế độ trợ cấp mất việc làm (Điều 17) và trợ cấp thôi việc (Điều

42) nhng chế độ này cha đáp ứng đợc yêu cầu chung của nền kinh tế thị trờng, còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp, nên bất cập cho ngời sử dụng lao động, ngời lao động và Nhà nớc.

– Tất cả các chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm cho đến nay đều cha phải là chế độ bảo hiểm thất nghiệp, vì nó trả một lần cho ngời thôi việc mà mức trả nhiều hay ít lại phụ thuộc vào số năm làm việc, mức tiền lơng, kinh phí chi trả trợ cấp này lại do doanh nghiệp trả, không mang tính chất xã hội, không thể hiện trách nhiệm của cả 3 bên.

– Khi có nhiều ngời thôi việc, mất việc làm là lúc doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nên việc chi phí một khoản lớn trợ cấp cho số đông ngời lao động thờng là gánh nặng quá sức của doanh nghiệp. Do vậy, hoặc là doanh nghiệp không sòng phẳng trả cho ngời lao động, hoặc là trả rất nhỏ giọt.

– Khi ngời lao động mất việc làm, trớc mắt họ không có khoản thu nhập nào ngoài việc trông chờ vào khoản trợ cấp mất việc, thôi việc.

– Đối với Nhà nớc: khi doanh nghiệp không đủ tiền để trả trợ cấp thôi việc thì ngân sách nhà nớc phải đứng ra gánh vác trách nhiệm này. Nhà nớc cũng sẽ khó khăn về ngân sách khi nền kinh tế

đình đốn, nhiều doanh nghiệp phải sa thải lao động, do vậy việc chi trả trợ cấp cho lao động mất việc trong doanh nghiệp nhà nớc cũng sẽ là một gánh nặng.

– Do không có chế độ bảo hiểm thất nghiệp, nên không có hệ thống tổ chức để đăng ký, theo dõi ng- ời thất nghiệp một cách thờng xuyên, cập nhật từ dới lên, nên không nắm đợc số ngời thất nghiệp, số ngời cần có việc làm một cách cụ thể để giúp cho Nhà nớc có chủ trơng chính sách chủ động để giải quyết vấn đề lao động, việc làm và thất nghiệp.

Do vậy, cần sớm có một chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, không nên chỉ tìm các giải pháp tình thế. Để bảo hiểm thất nghiệp có tính khả thi cao, chúng ta phải lựa chọn hình thức và bớc đi thích hợp, làm từ đơn giản đến phức tạp, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần./.

1. Nhàkinh tế học ngời Mỹ. Xem: Mạc Tiến Anh- Thất nghiệp và giải pháp- Tạp chí Bảo hiểm xã hội (tháng 11/2000).

5. Xem: PTS. Nguyễn Bá Ngọc- Hậu quả kinh tế xã hội của thất nghiệp – Tạp chí Lao động và xã hội (tháng 7/1999).

8. Xem: ” Thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp “Mạc Tiến Anh- Tạp chí Lao động và Xã hội tháng 2/2002.

Luận Văn: Bảo Hiểm Thất Nghiệp Theo Pháp Luật Việt Nam, Hay

, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo

1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ NGUYỆT KHUÊ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: chúng tôi Nguyễn Hữu Chí HÀ NỘI, 2023

2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Dương Thị Nguyệt Khuê

3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………. 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP………………………………………. 7 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp………………………………………………. 7 1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp…………………………. 15 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM…………………………………………………………………… 25 2.1. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ……………………………………….. 25 2.2. Đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam……………………………………………………………………………… 47 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM………………………………………………… 60 3.1. Phương hướng hoàn thiện…………………………………………………… 60 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam …………62 KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………… 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………. 74

4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASXH An sinh xã hội BHTN Bảo hiểm thất nghiệp HĐLĐ Hợp đồng lao động ILO International Labour Organization : Tổ chức Lao động Quốc tế NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động NTN Người thất nghiệp TCTN Trợ cấp thất nghiệp

5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Biểu đồ tháp dân số năm 2014 Nhìn vào tháp dân số trên, có thể dễ dàng nhận thấy dân số Việt Nam trong độ tuổi từ 20 – 40 những năm gần đây vẫn đang ở mức cao ở cả nam và nữ, đặc biệt nhóm tuổi từ 15 đến 30 tuổi, tức là trong độ tuổi lao động. Vì vậy, áp lực dân số lên vấn đề lao động, việc làm ở nước ta rất lớn. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, biến động cung – cầu lao động trên thị trường lao động thường xuyên xảy ra, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của lao động ngày càng gia tăng. Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế – xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới phải đương đầu. Có thể xem thất nghiệp là một hiện tượng khách quan và nó được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Những biến động của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng có những tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam, trong đó có sự gia tăng số lượng người lao động mất việc làm. Nước ta, tuy mới bước vào nền kinh tế thị trường nhưng thất nghiệp đã, đang và sẽ là vấn đề cấp thiết mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải tập trung giải quyết.

6. 2 Nhận thức được điều này, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngay từ rất sớm, Đảng ta đã khẳng định: “Từng bước hình thành quỹ bảo trợ thất nghiệp ở thành thị, đảm bảo công ăn việc làm cho dân là mục tiêu hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên” (Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, năm 1996). Tiếp đó, vấn đề thất nghiệp và bảo trợ thất nghiệp đã được khẳng định lại trong nhiều văn kiện của Đảng và được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách đối với vấn đề này. Đặc biệt, Bộ luật lao động năm 2013, Luật bảo hiểm xã hội ngày 29/6/2006 và Luật việc làm ngày 16/11/2013 là những văn bản pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm quyền được BHTN cho NLĐ bị thất nghiệp ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, quan điểm, đường lối của Đảng về chính sách xã hội, đặc biệt là ASXH được nâng lên tầm cao mới, thể hiện toàn diện hơn trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2023: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm.” Là một trong những chính sách về ASXH, quyền được BHTN đã được quan tâm song, thực tế cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện như: đối tượng tham gia BHTN còn hạn chế dẫn tới một bộ phận không nhỏ NLĐ chưa được bảo đảm quyền lợi khi họ bị mất việc làm; tình trạng NSDLĐ nợ đóng BHTN; sự lợi dụng của NLĐ đối với việc chi trả BHTN, chúng tôi vậy, việc tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục tình trạng trên là hết sức cần thiết để bảo đảm quyền được BHTN cho người bị mất việc, góp phần củng cố niềm tin của NLĐ đối với chính sách, pháp luật của nhà nước, ổn định đời sống xã hội. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình, với mong muốn tìm ra những điểm tồn tại, vướng mắc trong quy định của chính sách, pháp luật về BHTN, những khó khăn trong thực tiễn áp dụng, từ đó làm cơ sở để tìm ra những giải pháp nhằm bảo đảm quyền được BHTN.

11. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 1.1. Khái quát chung về bảo hiểm thất nghiệp 1.1.1. Khái niệm Thất nghiệp là vấn nạn chung của toàn cầu, nạn thất nghiệp tồn tại dưới dạng ” bắt buộc” là một trạng thái mà trong đó, tổng cung về lao động của những người lao động muốn làm việc với tiền lương danh nghĩa tại một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện có. Thất nghiệp được coi là một vấn đề trung tâm trong xã hội hiện đại. Đó là hiện tượng người có năng lực lao động không có cơ hội tham gia lao động xã hội, bị tách khỏi tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, luôn luôn tồn tại một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Vấn đề thất nghiệp không phải là hiện tượng độc lập của nền kinh tế mà đó là kết quả của các quy luật nhất định để đạt được sự cân bằng của hệ thống kinh tế. Theo Từ điển kinh tế học hiện đại, thì thất nghiệp là tình trạng ” người lao động không có việc làm, bao gồm cả những người đang trong giai đoạn tìm việc làm mới hoặc những người không thể tìm được việc làm với đồng lương thực tế hiện hành.” Tại điều 20 Công ước 102 ngày 28/6/1952 của ILO, định nghĩa về thất nghiệp được đưa ra như sau: “Thất nghiệp là sự ngừng thu nhập do người lao động không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”[14]. Sau này, trong Công ước 168 năm 1988, ngoài hai điều kiện đã được nêu trong Công ước 102 là ” có khả năng làm việc” và ” sẵn sàng làm việc”, Công ước 168 đã bổ sung thêm một điều kiện nữa để xác định tình trạng thất nghiệp, đó là người lao động phải “tích cực tìm kiếm việc làm”. Như vậy, theo tiêu chuẩn quốc tế, “người thất nghiệp” bao gồm những người ở độ tuổi nhất định (thường từ 15 tuổi trở lên) mà trong thời gian khảo sát (thường là trong tuần trước đó hoặc 7 ngày trước đó) đáp ứng tất cả 3 điều kiện: “không có việc làm” (không làm việc dù chỉ là 1 giờ, không làm việc làm công ăn lương lương hoặc

12. 8 việc tự làm), “sẵn sàng làm việc” và “đang tìm việc”. Định nghĩa về thất nghiệp ILO đưa ra có tính khái quát cao, được nhiều nước tán thành và lấy đó làm nền tảng để vận dụng tại quốc gia mình khi đưa ra khái niệm về người thất nghiệp. Cần nhìn nhận người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng làm việc nhưng không có việc làm và đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Để giải quyết vấn nạn thất nghiệp, chính phủ phải đưa ra rất nhiều chính sách và biện pháp khác nhau, trong đó có chính sách được coi trọng và tối ưu nhất BHTN, một bộ phận của bảo hiểm xã hội BHXH nhằm bảo vệ người lao động trong trường hợp bị mất việc làm. BHTN là các biện pháp được đưa ra nhằm hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho NTN mà không phải do lỗi chủ quan của họ. Theo Công ước 102 của ILO, BHTN là một biện pháp hỗ trợ thiết thực về mặt tài chính cho NLĐ trong lúc mất việc làm nhằm giúp họ khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Ngoài ra, cơ chế pháp lý này còn tạo dựng hệ thống các giải pháp như: hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm góp phần ổn định tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động bị mất việc có cơ hội tìm kiếm, thích ứng với công việc mới. Dưới góc độ kinh tế – xã hội, BHTN là một trong các giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Khoản tiền quỹ được xây dựng từ nguồn do NLĐ và NSDLĐ đóng góp, cộng thêm sự hỗ trợ một phần của Nhà nước được coi là khoản thay thế một phần thu nhập, giúp cuộc sống của NTN tạm ổn định trong thời gian tìm công việc mới. Dù không sinh ra nhằm mục đích sinh lợi nhuận song nó thể hiện bản chất kinh tế thông qua chức năng phân phối thu nhập chung, hay nói cách khác là chia sẻ rủi ro giữa các chủ thể cùng tham gia vào thị trường lao động. Dưới góc độ pháp lý, BHTN là tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành nhằm đảm bảo việc xây dựng và sử dụng quỹ BHTN nhằm hỗ trợ một phần tài chính cho NTN cũng như đưa ra các biện pháp giúp NTN sớm tìm được việc làm. Điều 25 Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc thông qua năm 1948 khẳng định: “Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”[7]. Quyền được có việc làm, được làm việc và bảo vệ chống thất nghiệp là một trong những quyền cơ bản của con người. Nó không những đã được ghi nhận từ

13. 9 rất lâu trong pháp luật quốc tế mà còn được quy định ở hầu hết pháp luật quốc gia. Mục đích của BHTN là ngăn ngừa sự bất ổn định về kinh tế xã hội, hỗ trợ và đào tạo để giúp người lao động có cơ hội trở lại thị trường lao động, tìm kiếm việc làm mới. Với ý nghĩa thay thế một phần thu nhập bị mất mà không phải do lỗi của người lao động, Nhà nước cần có cơ chế để quản lý NTN và việc chi trả BHTN. Trước khi Luật Việc làm 2013 ra đời, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể về định nghĩa BHTN. Nhìn chung, BHTN chính là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động một cách hữu hiệu. Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ trao cho người lao động “con cá” mà còn cung cấp cho họ “cần câu” để họ tự xây dựng cuộc sống trong tương lai [8, tr.32]. Thông qua việc xây dựng và vận hành quỹ tài chính tập trung với sự tham gia của các chủ thể trong thị trường lao động ( NLĐ, NSDLĐ, nhà nước), BHTN được hình thành với hai mục đích: Đảm bảo đời sống vật chất cơ bản cho NTN trong một khoảng thời gian nhất định sau khi họ bị mất việc làm và có chế độ hỗ trợ để NTN nhanh chóng tìm được việc làm mới thông qua các hoạt động như: giới thiệu việc làm, tái đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, … Như vậy, BHTN không phải là biện pháp giải quyết hậu quả của thất nghiệp một cách thụ động mà là một chính sách của thị trường lao động tích cực nhằm ngăn chặn tình trạng thất nghiệp. 1.1.2. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp Có thể nói, BHTN là một bộ phận cấu thành không thể tách rời trong hệ thống các chế độ BHXH nói riêng và ASXH nói chung. Xét về bản chất , BHTN cũng giống như BHXH, đều thể hiện bản chất kinh tế và bản chất xã hội. Về bản chất kinh tế, BHTN mặc dù không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận, nhưng vẫn mang bản chất kinh tế qua chức năng phân phối lại thu nhập xã hội. Khi gặp khó khăn, rủi ro, biến cố trong việc làm dẫn dến thu nhập bị mất, đối tượng bị thất nghiệp cần một khoản tiền hoặc phương tiện để trang trải và bù đắp lại những tổn thất. Khi đó, BHTN với khoản trợ cấp của mình sẽ là các khoản thay thế thu nhập đã mất. Thực chất, đây là sự phân phối lại thu nhập trong xã hội. Nguồn quỹ BHTN hình thành từ sự đóng góp của số đông người tham gia, nhưng chỉ những người thỏa mãn điều kiện được trả trợ cấp mới là đối tượng được hưởng. Về tính xã hội của

15. 11 1.1.3. Ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp Từ những đặc điểm trên, có thể thấy BHTN đóng góp rất lớn vào việc đảm bảo mục tiêu ASXH và phát triển kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia. * BHTN góp phần giải quyết tạm thời các khó khăn về tài chính cho NTN, giúp họ sớm tìm được việc làm: Mất việc làm là điều không ai mong muốn, nó gây ra rất nhiều hệ quả xấu cho bản thân NLĐ và ảnh hưởng tới gia đình họ. Đặc biệt, đối với những trường hợp NTN là lao động chính trong gia đình thì việc mất đi khoản thu nhập hàng tháng khiến cho đời sống vật chất trở nên rất khó khăn. Chính vì vậy, sự chia sẻ của cộng đồng xã hội thông qua BHTN sẽ là phương tiện giúp cuộc sống của họ bớt áp lực, tạo điều kiện để họ vững tâm tìm công việc mới chính đáng, phù hợp với khả năng của mình. Bên cạnh việc trao cho họ một mức trợ cấp hàng tháng, các chính sách BHTN còn hỗ trợ cho NTN trong việc đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm. Như vậy, việc tham gia đóng góp BHTN được coi là một hoạt động chủ động phòng chống rủi ro trong tương lai cho bản thân và chia sẻ rủi ro với cộng đồng. * BHTN góp phần phát triển xã hội hài hòa về mặt lợi ích giữa NLĐ và NSDLĐ: Để thoát khỏi gánh nặng của vấn đề thất nghiệp, nhiều lao động đã phải chấp nhận làm những công việc không phù hợp với trình độ, khả năng của mình với mức thu nhập không xứng đáng, làm việc trong môi trường làm việc độc hại và điều kiện lao động không đảm bảo. Điều đó vô hình chung gây ra thiệt thòi cho bản thân lao động, lãng phí nguồn nhân lực của thị trường kinh tế, làm cho thị trường lao động phát triển một cách không cân đối. Hiện tượng đó dẫn đến sự bất đối xứng trong quan hệ cung cầu lao động mà bên hưởng lợi hơn là bên NSDLĐ. Các chính sách của BHTN giúp NLĐ ngăn ngừa rủi ro, hạn chế các tác động tiêu cực trong thời gian lao động mất việc làm, không phải vội vàng lựa chọn những công việc mà họ cảm thấy không phù hợp. Đối với NSDLĐ, khi tham gia BHTN, bên cạnh việc ràng buộc trách nhiệm chia sẻ rủi ro với NLĐ không may mất việc làm, họ sẽ còn không phải chi trả một khoản chi phí lớn cho việc giải quyết chế độ cho NLĐ khi họ mất việc làm. Mặt khác, các

17. 13 BHXH là một trong những quyền cơ bản mà con người được nhận, được ghi nhận rất rõ trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc thông qua năm 1948. Là một phần không thể thiếu trong tổng thể các chính sách BHXH, BHTN cũng cần được đảm bảo. Điều 25 của Tuyên ngôn ghi rõ: “Mỗi người có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe bản thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất nghiệp”[7]. Thông qua các chính sách về BHXH, trong đó có BHTN, có thể đánh giá phần nào sự tiến bộ, văn minh trong tư duy pháp luật của một quốc gia. 1.1.4. Yếu tố tác động đến việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp Có rất nhiều yếu tố tác động đến việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, đặc biệt phải kể đến các yếu tố sau: Thứ nhất: Về vấn đề đóng phí và mức đóng BHTN, pháp luật BHTN chỉ có thể thực thi hiệu quả, khi có quy định cụ thể và phù hợp cho việc đóng phí và mức phí tham gia bởi quỹ BHTN được hình thành từ nguồn đóng góp của ba chủ thể với những lợi ích khác nhau là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Mức phí đóng BHTN của NLĐ phải được tính toán bằng một tỷ lệ phần trăm phù hợp trên mức lương NLĐ đang hưởng, sao cho sau khi trừ khoản tiền tham gia BHTN, NLĐ vẫn có thể trang trải cuộc sống của mình ở mức tối thiểu. Song quyền lợi BHTN cũng không dành cho tất cả, bởi không phải NLĐ nào cũng thuộc đối tượng tham gia. Đối với NSDLĐ, việc tham gia BHTN sẽ giúp họ giảm bớt gánh nặng phải trả số tiền lớn một lúc cho khoản trợ cấp khi NLĐ thôi việc, đồng thời, tạo tâm lý yên tâm làm việc cho NLĐ. Song, để NSDLĐ có trách nhiệm đóng phí thì mức phí cũng phải được tính toán cho phù hợp. Bên cạnh đó, nhà nước cần có biện pháp, chế tài cụ thể đối với hành vi chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ đóng phí của NSDLĐ nhằm bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Đối với Nhà nước, việc trích một phần từ ngân sách vào quỹ BHTN có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng. Có khoản hỗ trợ này sẽ giúp NSDLĐ và NLĐgiảm bớt gánh nặng đóng phí, đồng thời hạn chế khả năng vỡ quỹ. Do đó, đòi hỏi ngân sách Nhà nước có khoản chi thường xuyên cho chính sách BHTN, để duy trì sự tồn tại của quỹ cũng như bảo đảm cho chính sách ASXH được thực hiện.

18. 14 Thứ hai: Về quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN phải được đơn giản hóa tối đa, đảm bảo quyền lợi của NLĐ được giải quyết một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất. BHTN chỉ được thực hiện tốt khi nó tạo được hiệu ứng tốt đối với những người đã, đang và sẽ tham gia. Bản chất của BHTN là một chính sách ASXH, nó cần được tạo ra bởi một cơ chế thiết thực, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, người sử dụng nó được an tâm khi quyền lợi được giải quyết một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Do vậy, đòi hỏi việc xây dựng và ban hành quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN phải đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thứ ba: Về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác tạo môi trường thực hiện và phát triển chính sách BHTN. Thông qua công tác này, NLĐ, NSDLĐ ý thức được vai trò, trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Từ đó, họ sẽ tích cực, tự giác tham gia, góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết đầy đủ về chính sách này, đồng thời, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho người khác hiểu thêm. Để làm tốt cần sự nỗ lực, phối hợp của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và chính NLĐ, qua đó, làm tăng tính hiệu lực, hiệu quả của chính sách. Thứ tư: Về nguồn quỹ do NLĐ và NSDLĐ đóng, có hỗ trợ một phần ngân sách từ nhà nước hoặc tiền sinh lời của các hoạt động đầu tư từ quỹ như mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu công ty; gửi tiết kiệm ở ngân hàng, mua kỳ phiếu ngân hàng; mua cổ phiếu; cho các công ty vay vốn, trực tiếp liên doanh hoặc ủy thác kinh doanh; kinh doanh bất động sản. Trong đó, mua trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng là biện pháp an toàn hơn cả và được hầu hết các nước áp dụng. Ở một số nước phát triển, quỹ còn được dung để cho vay xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, các công trình giáo dục hay chăm sóc sức khỏe. Thứ năm: Năng lực quản lý của cơ quan BHXH trong việc triển khai, tổ chức việc chi trả trợ cấp TN và các chế độ hỗ trợ NTN khác: Việc quản lý và sử dụng quỹ BHTN; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các chính sách về BHTN; công tác thanh kiểm tra, giám sát việc triển khai BHTN. Ngoài các yếu tố kể trên thì Chính sách BHTN, mức độ hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật, tình hình kinh tế – xã hội cùng thực trạng tình hình thất nghiệp, nhận thức của NLĐ và NSDLĐ cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện BHTN.

19. 15 1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp 1.2.1 Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Hệ thống pháp luật đầu tiên về BHTN được hình thành ở Na Uy và Đan Mạch trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX. Dựa trên mô hình đó, pháp luật về BHTN lần lượt được hình thành tại các nước châu Âu khác và áp dụng nguyên tắc bắt buộc, đầu tiên là ở Anh (1911). Năm 1921 ở Luxembourg lần đầu tiên trên thế giới xuất hiện hình thức trợ cấp bằng tiền mặt cho NTN mà điều kiện được quy định cụ thể. Năm 1938, New Zeala áp dụng một chương trình BHTN toàn diện và trợ giúp thất nghiệp được thực hiện trên cơ sở thẩm tra thu nhập của cá nhân. Ngày nay, BHTN không chỉ được coi là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia mà còn được xem xét, điều chỉnh trong phạm vi quốc tế. Cũng như thất nghiệp là một hiện tượng khách quan của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng hệ thống pháp luật về BHTN cũng là việc làm bắt buộc đối với mỗi quốc gia nhằm đảm bảo quyền lợi chủa NLĐ, duy trì và phát triển nền kinh tế. Theo ILO thì nội dung cơ bản của pháp luật BHTN bao gồm: Đối tượng tham gia BHTN; các chế độ BHTN: điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng, đào tạo nghề và tư vấn giới thiệu việc làm; nguồn hình thành quỹ thông thường là sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và một phần hỗ trợ từ nhà nước tùy theo chính sách của từng quốc gia; tổ chức thực hiện chính sách BHTN. Có thể khái quát khái niệm Pháp luật BHTN như sau: “Pháp luật về BHTN là một bộ phận trong hệ thống các quy định về bảo hiểm xã hội, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về việc đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi trả TCTN để bù đắp thu nhập cho NTN và thực hiện các biện pháp đưa họ sớm trở lại làm việc”. 1.2.1.Những nội dung cơ bản của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Pháp luật về NHTN của mỗi quốc gia, tùy vào đặc thù kinh tế, xã hội đều có những nội dung riêng, song cơ bản thường đề cập đến những nội dung sau: 1.2.1.1.Đối tượng: Đối tượng của BHTN bao gồm đối tượng tham gia và đối tượng hưởng. Đối tượng tham gia bao gồm NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước; đối tượng hưởng là người đã tham gia BHTN bị mất việc làm không do lỗi của họ, có khả năng và sẵn sàng trở lại làm việc. Cụ thể như sau:

20. 16 – Người lao động: Cũng như các loại BHXH khác, đối tượng của BHTN là NLĐ có tham gia đóng bảo hiểm và thân nhân của họ theo quy định của pháp luật về BHTN. Đa số các nước đều quy định chỉ những người làm công ăn lương (làm công cho chủ) mới được tham gia BHTN. Quy định này được ghi nhận tại Điều 2, Công ước số 44 ngày 23/06/1934 của ILO. Tuy nhiên, tùy vào bối cảnh xã hội từng ước mà có thể quy định thêm về một số đối tượng ngoại lệ khác như người giúp việc, lao động tại nhà, công chức nhà nước, lao động mùa vụ, lao động trẻ sát cận độ tuổi lao động quy định, lao động quá độ tuổi quy định, lao động đang được hưởng chế độ hưu trí,… Công ước này không áp dụng cho thủy thủ, thủy thủ đánh cá và lao động nông nghiệp. Sở dĩ đây những trường hợp trên không được áp dụng công ước do để quản lý được các đối tượng này khó khăn do đặc thù công việc luôn có sự phân tán, không cố định dẫn đến việc tham gia đăng ký, đóng góp và quản lý họ là rất phức tạp. Hơn nữa, những công việc của họ không mang tính thường xuyên, liên tục, cụ thể nên rất khó xác định họ có đang rơi vào tình trạng thất nghiệp hay không. Trong khi đối tượng hưởng BHTN phải là những người trong độ tuổi lao động, bị mất việc làm không do lỗi của họ (không phải là thất nghiệp tự nguyện), tức là bị chấm dứt hợp đồng lao động do không có việc làm, bị sa thải, không đáp ứng được yêu cầu của NSDLĐ, … nhưng có khả năng làm việc và luôn sẵn sàng quay trở lại làm việc. Trong khi đó, theo Công ước số 102 của ILO, Điều 21, thì đối tượng nhận TCTN phải thuộc trường hợp những người được bảo vệ, đó là: ” Những người làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương; Hoặc mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định theo Điều 67; Hoặc, nếu đã có bản tuyên bố để áp dụng Điều 3, bao gồm những người làm công ăn lương mà tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong các cơ sở công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên”. Và, “Trường hợp bảo vệ phải bao gồm tình trạng gián đoạn thu nhập như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định, và xảy ra do không thể có được một công việc thích hợp, trong tình hình người được bảo vệ có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” (Điều 20) [14].

23. 19 cần tham gia do họ có thời gian phục vụ Nhà nước là cả đời. Học sinh, sinh viên và người lao động làm việc dưới 18 giờ trong tuần hoặc có mức thu nhập ít hơn 1/7 thu nhập trung bình của tất cả các thành viên của BHTN cũng không phải tham gia loại bảo hiểm này [6, tr.33-34]. – Người sử dụng lao động: Đối tượng của BHTN không chỉ áp dụng đối với NLĐ mà còn là cả NSDLĐ. NSDLĐ là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ. Theo quy định, đối tượng này có quyền tham gia BHTN. Thực tế cho thấy, BHTN không chỉ bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho NLĐ mà còn cho cả NSDLĐ. Trong trường hợp có NLĐ mất việc làm, NSDLD không phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để giải quyết chế độ cho NLĐ, như vậy, họ sẽ được san sẻ gánh nặng trả trợ cấp. Bởi nhờ có tham gia đóng BHTN nên khi NLĐ bị mất việc làm thì NSDLĐ sẽ không phải đối mặt với việc trả TCTN nữa, mà thay vào đó đã có cơ quan quản lý về BHTN chịu trách nhiệm chi trả. Hơn nữa, đóng BHTN là một hình thức chia sẻ rủi ro với người đã có cống hiến trong kinh doanh, giúp NLĐ cũng an tâm cống hiến sức lực của mình. Ngoài ra, để chính sách ASXH đi vào hiện thực thì việc tham gia BHTN còn là nghĩa vụ bắt buộc đối với NSDLĐ. Hiện tại, trong các Điều ước quốc tế chưa quy định điều kiện cụ thể cho nhóm đối tượng này, mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính sách ASXH, mỗi quốc gia đặt ra những điều kiện tham gia BHTN nhất định cho NSDLĐ. – Nhà nước: Nhà nước tham gia vào BHTN như một phần đảm bảo sự tồn tại của hình thức bảo hiểm này. Không chỉ thể hiện vai trò trong việc xây dựng chính sách, bắt buộc thực hiện, đa số các Chính phủ đều hỗ trợ một phần xây dựng quỹ BHTN. Tùy theo quy định pháp luật từng nước mà mức hỗ trợ, hình thức đóng góp vào quỹ BHTN ở các nước là khác nhau. Ví dụ như ở Việt Nam, quỹ được đóng góp bằng 1% quỹ tiền lương tháng, NSSDLĐ đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những NLĐ tham gia BHTN và Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN nhưng ở Nhật Bản, người lao động chỉ đóng 0,6% còn Chính phủ phải đóng 25% tổng mức chi.

24. 20 1.2.1.2. Chế độ BHTN – Điều kiện hưởng: Theo Công ước số 44 của ILO, NTN phải có đủ các điều kiện sau nếu muốn được hưởng TCTN: + Thuộc đối tượng hưởng BHTN: Bị mất việc làm do nguyên nhân nằm ngoài mong muốn chủ quan của họ. Có năng lực là, việc và luôn sẵn sàng trở lại làm việc. Đây là điều kiện quan trọng mà luật BHTN của các nước đều đặt lên hàng đầu. + NTN còn phải thỏa mãn về thời gian tham gia và mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp theo nguyên tắc có đóng có hưởng. Theo đó, tùy thuộc vào thời gian đóng góp và mức đóng góp để quyết định thời gian hỗ trợ và mức hỗ trợ thất nghiệp của từng lao động nhưng nhìn chung đều phảidựa trên cơ sở đảm bảo cho người thất nghiệp đủ sống ở mức tối thiểu trong thời gian không có việc làm, đồng thời cân đối khoảng thời gian sao cho không quá ngắn để NTN chưa tìm được việc làm nhưng cũng không quá dài để họ không thể lạm dụng, muốn được hưởng trợ cấp hơn đi làm. Nhìn chung, các nước thường quy định thời hạn trợ cấp tối đa từ 12 đến 52 tuần, thời hạn tạm chờ từ 3 ngày đến 7 ngày đầu thất nghiệp không được hưởng trợ cấp. Điều này làm giảm nhẹ tài chính cho quỹ bảo hiểm và đơn giản hóa khâu quản lý trong trường hợp thất nghiệp ngắn ngày. Như vậy, mức trợ cấp thất nghiệp không cao hơn mức lương hàng tháng họ được hưởng trong thời gian còn việc làm. + Để nhận được trợ cấp thất nghiệp, NTN phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền trong nhất định được pháp luật quy định. Quy định này ở mỗi Quốc gia là khác nhau, ví dụ như ở Nhật Bản, NTN nhất thiết phải đăng ký tại cơ quan bảo đảm việc làm quốc gia, có khả năng và năng lực làm việc, luôn sẵn sàng khi có cơ hội việc làm mới; NTN phải đăng ký thường xuyên 4 tuần 1 lần; Pháp luật Thụy Điển quy định điều kiện hưởng TCTN là NLĐ phải hoàn toàn khỏe manh, có khả năng làm việc ít nhất 3 giờ một ngày và 7 ngày một tuần, tích cực tìm kiếm việc làm phù hợp và phải đăng ký tại trung tâm tìm kiếm việc làm của Chính phủ. Việc đăng ký này là cần thiết vì nó giúp cho cơ quan quản lý theo dõi, kiểm soát được số người thất nghiệp cũng như chi trả bảo hiểm một cách hợp lý cũng như giúp người lao động thể hiện được sự chủ động và mong muốn tìm kiếm việc làm của mình. Một số nước quy định rất cụ thể về việc điều tra thu nhập của người được

25. 21 hưởng trợ cấp thất nghiệp, nếu NTN có nguồn thu nhập khác thì sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp. + NTN phải có sổ BHTN. Sổ BHTN được coi là căn cứ pháp lý chứng minh sự tham gia bảo hiểm của NTN, được ghi trong đó bao gồm mức đóng và thời gian đóng BHTN. Các trường hợp NTN bị mất việc làm do lỗi cố ý của mình hoặc tự ý bỏ việc không có lý do chính đáng; từ chối một việc làm phù hợp do cơ quan giới thiệu việc làm giới thiệu, có hành vi gian lận để hưởng trợ cấp thì không được hưởng TCTN. – Về thời gian hưởng trợ cấp: Thời gian hưởng trợ cấp ngắn hay dài là tùy thuộc vào năng lực của từng quỹ BHTN. TCTN có thể được trả suốt thời gian NLĐ bị mất việc làm ngoài ý muốn, và đôi khi TCTN này cũng có thể hạn chế trong nhiều trường hợp đối với các loại đối tượng hưởng trợ cấp. Riêng đối với đối tượng là người làm công ăn lương, thời gian hưởng trợ cấp có thể bị hạn chế trong khoảng 13 tuần trong từng thời kỳ 12 tháng (Điều 24, Công ước 102 của ILO). Ở nhiều nước, khoảng thời gian này có thể lên đến 3 năm hoặc trên 3 năm, nhưng tại các nước đang phát triển, số người thất nghiệp lớn thì khoảng thời gian này được quy định thường là tối đa 12 tháng. Thời gian hưởng TCNT có thể được chia ra thành nhiều bậc, theo thời gian tham gia đóng. Tuy nhiên, không phải NLĐ khi nghỉ do thất nghiệp được hưởng ngay TCTN mà phải sau một thời gian quy định là khoảng thời gian kể từ khi NTN nộp đơn xin hưởng TCTN đến khi họ thực sự được hưởng TCTN. Khoảng thời gian này được gọi là thời gian hoãn hưởng và thường được quy định không vượt quá 8 ngày. – Về mức trợ cấp: Theo quy định của ILO, mức trợ cấp BHTN tối thiểu bằng 45% thu nhập trước khi thất nghiệp. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, mức TCTN có thể được dựa trên một trong các cơ sở sau: * Mức lương tối thiểu; * Mức lương bình quân cá nhân; * Mức lương tháng cuối cùng trước khi bị thất nghiệp. Mỗi quốc gia đều có những phương pháp xác định mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, nhưng cơ bản là các phương pháp:

26. 22 * Xác định theo tỷ lệ đồng đều cho tất cả các đối tượng hưởng căn cứ vào các cơ sở nêu trên; * Xác định theo tỷ lệ mức độ giảm dần mức TCTN, tức là cao nhất ở tháng đầu tiên hưởng và sẽ thấp dần ở những tháng sau. * Xác định theo cách chia thành các nhóm lao động: nhóm lao động có thu nhập thấp được hưởng tỷ lệ cao và ngước lại, nhóm có thu nhập cao được hưởng tỷ lệ thấp. * Xác định dựa trên tính chất công việc (lao động trí óc và lao động chân tay), số lượng người sống phụ thuộc trong gia đình (số người chưa có hoặc đã hết khả năng lao động), theo khu vực (nông thôn và thành thị),…. Nhìn chung, mức trợ cấp cần đảm bảo mức sống tối thiêu của NLĐ nhưng phải thấp hơn mức lượng được hưởng khi còn làm viêc để đảm bảo cuộc sống NTN không gặp khó khăn mà vẫn thúc đẩy được mong muốn quay trở lại làm việc của họ, tránh việc NTN ỷ lại vào trợ cấp mà kéo dài thời gian hưởng ảnh hưởng xấu đến thị trường lao động nói chung và gây thất thoát cho quỹ. – Về các chính sách hỗ trợ đào tạo và tìm việc làm mới: Không chỉ được hỗ trợ một khoản tiền, trong thời gian mất việc làm, NTN còn được hưởng các chính sách đài thọ như đào tạo lại nghề, đào tạo nghề mới, đào tạo nâng cao,… và giúp tìm việc làm mới phù hợp thông qua các hoạt động cung cấp thông tin về các cơ sở dạy nghề,cập nhật nhu cầu tuyển dụng lao động, tư vấn cho NLĐ chọn công việc thích hợp với họ và với nhu cầu của NSDLĐ. Ngoài ra, trong suốt thời gian bị thất nghiệp, NLĐ vẫn được đóng bảo hiểm y tế. 1.2.1.3 Quỹ BHTN: Quỹ BHTN là một quỹ độc lập tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Đối tượng tham gia xây dựng quỹ BHTN bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Cũng như BHXH, NLĐ tham gia BHTN đóng góp một tỷ lệ nhất định trong phần thu nhập của mình. NSDLĐ đóng góp bằng một tỷ lệ phần trăm theo quy định so với quỹ tiền lương hàng tháng chi trả cho người lao động. Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Ngân sách hoặc từ tiền sinh lời của hoạt đồng đầu tư từ quỹ nhằm bù đắp phần còn thiếu. Hầu hết các nước đều có quy định cụ thể về mức đóng BHTN để đảm bảo an toàn cho sự tồn tại của quỹ nhưng tỷ lệ đóng góp giữa các bên tại các nước là không giống nhau. Có nước quy định NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước đóng góp như nhau, có những nước lại quy định NSDLĐ đóng gấp đôi NLĐ, Nhà nước chỉ

29. 25 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM 2.1. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam 2.1.1. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp trong pháp luật bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật BHTN là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt, chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật BHTN. Theo Điều 41 Luật việc làm, nguyên tắc bảo hiểm thất nghiệp bao gồm 05 nguyên tắc sau: 2.1.1.1. Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp được xây dựng trên nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro, hỗ trợ kinh tế song song với hỗ trợ việc làm cho NTN, khuyến khích NTN chủ động tìm việc làm. Đặc trưng của BHTN là có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia. BHTN dựa trên sự tương hỗ giữa các cá nhân trong xã hội, nghĩa là lấy số đông bù số ít, không phải là theo hình thức là một khoản tiết kiệm trả sau như đa số các hình thức bảo hiểm khác. Thực tế, trong số những người tham gia không phải ai cũng gặp rủi ro, tương tự, trong số NLĐ tham gia BHTN không phải ai cũng bị thất nghiệp. Nhưng do mức đóng chỉ là một tỉ lệ phần trăm rất nhỏ trên thu nhập của NLĐ khi làm việc, nên không đủ để chi trả chế độ cho NTN, mà cần có sự san sẻ rủi ro cả từ những người tham gia BHTN nhưng không bị thất nghiệp. TCTN và giải quyết việc làm cho NTN là mục đích chính của pháp luật về BHTN nhằm trợ giúp NLĐ khi bị mất việc vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, không như chính sách ASXH, BHTN ngoài việc bù đắp, hỗ trợ thu nhập bị mất còn tạo cơ hội cho NTN được tiếp cận việc làm mới thông qua giải pháp giới thiệu việc làm. Vì vậy, việc quy định và tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN phải đảm bảo chi trả TCTN không tách rời giải quyết việc làm, cụ thể: – Trong từng trường hợp hưởng chế độ BHTN phải bao gồm cả mức TCTN và cách thức hỗ trợ việc làm.

30. 26 – Bên cạnh việc quy định các mức TCTN, điều kiện tham gia BHTN, phương thức đóng BHTN, căn cứ chi trả quyền lợi bảo hiểm và thời gian hưởng TCTN phải có các quy định về các giải pháp nhằm thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội việc làm cho NTN như: định hướng, giới thiệu việc làm; đào tạo nghề, kỹ năng xin việc; ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp nhận NLĐ thất nghiệp; khuyến khích NTN tự tạo việc làm… – Việc chi trả TCTN cần tiến hành đồng thời với thực hiện các chế độ hỗ trợ về việc làm nhằm duy trì sinh hoạt của bản thân và gia đình của NLĐ trong thời gian bị mất việc, nhanh chóng đưa họ trở lại thị trường lao động. Gắn liền TCTN và giải quyết việc làm cho NTN phải là nguyên tắc xuyên suốt trong chế định BHTN nhằm mang lại sự an tâm cho người tham gia.Với mong muốn bù đắp những tổn thất về tài chính cho NLĐ trong thời gian bị mất việc làm, trợ cấp BHTN đã giải tỏa được sự lo lắng, bất an của NTN. Trong khi bản thân NLĐ không có khả năng duy trì thu nhập thì trợ cấp BHTN chính là khoản thu mà họ đang trông chờ. Khoản thu này không chỉ lấp đi những thiếu hụt tài chính mà còn giúp cho NTN tự tin hơn trong cuộc sống đời thường. Song, ngoài sự hỗ trợ về mặt vật chất, chế độ này đòi hỏi NTN chủ động tìm kiếm việc làm. Điều đó có nghĩa là trợ cấp BHTN chỉ có thể hỗ trợ phần nào thu nhập bị mất của NTN, trong một thời gian nhất định, phụ thuộc vào khoảng thời gian NTN tham gia đóng BHTN. Do đó, bản thân họ phải tích cực chủ động tìm kiếm việc làm phù hợp với khả năng của mình trên cơ sở có sự hỗ trợ về việc làm. Sự hỗ trợ này chỉ mang tính chất định hướng, giới thiệu chứ không có nghĩa là bắt buộc NTN phải làm công việc đó hay họ không phải lo tìm việc mà cứ chờ đợi sẽ được giải quyết việc làm. Từ những phân tích nêu trên cho thấy, trợ cấp BHTN như một bước đệm, tạo điều kiện cho NTN tiến gần đến việc làm hơn. Tuy nhiên, trợ cấp như thế nào để NTN còn chủ động tìm việc thì đòi hỏi nhà làm luật phải có sự tính toán kỹ lưỡng. Bởi lẽ, mức trợ cấp quá cao sẽ tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ, không muốn đi tìm việc, ngược lại mức trợ cấp quá thấp khiến NTN không đủ trang trải sinh hoạt hàng ngày ở mức tối thiểu sẽ dẫn đến tình trạng thiếu niềm tin vào chính sách. Do đó, việc xác định mức trợ cấp BHTN có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với vấn đề ASXH của mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, mục tiêu, chiến lược; căn cứ vào đối tượng tham gia

31. 27 BHTN, thời gian đóng, mức đóng mà mỗi quốc gia quy định mức trợ cấp BHTN khác nhau. Theo đó, khoản trợ cấp này được tính theo tỷ lệ phần trăm trên mức tiền lương đóng bảo hiểm và được trả hàng tháng cho NTN trong một thời hạn nhất định. Mức TCTN hàng tháng không thấp hơn mức lương tối thiểu và được cân đối với mức đóng BHTN trước đó của NLĐ. 2.1.1.2. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương của người lao động Theo điều 14, quyết định số 959/QĐ-BHXH ngày 9/9/2023 của BHXH Việt Nam, mức đóng và trách nhiệm đóng BHTN được quy định như sau: 1. Người lao động đóng bằng 1% tiền lương tháng; 2. Đơn vị đóng bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia BHTN; 3. Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những người lao động đang tham gia BHTN và do ngân sách trung ương bảo đảm. Điều 15 quyết định này quy định về tiền lương tháng đóng BHTN : 1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 6. 2. Người lao động đóng BHTN theo chế độ tiền lương do đơn vị quyết định thì tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc quy định tại Khoản 2 Điều 6. Trường hợp mức tiền lương tháng của người lao động cao hơn hai mươi tháng lương tối thiểu vùng thì mức tiền lương tháng đóng BHTN bằng hai mươi tháng lương tối thiểu vùng (thực hiện từ ngày 01/01/2023). 2.1.1.3. Mức hưởng bảohiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp Một trong các vai trò quan trọng của BHTN là hỗ trợ cuộc sống cho người lao động khi bị mất thu nhập do thất nghiệp gây nên. Do đó, việc quy định tỷ lệ hưởng và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và được cân đối với mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp trước đó của người lao động. Chế độ BHTN được dựa trên cơ sở quan hệ hữu cơ giữa

32. 28 đóng góp và thụ hưởng. Nguyên tắc này được pháp luật quy định rất cụ thể tại Khoản 1 điều 57 và Điều 58 Luật việc làm 2013. Quyền lợi bảo hiểm được chỉ được giải quyết theo nguyên tắc có đóng, có hưởng. Vì thế, người tham gia sẽ được hưởng nếu bị mất việc làm. Tuy nhiên, để được hưởng người tham gia phải đáp ứng điều kiện về đối tượng tham gia, thời gian đóng bảo hiểm. Khi đó, mức hưởng BHTN cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào mức đóng, thời gian đóng của NTN. Điều này cho thấy, chính sách BHTN giúp cho người tham gia có thể phòng ngừa, tránh né những rủi ro khi xảy đến mà bản thân họ không lường trước được. Song, không phải vì đã tham gia thì sẽ không sợ thất nghiệp, cứ ngồi hưởng thụ quyền lợi, người đóng BHTN phải hiểu rằng, chính sách này chỉ hỗ trợ một phần thu nhập bị mất trong một thời hạn nhất định. Do vậy, người đã tham gia BHTN mà bị thất nghiệp phải chủ động kiếm việc làm. Hơn nữa, có khoản thu từ mức trợ cấp này NTN sẽ yên tâm học tập nâng cao tay nghề, và trong khi hưởng chế độ TCTN họ sẽ có thời gian lựa chọn công việc phù hợp. Mức hưởng BHTN ảnh hưởng nhiều đến sự sinh tồn của NTN. Song, mức hưởng lại phụ thuộc vào mức đóng, thời gian đóng của người tham gia. Vậy nên, việc quy định mức hưởng bảo hiểm cũng cần phải xem xét nhưng không được cao hơn mức tiền lương khi làm việc. Nếu mức hưởng quá cao sẽ ảnh hưởng tới khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm, vô tình tạo điều kiện cho một bộ phận NLĐ muốn được thất nghiệp. Nếu mức hưởng quá thấp sẽ khiến NTN không duy trì được điều kiện sống tối thiểu, gây khó khăn trong việc kêu gọi NLĐ tham gia chính sách. Khi đó, mục tiêu bù đắp thu nhập bị mất trong thời gian NLĐ bị thất nghiệp sẽ chỉ còn là vấn đề lý thuyết. 2.1.1.4. Nguyên tắc việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia. 2.1.1.5. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHTN do một cơ quan quản lý thống nhất, công khai và hạch toán độc lập. Quỹ BHTN do một cơ quan quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương theo chế độ tài chính của Nhà nước. Quỹ được sử dụng vào các mục đích như: Chi trả trợ cấp thất nghiệp cho NLĐ, chi cho các hoạt động tìm việc làm cho NTN, chi trả

33. 29 cho công tác đào tạo, đào tạo lại, học nghề cho người thất nghiệp, chi phí cho hoạt động của bộ máy quản lý BHTN,… Người hưởng TCTN chỉ được hưởng trợ cấp nếu đóng BHTN. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc có đóng, có hưởng. Nhưng ngoài trách nhiệm đóng góp của NLĐ, NSDLĐ, đòi hỏi nhà nước cũng phải đưa vào quỹ BHTN một khoản hỗ trợ hợp lý để đảm bảo chi trả trợ cấp mỗi khi có sự kiện bảo hiểm diễn ra. Khoản hỗ trợ này là cần thiết bởi thu nhập của NLĐ chỉ có hạn trong khi mọi chi phí sinh hoạt của họ và gia đình lại chỉ dựa vào đó. Với tư cách là người đại diện và thực hiện các chính sách xã hội, bên cạnh việc có trách nhiệm hỗ trợ một phần kinh phí cho quỹ, Nhà nước còn áp dụng các biện pháp để bảo tồm giá trị quỹ và làm cho quỹ tang trưởng. Điều này còn thể hiện sự quan tâm, bảo đảm, bảo vệ NLĐ thoát khỏi tình trạng khó khăn nếu bị thất nghiệp, thu hút sự quan tâm, tham gia của đông đảo NLĐ. Tuy nhiên, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia mà có sự hỗ trợ nhất định, trong trường hợp cần thiết nhà nước cần có biện pháp bảo toàn giá trị quỹ, bảo đảm sự an toàn tài chính cho quỹ. 2.1.2. Đối tượng tham gia Căn cứ theo Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm 2013 và Điều 11 Nghị định 28/2023/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp, có thể thấy, Pháp luật Việt Nam quy định rất rõ ràng về 02 đối tượng bắt buộc tham gia BHTN như sau: 2.1.2.1. Người lao động Theo khoản 1 Điều 3, Điều 43 Luật việc làm thì NLĐ là công dân Việt Nam, phải tham gia BHTN khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Theo quy định này, chỉ những NLĐ là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc; giao kết các loại hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc như trên với NSDLĐ mới là đối tượng của BHTN. Do đó, những NLĐ là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình; người giao kết hợp

34. 30 đồng lao động dưới 03 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHTN. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 28/2023/NĐ-CP ngày 12/3/2023 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN thì NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, NLĐ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã giao kết theo quy định của pháp luật thì NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHTN trong thời gian này. Tuy nhiên, so với thời điểm ban hành, quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm trước đây đã trở nên không còn phù hợp với tình hình thực tế. Vì vậy, ngày 16/11/2013, Quốc Hội đã ban hành Luật việc làm. Theo Điều 43, ngoài trường hợp NLĐ ký kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được tham gia BHTN thì những người ký kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng đã được quyền tham gia BHTN. Như vậy, quy định mới đã cho phép mở rộng đối tượng tham gia. Điều này cho thấy, Nhà nước đã rất nỗ lực trong việc giải quyết chính sách đối với NTN, song vẫn còn hạn chế đối với NLĐ có thời hạn làm việc dưới ba tháng, người giúp việc gia đình. Đây là những đối tượng rất cần có sự quan tâm, giúp đỡ. Vì thế, để đảm bảo quyền được BHTN của NLĐ, trong thời gian tới, Nhà nước cần cân nhắc, xem xét bổ sung thêm vào chính sách đối tượng chưa được tham gia để họ được hưởng quyền lợi bảo hiểm như những NLĐ khác. 2.1.2.2. Người sử dụng lao động Cũng như NLĐ, pháp luật BHTN ngay từ khi mới ban hành cũng giới hạn phạm vi được tham gia BHTN của NSDLĐ. Trước đây, theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội và Điều 3 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP thì việc tham gia BHTN chỉ áp dụng đối với NSDLĐ có sử dụng từ 10 lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Nhưng thực tế của thị trường Việt Nam hiện nay cho thấy, NSDLĐ có sử dụng dưới 10 lao động còn khá phổ biến, hơn nữa nguy cơ NLĐ mất việc làm ở những nơi này lại cao hơn so với các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan có quy mô sử dụng lao động lớn nên đây là một điểm

35. 31 bất cập. Vì vậy, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia đóng BHTN, Luật việc làm cũng đề ra những thay đổi về việc tham gia BHTN của NSDLĐ. Theo Điều 43, NSDLĐ tham gia BHTN gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động. Như vậy, theo Luật việc làm, việc tham gia BHTN không còn phụ thuộc vào số lượng NLĐ nữa mà căn cứ vào thời hạn làm việc theo hợp đồng làm việc của NLĐ. Sự thay đổi đáng kể này không chỉ hỗ trợ, giải quyết những khó khăn cho NLĐ khi mất việc mà còn ràng buộc thêm trách nhiệm từ phía NSDLĐ. Khoản 3 điều 44 Luật Việc làm quy định, bên cạnh trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHTN của NLĐ và NSDLĐ, sự tham gia đóng góp của Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết chính sách cho những NTN: “Căn cứ vào tình hình kết dư của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Nhà nước chuyển kinh phí hỗ trợ từ ngân sáchnhà nước vào Quỹ theo mức do Chính phủ quy định tại khoản 3 Điều 59 của Luật này”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 28/2023/NĐ-CP, ngân sách nhà nước hỗ trợ Quỹ BHTN theo nguyên tắc đảm bảo duy trì số dư quỹ hàng năm bằng 02 lần tổng các khoản chi chế độ BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm trước liền kề nhưng mức hỗ trợ tối đa bằng 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN. Nguồn kinh phí này được chuyển mỗi năm một lần và được trích từ ngân sách nhà nước để chuyển vào BHTN. Sự tham gia của Nhà nước trong việc xây dựng quỹ BHTN là cần thiết vì bên cạnh việc Nhà nước khẳng định vai trò chủ đạo trung tâm của mình. Việc đóng góp này không chỉ với mục đích bù đắp sự thiếu hụt về tài chính mà còn nhằm bảo đảm cho chính sách của Nhà nước được thực hiện, quyền lợi của những NTN được đảm bảo chắc chắn hơn. Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, hàng năm, ngân sách trung ương phải trích 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những NLĐ tham gia BHTN để chuyển vào quỹ BHTN. Còn theo quy định của Luật việc làm, tỷ lệ này đã có sự thay đổi để tránh tình trạng ỷ lại từ phía NLĐ và NSDLĐ,

36. 32 cụ thể là tối đa không quá 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia. 2.1.3. Điều kiện hưởng Theo quy định tại Điều 49 Luật việc làm và Điều 11 Nghị định 28/2023/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN, điều kiện để NLĐ bị thất nghiệp được hưởng TCTN yêu cầu như sau: – Trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ, NLĐ phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm. – NLĐ đang đóng bảo hiểm bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật. NLĐ đang đóng BHTN được hiểu là người có tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã đóng BHTN và được tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận. Như vậy, những trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật, bị xử lý kỉ luật theo hình thức sa thải hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật hoặc bị kết án tù giam theo quyết định của Tòa án, chết hoặc mất tích theo tuyên bố của Tòa án sẽ không được hưởng trợ cấp BHTN. Việc đưa ra quy định như trên nhằm nâng cao ý thức, tinh thần, trách nhiệm của NLĐ trong quá trình làm việc. Đồng thời, tránh tình trạng NLĐ ỷ lại vào BHTN mà không coi trọng đối với công việc mà mình đang có. Ngoài ra, so với quy định tại khoản 1 Thông tư số 04/2013/TT-BLĐTBXH, Nghị định số 28/2023/NĐ-CP quy định cụ thể, chặt chẽ hơn. Bên cạnh quy định về cách tính thời gian đóng BHTN để được hưởng trợ cấp, quy định mới còn nhấn mạnh việc đóng phí phải được tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận. Điều này nhằm mục đích phòng ngừa, hạn chế sự gian lận khi làm hồ sơ hưởng TCTN. – NTN phải tham gia đóng BHTN đủ thời gian theo quy định của pháp luật. Cụ thể, thời gian phải từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp đối với trường hợp ký kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn; đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi thất nghiệp đối với NLĐ ký kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc

37. 33 một công việc nhất định có thời hạn đủ 03 tháng đến dưới 36 tháng (Khoản 2 Điều 49 Luật việc làm). Theo đó, NLĐ muốn hưởng TCTN phải có trách nhiệm đóng phí BHTN trong một khoảng thời gian nhất định trước khi bị mất việc làm. Việc đóng góp là cần thiết, phòng khi rủi ro xảy đến cho cả hai bên. Lợi ích này không chỉ có NLĐ mà chính NSDLĐ cũng được hưởng. Như vậy, để được hưởng quyền lợi của BHTN thì NSDLĐ và NLĐ thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm đóng phí để tạo quỹ. Do đó, nếu NSDLĐ không tự giác đóng thì NLĐ sẽ không được tham gia chế độ và khi thất nghiệp sẽ không được hưởng quyền lợi. Ngoài ra, khi tham gia BHTN, NSDLĐ có quyền được sử dụng quỹ để chi trả cho việc đào tạo lại, đào tạo nâng cao tay nghề cho NLĐ. Bên cạnh đó, để đảm bảo ASXH, giải quyết hậu quả của việc ban hành những chính sách gây bất lợi ảnh hưởng tới vấn đề việc làm, Nhà nước cũng phải có một phần trách nhiệm trong việc hình thành quỹ. Hơn nữa, ngoài mục đích duy trì sự tồn tại của quỹ BHTN, việc đóng phí còn là cơ sở đảm bảo thanh toán quyền lợi của người tham gia. Vì vậy, quy định này được đặt ra nhằm tránh tình trạng ỷ lại vào Nhà nước, gây thâm hụt quỹ bảo hiểm do chậm hoặc không đóng phí từ phía NLĐ, NSDLĐ. Đặc biệt, đây cũng là biện pháp ngăn ngừa trường hợp NLĐ cố tình làm mất việc để trục lợi bảo hiểm. Căn cứ vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có quy định riêng về khoảng thời gian đóng phí trước khi hưởng TCTN. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tùy vào từng loại hợp đồng mà thời hạn này là đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng hoặc 36 tháng trước khi NLĐ thất nghiệp. Tháng đóng BHTN của NLĐ được tính nếu NSDLĐ và NLĐ đã thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và đã đóng BHTN. Như vậy, so với khoản 1 Điều 15 Nghị định 127/ 2008/NĐ-CP, Luật việc làm đã mở rộng thêm đối tượng được tham gia BHTN. Tuy nhiên, để được hưởng quyền lợi bảo hiểm thì họ phải có thời gian đóng phí tối thiểu là 12 tháng trong khoảng thời gian 36 tháng trước khi họ thất nghiệp. Quy định mới cho thấy, cùng là NLĐ nhưng phụ thuộc vào loại hợp đồng đã ký kết mà điều kiện hưởng trợ cấp khác nhau. Do vậy, để bảo vệ quyền được BHTN của NLĐ, Nhà nước cần quy định lại

38. 34 khoảng thời gian đóng phí trước khi hưởng TCTN sao cho dung hòa lợi ích giữa các đối tượng hưởng trợ cấp. – Để hưởng TCTN, NLĐ thất nghiệp phải nộp hồ sơ tại Trung tâm dịch vụ việc làm ở địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN. Trước đây, theo quy định tại khoản 5 Điều 1 Thông tư số 04/2013/TT- BLĐTBXH thì trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày NLĐ bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, nếu NLĐ chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng TCTN thì phải đăng ký thất nghiệp. Còn nay, cũng trong thời hạn nêu trên, NLĐ thất nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN là được hưởng trợ cấp (Khoản 1 Điều 17 Nghị định 28/2023/NĐ-CP). Như vậy, việc bỏ quy định về đăng ký thất nghiệp là một hướng mới trong cải cách thủ tục hành chính. Quy định này sẽ tạo điều kiện cho người mất việc thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Thực tế cho thấy, khi không có việc làm, NTN thường có những biểu hiện tự ti, do đó, nếu đưa ra quy định bắt buộc phải đăng ký thất nghiệp mới được hưởng trợ cấp, thì chưa chắc tất cả số NTN đã đến cơ quan tiếp nhận thông tin để đăng ký. Hơn nữa, việc đăng ký thất nghiệp sẽ tạo ra nhiều rào cản hơn đối với NLĐ có nhu cầu đăng ký thất nghiệp tại Trung tâm Giới thiệu việc làm không phải là nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Bởi theo quy định cũ, để được hưởng trợ cấp họ phải có xác nhận về việc chưa đăng ký thất nghiệp của Trung tâm Giới thiệu việc làm nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Điều này gây khó khăn, rắc rối cho người đăng ký, vì thế, rất khó để có được chính xác số lượng NTN. Do vậy, việc giải quyết tình trạng thất nghiệp cũng mang lại hiệu quả không cao. Để khắc phục điều này, Luật việc làm và Nghị định 28/2023/NĐ-CP đã cho phép NLĐ thất nghiệp được nộp hồ sơ hưởng TCTN ở Trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương nơi NLĐ muốn nhận trợ cấp. Quy định này giúp cho NLĐ thoải mái, dễ dàng và chủ động hơn trong việc tiến hành thủ tục hưởng TCTN. Tuy nhiên, hàng tháng NLĐ thất nghiệp vẫn phải có trách nhiệm khai báo với trung tâm dịch vụ việc làm nơi họ đang hưởng TCTN về việc tìm kiếm việc làm. Qua đó, cơ quan quản lý nhà nước về lao động cũng có được số liệu chính xác về số lượng NTN, từ đó đề ra biện pháp

Quy Định Về Bảo Hiểm Y Tế Tại Việt Nam

BHYT là một hình thức bảo hiểm theo đó người tham gia được chi trả thay một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh.

Đối tượng tham gia BHYT gồm 5 nhóm: nhóm do NSDLĐ đóng; nhóm do BHXH đóng; nhóm do ngân sách nhà nước đóng; nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ; nhóm tham gia BHYT tự nguyện.

Nơi mua BHYT phụ thuộc vào từng đối tượng tham gia, có thể là tại trường học, cơ quan, doanh nghiệp, UBND xã, điểm bưu điện xã (đối với người mua BHYT tự nguyện),…

Mức hưởng BHYT đúng tuyến gồm các mức: 100% chi phí KCB có hoặc không áp dụng giới hạn tỷ lệ thanh toán; 95% chi phí KCB; 80% chi phí KCB.

Cơ sở pháp lý

Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Nghị định số 146/2023/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế;

Quyết định số 595/QĐ-BHXH Ban hành quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế.

Bảo hiểm y tế là gì?

Bảo hiểm y tế là một hình thức bảo hiểm theo đó người mua bảo hiểm y tế sẽ được cơ quan bảo hiểm trả thay một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cũng như chi phí mua thuốc men khám chữa bệnh.

Ngoài ra, hiện nay theo quy định tại khoản 1.2 Điều 2 Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung năm 2014:

Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện.

Vậy, bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm mục đích chăm sóc sức khỏe. Người mua bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh sẽ được quỹ bảo hiểm y tế chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí.

Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế 2023 và mức đóng của các đối tượng

Căn cứ theo Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Nghị định 146/2023/NĐ-CP có 06 nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế 2023 với mức đóng cũng như mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước khác nhau.

Nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng

Theo quy định tại Điều 1 Nghị định 146/2023/NĐ-CP quy định về nhóm do người lao động và người sử dụng lao động bao gồm:

Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên; người quản lý doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và người quản lý điều hành hợp tác xã hưởng tiền lương; cán bộ, công chức, viên chức. Mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng hàng tháng của đối tượng này bằng 4,5 mức tiền lương tháng của người lao động.

Người lao động trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày trở lên trong tháng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì không phải đóng bảo hiểm y tế nhưng vẫn được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế;

Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật. Mức đóng hàng tháng. Mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng của đối tượng này bằng 4,5% mức lương cơ sở.

Nhóm do cơ quan bảo hiểm xã hội đóng

Đối tượng thuộc nhóm do cơ quan bảo hiểm xã hội đóng bao gồm:

Người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng. Mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng bằng 4,5% tiền lương hưu, trợ cấp mất sức lao động.

Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng. Mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng của đối tượng này bằng 4,5% mức lương cơ sở.

Người lao động trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. Mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng của đối tượng này bằng 4,5% tiền lương tháng của người lao động trước khi nghỉ thai sản.

Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp. Mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng của đối tượng này bằng 4,5% tiền trợ cấp thất nghiệp.

Nhóm do ngân sách nhà nước đóng

Các đối tượng do ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế 2023 được quy định tại Điều 3 Nghị định số 146/2023 như sau:

1. Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp hằng tháng từ ngân sách nhà nước.

3. Người có công với cách mạng theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

4. Cựu chiến binh, gồm:

Cựu chiến binh tham gia kháng chiến từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 trở về trước theo quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 2 Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh cựu chiến binh (sau đây gọi tắt là Nghị định số 150/2006/NĐ-CP), được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 157/2023/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh cựu chiến binh (sau đây gọi tắt là Nghị định số 157/2023/NĐ-CP).

Cựu chiến binh tham gia kháng chiến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 quy định tại khoản 5 Điều 2 Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh cựu chiến binh và tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 157/2023/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 150/2006/NĐ-CP của Chính phủ, gồm:

Quân nhân, công nhân viên quốc phòng đã được hưởng trợ cấp theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc (sau đây gọi tắt là Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg);

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chia, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 chuyên ngành về làm việc tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (không được hưởng trợ cấp theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg);

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã hoàn thành nhiệm vụ tại ngũ trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã phục viên, nghỉ hưu hoặc chuyển ngành về làm việc tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp;

Dân quân, tự vệ đã tham gia chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã được hưởng trợ cấp theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg .

5. Người tham gia kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc, gồm:

Người tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã được hưởng trợ cấp theo một trong các văn bản sau:

b. Người đã được hưởng trợ cấp theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg nhưng không phải là cựu chiến binh theo trường hợp trên;

c. Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong Công an nhân dân đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương đã được hưởng trợ cấp theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20 tháng 8 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ đối với cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong Công an nhân dân đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương;

d. Thanh niên xung phong đã được hưởng trợ cấp theo Quyết định số 170/2008/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bảo hiểm y tế và trợ cấp mai táng phí đối với thanh niên xung phong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ đối với thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến và Nghị định số 112/2023/NĐ-CP ngày 06 tháng 10 năm 2023 của Chính phủ quy định về chế độ, chính sách đối với thanh niên xung phong cơ sở ở miền Nam tham gia kháng chiến giai đoạn 1965 – 1975;

6. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm.

7. Trẻ em dưới 6 tuổi.

8. Người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo quy định của pháp luật về người cao tuổi, người khuyết tật, đối tượng bảo trợ xã hội.

9. Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo và một số đối tượng khác, cụ thể:

Người thuộc hộ gia đình nghèo theo tiêu chí về thu nhập, người thuộc hộ nghèo đa chiều có thiếu hụt về bảo hiểm y tế quy định tại Quyết định số 59/2023/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2023 – 2023 và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế chuẩn nghèo áp dụng cho từng giai đoạn;

Người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;

Người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;

Người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

11. Thân nhân của người có công với cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sỹ; người có công nuôi dưỡng liệt sỹ.

12. Thân nhân của người có công với cách mạng, trừ các đối tượng trên, gồm:

Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con từ trên 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng của các đối tượng: Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến; thương binh, bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Con đẻ từ đủ 6 tuổi trở lên của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bị dị dạng, dị tật do hậu quả của chất độc hóa học không tự lực được trong sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt được hưởng trợ cấp hàng tháng.

13. Thân nhân của sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội đang tại ngũ, sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ và sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng công an nhân dân, học viên công an nhân dân, hạ sỹ quan, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, học viên cơ yếu được hưởng chế độ, chính sách theo chế độ, chính sách đối với học viên ở các trường quân đội, công an, gồm:

14. Người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật về hiến ghép mô tạng.

15. Người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp học bổng từ ngân sách của Nhà nước Việt Nam.

16. Người phục vụ người có công với cách mạng sống ở gia đình, gồm:

17. Người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Mức đóng bảo hiểm y tế hàng tháng bằng 4,5% mức lương cơ sở,tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng theo từng nhóm đối tượng.

Nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng

Các đối tượng thuộc nhóm ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng được quy định tại Điều 4 Nghị định 146/2023/NĐ-CP như sau:

Người thuộc hộ gia đình cận nghèo theo tiêu chí chuẩn cận nghèo theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Người thuộc hộ gia đình nghèo đa chiều không thuộc trường hợp do ngân sách nhà nước đóng.

Hai đối tượng trên được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng tối thiểu 70% mức lương cơ sở. Trường hợp ối với người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang sinh sống tại các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững và các huyện được áp dụng cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP sẽ được ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% mức lương cơ sở.

Học sinh, sinh viên.

Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Hai đối tượng trên được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng tối thiểu 30% mức lương cơ sở.

Trường hợp một người thuộc nhiều đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng thì được hưởng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế theo đối tượng có mức hỗ trợ cao nhất.

Nhóm tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình

Nhóm tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện theo hộ gia đình gồm người có tên trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú trừ các đối tượng thuộc các nhóm trên. Ngoài ra, các đối tượng sau đây được tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình:

Chức sắc, chức việc, nhà tu hành;

Người sinh sống trong cơ sở bảo trợ xã hội trừ các nhóm đối tượng trên mà không được ngân sách nhà nước hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế.

Mức đóng của nhóm đối tượng này như sau:

Vậy mức đóng của người tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình sẽ phụ thuộc vào mức tiền lương cơ sở mà nhà nước quy định cho mỗi năm.

Theo Nghị định số 72/2023/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang từ ngày 1/7/2023 đến ngày 30/06/2023 thì mức lương cơ sở điều chỉnh tăng lên 1.390.000 đồng/ tháng theo đó mức đóng bảo hiểm y tế tự nguyện như sau:

Người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện có thể đóng bảo hiểm y tế theo hình thức 03 tháng, 06 tháng, 12 tháng. Việc giảm trừ mức đóng bảo hiểm y tế theo quy định tại điểm này được thực hiện khi các thành viên tham gia bảo hiểm y t ế theo hộ gia đình cùng tham gia trong năm tài chính.

Mua bảo hiểm y tế ở đâu?

Về nơi mua bảo hiểm y tế thì tùy thuộc vào từng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế cụ thể như sau:

Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình

Đối với đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình thì cách mua bảo hiểm y tế là người đại diện hộ gia đình trực tiếp nộp tiền đóng bảo hiểm y tế cho cơ quan bảo hiểm xã hội cấp quận huyện hoặc đại lý thu bảo hiểm y tế tại cấp xã theo định kì 3 tháng, 6 tháng hoặc 12 tháng.

Hồ sơ mua bảo hiểm y tế tự nguyện theo hộ gia đình bao gồm:

Tờ khai tham gia BHYT (mẫu số TK1-TS);

Danh sách thành viên hộ gia đình tham gia BHYT (mẫu D01-HGĐ);

Bản chụp và bản chính sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú (để đối chiếu);

Bản chính hoặc bản chụp thẻ BHYT của những người đã có thẻ để xác định việc giảm trừ mức đóng.

Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế là học sinh sinh viên

Với đối tượng tham gia bảo hiểm y tế là học sinh, sinh viên cách mua bảo hiểm y tế là chỉ phải đóng phần thuộc trách nhiệm phải đóng cho nhà trường đang học.

Thủ tục mua bảo hiểm y tế: học sinh, sinh viên chỉ cần thẻ học sinh/sinh viên, chứng minh nhân dân hoặc các giấy tờ tùy thân khác có ảnh.

Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế khác

Người lao động làm việc tại các cơ quan, tổ chức và người được Nhà nước đóng, hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế được mua tại chính cơ quan, đơn vị nơi đang làm việc hoặc tại cơ quan bảo hiểm xã hội trên địa bàn.

Về thủ tục mua bảo hiểm y tế, người tham gia bảo hiểm y tế 2023 chỉ cần chuẩn bị Tờ khai tham gia BHYT (Mẫu TK1-TS), sau đó thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan, đơn vị.

Mức hưởng bảo hiểm y tế 2023 Mức hưởng theo đối tượng tham gia bảo hiểm y tế 2023

Hiện nay, theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Nghị định số 146/2023/NĐ-CP mức hưởng bảo hiểm y tế 2023 phụ thuộc vào từng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế. Cụ thể:

Đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế 2023 khác mức hưởng sẽ là 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong đó có đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện theo hộ gia đình.

Hiện nay, trên thẻ bảo hiểm y tế có ghi mã thẻ bảo hiểm y tế nhằm mục đích phân loại, thống kê đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, quyền lợi của đối tượng tham gia bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay và từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý bằng công nghệ thông tin. Nhìn vào mã bảo hiểm y tế, người dân có thể biết rõ mình làm việc ngành nghề nào, thuộc nhóm đối tượng nào, mức hưởng BHYT, nơi sinh sống, bệnh viện nơi đăng ký KCB …

Như vậy, mức hưởng của người tham gia đã được mã hóa ở ký hiệu in trên thẻ bảo hiểm y tế. Theo đó mã thẻ bảo hiểm y tế gồm 15 ký tự, được chia thành 4 ô. Trong đó, 2 ký tự đầu (ô thứ nhất): Được ký hiệu bằng chữ, là mã đối tượng tham gia BHYT. Ký tự tiếp theo (ô thứ 2): Được ký hiệu bằng số (theo số thứ tự từ 1 đến 5) là mức hưởng BHYT. Trường hợp một người thuộc nhiều đối tượng tham gia BHYT thì mức hưởng BHYT ghi trên thẻ BHYT là mức hưởng của đối tượng có quyền lợi cao nhất.

Ngoài ra, không phụ thuộc vào loại đối tượng, người tham gia bảo hiểm y tế 2023 sẽ được thanh toán 100% chi phí KCB nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

KCB tại tuyến xã.

Chi phí cho một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương cơ sở.

Người bệnh có thời gian tham gia bảo hiểm y tế 05 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong năm lớn hơn 06 tháng lương cơ sở, trừ trường hợp tự đi khám chữa bệnh không đúng tuyến.

Trường hợp một người thuộc nhiều đối tượng tham gia bảo hiểm y tế thì được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế theo đối tượng có mức hưởng cao nhất.

Trường hợp người có thẻ bảo hiểm y tế tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến, sau đó được cơ sở nơi tiếp nhận chuyển tuyến đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo mức hưởng khi đi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trái tuyến trừ các trường hợp sau: cấp cứu; đang điều trị nội trú được phát hiện bệnh khác ngoài phạm vi chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; tình trạng bệnh diễn biến vượt quá khả năng chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã giáp ranh của tỉnh giáp ranh được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng và mức hưởng như trên khi đến khám bệnh, chữa bệnh tại trạm y tế tuyến xã giáp ranh của tỉnh giáp ranh.

Trường hợp chuyển đổi mức hưởng bảo hiểm y tế thì mức hưởng bảo hiểm y tế mới được tính từ thời điểm thẻ bảo hiểm y tế mới có giá trị sử dụng.

Mức hưởng bảo hiểm y tế 2023 khi đi khám chữa bệnh không đúng tuyến

Trường hợp người có thẻ bảo hiểm y tế tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo mức hưởng của các nhóm đối tượng:

Hiện nay, đã có sự thông tuyến bảo hiểm y tế tuyến xã, tuyến huyện trong cùng một tỉnh: người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh có mức hưởng theo nhóm đối tượng như trên.

Đối với việc thông tuyến bảo hiểm y tế tuyến huyện trên phạm vi cả nước thì không phải mọi trường hợp đi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trái tuyến ở tuyến huyện sẽ được cơ quan bảo hiểm y tế thanh toán theo mức hưởng như đi khám đúng tuyến. Nếu trên thẻ bảo hiểm y tế của bạn ghi nơi đăng ký khám chữa bệnh bảo hiểm y tế là bệnh viện tuyến huyện thì bạn sẽ được đi khám ở bất kỳ bệnh viện nào thuộc tuyến huyện trên toàn quốc, còn nếu thẻ bảo hiểm y tế của bạn ghi rõ nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu là bệnh viện tuyến huyện của một tỉnh nhất định thì trường hợp này bạn sẽ chỉ được khám ở trên địa bàn tỉnh đó.

Người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; người tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo khi tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với bệnh viện tuyến huyện, điều trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ương và có mức hưởng theo theo mức hưởng của nhóm đối tượng.

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2023, quỹ bảo hiểm y tế chi trả chi phí điều trị nội trú theo mức hưởng của nhóm đối tượng cho người tham gia bảo hiểm y tế khi tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước.

Các Loại Bảo Hiểm Theo Quy Định Của Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm

Các loại bảo hiểm theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm. Bạn được lựa chọn những gói bảo hiểm nào khi mua bảo hiểm dịch vụ?

Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế, trong đời sống hàng ngày luôn phát sinh những rủi ro đối với con người ở trên nhiều phương diện như sức khỏe, tài sản, hoạt động sản xuất, kinh doanh,…Khi xảy ra những rủi ro này, mỗi người đều phải đối mặt với nguy cơ khó khăn đặc biệt là về vấn đề tài chính để giải quyết những về đó, điều này phát sinh nhu cầu chia sẻ rủi ro để giảm bớt gánh nặng trở nên cấp thiết hơn.

Nắm bắt được điều này, kinh doanh bảo hiểm xuất hiện cung cấp các dịch vụ bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân cũng như tổ chức mua bảo hiểm đảm bảo sự an toàn và ổn định về mặt tài chính khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Để đảm bảo hành lang pháp lý điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này, Luật kinh doanh bảo hiểm đã ra đời. Vậy, hiện nay pháp luật quy định có những loại bảo hiểm nào? Luật Dương Gia sẽ cùng quý bạn đọc tìm hiểu về vấn đề này.

Theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, có thể hiểu một cách khái quát nhất về kinh doanh bảo hiểm chính là việc các doanh nghiệp hoạt động về lĩnh vực này nhằm mục đích lợi nhuận. Bản chất của hoạt động kinh doanh này chính là việc thông qua các loại hình bảo hiểm của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, người có nhu cầu sẽ mua bảo hiểm mà mình cần và đóng phí cho doanh nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro từ người mua và thực hiện việc trả tiền bảo hiểm cho người được bồi thường hoặc người thụ hưởng khi sự kiện bảo hiểm phát sinh.

Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cần hiểu rõ một số khái niệm sau đây:

Thứ nhất, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm là những doanh nghiệp có lĩnh vực hoạt động là bảo hiểm, các doanh nghiệp này phải được thành lập và có cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động tuân theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm.

Thứ hai, trong kinh doanh bảo hiểm, các tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu mua bảo hiểm sẽ thực hiện việc giao kết hợp đồng và có nghĩa vụ đóng phí với doanh nghiệp bảo hiểm, gọi chung là bên mua bảo hiểm. Người được bảo hiểm là người có tài sản, trách nhiệm dân sự hay tính mạng được bảo hiểm. Người thụ hưởng là người được chỉ định nhận tiền bảo hiểm đối với hợp đồng bảo hiểm về con người.

Bên mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho chính mình hoặc mua cho người khác và mình đóng vai trò là người thụ hưởng.

Thứ ba, sự kiện bảo hiểm là cơ sở để phát sinh trách nhiệm của doanh nghiệp trong hợp đồng bảo hiểm chính là những sự kiện khách quan đã được các bên thỏa thuận hoặc được pháp luật quy định.

Thứ tư, để tham gia bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải đóng một khoản phí cho doanh nghiệp bảo hiểm theo phương thức và lộ trình mà các bên đã thỏa thuận, đây gọi là phí bảo hiểm.

Theo quy định tại Điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (Sửa đổi bổ sung năm 2010) và Hướng dẫn tại Điều 4 Nghị định 73/2023/NĐ-CP, hiện nay có các loại bảo hiểm được phân loại như sau:

– Bảo hiểm trọn đời: Đây là hình thức bảo hiểm được người mua bảo hiểm lựa chọn cho trường hợp người được bảo hiểm phát sinh sự kiện chết trong suốt cuộc đời của họ.

– Bảo hiểm sinh kỳ: Ngược lại với bảo hiểm tử kỳ, đây là loại bảo hiểm sử dụng trong trường hợp người mua bảo hiểm ký hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm về sự kiện người được bảo hiểm sống đến thời hạn được thỏa thuận. Cụ thể khi người được bảo hiểm có thể sống đến thời hạn được thỏa thuận giữa người mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thì người thụ hưởng sẽ được thanh toán bảo hiểm.

– Bảo hiểm tử kỳ: Đây là loại hình bảo hiểm có sự kiện bảo hiểm chính là người được bảo hiểm chết trong thời hạn được người mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm

– Bảo hiểm hỗn hợp; Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ

– Bảo hiểm trả tiền định kỳ: Là hình thức bảo hiểm khi người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định theo thỏa thuận của người mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thì người thụ hưởng sẽ được trả tiền bảo hiểm dịnh kỳ.

– Bảo hiểm hưu trí: Đây được coi là loại hình bảo hiểm được sử dụng khi người mua bảo hiểm có nhu cầu muốn bảo đảm về vấn đề an sinh cho người được mua bảo hiểm thông qua hình thức người được bảo hiểm sẽ được trả tiền bảo hiểm sau khi họ đạt độ tuổi xác định.

Thứ hai, bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các nghiệp vụ bảo hiểm nằm ngoài phạm vi của bảo hiểm nhân thọ như bảo hiểm về tài sản, trách nhiệm dân sự,…và các loại hình khác. Cụ thể như:

– Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại

– Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường thủy nội địa, đường sắt và đường hàng không

– Bảo hiểm hàng không

– Bảo hiểm xe cơ giới

– Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu

– Bảo hiểm trách nhiệm

– Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính

– Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh

– Bảo hiểm nông nghiệp: Đây là hình thức bảo hiểm được áp dụng cho đối tượng là những người sản xuất trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Theo đó, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm trong lĩnh vực này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện việc trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận.

– Nghiệp vụ bảo hiểm bảo lãnh: Đây được coi là hình thức bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chấp nhận những rủi ro của bên được bảo lãnh. Theo đó, bên được bảo lãnh sẽ trả một khoản phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ thay cho họ khi đến hạn thực hiện mà bên được bảo lãnh không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình. Ngược lại, bên được bảo lãnh phải nhận nợ và thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho doanh nghiệp bảo hiểm theo như thỏa thuận đã giao kết trong hợp đồng.

Ngoài cách phân loại bảo hiểm theo lĩnh vực như ở trên, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 còn quy định về những loại hình bảo hiểm mang tính chất bắt buộc tại Điều 8 như sau:

Thứ nhất, đặc thù của bảo hiểm bắt buộc chính là việc xác định về điều kiện bảo hiểm, mức phí cũng như số tiền bảo hiểm tối thiểu sẽ không do các bên thỏa thuận mà do pháp luật quy định.

– Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách

– Bảo hiểm cháy, nổ.

Đối với bảo hiểm bắt buộc việc thực hiện phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

– Các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung được kinh doanh về bảo hiểm bắt buộc phải đảm bảo việc bán bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm đã đáp ứng được điều kiện mua theo quy định, không được phép từ chối.

– Những cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc phải có nghĩa vụ tham gia. Việc cố ý không tham gia theo quy định sẽ có chế tài xử lý

Chào luật sư! Tôi đang có một vấn đề cần luật sư giải đáp như sau:

Tôi có phương tiện là xe máy, trong quá trình tham gia giao thông khi được kiểm tra hành chính, tôi có bị đồng chí cảnh sát giao thông xử phạt về lỗi không có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Cảnh sát giao thông có giải thích cho tôi đây là loại giấy tờ bắt buộc phải có? Và tôi phải tham gia bảo hiểm này bằng cách nào? Vậy luật sư cho tôi được biết như vậy có đúng hay không?

Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:

– Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (Sửa đổi bổ sung năm 2010)

– Nghị định 73/2023/NĐ-CP

– Thông tư 22/2023/TT-BTC

Thứ nhất, căn cứ theo Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (Sửa đổi bổ sung năm 2010) có quy định về bảo hiểm bắt buộc như sau:

1. Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện.

Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội.

2. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:

a) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách;

b) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật;

c) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm;

3. Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ, Chính phủ trình ủy ban thường vụ Quốc hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác”.

Như vậy, căn cứ theo quy định này trường hợp của bạn là chủ của phương tiện nằm trong đối tượng phải tham gia bảo hiểm bắt buộc.

Thứ hai, Thông tư 22/2023/TT-BTC để tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bạn có thể liên hệ đến doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm hoặc môi giới để tham gia:

4. Doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới các hình thức sau:

b) Thông qua đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm.

c) Các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.

Doanh nghiệp bảo hiểm không được sử dụng đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của doanh nghiệp bảo hiểm khác trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm đó chấp thuận bằng văn bản và doanh nghiệp bảo hiểm phải đào tạo và cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm theo đúng quy định”.

Khái Niệm, Vai Trò Và Các Nguyên Tắc Của Bảo Hiểm Thất Nghiệp

Khái niệm, vai trò và các nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp? Bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là biện pháp để giải quyết tình trạng thất nghiệp, nhằm trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật việc làm năm 2013 bảo hiểm thất nghiệp được hiểu như sau:

“Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.”

Bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là biện pháp hay giải pháp để nhằm mục đích giúp người lao động khắc phục tình trạng thất nghiệp, trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp không có công ăn việc làm trong thời gian nghỉ việc mà chưa tìm được việc làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm kiếm công việc mới.

Theo quy định pháp lý, thì chế độ bảo hiểm thất nghiệp chính là là tất cả các quy phạm pháp luật quy định việc đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chi trả một khoản trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho người lao động nghỉ việc, bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp, giải pháp hỗ trợ tìm kiếm việc làm người thất nghiệp trở lại làm việc.

2. Vai trò và các nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp

– Thứ nhất: Đối với người lao động, thì bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thât nghiệp chính là khoản tiền trợ cấp cần thiết để giúp đỡ những người thất nghiệp có cuộc sống ổn định khi bị mất việc làm. Ngoài 1 khoản tiền được hưởng thì cơ quan chi trả bảo hiểm thất nghiệp cũng tạo cơ hội về công việc để họ có thể tiếp tục tìm kiếm các công việc khác để có thu nhập. Chính cơ quan chi trả bảo hiểm thất nghiệp đã tạo ra chỗ dựa về vật chất và tinh thần cho những người lao động khi lâm vào tình trạng mất việc làm ổn định được cuộc sống.

– Thứ hai: Đối với người sử dụng lao động thì gánh nặng kinh tế, tài chính của họ cũng sẽ được chia sẻ khi những người lao động tại doanh nghiệp đã bị mất việc làm, thất nghiệp họ không cần phải mất một khoản chi để giải quyết chế độ cho những người lao động nghỉ việc. Đặc biệt, trong những thời kỳ khó khăn, buộc phải thu hẹp sản xuất, nhiều người lao động thất nghiệp.

– Thứ ba: Đối với nhà nước, ngân sách nhà nước thì sẽ giảm bớt chi phí khi nạn thất nghiệp gia tăng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tạo sự chủ động về tài chính cho nhà nước.

a. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp

Theo quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013 thì người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì cần có đủ các tiêu chuẩn như sau:

– Người lao động phải chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, tuy nhiên phải trừ các trường hợp như đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật hoặc đủ điều kiện để hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

– Người lao động có quá trình đóng bảo hiểm thất nghiệp tại doanh nghiệp trường hợp thứ nhất là lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013. Trường hợp thứ hai là người lao động tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp tại doanh nghiệp lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013.

– Trong thời gian chính xác là 03 tháng, từ thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có quyết định nghỉ việc, thì người lao động phải nộp hồ sơ để giải quyết và hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm.

– Người lao động chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, tuy nhiên trừ các trường hợp như: phải tham gia nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; Chết.

– Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp theo mẫu quy định.

– Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; hoặc Quyết định thôi việc; hoặc Quyết định sa thải; hoặc Quyết định kỷ luật buộc thôi việc; hoặc Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. ( bản chính hoặc bản sao có chứng thực)

– Chứng minh nhân dân ( bản sao)

– Quyết định tạm hoãn hợp đồng, Quyết định thỏa thuận nghỉ việc không hưởng lương. ( nếu có )

c. Mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Quy định về thời gian để giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp thì được tính theo số thời gian tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp khi tham gia bảo hiểm bắt buộc, nếu đóng từ đủ 12 tháng trở lên đến đủ 36 tháng thì sẽ được giải quyết và được chi trả 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau thời gian đó thì cứ đóng đủ thêm được 12 tháng nữa thì sẽ được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng. ví dụ: 4 năm đóng thất nghiệp được 4 tháng; 4 năm đóng thất nghiệp được 5 tháng….

Thời gian để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì được tính kể từ ngày thứ 16 khi đã nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp hợp lệ theo quy định pháp luật.

Công ty tôi kinh doanh hoạt động về ngành nghề du lịch. Do tình hình dịch bênh Covit 19 nên doanh nghiệp rơi vào tình trạng không có việc làm cho nhân viên. Nên tôi nghỉ việc vào ngày 29/4/2023 việc nghỉ việc do sự thỏa thuận của doanh nghiệp và tôi. Tuy nhiên, trước khi có quyết định nghỉ việc thì tháng 3 và tháng 4 năm 2023 công ty và tôi có ký văn bản thỏa thuận nghỉ việc không hưởng lương nên không đóng bảo hiểm xã hội cho tháng 3 và tháng 4. Thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp của tôi là 1 năm 6 tháng. Vậy tôi có được hưởng bảo hiểm thất nghiệp không? hồ sơ giấy tờ tôi cần chuẩn bị là gì? và mức hưởng là bao nhiêu? Tôi xin cảm ơn.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013 thì người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp để được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì cần có các điều kiện sau:

– Người lao động phải chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đúng quy định pháp luật lao động

– Người lao động tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp trường hợp thứ nhất là lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013. Trường hợp thứ hai là người lao động tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp lớn hơn hoặc đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm năm 2013.

– Nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm để hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp gồm có:

– Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp theo mẫu quy định.

– Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; hoặc Quyết định thôi việc; hoặc Quyết định sa thải; hoặc Quyết định kỷ luật buộc thôi việc; hoặc Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. ( bản chính hoặc bản sao có chứng thực)

– Sổ bảo hiểm xã hội.

– Quyết định thỏa thuận nghỉ việc không hưởng lương tháng 3,4.

– Chứng minh nhân dân ( bản sao)

Như vậy, trường hợp của bạn tham gia bảo hiểm thất nghiệp trên 12 tháng và nghỉ việc đúng luật nên bạn được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp nên trong thời hạn 3 tháng thì bạn cần làm 1 bộ hồ sơ như trên để gửi trung tâm tư vấn việc làm để giải quyết bảo hiểm thất nghiệp.

Cập nhật thông tin chi tiết về Quy Định Về Hưởng Bảo Hiểm Thất Nghiệp trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!