Xu Hướng 10/2023 # Phát Triển Du Lịch Thông Minh # Top 10 Xem Nhiều | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Phát Triển Du Lịch Thông Minh # Top 10 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phát Triển Du Lịch Thông Minh được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tuy nhiên, để du lịch thông minh phát huy tối đa hiệu quả, nhất là trong việc quảng bá tiềm năng du lịch, kết nối với du khách ngay trong thời điểm ngành du lịch gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng dịch COVID-19 như hiện nay, cần nhiều giải pháp mang tính đồng bộ, có sự tham gia từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp du lịch và cả du khách – đối tượng phục vụ của ngành du lịch.

Du khách tham quan tại Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Gia Thuận/TTXVN

Bài 1: Xu hướng tất yếu

Hiện nay, việc ứng dụng các giải pháp công nghệ trong lĩnh vực du lịch có thể mang đến cho du khách nhiều tiện lợi từ việc tìm thông tin, lên ý tưởng cho chuyến du lịch cho tới việc đặt và thanh toán chi phí các dịch vụ. Còn cơ quan quản lý thuận lợi hơn trong việc nắm bắt thông tin, doanh nghiệp du lịch cũng có thể tận dụng ưu thế của công nghệ để thiết kế các sản phẩm theo hướng gia tăng giá trị trải nghiệm cũng như quảng bá sản phẩm tới du khách. Đây chính là một số ưu điểm nổi bật mà du lịch thông minh đem lại.

Đáp ứng nhu cầu

Đề cập đến “du lịch thông minh”, một số chuyên gia cho rằng thuật ngữ này ra đời dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, đặc biệt là sự phát triển rất mạnh của công nghệ thông tin – truyền thông, đã cho phép tạo ra các sản phẩm đa dạng hơn cho ngành du lịch.

Còn theo ông Phan Đình Huê, Giám đốc Công ty Du lịch Vòng tròn Việt, du lịch thông minh là xu hướng phát triển tất yếu và được thể hiện một cách rất cụ thể, thiết thực, ví dụ nhờ công nghệ du khách có thể tìm hiểu rõ các thông tin về điểm đến dự định, về các dịch vụ lưu trú, ẩm thực, sản phẩm trải nghiệm… Ngay tại điểm đến, với các ứng dụng công nghệ thông tin, du khách có thể tự trải nghiệm các dịch vụ như thuyết minh tự động, trải nghiệm từng sự kiện lịch sử được tái hiện thông qua việc ứng dụng các công nghệ thực tế ảo, thực tế tăng cường…

Giúp kết nối, quảng bá sản phẩm ngay trong thời điểm khó khăn

Với một ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng cao như du lịch, hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm, kết nối với người dự định sử dụng dịch vụ là hết sức quan trọng. Tiến sỹ Lê Sĩ Trí, Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu cho rằng: Hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, đặc biệt là hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy cập công cộng với tên gọi là internet đã mở ra cho các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp kinh doanh du lịch nói riêng một phương thức quảng bá hữu hiệu. Đó là hoạt động truyền thông trực tuyến, thông qua mạng internet với một số công cụ phổ biến nhất như mạng xã hội, thư điện tử, trang thông tin điện tử, thiết bị di động và tiếp thị trực tuyến. Đây là những công cụ đơn giản, hiệu quả và ít chi phí để doanh nghiệp du lịch quảng bá sản phẩm và dịch vụ mới, tăng độ nhận diện thương hiệu, giữ lòng trung thành nơi khách hàng.

Theo lãnh đạo Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, du lịch thông minh sẽ giúp đẩy mạnh khả năng truy cập và tương tác của du khách để đáp ứng nhu cầu tìm kiếm, khai thác, liên kết dịch vụ du lịch, thanh toán tiện lợi hơn, góp phần đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm dịch vụ du lịch. Thực tế hoạt động quảng bá du lịch, kết nối giữa cơ quan quản lý- doanh nghiệp- du khách cho thấy, việc nắm bắt, sử dụng các ứng dụng công nghệ để tương tác là hết sức cần thiết, nhất là trong giai đoạn hoạt động du lịch gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 như hiện nay. Ví dụ, ngay tại thời điểm các hoạt động du lịch bị gián đoạn vào cuối tháng 3/2023, nhiều du khách đã rất ấn tượng và có dự định đến Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian gần nhất có thể để trải nghiệm và thưởng thức các đặc sản sau khi được xem sản phẩm truyền thông trực tuyến “Tôi yêu bánh mì Sài Gòn” do Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Hiệp hội Văn hóa ẩm thực Việt Nam, các đơn vị truyền thông tổ chức.

Bài cuối: Cần đồng bộ các giải pháp

Thời Của Du Lịch Thông Minh

Hiện trên thế giới việc phát triển du lịch thông minh đang rất sôi động. Nhiều quốc gia đã triển khai du lịch thông minh dưới nhiều hình thức khác nhau tạo nên những điểm nhấn và lợi thế cạnh tranh du lịch. Không nằm ngoài xu hướng này, du lịch Việt Nam đang tiếp cận nhanh với du lịch thông minh.

“Điểm chạm”cho doanh nghiệp lữ hành

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã đem thành tựu vượt bậc của công nghệ số tới mọi lĩnh vực, trong đó có ngành du lịch. Công nghệ, trí tuệ nhân tạo giúp ngành du lịch tạo ra nhiều sản phẩm mới hấp dẫn, kích thích tăng trưởng và phát triển du lịch bền vững. Các ứng dụng công nghệ giúp các đơn vị du lịch giảm thời gian, nhân lực, chi phí sản xuất, dẫn đến giảm giá thành các dịch vụ, mang lại lợi ích cho khách hàng…

Châu Âu được đánh giá có lợi thế và dẫn đầu xu hướng phát triển mới. Ở châu Á, nhiều điểm đến của Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore đã đầu tư mạnh cho du lịch thông minh như áp dụng ví điện tử, mã QR, dùng dấu vân tay để thanh toán dịch vụ, làm thủ tục sân bay, nhận phòng, trải nghiệm du lịch dựa trên công nghệ thực tế ảo…

“Trong 3 năm qua, du lịch Việt Nam đã phát triển rất nhanh, đạt tốc độ phát triển kỷ lục. Nhưng đó chỉ là nhất thời, bởi thời gian sau sẽ rất khó để đạt được mức tăng trưởng 2 con số nếu không ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển du lịch thông minh, bền vững” – ông Vũ Thế Bình, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Du lịch Việt Nam nhận định. Loại hình du lịch kiểu mới này giúp tiết kiệm về nhân công, công sức cho mọi người và quan trọng hơn là nhu cầu từ chính du khách.

Có công ty công nghệ đã tiến xa hơn với việc tạo ra sàn giao dịch ảo cho các đơn vị du lịch giao dịch. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp làm du lịch cũng ứng dụng các công cụ công nghệ thông tin vào việc kinh doanh lưu trú, bán tour, dịch vụ… nhằm đáp ứng nhu cầu đang ngày càng cao của du khách trong nước, quốc tế. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển du lịch là xu hướng tất yếu để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

Công nghệ 4.0 giúp hình ảnh tại điểm du lịch có thể chia sẻ với mọi người.

Công nghệ 4.0 thực sự đã tạo ra “điểm chạm” không thể ngờ đến khi thông tin, khi hình ảnh tại điểm du lịch có thể nhanh chóng được chia sẻ cho tất cả mọi người ở mọi nơi, mọi lúc, kích thích nhu cầu của người dân đam mê du lịch và tạo ra nhu cầu khám phá, tìm hiểu điểm đến. Từ những bức hình, bài viết hay thông tin được “share”, “like” qua Facebook, các địa điểm du lịch mới lạ với chất lượng dịch vụ tốt thông qua công nghệ 4.0 đã nhanh chóng tạo hiệu ứng đám đông, giúp gây dựng thương hiệu cho điểm đến, thậm chí đó còn là thương hiệu mang tầm vóc, quy mô toàn cầu.

Xúc tiến, quảng bá với công nghệ thực tế ảo

Ngày nay, chiếc smartphone gần như đã trở thành vật bất ly thân trong các chuyến du lịch, đặc biệt với các bạn trẻ. Nắm bắt xu thế này, các doanh nghiệp về nền tảng lữ hành trên điện thoại ở Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển để hoàn thiện, qua đó đem đến cho khách hàng những trải nghiệm tốt nhất qua công nghệ thực tế ảo (VR).

Ông Nguyễn Chí Thanh, Giám đốc Công ty Toàn Dũng Media chia sẻ, công nghệ VR một khái niệm khá mới mẻ, chỉ mới xuất hiện vào những thập niên 90 trở lại đây. Thực tế ảo là thuật ngữ miêu tả một môi trường mô phỏng qua màn hình máy tính hoặc trên các thiết bị chuyên dụng khác. Không chỉ có hình ảnh chân thực sắc nét, những âm thanh gần gũi như thật đem cả không gian thực tế hiện hữu trước mắt du khách.

Hiện nay, không riêng gì Việt Nam, các nước trên thế giới đang áp dụng công nghệ thực tế ảo trong ngành du lịch – lữ hành. Điều này đã mang lại lợi ích không nhỏ cho các du khách, từ đó người hưởng lợi trực tiếp chính là những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch – khách sạn. Thí dụ, bạn muốn đi du lịch khắp các quốc gia trên thế giới, hay đơn giản đi hết những danh lam thắng cảnh tại Việt Nam. Để chuẩn bị cho một chuyến đi, bạn sẽ tìm hiểu những trở ngại trong vấn đề về thời gian, chi phí, sức khỏe…

Vấn đề này đã được công nghệ thực tế ảo khắc phục hoàn toàn. Chỉ cần tìm tên địa điểm mà bạn muốn tới, sau đó nhấp lệnh, mọi không gian như Hội An, Tokyo, New York, Paris… hay thậm chí là dưới đại dương xanh thẳm hoặc đỉnh Everest cao vút biểu tượng cho sự chinh phục ở ngay trước mắt. Công nghệ thực tế ảo cung cấp cho khách hàng những hình ảnh trực quan về phòng nghỉ trong khách sạn với các thiết bị được bày bố thông minh và đạt chuẩn về chất lượng. Hứa hẹn nhiều hấp dẫn, song theo ông Thanh việc sử dụng công nghệ thế giới ảo tại Việt Nam còn nhiều hạn chế và chưa đồng bộ tại nhiều địa danh.

Hiệu quả tích cực của việc phát triển công nghệ ảo đã rõ, song từ mong muốn tới việc áp dụng vào du lịch Việt Nam vẫn còn nhiều rào cản. Ông Bùi Quang Doanh, Giám đốc Maketing Công ty Giải pháp kết nối du lịch Việt Nam, cho biết: “Hiện tại, các doanh nghiệp du lịch rất nhanh nhạy đối với các ứng dụng công nghệ. Tuy nhiên, những doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ không có đủ nguồn lực để tận dụng tối ưu công nghệ đó. Bởi để phát triển một phần mềm sẽ tốn rất nhiều chi phí và đòi hỏi nhân lực chất lượng cao”.

Rõ ràng, du lịch trong cách mạng công nghiệp 4.0 cũng cần được phát triển một cách thông minh với sự hỗ trợ của công nghệ số. Sự thông minh thể hiện ở chỗ phải tính toán được ưu-nhược điểm của các dịch vụ, tuyên truyền sâu rộng cho người dân thấy lợi ích của dịch vụ chất lượng cao, nhưng đây cũng là thách thức với người làm du lịch. Bởi lợi ích có thể thấy rõ, song thiệt hại cũng sẽ rất khủng khiếp đối với doanh nghiệp nếu chưa từ bỏ được kiểu cách làm đại khái, “chụp giật”…

Bởi mọi khiếm khuyết sẽ được lan truyền với tốc độ tính bằng giây trên một thế giới phẳng. Vì vậy, khi có sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ, điều quan trọng chiếm vị trí cốt lõi vẫn phải là các sản phẩm và chất lượng dịch vụ cung cấp. Chỉ khi song hành được cả 2 kênh quảng bá và chất lượng sản phẩm khiến cho du khách hài lòng, khi đó du lịch mới có thể phát triển bền vững.

Chính Sách Phát Triển Du Lịch

Chính sách phát triển du lịch được quy định tại Điều 5 Luật Du lịch 2023 có hiệu lực từ ngày 01/01/2023, theo đó:

1. Nhà nước có chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển du lịch để bảo đảm du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch được hưởng mức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cao nhất khi Nhà nước ban hành, áp dụng các chính sách về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư.

3. Nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí cho các hoạt động sau đây:

a) Điều tra, đánh giá, bảo vệ, tôn tạo, phát triển giá trị tài nguyên du lịch;

b) Lập quy hoạch về du lịch;

c) Xúc tiến du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia, địa phương;

d) Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch.

4. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các hoạt động sau đây:

a) Đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ du lịch chất lượng cao;

b) Nghiên cứu, định hướng phát triển sản phẩm du lịch;

c) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch;

d) Đầu tư phát triển sản phẩm du lịch mới có tác động tích cực tới môi trường, thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư; đầu tư phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa và sản phẩm du lịch đặc thù khác;

đ) Ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch;

e) Phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch; sử dụng nhân lực du lịch tại địa phương;

g) Đầu tư hình thành khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn; hệ thống cửa hàng miễn thuế, trung tâm mua sắm phục vụ khách du lịch.

5. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện thuận lợi về đi lại, cư trú, thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, hải quan, hoàn thuế giá trị gia tăng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp khác cho khách du lịch.

Chào thân ái và chúc sức khỏe!

Mối Quan Hệ Môi Trường Du Lịch Với Phát Triển Du Lịch

KHOA DU LỊCH & NGOẠI NGỮ HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 50 NĂM TRUYỀN THỐNG ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SAO ĐỎ

Thứ bảy – 02/12/2023 10:52

Du lịch là ngành kinh tế đã và đang chiếm giữ một vị trí quan trọng, đóng góp đánh kể trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó còn góp phần thực thi chiến lược hoà bình, hợp tác hữu nghị giữa các nước trên thế giới.Trong quá trình phát triển, ngành du lịch đã và đang bộc lộ những mặt hạn chế như việc quản lý và sử dụng chưa hợp lý tài nguyên, đặc biệt những vấn đề về môi trường. Do đó, cần phát triển du lịch một cách bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao, hài hoà với các ngành sản xuất, kinh tế khác và bảo vệ được môi trường.

Nguyễn Đăng Tiến, Khoa DL & NN

Tài liệu tham khảo 1. Trương Quang Hải, Nguyễn Thị Hải (2006). Kinh tế Môi trường. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. 2. Phạm Ngọc Hổ, Hoàng Xuân Cơ (2000). Đánh giá tác động môi trường. NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 3. Nguyễn Đình Hoè (2007). Môi trường và Phát triển bền vững. NXB Giáo dục. Hà Nội. 4. Lê Văn Khoa và nnk (2007). Khoa học môi trường. NXB Giáo dục. 5. Phạm Trung Lương và nnk (1996). Du lịch sinh thái. NXB Tp. Hồ Chí Minh. 6. Phạm Trung Lương, Đặng Duy Lợi và nnk (2000). Tài nguyên và Môi trường du lịch Việt Nam. NXB Giáo dục. 7. Nguyễn Minh Tuệ và nnk (1997). Địa lí du lịch Việt Nam. NXB Tp. Hồ Chí Minh. 8. Các trang Web: https://www.google.com.vn/; https://www.cangioresort.com/; https://www.thiennhien.com/;https://www.gso.gov.vn/‎;https://www.vietnamtourism.gov.vn/‎

Từ khóa: quản lý, phát triển, sử dụng, đặc biệt, vị trí, môi trường, quan trọng, kinh tế, du lịch, vấn đề, chiếm giữ, quốc gia, góp phần, chiến lược, hợp tác, hữu nghị, quá trình, bộc lộ, hạn chế, hợp lý, tài nguyên

Những tin mới hơn Những tin cũ hơn TRƯỞNG KHOA VĂN PHÒNG KHOA

Du Lịch Biển Là Gì? Phát Triển Du Lịch Biển Là Gì?

Khái niệm ? Cùng tìm hiểu các loại hình du lịch biển; Vai trò, hạn chế, tiềm năng và sự phát triển của du lịch biển Việt Nam. Tất cả sẽ được giải đáp trong bài viết này. Mời các bạn cùng đón đọc!

Khái Niệm Du Lịch Biển Là Gì ?

Du lịch biển là loại hình du lịch gắn liền với biển, thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động tắm biển, thể thao biển (bóng chuyền bãi biển, lướt ván…). Loại hình du lịch này có tính mùa rất rõ nên nó thường được tổ chức vào mùa nóng hoặc mùa hè với nhiệt độ nước biển và không khí trên 20oC. Nếu bờ biển ít dốc, môi trường sạch đẹp thì khả năng thu hút mọi người càng lớn.

Vì thế, sau những ngày làm việc căng thẳng, mệt mỏi, bạn muốn tạm rời xa chốn thành thị bon chen để tận hưởng kỳ nghỉ trọn vẹn thì biển là một trong những lựa chọn hàng đầu

Và mùa hè đang đến gần hãy nhanh chân lựa chọn một địa điểm du lịch biển tạo cho ta cảm giác thư thái, dễ chịu và nhiều kỷ niệm đẹp tại nơi mà bạn đã lựa chọn.

bằng du thuyền 5⭐️Trọn gói từ A-Z ✅ Giá Kịch Sàn -50% ✅ Khởi hành hàng ngày từ HN ✅ Xe Limousine đón trả khách tận nơi ✅ Thưởng thức hải sản tươi sống

✅GIÁ SỐC TỚI NÓC GIẢM 50% ✅ Xe đưa đón, Giao vé tận nơi, Ngủ Du Thuyền 5⭐️⭐️⭐️ câu mực biển về đêm, uống bia miễn phí, tắm biển, leo núi, chèo kaya

CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH BIỂN

Tổ chức Du lịch Thế giới đã phân loại các loại hình du lịch chính theo các mục đích cơ bản của thị trường khách: nghỉ dưỡng, tiêu khiển giải trí, nghỉ mát; thăm người thân, bạn bè; thương mại, công vụ; chữa bệnh; tín ngưỡng và các mục đích khác. Tất cả những mục đích này đều hoặc là đi du lịch vì ý thích (nghỉ dưỡng, tiêu khiển giải trí, nghỉ mát) hoặc là đi du lịch vì nghĩa vụ (thương mại, công vụ, chữa bệnh).

Cũng như vậy, có thể chia các loại hình du lịch biển thành 2 nhóm chính là đi du lịch vì ý thích và đi du lịch vì nghĩa vụ. Trong nhóm đi du lịch vì ý thích có hai loại: đi du lịch vì những sở thích chung và đi du lịch vì sở thích đặc biệt. Thị trường khách đi du lịch có sở thích chung thường là những thị trường chính trong khi đi du lịch và sở thích đặc biệt là thị trường nhỏ, đặc biệt (niche market).

Phân loại các loại hình du lịch biển

Mặc dù tiềm năng du lịch biển ở Việt Nam là khá phong phú và đa dạng, tuy nhiên vì nhiều lý do, các sản phẩm du lịch nói chung, các sản phẩm du lịch biển nói riêng hiện còn tương đối đơn điệu và trùng lặp. Phổ biến nhất hiện nay ở các khu du lịch biển vẫn chỉ là nghỉ dưỡng và tắm biển. Các sản phẩm du lịch biển cao cấp còn hạn chế. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản hạn chế khả năng chi tiêu và kéo dài ngày lưu trú của khách du lịch, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và mức tăng trưởng của du lịch biển nói riêng, du lịch nói chung ở Việt Nam.

Theo số liệu điều tra, trên chiều dài hơn 3.260km đường bờ biển có khoảng 125 bãi tắm lớn nhỏ, trong đó có những bãi tắm lớn mà chiều dài tới 15-18km và nhiều bãi tắm nhỏ chiều dài 1-2km đủ điều kiện thuận lợi để khai thác phục vụ du lịch.

Các bãi biển của nước ta phân bố trải đều từ Bắc vào Nam. Từ Móng Cái đến Hà Tiên có hàng loạt các bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Nhật Lệ, Cửa Tùng, Cảnh Dương, Lăng Cô, Non Nước, Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Quy Nhơn, Đại Lãnh, Văn Phong, Nha Trang, Ninh Chữ, Cà Ná, Mũi Né, Long Hải, Vũng Tàu, Hà Tiên… Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để xây dựng nên khu du lịch biển có sức cạnh tranh cao trong khu vực và trên thế giới.

Cùng với đường bờ biển dài, nước ta có hệ thống đảo và quần đảo phong phú trải dài từ vùng biển Quảng Ninh đến Kiên Giang. Theo thống kê, nước ta có 2.773 đảo ven bờ (cách xa bờ trong khoảng 100km). Tổng diện tích đảo ven bờ nước ta vào khoảng 1700km2. Trong số đó có 24 đảo có diện tích tương đối lớn (trên 10km2); 03 đảo có diện tích trên 100km2 là Phú Quốc, Cái Bầu và Cát Bà.

Hệ thống đảo ven bờ nước ta có giá trị lớn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, trong đó có du lịch. Ngoài các cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, không khí trong lành, các hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên các đảo ven bờ còn giữ được tính đa dạng sinh học cao. Các bãi tắm trên các đảo không lớn, thậm chí rất nhỏ nhưng thường rất đẹp, bãi cát mịn, nước trong xanh. Các đặc điểm trên của các đảo ven bờ là điều kiện thích hợp để phát triển du lịch, đặc biệt là loại hình du lịch tham quan, nghỉ dưỡng.

Vịnh Hạ Long với hơn 2000 đảo đá vôi lớn nhỏ là hình thái địa hình đặc biệt – địa hình karst ngập nước đã và đang được du khách trên khắp thế giới biết đến như một kỳ quan tuyệt vời của tạo hoá. Các giá trị về cảnh quan và địa chất của vịnh Hạ Long đã được UNESCO hai lần công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới. Đây là minh chứng cho sự thừa nhận của thế giới về một điểm du lịch biển tầm cỡ quốc tế ở Việt Nam.

Nguồn nước khoáng ở vùng ven biển Việt Nam khá phong phú có thể khai thác phục vụ du lịch nghỉ dưỡng-chữa bệnh. Đây là sản phẩm du lịch hấp dẫn được nhiều thị trường du lịch quan tâm như Nhật Bản, Tây Âu…

Tài nguyên sinh vật vùng ven biển nước ta phục vụ mục đích du lịch được tập trung khai thác ở các vườn quốc gia, các khu bảo tồn tự nhiên, rừng văn hoá – lịch sử và môi trường, các hệ sinh thái đặc biệt, các điểm tham quan sinh vật và tài nguyên sinh vật biển.

Trong số 25 vườn quốc gia hiện nay ở Việt Nam có 4 VQG trên đảo (VQG Cát Bà, VQG Bái Tử Long, VQG Côn Đảo và VQG Phú Quốc), 7 VQG thuộc các tỉnh ven biển là Bạch Mã (TT- Huế), Bến En (Thanh Hoá), Cúc Phương (Ninh Bình), Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), Pù Mát (Nghệ An), Vũ Quang (Hà Tĩnh), U Minh Thượng (Kiên Giang).

Ngoài ra ở vùng ven biển hiện có 22 trên tổng số 55 khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam, trong đó nhiều khu bảo tồn có giá trị du lịch như Sơn Trà, Bà Nà ở Đà Nẵng, Cù Lao Chàm ở Quảng Nam, Hòn Mun ở Khánh Hoà, Núi Chúa ở Ninh Thuận, Bình Châu – Phước Bửu ở Bà Rịa – Vũng Tàu …

Trong số 34 khu rừng văn hoá lịch sử và môi trường trên toàn quốc thì 17 khu tập trung ở vùng ven biển, điển hình là các khu Bãi Cháy, Đồ Sơn, Hoa Lư, Ngọc Trạo, Nam Hải Vân, Bắc Hải Vân, Đèo Cả – Hòn Nưa….

Các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên và khu rừng văn hoá lịch sử môi trường là những tiềm năng du lịch lớn ở vùng ven biển để phát triển nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn, đặc biệt là du lịch sinh thái.

Trên phạm vi toàn quốc hiện có khoảng gần 40 ngàn di tích, trong đó, tính đến năm 2000 có 2.509 di tích đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng. Có 915 di tích được xếp hạng (chiếm 36% tổng số ) tập trung ở các tỉnh ven biển. Đáng chú ý là 3 di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận của Việt Nam đều nằm ở các tỉnh ven biển.

Trong số khoảng 100 lễ hội tiêu biểu của Việt Nam, vùng ven biển có 35 lễ hội. Đặc trưng cho các lễ hội của vùng ven biển là lễ hội Nghinh Ông hay lễ cúng cá Ông (cá voi). Đây là lễ hội nước lớn nhất của ngư dân ven biển Việt Nam.

Đánh giá chung:

Tài nguyên du lịch ở vùng ven biển rất phong phú và đa dạng, bao gồm cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn có giá trị cao với hoạt động du lịch, tạo tiền đề cho việc phát triển nhiều loại hình du lịch như tắm biển, nghỉ dưỡng, thể thao-mạo hiểm, tham quan, sinh thái, …

Tài nguyên du lịch ở vùng ven biển có mức độ tập trung cao, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Mỗi khu vực có thế mạnh, có khả năng liên kết các loại hình du lịch tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo. Điều này tạo khả năng và cơ hội cho việc hình thành các điểm, cụm, tuyến, trung tâm du lịch biển và tổ chức xây dựng một số khu du lich biển lớn làm đòn bẩy cho phát triển du lịch biển Việt Nam nói riêng và du lịch cả nước nói chung.

HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN

Trong xu thế phát triển chung của du lịch Việt Nam, từng bước khẳng định vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, trong những năm qua, hoạt động du lịch

biển chiếm tỷ trọng lớn, đóng góp quan trọng cho sự phát triển chung của toàn ngành du lịch Việt Nam nói riêng và kinh tế xã hội vùng biển nói chung. Cụ thể:

Bình quân trong cả nước, số khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển đạt trên 73% lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, số khách nội địa chiếm khoảng 56%. Năm 2002 các tỉnh ven biển đã đón 9,7 triệu lượt khách quốc tế và 11,8 triệu lượt khách nội địa.

Năm 2000, tổng GDP du lịch các tỉnh ven biển chiếm 63% tổng GDP du lịch cả nước.

Tính đến năm 2000, thu hút được 233 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch chiếm 64,36% cả nước với số vốn đầu tư 6,5 tỷ USD (chiếm 64,5% cả nước).

Du lịch biển hiện tạo ra việc làm cho khoảng 50 ngàn lao động trực tiếp và 110 ngàn lao động gián tiếp.

Du lịch biển chữa bệnh

HẠN CHẾ CỦA DU LỊCH BIỂN

Du lịch biển là hoạt động du lịch được tổ chức phát triển ở vùng địa lý đặc thù là vùng ven biển và hải đảo trên cơ sở khai thác các đặc điểm tiềm năng tài nguyên, môi trường du lịch biển. Chính vì vậy, ảnh hưởng của du lịch biển hoàn toàn giống với những ảnh hưởng của du lịch nói chung đến kinh tế, văn hoá – xã hội và tài nguyên, môi trường. Tuy nhiên do vùng biển là vùng địa lý với các hệ sinh thái tự nhiên rất nhạy cảm, dễ biến đổi bởi các tác động phát triển kinh tế – xã hội và thiên tai, chính vì vậy một số ảnh hưởng chính của hoạt động du lịch ở khu vực này cần lưu ý bao gồm :

Khai thác quá mức nước ngầm phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt, đặc biệt vào mùa du lịch : kết quả sẽ làm tăng khả năng ô nhiễm mặn các bể nước ngầm, làm giảm chất lượng nước.

Nước thải từ các cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch không qua xử lý : làm tăng mức độ ô nhiễm hữu cơ vùng nước biển ven bờ, ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản, bảo tồn tự nhiên và chính bản thân hoạt động du lịch

Ô nhiễm dầu nước biển ven bờ do các phương tiện tàu, thuyền vận tải khách du lịch, phương tiện vui chơi giải trí, thể thao nước gây ra

Ô nhiễm hữu cơ do mật độ người tắm tập trung, đặc biệt vào thời gian nghỉ cuối tuần, mùa du lịch.

Khai thác san hô phục vụ nhu cầu làm hàng lưu niệm, góp phần làm suy thoái hệ sinh thái nhiệt đới điển hình này

Đánh bắt quá mức các loài sinh vật biển quý hiếm trong tự nhiên phục vụ nhu cầu ẩm thực và làm hàng lưu niệm ảnh hưởng đến đa dạng sinh học biển.

Xây dựng các công trình lưu trú, dịch vụ du lịch trên các đảo không theo quy hoạch, chiếm nhiều diện tích các khu rừng ngập mặn hoặc quá gần đường bờ làm tăng nguy cơ xói lở đường bờ, làm thay đổi hệ sinh thái biển – đảo vốn rất nhạy cảm.

Những vấn đề đặt ra cho phát triển du lịch biển

Qua phân tích thực trạng phát triển du lịch biển, đối chiếu với những yêu cầu cơ bản của phát triển du lịch, có thể thấy một số vấn đề chính đặt ra cho phát triển du lịch biển bền vững ở Việt Nam bao gồm :

Hiện nay du lịch biển chưa xây dựng được những sản phẩm du lịch đặc sắc, có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế để thu hút khách từ những thị trường trọng điểm như Nhật Bản, Đức, Mỹ…

Cơ sở hạ tầng du lịch, đặc biệt là hệ thống cảng du lịch có khả năng tiếp nhận các tầu du lịch biển quốc tế, các nước trong khu vực, chưa phát triển để đáp ứng được yêu cầu phát triển.

Môi trường biển, đặc biệt ở một số khu vực trọng điểm phát triển du lịch biển như Hạ Long-Cát Bà, Huế-Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu…đã có sự suy thoái do các hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Nguy cơ ô nhiễm dầu do sự cố có chiều hướng gia tăng.

Việc khai thác tài nguyên du lịch còn thiếu bền vững do tình trạng chồng chéo trong quản lý.

Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển du lịch còn hạn chế và mang tính tự phát, thiếu sự hướng dẫn, tạo điều kiện từ phía ngành và chính quyền địa phương.

Công tác bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.

Phát Triển Du Lịch Xanh Việt Nam

(GD&TĐ) – Trước hết, chúng ta cần hiểu khái niệm du lịch xanh là gì. Du lịch xanh là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hoá, có giáo dục môi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương.

I.Giới thiệu:

(GD&TĐ) – Trước hết, chúng ta cần hiểu khái niệm du lịch xanh là gì. Du lịch xanh là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hoá, có giáo dục môi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Trong những năm qua, du lịch xanh đã và đang phát triển nhanh chóng ở nhiều nước trên thế giới và ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các tầng lớp xã hội, đặc biệt đối với những người có nhu cầu tham quan du lịch và nghỉ ngơi. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hoá cộng đồng, sự phát triển du lịch xanh đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho đất nước cũng như cộng đồng người dân địa phương, nhất là người dân ở các vùng sâu, vùng xa – nơi có các khu bảo tồn tự nhiên và các cảnh quan hấp dẫn. Ngoài ra, du lịch xanh còn góp phần vào việc nâng cao dân trí và sức khoẻ cộng đồng thông qua các hoạt động giáo dục môi trường, văn hoá lịch sử và nghỉ ngơi giải trí. Chính vì vậy, ở nhiều nước trên thế giới và khu vực, bên cạnh các lợi ích về kinh tế, du lịch xanh còn được xem như một giải pháp rất có hiệu quả để bảo vệ môi trường sinh thái thông qua quá trình làm giảm sức ép khai thác nguồn lợi tự nhiên phục vụ nhu cầu của khách du lịch, của người dân địa phương khi tham gia vào các hoạt động du lịch.

II. Tiềm năng phát triển du lịch xanh ở Việt Nam:

Nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, lãnh thổ Việt Nam trải dài trên 15 độ vĩ tuyến với ¾ là địa hình đồi núi và cao nguyên, với hơn 3.200 km đường bờ biển, hàng ngàn hòn đảo… Trên lãnh thổ đó là nơi sinh sống của cộng đồng nhiều dân tộc với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và đấu tranh giữ nước với nhiều truyền thống có những nét đặc trưng riêng, nhiều di tích văn hoá lịch sử nên Việt Nam có nhiều điều kiện phát triển du lịch xanh cũng như du lịch sinh thái.

Việt Nam có sự đa dạng sinh học khá cao, cũng như các hệ sinh thái đặc trưng. Về thành phần các loài động thực vật, tại Việt Nam có tới 14.624 loài thực vật thuộc gần 300 họ, trong đó có nhiều loài cổ xưa và hiếm có, ví dụ như Tuế phát triển từ Đại Trung Sinh, các loài có giá trị kinh tế gồm hơn 1000 loài cây thuốc, 100 loài quả rừng ăn được… Về động vật có tới 11.217 loài và phân loài, trong đó có 1.009 loài và phân loài chim, 265 loài thú, 349 loài bò sát lưỡng cư, 2000 loài cá biển, hơn 500 loài cá nước ngọt và hàng ngàn loài tôm, cua, nhuyễn thể và thuỷ sinh vật khác. Về các loài thú, Việt Nam có 10 loài đặc trưng nhiệt đới như: Cheo, Đồi, Chồn bay, Cầy mực, Culi, Vượn, Tê tê, Voi, Heo vòi, Tê giác và đặc biệt trong thế kỉ 20 có 5 loài thú lớn mới được phát hiện thì đều ở Việt Nam. Điều này chứng tỏ tính đa dạng sinh học của Việt Nam còn khá cao và có thể còn có nhiều loài sinh vật mới có mặt tại Việt Nam.

Cùng với các loài động thực vật tự nhiên, Việt Nam còn là một trung tâm của cây trồng nhân tạo. Trên thế giới có 8 trung tâm cây trồng thì 3 trung tâm tập trung ở Đông Nam Á (Nam Trung Hoa – Hymalaya; Ấn Độ – Miến Điện; Đông Dương – Indonexia) với khoảng 270 loài cây nông nghiệp, riêng ở Việt nam đã có hơn 200 loài cây trồng, trong đó có tới 90% cây trồng thuộc Trung tâm Nam Trung Hoa, 70% cây trồng thuộc trung tâm Ấn, Miến. Đây chính là là tiền đề cho tổ chức du lịch xanh phát triển.

Về hệ sinh thái tự nhiên, Việt Nam có một số hệ sinh thái đặc trưng gồm:

Hệ sinh thái san hô ở Việt Nam khá giầu về thành phần loài, tương đương với các khu vực giầu san hô khác ở Tây Thái Bình Dương, trong đó ở khu vực ven bờ phía Bắc có 95 loài, ở khu vực ven bờ phía Nam có 255 loài. Trong các rạn san hô quần tụ nhiều loài sinh vật khác nhau, nhiều loài có mầu sắc sặc sỡ và có giá trị kinh tế cao.

Hệ sinh thái đất ngập nước ở các vùng có những đặc thù riêng, trong đó nổi bật là các hệ sinh thái ngập mặn ven biển trải dài dọc bờ biển từ Móng Cái đến Mũi Nai. Tiêu biểu nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long phân bổ một diện tích lớn các hệ sinh thái đất ngập nước, chủ yếu là các hệ sinh thái ngập mặn rừng ngập mặn châu thổ sông Cửu Long nuôi dưỡng một số lớn diệc, cò, cò lớn, cò quăm.

Hệ sinh thái vùng cát ven biển của Việt Nam đa dạng với 60 vạn ha, tập trung chủ yếu ở ven biển miền Trung (30% tổng diện tích). Các nhóm hệ sinh thái cát hình thành trên các loại cát khác nhau; hệ sinh thái vùng cồn cát trắng vàng; hệ sinh thái vùng đất cát biển; hệ sinh thái vùng đất cát đỏ…

Hệ sinh thái rừng nhiệt đới với nét đặc trưng là hệ thống các khu rừng đặc dụng là nơi lưu trữ các nguồn gen quý của nước ta phân bổ ở khắp từ Nam ra Bắc, từ đất liền tới các hải đảo. Tính đến năm 2004, cả nước đã có 107 khu rừng đặc dụng trong đó có 28 vườn quốc gia, 43 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hoá – lịch sử môi trường với tổng diện tích là 2.092,66 ha.

Các tiềm năng nhân văn cho phát triển du lịch xanh ở Việt Nam cũng rất đa dạng và phong phú. Dân tộc Việt Nam có hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước với nền văn hoá đa dạng bản sắc của 54 dân tộc anh em, trong đó có nhiều tài nguyên đặc biệt có giá trị. Chỉ tính riêng về các di tích, trong số khoảng 40.000 di tích hiện có thì hơn 2.500 di tích được Nhà nước chính thức xếp hạng. Tiêu biểu nhất là cố đô Huế; thành phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn, nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Ngoài các di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kỹ năng độc đáo, nhiều lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hoà quyện, đan xen trên nền kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học phương Đông đã tạo cho Việt Nam sức hấp dẫn về du lịch.

Mặc dù có tiềm năng phát triển, song du lịch xanh ở Việt Nam mới ở giai đoạn khởi đầu. Đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, du lịch xanh còn là loại hình du lịch mới cả về khái niệm lẫn tổ chức quản lý và khai thác tài nguyên phục vụ cho mục đích du lịch. Công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản và quy hoạch phát triển du lịch xanh còn hạn chế. Nhiều địa phương, nhiều công ty lữ hành đã cố gắng xây dựng một số chương trình, tuyến du lịch mang sắc thái của du lịch xanh đã được xây dựng, song quy mô và hình thức còn đơn điệu, mờ nhạt, sản phẩm và đối tượng thị trường còn chưa rõ nên ít có khả năng thu hút khách. Mặt khác, việc đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ điều hành quản lý, hướng dẫn viên du lịch xanh còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.

Tuy là loại hình du lịch khá mới mẻ ở nước ta, nhưng trước nhu cầu của thị trường và khả năng đáp ứng của các tiềm năng du lịch xanh của Việt Nam, tại một số nơi hoạt động du lịch xanh cũng đã hình thành dưới các hình thức khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch tự nhiên khác nhau như du lịch tham quan, nghiên cứu ở một số khu vườn quốc gia (Cát Bà, Cúc Phương, Ba Bể, Nam Cát Tiên, Tam Nông, U Minh…); du lịch thám hiểm, nghiên cứu vùng núi cao như Phanxipang; du lịch tham quan miệt vườn, sông nước đồng bằng sông Cửu long; du lịch lặn biển (Hạ long – Cát Bà, Nha Trang), thám hiểm hang động (phong Nha)… Thị trường khách của loại hình du lịch sinh thái ở Việt Nam còn rất hạn chế, phần lớn khách du lịch quốc tế đến các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên là từ các nước Tây Âu, Bắc Mỹ và Úc, còn khách nội địa là sinh viên, học sinh và cán bộ nghiên cứu. Trong số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam hàng năm chỉ có khoảng 5 – 8% tham gia vào các tour du lịch sinh thái tự nhiên và khoảng 40 – 45% tham gia vào các tour du lịch tham quan – sinh thái nhân văn. Còn đối với thị trường khách du lịch nội địa tỷ lệ này thấp hơn.

Nhận thức rõ vai trò của du lịch xanh đối với sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và bảo vệ tài nguyên, môi trường đảm bảo cho sự nghiệp phát triển bền vững kinh tế – xã hội của đất nước nói chung, vào tháng 9 năm 1999, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã phối hợp với Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) và các uỷ ban kinh tế – xã hội Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức Hội nghị quốc tế về xây dựng khung chiến lược phát triển du lịch Việt Nam cũng như đẩy mạnh hợp tác phát triển hoạt động du lịch sinh thái của Việt Nam. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: “Tập trung đầu tư phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch có thể là thế mạnh về tài nguyên du lịch của đất nước và của từng địa phương. Ưu tiên phát triển loại hình du lịch gắn với biển, hải đảo; nhấn mạnh yếu tố văn hoá và sinh thái đặc sắc trong sản phẩm du lịch, tập trung phát triển các khu du lịch biển tầm cỡ, chất lượng cao, tạo thương hiệu và có sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới”. Chiến lược cũng đã đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2023 và tầm nhìn năm 2030, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân từ nay đến năm 2023 sẽ đạt từ 11,5% đến 12%/năm. Theo đà tăng trưởng đó, đến năm 2023, Việt Nam sẽ đón từ 10 đến 10,5 triệu lượt du khách quốc tế và từ 47 đến 48 triệu lượt du khách trong nước với tổng thu nhập từ 18 đến 19 tỷ USD, đóng góp 6,5 đến 7% GDP và tạo ra hơn ba triệu việc làm với 870 ngàn lao động trực tiếp. Đến năm 2030, tổng thu từ khách du lịch của Việt Nam sẽ tăng gấp hai lần năm 2023.

III. Giải pháp phát triển du lịch xanh Việt Nam trong những năm tới.

Một là, quan tâm tới đầu tư sản phẩm. Phát triển sản phẩm du lịch là giải pháp quan trọng hàng đầu kể từ nay đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, hệ thống sản phẩm chất lượng, đặc sắc, đa dạng và đồng bộ, có giá trị tăng cao sẽ được xây dựng, bảo đảm đáp ứng nhu cầu của du khách; phát triển sản phẩm du lịch xanh, tôn trọng yếu tố tự nhiên và văn hoá địa phương. Quy hoạch, đầu tư phát triển sản phẩm du lịch dựa vào thế mạnh nổi trội và hấp dẫn về tài nguyên du lịch; tập trung ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch văn hoá và sinh thái; từng bước hình thành hệ thống khu, tuyến, điểm du lịch của quốc gia, của địa phương và các đô thị du lịch. Phát huy thế mạnh và tăng cường liên kết giữa các vùng, miền, địa phương hướng tới hình thành sản phẩm du lịch đặc trưng theo bẩy vùng du lịch: Vùng trung du, miền núi Bắc Bộ; vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng duyên hải Nam trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Ba là, phát triển thị trường, xúc tiến giới thiệu các sản phẩm du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch. Theo đó, cần tập trung thu hút có lựa chọn các phân đoạn thị trường khách du lịch có khả năng chi tiêu cao và lưu trú dài ngày, trong đó chú ý các thị trường khách Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Tây Âu, Đông Âu. Mở rộng thu hút khách đến từ các thị trường mới như Trung Đông, Ấn Độ. Phát triển mạnh thị trường trong nước, quan tâm phân đoạn khách nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, nghỉ cuối tuần và mua sắm. Đẩy mạnh xúc tiến, giới thiệu theo hướng chuyên nghiệp nhằm vào thị trường mục tiêu, lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch là trọng tâm, gắn xúc tiến du lịch với xúc tiến thương mại, đầu tư và đối ngoại, văn hoá. Tập trung phát triển thương hiệu du lịch quốc gia trên cơ sở phát triển thương hiệu du lịch vùng, địa phương, thương hiệu doanh nghiệp du lịch và sản phẩm du lịch, nhất là những thương hiệu có vị thế cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Trong lĩnh vực này cần đặc biệt đề cao yếu tố phối hợp giữa các ngành, các cấp và các địa phương để đảm bảo tính thống nhất.

IV. Kết luận:

Việt Nam là một đất nước có tiềm năng lớn trong việc phát triển du lịch xanh với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp cùng với các di tích lịch sử. Nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, con người hoà đồng thân thiện, là điểm đến của nhiều du khách. Chính vì vậy, việc phát triển du lịch xanh là thực sự cần thiết và đây cũng nên là định hướng lâu dài cho du lịch Việt Nam trong điều kiện đầy biến động của môi trường.

TS. Trần Văn Hùng

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Du Lịch Thông Minh trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!