Xu Hướng 6/2023 # Ơn Gọi Là Gì ? # Top 10 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Ơn Gọi Là Gì ? # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Ơn Gọi Là Gì ? được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Giáo hội đã dành Chúa nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn gọi giáo sĩ. Ơn gọi là gì? Có phải chỉ có các giáo sĩ mới có ơn gọi? Ngoài ơn gọi giáo sĩ, còn ơn gọi nào nữa không?

Khi nói đến “ơn gọi”, trước tiên nên lưu ý về vài từ ngữ tương đương trong tiếng Việt. Khi muốn ra vẻ trịnh trọng thì người ta dùng tiếng “ơn thiên triệu”, khi muốn thân tình thì người ta nói “nghe tiếng Chúa gọi”; còn khi nói đến “ơn gọi” là chúng ta muốn đề cao khía cạnh hồng ân: đó là ơn Chúa ban. Tất cả những từ này tương đương với một danh từ trong tiếng La-tinh “vocatio”, theo nghĩa đen có nghĩa là: “sự kêu gọi, tiếng gọi”. Dĩ nhiên, trong lãnh vực thần học, chủ từ của sự kêu gọi là Thiên Chúa, chứ không phải là bạn bè gọi nhau ơi ới. Nói khác đi, cần phải hiểu là “Chúa gọi”.

Chúa gọi để làm chuyện gì?

Kinh thánh nói đến việc Chúa gọi ở nhiều phương diện và cấp độ.

– Theo nghĩa rộng nhất, “Chúa gọi” có nghĩa Chúa ban sự hiện hữu cho vạn vật và cách riêng là cho con người. Việc tạo dựng được quan niệm như hậu quả của tiếng Chúa gọi: Chúa gọi con người từ chỗ hư vô sang hiện hữu.

– Lên một cấp nữa, “Chúa gọi” có nghĩa là Chúa mời gọi con người đến thông phần hạnh phúc với Ngài. Ơn gọi này cũng hướng tới tất cả mọi nhân sinh, được thánh Phaolô diễn tả trong thư gửi Êphêsô như là “Thiên Chúa tuyển chọn ta trong Đức Kitô trước khi tạo thành vũ trụ, để ta được trở nên tinh tuyền thánh thiện” (Ep 1,4; xc. 1Cr 1,2).

Ta thấy hai ý niệm “kêu gọi” và “tuyển chọn” được gắn liền với nhau, nhằm nêu bật tình thương của Thiên Chúa dành cho hết mọi người. Tuy vậy, trong lịch sử cứu độ, chúng ta cũng nhận thấy rằng tình thương mà Thiên Chúa bao phủ hết mọi người không ngăn cản việc Ngài tuyển chọn một dân tộc làm dân riêng, như trường hợp dân Israel trong Cựu Ước. Tân Ước áp dụng tư tưởng đó vào dân mới của Thiên Chúa, tức là Hội thánh. Các phần tử được mời gọi một đàng là chia sẻ chức thiên tử của Đức Kitô, đàng khác là mang ơn cứu độ cho đồng loại. Đây là nguồn gốc của ơn gọi người Kitô hữu được công đồng Vaticanô II nhắc tới nhiều lần, khi nói đến “ơn gọi nên thánh” hay “ơn gọi truyền giáo”.

Như vậy là tất cả các tín hữu đều được ơn Chúa gọi, phải không?

Đúng như vậy. Qua bí tích rửa tội, tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh, nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, vừa trong tư cách là con cái hiếu thảo của Chúa Cha vừa trong tư cách là mang Tin Mừng đến cho nhân loại.

Đến đây, chúng ta vẫn còn nằm ở cấp độ mà thần học gọi là ơn gọi phổ quát, nghĩa là hướng đến tất cả mọi tín hữu, không trừ riêng ai. Tuy nhiên, chúng ta hãy đi thêm một bước nữa. Thần học chú ý đến vài đoạn Phúc Âm nói đến việc Chúa gọi vài cá nhân và ủy thác cho họ một sứ mạng đặc thù nào đó. Thí dụ khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ đi theo Người: “hãy theo tôi”. Lời kêu gọi này hàm ngụ rằng họ phải rời bỏ môi trường nơi mình đang sinh sống để dấn thân phục vụ một kế hoạch mà Chúa vạch cho họ. Hiểu theo nghĩa này, trong Tân Ước chúng ta phải đặt Đức Maria vào hàng tiên phong của những người được Chúa gọi, qua trung gian của thiên sứ Gabriel; rồi đến các môn đệ và về sau, thánh Phaolô cũng khẳng định là mình được Chúa gọi làm tông đồ để đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Thần học gọi đó là “ơn gọi riêng” đối lại với “ơn gọi chung” (hay phổ quát). Dù sao, ta cũng nên ghi nhận rằng giữa hai bên có sự liên hệ mật thiết: Thiên Chúa kêu gọi một số người (ơn gọi riêng) đi phục vụ toàn thể cộng đoàn (ơn gọi chung).

Một cách cụ thể hơn, trong quá khứ người ta nói đến hai ơn gọi: vào hàng giáo sĩ (ơn gọi linh mục) và vào hàng tu sĩ. Ngày nay, người ta muốn nói đến ơn gọi “đi theo Chúa Kitô” theo gương các môn đệ, với hai nét chính: một đàng là ở gần kề Chúa, và đàng khác là loan báo Tin Mừng. Thực vậy, khi đọc lại các trình thuật Tân Ước về ơn gọi các môn đệ, chúng ta thấy trước hết họ được yêu cầu hãy rời bỏ nếp sống hiện tại (kể cả gia đình, nghề nghiệp) để đến chia sẻ cuộc sống giống như Chúa Giêsu, một nếp sống phục vụ Tin Mừng vừa bằng lời giảng vừa bằng nếp sống.

Có gì khác biệt giữa hai lối nhìn cũ và mới?

Theo tôi nghĩ, có sự khác biệt quan trọng. Theo lối nhìn trước đây, người ta nói đến ơn gọi vào hàng ngũ giáo sĩ và hàng ngũ tu sĩ. Lối nhìn này có thể đưa tới hai sự hiểu lầm đáng tiếc.

– Thứ nhất, người ta cho rằng hàng giáo sĩ thì lo việc tông đồ, còn hàng tu sĩ thì lo chuyện tu đức. Sự tách rời hai khía cạnh như vậy khá nguy hiểm. Các giáo sĩ dễ biến thành công chức, còn các tu sĩ thì chỉ nghĩ tới sự thánh thiện bản thân. Trên thực tế, cả hai khía cạnh đó liên hệ mật thiết với nhau, như ta thấy trong cuộc đời của Đức Maria và các môn đệ của Chúa.

– Sự hiểu lầm thứ hai là những ai không phải là giáo sĩ hay tu sĩ thì được miễn việc tu thân hay làm việc tông đồ. Sự thực không phải như vậy; có rất nhiều người lãnh nhận ơn gọi phục vụ Tin Mừng tuy không gia nhập hàng giáo sĩ và tu sĩ.

Vì thế lối nhìn mới muốn lưu ý chúng ta tiên vàn hãy lấy Chúa Giêsu làm trung tâm. Chúa kêu gọi ai là vì yêu thương người đó, muốn cho họ chia sẻ sứ mạng với Ngài. Nhưng trước khi tính đến chuyện làm ăn, Người muốn cho môn đệ nhận ra tình yêu của Người, muốn gắn bó với Người. Tình yêu này không dừng lại ở mức độ tình cảm nhưng còn diễn ra việc hoà đồng tâm tình và nếp sống giữa hai thầy trò (chẳng hạn tính khiêm tốn, hiền hậu, phục vụ, phó thác). Khi đã thấm nhuần tinh thần đó rồi, người môn đệ được mời gọi chia sẻ niềm thao thức của Người đối với ơn cứu độ nhân loại. Họ được mời gọi lên đường mang Tin Mừng cho đồng loại. Như vậy, tất cả vấn đề ơn gọi xoay quanh bản thân của Chúa Giêsu: ơn gọi làm môn đệ Chúa, đáp lại tình yêu của Chúa, và chia sẻ vào nếp sống của Chúa.

Ơn gọi đi theo Chúa có thể diễn tả cụ thể ra nhiều hình thức khác nhau. Có người tham gia vào chức vụ mục tử nhân lành, phân phát lương thực tinh thần (Lời Chúa, các bí tích) cho các tín hữu, cũng như xây dựng các cộng đoàn. Có người tham gia vào việc biểu lộ tình thương của Chúa qua một công tác bác ái cụ thể: chăm sóc người bệnh tật, giáo dục thiếu nhi, an ủi những kẻ bị xã hội bỏ rơi, hoặc âm thầm cầu nguyện cho Nước Chúa được mở rộng. Tôi xin nhấn mạnh: ngày nay có nhiều tín hữu dấn thân phục vụ Tin Mừng dưới nhiều hình thức (kể cả đi truyền giáo cho dân ngoại), mặc dù họ không gia nhập hàng ngũ linh mục và tu sĩ.

Thế còn các tín hữu sống đời hôn nhân thì sao? Có thể nói đến ơn gọi lập gia đình hay không?

Tùy theo chúng ta hiểu tiếng “ơn gọi” theo nghĩa nào. Lúc nãy tôi có nói đến ơn gọi theo nghĩa rộng, nghĩa là khám phá những tài năng riêng mà Chúa ban để phục vụ cộng đoàn. Nếu tôi có năng khiếu nghệ sĩ, tôi sẽ đem tài năng giúp cho nhân loại thưởng thức cái đẹp. Việc theo đuổi một nghề nghiệp này đòi hỏi sự rèn luyện, cũng như chấp nhận những méo mó của nghề nghiệp. Vì thế trước khi dấn thân vào con đường đó, ta cần phải tìm hiểu xem mình thực sự có năng khiếu hay không. Tôi nghĩ rằng có thể hiểu ơn gọi lập gia đình theo nghĩa đó, tuy vẫn biết rằng tỉ số lập gia đình thì cao hơn số các nghệ sĩ. Nói thế có nghĩa là người tín hữu trước khi lập gia đình cần phải ý thức về sứ mạng của gia đình trong chương trình của Chúa (tựa như là giúp cho đôi bạn thánh hóa nhờ tình yêu hỗ tương, giáo dục con cái nên công dân trần thế và công dân Nước Trời), và phải rèn luyện những đức tính cần thiết để trở thành người chồng hay người vợ, người cha người mẹ. Nếu chưa đủ điều kiện thì đừng nên tiến tới (tựa như người điếc thì đừng nên học âm nhạc).

Còn ơn gọi theo nghĩa chặt thì nên được dành cho ơn gọi đi theo Chúa Kitô để phục vụ Tin Mừng. Điều này giả thiết là họ không lập gia đình, ngõ hầu dành tất cả con tim cho Chúa, cũng như dấn thân phục vụ một lý tưởng cao hơn tầm nhìn của trần thế. Người đời đi tìm thành công, danh vọng, lợi lộc: những điều này tự nó không phải là xấu xa; nó trở thành xấu khi sử dụng những phương pháp bất chính để chiếm đoạt chúng, hoặc sử dụng chúng vào mục tiêu phi pháp. Còn người phục vụ Tin Mừng đi tìm những giá trị khác mà sức loài người không thể đạt được, tỉ như: ơn cứu độ, bình an, yêu thương, tha thứ, nhẫn nhục. Chỉ trong cái nhìn đức tin, chúng ta mới nhìn nhận đó là những giá trị, và cũng cần có ơn thánh Chúa thì mới có thể thực hiện được các giá trị đó. Trong bối cảnh đó, Giáo hội thấy cần cầu nguyện cho những ơn kêu gọi như vậy.

* * *

Cầu xin cho những người được Chúa gọi được biết can đảm đáp lại tiếng Chúa cho dù phải hy sinh. Cầu xin cho những người đã đáp lại tiếng Chúa được biết kiên tâm, không bỏ cuộc cho dù gặp thử thách.

Người Vương Quốc Anh Gọi Là Gì?

Khi tìm hiểu về dân tộc ở Vương quốc Anh bạn sẽ bắt gặp 2 từ sau: English và British. Nhiều người khi học tiếng Anh đều nghĩ rằng English và British là giống nhau, đều chỉ người Anh nhưng… Không phải vậy!

Cụm từ English là để chỉ người Anh, những người đến từ nước Anh (England). Còn đối với từ British đôi khi được người ta dịch là người Anh nhưng thật sự không đúng, phải dịch là người Vương quốc Anh, cụm từ này để chỉ chung những người sống ở Vương quốc Anh ( Great Britain hoặc Uk).

(Phần này có nhiều đọc giả dễ bị rối, để làm rõ sự khác nhau giữa các tên: Anh, Scotland, xứ Wales, Great Britain và UK hãy xem bài biết sau đây)

Tất cả mọi người ở Vương quốc Anh đều có quốc tịch Vương quốc Anh và được gọi là British. Nhưng nếu nói chi tiết hơn, họ thuộc các dân tộc khác nhau.

Anh chỉ là một trong bốn nước thuộc Vương quốc Anh ( Scotland, Anh, xứ Wales và Bắc Ireland). Người Scotland ( gọi là Scottish), người Bắc Ireland (Irish), người xứ Wales (Welsh) và người Anh (English).

Có nhiều sự khác biệt giữa những người sống ở bốn nước vương quốc Anh. Điều này là do các nhóm người khác nhau có khuynh hướng phát triển phong tục và cách sống của riêng mình.

Hầu hết những người da trắng sinh ra ở vương quốc Anh, mặc dù là công dân vương quốc Anh, nhưng họ không gọi mình là người vương quốc Anh mà thích biểu lộ bản sắc dân tộc của họ và gọi mình là English, Scottish, Welsh hay Irish.

Anh

Những người sinh ra ở nước Anh được gọi là English hoặc British và có thể nói rằng họ sống ở England, Great Britain hoặc UK. Hầu hết mọi người ở Anh có xu hướng nói họ là British hơn là English.

Scotland

Những người sinh ra ở Scotland được gọi là người Scottish hoặc British và có thể nói rằng họ sống ở Scotland, Great Britain hoặc UK. Hầu hết mọi người ở Scotland đều nói họ là Scottish chứ không phải là British.

Wales

Những người sinh ra ở xứ Wales được gọi là người Welsh hoặc British và có thể nói rằng họ sống ở xứ Wales, Great Britain hoặc UK. Hầu hết mọi người ở xứ Wales sẽ nói họ là Welsh chứ không phải là British.

Dàn Ý Nghị Luận Về Lòng Biết Ơn

Dàn ý nghị luận về lòng biết ơn

I. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần bàn luận

– Từ xa xưa, ông bà ta có câu “uống nước nhớ nguồn”, một câu nói dạy bao thế hệ về lòng biết ơn. Lòng biết ơn là một đức tính cao quý và đẹp của con người. Truyền thống về lòng biết ơn đã được bao đời thế hệ cha ông gìn giữ và phát huy. Để tiếp nối ông cha thì thế hệ trẻ cũng đã gìn giữ nét đẹp để hiểu thêm về lòng biết ơn, chúng ta cùng đi tìm hiểu về “Lòng biết ơn”.

1. Giải thích thế nào là “lòng biết ơn”?

– Lòng biết ơn là sự ghi nhớ công ơn, tình cảm mà người khác mang lại cho mình. Những hành động, việc làm mà họ hi sinh để mang lại niềm hay hạnh phúc hay niềm vui cho mình.

2. Biểu hiện của lòng biết ơn

– Luôn ghi nhớ công ơn của họ trong long

– Có những hành động thể hiện sự biết ơn

– Luôn mong muốn đền áp công ơn của những người đã giúp đỡ mình

3. Tại sao phải có lòng biết ơn?

– Vì đó là nghĩa cử, truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ bao đời xưa.

– Lòng biết ơn là một tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của mỗi con người.

– Mỗi công việc chúng ta thành công không phải tự nhiên mà có, dù lớn hay nhỏ cũng có sự giúp đỡ của ai đó, vậy nên ta cần phải có lòng biết ơn.

4. Mở rộng vấn đề

– Có một số người hiện nay không có lòng biết ơn.

VD: Ăn cháo đá bát, qua cầu rút ván, …

– Nêu cảm nghĩ về lòng biết ơn

– Nêu những công việc và thể hiện lòng biết ơn.

:

– Lòng biết ơn là một trong những truyền thống đạo lí tốt đẹp của con người Việt Nam.

– Vậy lòng biết ơn có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?

2. Đưa ra các biểu hiện:

Tại sao chúng ta phải có lòng biết ơn?

+ Bởi vì nó thể hiện phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi chúng ta.

+ Biết ơn sẽ khiến cho con người trở nên tốt đẹp hon.

+ Là cơ sở cho những tình cảm tốt đẹp khác.

+ Khi chúng ta thừa hưởng những thành quả tốt đẹp, ta cần phải nhớ ơn đến người đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ.

+ Lòng biết ơn đã trở thành truyền thống quý báu của con người Việt Nam.

– Dẫn chứng, biểu hiện: Trong cuộc sống, chúng ta mang ơn ba mẹ đã sinh thành, dưỡng dục, nuôi dạy ta nên người. Học sinh biết ơn thầy cô giáo đã dạy dỗ cho mình biết bao kiến thức và bài học quý báu. Ngoài ra ta còn phải biết ơn các anh chiến sĩ bộ đội đã hi sinh thân mình để mang lại nền độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho chúng ta hưởng thụ.

– Những câu tục ngữ, ca dao nói về lòng biết ơn:

– Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. – Uống nước nhớ nguồn. – Con ơi ghi nhớ lời này Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy chớ quên. – Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Có danh có vọng nhớ thầy khi xưa. – Ăn quả nhớ kẻ trồng cây Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng. 3. Bàn bạc, mở rộng vấn đề

– Phê phán những con người có hành động vô ơn, bạc nghĩa.

– Dẫn chứng:

+ Những con người quên đi nguồn cội, gốc gác của mình.

+ Những câu tục ngữ nói về vong ơn bạc nghĩa: Qua cầu rút ván, Có trăng quên đèn, Có mới nới cũ, Được cá quên nơm, Ăn cháo đá bát, …

– Lòng biết ơn là phẩm chất đạo đức cao quý của con người.

– Biết ơn, đền đáp công ơn mà người khác dành cho mình là điều nên làm.

– Cần có trách nhiệm giữ gìn, vun đắp, phát huy bằng những việc làm cụ thể.

– Lòng biết ơn vốn là một truyền thống văn hóa cao đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay. Sống biết ơn thể hiện sâu sắc lối sống trọng tình trọng nghĩa, cưu mang tương trợ lẫn nhau. Biết ơn người khác là một phẩm chất cần có ở mỗi con người.

1. Biết ơn là gì?

– Biết ơn là sự ghi nhớ và trân trọng những gì mình nhận được từ người khác. Lòng biết ơn là sự thể hiện sự biết ơn của mình đối với những thành quả lao động do cha ông để lại. Lòng biết ơn là cơ sở khẳng định phẩm chất con người.

2. Biểu hiện của lòng biết ơn

– Người có lòng biết ơn là người luôn biết ghi nhớ và trân trọng những gì người khác trao tặng, để lại cho mình. Họ luôn biết gìn giữ và phát huy những giá trị ấy trong cuộc sống.

– Trong xã hội, lòng biết ơn được biểu hiện bằng những nghĩa cử cao đẹp. Tục thờ cúng ông bà tổ tiên thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với các bậc sinh thành đã có công dưỡng dục chúng ta nên người. Đó là một nét đẹp văn hóa mà ít dân tộc nào trên thế giới có được.

– Ngày 27/7 hằng năm, trở thành ngày lễ trọng đại tri ân các anh hùng, thương binh, liệt sĩ đã anh dũng hi sinh thân mình bảo về và giữ gìn độc lập chủ quyền dân tộc. Truyền thống ấy đã được duy trì và phát huy trong mấy chục năm qua và ngày càng trở nên lớn mạnh.

– Chúng ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, tôn vinh công ơn của các thầy cô giáo vào ngày 20/11. Và ngày 20/11 hằng năm trở thành dịp để các em học sinh và phụ huynh thể hiện sâu sắc lòng biết ơn những người thầy đã hết lòng giáo dục các em nên người.

– Lòng biết ơn trở thành truyền thống văn hóa ăn sâu trong nhận thức của mỗi người dân Việt Nam. Truyền thống cao đẹp ấy đã biến thành hành động cụ thể, đem lại hiệu quả thiết thực trong đời sống hiện nay.

– Lòng biết ơn đã trở thành chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam.

3. Bài học nhận thức và hành động

– Lòng biết ơn là một đức tính cần có ở mỗi con người.

– Kế thừa thành quả lao động của các thế hệ đi trước, nhận lãnh các giá trị do người khác là bản chất của xã hội. Vì thế, ta phải sống có lòng biết ơn.

– Sống có lòng biết ơn thể hiện lối sống văn hóa, tình nghĩa, đoàn kết, gắn bó của con người Việt Nam.

– Lòng biết ơn trở thành chuẩn mực nền tảng của đạo đức con người. Sống có lòng biết ơn là lối sống lành mạnh, tích cực, mẫu mực trong đời sống của chúng ta. Người sống có lòng biết ơn luôn được người khác yêu mến, trân trọng và giúp đỡ trong cuộc sống.

– Phải biết ơn những người đã mang lại cho mình những lợi ích. Hãy biết ơn và tôn vinh những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Trước hết là biết ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo đã không quản khó nhọc nuôi dạy chúng ta nên người. Biết nói lời cảm ơn khi nhận một điều tốt đẹp từ người khác.

– Tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa trong xã hội. Thường xuyên thể hiện sâu sắc lòng biết ơn của bản thân đối với những người đã tạo dựng ra các thành qủa lao động trong xã hội, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tuyên dương, ca ngợi, tôn vinh kịp thời, đúng lúc những hành động tốt đẹp trong cuộc sống.

– Phấn đấu học tập tốt, rèn luyện nhân cách nhân phẩm trở thành người hữu ích mai này đem sức mình xây dựng quê hương đất nước.

4. Bàn luận mở rộng

– Phê phán:

+ Trong cuộc sống còn có nhiều người sống vô ơn. Họ sống cá nhân, ích kỉ, chỉ biết nhận lấy mà không biết ơn. Họ tự tách mình ra khỏi các quy luật của đời sống, tách biệt với cộng đồng, thậm chí là chà đạp lên các thành quả lao động do người khác để lại. Những người như thế thật đáng chê trách.

+ Tục ngữ ta có nhiều câu nói về sự vô ơn: “ăn cháo đá bát”; “qua cầu rút ván”; “vong ơn bội nghĩa”…

– Rút ra bài học cho bản thân:

+ Sống có lòng biết ơn là lối sống văn hóa, khẳng định phẩm chất cao quý của con người.

+ Là học sinh chúng ta phải biết ơn ông bà cha mẹ, thầy cô giáo. Phấn đấu học tập và rèn luyện mình để không phụ lòng người khác đã kì vọng, mong đợi.

– Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất của con người mà còn là ngọn nguồn của mọi đức tính khác. Sống biết ơn người khác là lối sống cao thượng cần được đề cao và tôn vinh trong cuộc sống này.

Bài mẫu số 1:

Mỗi người có mặt trên trái đất này đều có một cội nguồn. Ông cha ta xưa có câu: “Uống nước nhớ nguồn” và đến tận bây giờ câu tục ngữ ấy vẫn luôn đeo đuổi ta từ khi được sinh ra. Vậy thế nào là “uống nước nhớ nguồn”?

Câu tục ngữ thật ngắn gọn nhưng hàm ý thật sâu xa. “Uống nước” là điều chúng ta làm mỗi ngày, nhưng hai chữ này bao gồm nhiều ý nghĩa khác nữa. “Uống nước” tượng trưng cho người hưởng thụ thành quả, “nhớ” nói đến một thái độ, một tấm lòng biết ơn, “nguồn” là nguồn cội, cội nguồn của tất cả những thành quả mà con người được hưởng, “nhớ nguồn” là nhắc nhở những người hưởng thụ phải biết tri ân, giữ gìn, phát huy những thành quả của người làm ra chúng. “Uống nước nhớ nguồn” có thể hiểu theo hai nghĩa đen: đây có thể là lời khuyên, khi nào uống nước thì phải nhớ nguồn, cũng là lời của ta tự nhủ mình rằng: uống những giọt nước này ta không thể quên từ đâu ta có nước để uống. Vậy “uống nước nhớ nguồn” thể hiện truyền thống đạo lí của con người Việt Nam rằng cần phải biết ơn, trân trọng những người đã làm ra thành quả cho ta hưởng đến ngày hôm nay.

Thật vậy, mọi sự vật đều có nguồn gốc. Của cải, vật chất, tinh thần đó chính là công sức do con người làm ra. Như việc bạn thưởng thức một chén cơm, bạn cảm thấy vị ngọt, nhưng với tôi chúng thật mặn, mặn vì những giọt mồ hôi, mặn vì những ngày dầm mưa dãi nắng, mặn vì họ đã bỏ biết bao công sức để làm ra những hạt gạo ngày hôm nay. Bạn có thấy không sự hi sinh xương máu của các vị anh hùng dân tộc, các chiến sĩ yêu nước vì sắc áo của dân tộc để rồi xây dựng đất nước giàu đẹp phát triển đến ngày hôm nay, tạo cho ta một tinh thần vững mạnh. Việc xây dựng đền đài, lăng tẩm không chỉ để nhớ ơn những việc mà họ đã làm cho Tổ quốc mà đó còn là sự nhắc nhở ta không bao giờ được quên nguồn gốc của mình. Nguồn gốc, nguồn cội không phải dễ có, ta cần phải biết trân trọng. Nhớ về nguồn cội thôi chưa đủ, ta cần phải biết ơn và đó là nét đẹp đạo lí làm người của con người Việt Nam. Người Việt chúng ta luôn là những người sống với lòng biết ơn, không bao giờ quên tổ tiên, nòi gióng, biết bảo vệ quê hương Tổ quốc.

“Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba Dù ai buôn bán gần xa Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba thì về…”

Bốn câu lục bát mà mỗi người dân trên đất nước Việt Nam này không bao giờ quên vì đó là những lời nhắc nhở con cháu “Dòng máu lạc hồng” luôn nhớ về cội nguồn của mình. Điều đó đã góp phần tạo nên nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc, tạo nên những giá trị tinh thần cao đẹp mà trong đạo lý “uống nước nhớ nguồn” nổi lên như một truyền thống tiêu biểu và tôn vinh những người đã sinh ra mình, những người có công với làng xóm, với quê hương, đất nước. Không những thế, người Việt Nam không bao giờ quên những người người đã dạy dỗ mình. Nhờ có cha mẹ, ta đã được nuôi lớn tới ngày hôm nay, nhớ có thầy cô mà ta có đủ vốn kiến thức để vững tin bước vào cánh cửa tương lai tốt đẹp. Tất cả những điều đó là biểu hiện của một con người luôn “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”.

Sâu kín trong tâm hồn, chúng ta không phải là những người vô ơn. Tuy nhiên, vì đời sống máy móc, bận rộn; vì những lo lắng trong cuộc sống; có khi vì mệt mỏi, chúng ta đã không còn thì giờ suy nghĩ đến những thành quả mà họ đã tạo nên. Đó là điều mà ta cần khắc phục vì không khéo, nguồn cội sẽ đi vào quên lãng khi con người chỉ biết cuốn theo thời gian mà không ngừng nghỉ. Song, ta cần phê phán những kẻ “ăn cháo đá bát”, “có mới nới cũ”, đó là loại người lừa thầy phản bạn, bất hiếu, là một kẻ lười học, phá hoại tài sản của đất nước như việc quên đi nguồn cội mình, coi thương nguồn gốc của mình thì đó là việc đáng trách, ta cần phải loại bỏ.

Qua câu tục ngữ trên, ta càng thầy được đạo lí tốt đẹp của con người Việt Nam. Suy nghĩ đến bốn chữ ngắn ngủi trong câu tục ngữ, “Uống nước nhớ nguồn,” tôi thấy những chữ này dạy ta những bài học vô cùng quý giá trong tinh thần biết ơn. Ta cần biết trân trọng, kính trên nhường dưới, sống có tình có nghĩa. Tôi và bạn hãy cố gắng học tốt để góp phần cồng hiến làm nên những thành quả cho lớp người đi sau.

Có thể bạn đang quan tâm: Nghị luận về lòng biết ơn với các thế hệ cha anh và trách nhiệm của thanh niên – một trong những biểu hiện lớn của lòng biết ơn trong xã hội

Bài mẫu số 2:

“Đền ơn đáp nghĩa” vốn là một nghĩa cử đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt Nam. Lòng biết ơn từ lâu đã được coi là một truyền thống đạo đức cần được gìn giữ và phát huy.

Ông cha ta xưa có câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là một lời nhắc nhở cho con cháu phải biết sống có trước có sau, biết ơn những người đã giúp đỡ mình. Không phải tự nhiên mà chúng ta có được cuộc sống ấm no, đầy đủ như hiện tại. Đó là thành quả của nhiều người đã vất vả làm nên. Bố mẹ không quản khó khăn, chăm lo, nuôi dưỡng chúng ta nên người. Thầy cô ngày ngày đứng trên bục giảng, tận tâm truyền tải kiến thức tới học sinh… Và còn rất nhiều người đã và đang hi sinh thầm lặng, ngày đêm miệt mài lao động để đem lại cuộc sống yên bình, ấm no trên manh đất quê hương.

Là “người ăn quả” của ngày hôm nay, ta cần có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả đạt được trở nên ngày một đơm hoa kết trái. Trong gia đình, ta cần làm tròn bổn phận là một người con: hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng ông bà, nhường nhịn các em nhỏ… Ở trường, bản thân cần phải là một học sinh gương mẫu, nỗ lực học tập để không phụ công ơn giảng dạy của thầy cô, chăm lo nuôi dưỡng của bố mẹ. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải có ý thức rèn luyện bản thân sống có đạo đức, văn minh, tránh xa các tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu vẫn đang còn tồn tại hiện nay. Làm được như vậy là ta đã thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã giúp ta có được cuộc sống tươi đẹp như ngày hôm nay.

Thế hệ trẻ hôm nay là những chủ nhân tương lai của đất nước. Lòng biết ơn là đạo lý muôn đời, là những người tiếp nối các thế hệ đi trước, chúng ta cần có những hành động cụ thể để đạo lý này vẫn mãi được duy trì và truyền lại cho mai sau.

Tâm Phương (Tổng hợp)

Bố Chồng, Mẹ Chồng Gọi Là Gì?

* Trong từ Hán Việt, bố chồng và mẹ chồng gọi là gì? Gọi là nhạc phụ và nhạc mẫu có đúng không? (Nguyễn Hùng, Hải Châu, Đà Nẵng). – Theo “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh, cha chồng gọi là công [公 ], mẹ chồng gọi là bà [婆]. “Hán Việt từ điển trích dẫn” (có thể tra trực tuyến tại địa chỉ chúng tôi giảng kỹ hơn. Từ điển này được phát triển từ những dữ kiện thâu thập trong bản điện tử của “Hán Việt tự điển Thiều Chửu”, có tham khảo các tự điển, từ điển, sách in quen thuộc và tận dụng các trang từ điển ngày càng đầy đủ và hữu hiệu trên mạng Internet.

Theo “Hán Việt từ điển trích dẫn”, công [公] (danh từ) là tiếng xưng hô chỉ cha chồng. Ví dụ, công công [公公]: cha chồng, công bà [公婆]: cha mẹ chồng. Sách “Tam quốc diễn nghĩa”, hồi thứ tám có câu: “Lão phu bất cảm hữu vi, tùy dẫn Điêu Thuyền xuất bái công công”. Nghĩa là: Lão phu không dám trái phép, phải dẫn Điêu Thuyền ra lạy bố chồng.

Cũng theo từ điển trực tuyến này, bà [婆] (danh từ): Tục gọi mẹ chồng là bà. Sách “Hồng Lâu Mộng”, hồi thứ năm mươi bốn có câu: “Duy hữu na đệ thập cá tức phụ thông minh linh lị, tâm xảo chủy quai, công bà tối đông”. Nghĩa là: Chỉ có người con dâu thứ mười là thông minh lanh lợi, khéo léo mồm mép, bố mẹ chồng rất thương.

Tuy nhiên, việc dùng các từ công hoặc công công (cha chồng), bà (mẹ chồng) vào thực tế văn hóa ứng xử của người Việt đã không được thuận tiện vì tính đa nghĩa của từ Hán Việt. Công còn có nghĩa là ông (cha của cha), bà còn có nghĩa là mẹ của cha (theo Hán Việt từ điển Đào Duy Anh). Thực tế, theo cách gọi này, nếu muốn giới thiệu quan hệ giữa người con dâu A với cha chồng (là ông B) và mẹ chồng (bà C) thì sẽ nói như thế nào? Ông B là công/công công của bà A? Bà C là bà của bà A? Cả hai cách nói đều dễ gây hiểu nhầm trong người Việt.

Thêm vào đó, công công là một trong những tên gọi khác chỉ hoạn quan (thái giám) trong từ Hán Việt (gồm: công công, tự nhân, yêm nhân, nội thị, thị nhân, yêm hoạn, hoạn giả, trung quan, nội quan, nội thân, nội giám…). Phim truyện Trung Quốc nói về các công công – thái giám đầy ra đó, có người Việt nào dám nói ông (gì đó) là công công của tôi không?

Gọi bố chồng, mẹ chồng là nhạc phụ, nhạc mẫu là không đúng. Hán Việt từ điển Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển Thiều Chửu đều giảng rõ ràng rằng nhạc phụ là cha vợ và nhạc mẫu là mẹ vợ. [“Hán Việt từ điển trích dẫn” ghi chú thêm rằng, trên núi Thái Sơn (một trong 5 ngọn núi lớn bên Trung Quốc, gọi là Ngũ Nhạc với chữ nhạc 岳 như trong nhạc phụ, nhạc mẫu) có một ngọn núi tên là Trượng Nhân phong. Vì thế, bố vợ cũng gọi là nhạc trượng].

Trở lại với câu hỏi ở trên, hiện vẫn chưa có cách dùng thống nhất đối với trường hợp gọi bố/mẹ chồng theo từ Hán Việt. Ý kiến của chúng tôi Vũ Duy Thông, nguyên Vụ trưởng Vụ Báo chí Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương Đảng; và Th.S Trần Hoàng (chuyên nghiên cứu Văn hóa Việt Nam), chúng tôi Nguyễn Thị Bích Hải (chuyên nghiên cứu Văn học Trung Quốc), Th.S Trần Đại Vinh (chuyên nghiên cứu Văn học Hán Nôm), giảng viên Trường ĐHSP Huế cùng cho rằng con gái về nhà chồng phải coi bố mẹ chồng là bố mẹ đẻ, nàng dâu theo cách gọi của chồng mà gọi bố/mẹ chồng là thân phụ, thân mẫu, song thân chứ không gọi họ là nhạc phụ, nhạc mẫu (như con rể gọi bố/mẹ vợ).

Việc định danh các mối quan hệ trong gia đình, thân tộc bằng từ Hán Việt là việc không dễ, khi mà văn hóa Việt Nam và Trung Hoa có những dị biệt nhất định. Nhà ngôn ngữ học, Giáo sư Cao Xuân Hạo (1930 – 2007) từng nói: “Thời nay không ai có thể tự cho mình là “nhà bách khoa” cái gì cũng biết”. Trên tinh thần cầu thị, mong muốn tìm biết những gì chưa biết hết, rất mong bạn đọc gần xa đóng góp ý kiến thêm về vấn đề bàn ở trên để mọi người có thể xác quyết được điều còn tồn nghi.

Đ.N.C.T

Cập nhật thông tin chi tiết về Ơn Gọi Là Gì ? trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!