Bạn đang xem bài viết Nỗi Nhớ Và Thi Ca được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1. Nỗi nhớ, theo tôi chính là giá trị tinh thần đầu tiên mà Tạo hóa đã ban cho các sinh linh. Nỗi nhớ giúp chúng ta có những nhận biết và kiến thức đầu tiên về thế giới, rồi tiếp tục tái hiện những nhận biết ấy, để trở thành hành trang mỗi ngày cho đời sống con người. Từ khi còn là một đứa trẻ lọt lòng, nỗi nhớ khiến ta phân biệt được những người lạ và người quen, nỗi nhớ tạo ra những mối dây liên kết thẳm sâu và thiêng liêng giữa đứa trẻ với mẹ cha, ông bà, anh chị em ruột thịt. Thế nên sau này, khi những người thân yêu lần lượt rời xa chúng ta về thế giới bên kia, thì trong tâm hồn chúng ta, bao bóng hình ấy đều trở về cùng nỗi nhớ: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương (Ca dao), Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường giá lạnh. Và cha nằm ôm con, sưởi ấm những canh dài (Tình cha – Ngọc Sơn). Càng lớn lên, thế giới tâm hồn càng phát triển và hoàn thiện thì dường như nỗi nhớ trong mỗi con người đều lớn hơn. Từ một đứa trẻ thành một thiếu niên rồi một thanh niên, người con ấy xa dần vòng tay của mẹ, và nỗi nhớ hiện về không chỉ là người thân mà còn là cả bóng hình quê hương với bao kỷ niệm ấu thơ. Nỗi nhớ quê hương ấy đã chảy từ bao áng thi ca cổ điển như Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, Tràng giang của Huy Cận… cho đến thi ca hiện đại sau này: Quê hương là chùm khế ngọt/Cho con trèo hái mỗi ngày/Quê hương là đường đi học/Con về rợp bướm vàng bay/Quê hương là con diều biếc/Tuổi thơ con thả trên đồng/Quê hương là con đò nhỏ/Êm đềm khua nước ven sông (Quê hương – Thơ: Đỗ Trung Quân, Nhạc: Giáp Văn Thạch). Tôi xa quê hương bao năm tháng qua. Nhưng trong trái tim không bao giờ xa. Lời mẹ ru con hiu hiu trưa hè. Mùa lụt nước lũ bắt cá giữa đồng (Quê hương tuổi thơ tôi – Từ Huy).
Mỗi con người từng gặp, mỗi vùng đất đã đi qua đều có thể trở thành nỗi nhớ: Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ/Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương/Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên). Và đâu chỉ có nhớ con người, nhớ không gian, nhớ thời gian, những con vật nuôi của chúng ta cũng trở thành nỗi nhớ: Tao chờ mày đã lâu/ Cơm phần mày để cửa/Sao không về hả chó?/Tao nhớ mày lắm đó/ Vàng ơi là Vàng ơi! (Sao không về Vàng ơi – Trần Đăng Khoa)
Đời sống văn hóa của người Việt còn không thể không nhắc tới hành động “nhớ ơn”. Từ trong ca dao, người xưa đã có lời khuyên răn: Ơn ai một tấc chớ quên/Nợ ai một tấc để bên dạ này. Một đứa trẻ từ nhỏ luôn được dạy bảo phải nhớ ơn ông bà cha mẹ, tiếp đến khi trở thành học sinh lại được giáo dục nhiều hơn về lòng nhớ ơn, chẳng hạn nhớ ơn những người đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhớ ơn những anh hùng liệt sĩ, đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại… Giản dị hơn, mỗi chúng ta đều được giáo dục phải nhớ ơn tất cả những người đã từng giúp đỡ mình trong cuộc đời, như Chế Lan Viên từng viết: Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc/Năm con đau mế thức một mùa dài/Con với mế không phải hòn máu cắt/Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
2. Về nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa, có lẽ đây là một trong những nỗi nhớ làm tốn nhiều giấy mực nhất của mọi dân tộc, mọi thời đại. Tất cả những câu chuyện tình trên cuộc đời này, dù hạnh phúc hay xót xa, dù gần gũi hay xa xôi, dù suôn sẻ hay trái ngang trắc trở, đều để lại trong lòng những người yêu nhau cảm xúc về nỗi nhớ. Ôi nỗi nhớ muôn hình vạn trạng, có nỗi nhớ rạo rực bồi hồi, có nỗi nhớ phấp phỏng da diết, có nỗi nhớ cồn cào cháy bỏng, có nỗi nhớ lặng lẽ âm thầm. Khi người con gái nhớ người con trai, hình như cũng có những nét thật riêng biệt. Từ trong ca dao, nỗi nhớ ấy đã thổn thức nghẹn ngào: Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai/Khăn vắt lên vai/Đèn thương nhớ ai/Mà đèn không tắt/Mắt thương nhớ ai/Mà mắt không khô. Sang đến thơ hiện đại, nỗi nhớ của người con gái thẳm sâu, khắc khoải, bền bỉ thủy chung: Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước/Ôi con sóng nhớ bờ/Ngày đêm không ngủ được/Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ cũng thức (Sóng – Xuân Quỳnh). Nỗi nhớ của người con gái khiến cho ta mủi lòng rưng rưng bởi sự mong manh, cần được nương tựa và che chở: Em nhớ anh/ Như nhớ linh hồn mình/Một hôm nắng vàng bỏ chơi xa/ Để lại xác thân này ngơ ngác?/ Em kêu anh/Như tiếng con nai tác/Vọng qua triền đồi mơ… (Nhớ – Hàm Anh). Ngược với nỗi nhớ của người con gái, nỗi nhớ của người con trai thường được diễn tả như một bùng cháy dữ dội, một mãnh liệt thiêu đốt: Nhớ em như một vết thương/Trong lòng như vỡ mảnh gương trong lòng/Tay cầm cốc thủy tinh trong/Trong tay bóp nát máu ròng ròng sa (Xuân Diệu), Em xa quá bóng đêm thì vây bủa. Nỗi nhớ không chép được thành lời. Rồi sẽ cũ những vần kỷ niệm. Kéo anh về vẫn chỉ em thôi…(Lúc em xa – Hồng Thanh Quang). Nỗi nhớ trong ái tình, đôi khi được diễn tả một cách tha thiết và vô vọng hơn, bằng hai chữ tương tư: Quân tại Tương giang đầu/Thiếp tại Tương giang vĩ/Tương tư bất tương kiến/Đồng ẩm Tương giang thủy (Chàng thì ở tận đầu sông/Cô đơn mình thiếp cuối dòng chơi vơi/Nhớ thương chẳng thấy mặt người/Uống chung con nước trông vời Tương giang), Gió mưa là bệnh của giời/Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. Khi đôi lứa đã thành vợ thành chồng, nỗi nhớ của tình yêu khi đó lại có thêm nhiều màu sắc. Có nỗi nhớ của vợ với chồng: Nhớ chàng như mảnh trăng đầy/Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm (Tự quân chi xuất hĩ – Trương Cửu Linh, Ngô Tất Tố dịch). Có nỗi nhớ của chồng với vợ: Tôi nhớ vợ tôi lắm/Xin anh về hai ngày/Nhà tôi ở Mường Lay/Cuối con sông Nậm Rốm/Ngày kia tôi sẽ đến/Lại cầm súng được ngay/Tôi sẽ bắn đúng Tây/Vì tay có hơi vợ (Nhớ vợ – Cầm Vĩnh Ui).
3. Đứng về mặt thi pháp, những diễn tả về nỗi nhớ trong các thời kỳ văn học sử cũng mang nhiều sự khác biệt đáng kể. Ta hãy thử xem xét một trường hợp trong ca từ Việt. Cùng thể hiện nỗi nhớ người yêu, nhạc sĩ Thẩm Oánh trước 1945 viết: “Nhớ nhung nhớ nhung ngợp trời. Buồn vương khắp nơi. Gió trăng lạc lối. Nhớ nhung se sắt lòng quá. Phía tây mây mờ. Sầu lắng trong mơ. Bóng dáng mây huyền lướt như tóc ai, tha thướt buông phương trời, hầu lôi cuốn tim ta rối bời. Đây nét mặt trong trăng âu yếm như mỉm cười cùng thế nhân sầu đầy vơi. Nhớ nhung nhớ nhung ngợp trời. Tìm đâu bóng ai cho tâm hồn say. Ngoài xa, mây nhớ trăng lững lờ lần trôi. Vườn tà huy chờ gió luyến than chiều rơi. Bóng dáng tơ đào phai phương trời xa xôi. Ai nhớ ai chăng là? Nào ai ai nhớ thương ai? Chập chùng mờ non tây đón thăm chim xa về đây. Mịt mù quá mây đầy. Ai nhớ ai chăng là? Nào ai ai nhớ hình ai? Hỏi ai ai nhớ ai chăng là? Nào ai nhớ thương ai?” (Nhớ nhung, rút từ Nửa thế kỷ tình ca, tập 1, NXB Trẻ 1996).
Gần nửa thế kỷ sau, cũng diễn tả về nỗi nhớ trong tình yêu, nhạc sĩ Phú Quang có cách thể hiện ngôn ngữ hoàn toàn khác: “Nỗi nhớ dâng đầy trong anh. Gương mặt em, nụ cười em, vòm ngực trắng. Tưởng như máu trong tim ngưng đọng. Nỗi nhớ dâng đầy dâng đầy. Ôi, chẳng có dòng sông mặt biển nào ngăn cách, mà sao em không thể đến bên anh. Để nỗi nhớ như con thuyền vượt sóng, đến bến bờ chỉ là giấc mơ. Căn phòng đêm nay câm lặng, sao như lửa cháy bốn bề. Em ùa chạy như lá khô gió cuốn, miên man trong nỗi đớn đau. Mà không thể ra ngoài nỗi nhớ. Không thể ra ngoài nỗi nhớ đâu anh (Tuyển chọn ca khúc Phú Quang – NXB Âm nhạc, HN, 1995).
Nếu như trong Nhớ nhung của Thẩm Oánh, ta bắt gặp một hệ thống ngôn ngữ mang tính chất cổ điển đầy ước lệ thì ở ca khúc của Phú Quang, cách diễn đạt đã hoàn toàn thay đổi. Những cách diễn đạt như: nhớ ngợp trời, sầu lắng, dáng mây huyền, vườn tà huy, gió luyến, chiều rơi, bóng dáng tơ đào, non tây đón thăm chim xa có thể nói ngày nay đã không còn thấy sử dụng nữa và bị xem là rất cũ. Dĩ nhiên vào thời kỳ ấy, những cách diễn đạt này vẫn có thể là những “ngữ thời thượng”. Cho đến phần ca từ trong ca khúc của Phú Quang, nhiều hình ảnh, biểu tượng và cách diễn đạt mới mẻ đã xuất hiện để khắc họa sâu sắc tâm lý tình cảm của nhân vật, từ căn phòng câm lặng, gió khô lá cuốn, không thể ra ngoài nỗi nhớ… Người nghe cảm nhận được nỗi nhớ như có hình hài cụ thể, lúc thì da diết đê mê, lúc lại cồn cào cháy bỏng, với nhiều kết hợp táo bạo mà trong ngôn ngữ ca từ của âm nhạc lãng mạn trước 1945 khó lòng có được.
Bàn về nỗi nhớ mãi mãi là không đủ, bởi như thi sĩ Nguyễn Bính đã từng thốt lên: Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ/Em thử quay xem được mấy vòng?/Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ/Em thử lào xem được mấy thưng? Một nhà thơ trẻ gần đây là Huyền Thư cũng viết: Nhớ rất nhiều là nhớ được bao nhiêu? Có những nỗi nhớ siêu hình không bút mực nào tả nổi, như khi ta đang ở một nơi mà lại nhớ chính về nơi đó: Chiều nay có một người du khách/Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên (Nguyễn Bính). Có nỗi nhớ như trong Kinh Thánh viết: “Tôi phải nhớ: Tôi phải chết!”. Thế nhưng đồng hành cùng nỗi nhớ, con người ta còn cần học cách để Quên. Đó là điều mà chúng tôi sẽ bàn tiếp trong một bài viết khác…
Tin Nhắn Bày Tỏ Nỗi Nhớ Người Yêu Hay Và Ý Nghĩa Nhất
Nỗi nhớ xâu xé tim can, nỗi nhớ lan man da diết, biết gửi đâu bây giờ. Có nhớ nhung thì mới là tình yêu, nhớ cũng giống như một căn bệnh vậy, ủ lâu ngày, bệnh sẽ chỉ càng nặng thêm.
1/ Tin nhắn bày tỏ nỗi nhớ người yêu hay và ý nghĩa nhất1/ Anh nghe ai đó gọi tên em nhưng khi quay lại nhìn, anh chỉ một mình. Anh nhận ra đó là trái tim anh đang nói: Anh nhớ em.
2/ Hôm nay anh đã làm 3 việc: Nhớ em, nhớ em và nhớ em
3/ Trống vắng không có nghĩa là cô đơn, mà chính là nỗi nhớ em
4/ Nếu giấc mơ là cách duy nhất để ở bên em, anh sẽ chẳng bao giờ mở mắt ra nữa
5/ Khi em không ở đây, có gì đó đã mất. đó là nụ cười anh.
6/ Em ơi em! Sao anh cứ nhớ em hoaì à, caí đầu cuả anh nó lì ghê vậy đó, anh đã dặn rồi: có nhớ em thì nhớ it ít thôi, đừng có nhớ nhiều, vâỵ mà hổng thèm nghe gì hết á, Cứ nhớ em hoài, nhớ ơiii là nhớ, nhớ tha thiết, nhớ da diết, nhớ hết biếttt… diễn tả sao luôn, nói túm laị là nhớ…nhớ…nhớ em nhiều lắm. Anh yêu em!
7/ Anh muốn nói với em là anh …ghét em lắm. em cứ chạy nhảy lung tung trong đầu anh, làm anh chẳng nghĩ được gì cả …
8/ Đố em noh ssiW nghĩa là gì? Chỉ cần xoay ngược lại điện thoại, em sẽ biết ngay. a nhớ e!
9/ Em ạ! Anh nhờ bưu điện gửi đến em một món quà. Đó là nỗi nhớ anh dành cho em lúc này. Nhưng thật tiếc họ đã từ chối. Họ bảo nó quá lớn không thể gửi được. Hmm, anh phải làm sao đây?
10/ Em ơi! Anh đếm cừu đến sáng mà vẫn chưa ngủ được Nhớ em quá.
11/ Anh sẽ viết lên trên tất cả các viên gạch dòng chữ anh nhớ em và anh ước gì một viên sẽ rơi trúng đầu em, để em biết được nỗi đau như nào khi nhớ đến người đặc biệt như em
12/ Mỗi lúc anh nhớ em, một ngôi sao rụng xuống. Nếu em nhìn lên trời và chẳng thấy ngôi sao nào cả, bởi vì em bắt anh nhớ em quá nhiều
13/ Người ở gần thì không yêu. Người thân yêu thì không ở gần. Nhớ người ở gần sao quá dễ. Quên người thân yêu sao khó quá.
14/ Thầy Toán dạy anh 1 giờ = 60 phút, 1 phút = 60 giây, nhưng thầy chẳng nói với anh 1 giây không có em lại bằng tới 100 năm. Nhớ em!
15/ Hút thuốc mỗi ngày sẽ chết sớm 10 năm. Uống rượu mỗi ngày sẽ chết sớm 30 năm. Nhưng vì nhớ em,… Anh đang chết mỗi ngày đấy. Đáng thương chưa?
17/ Anh cho em mượn bờ vai để em gục đầu khóc, mượn đôi tai để lắng nghe, đôi tay để em xiết chặt, đôi chân để đi cùng em. Nhưng anh không thể cho mượn trái tim mình vì nó đã thuộc về em mất rồi. Ước gì được bên em giờ này. Nhớ em nhiều!
18/ Trong cuộc sống anh đã học được cách yêu thương, chân thành, mạnh mẽ, vui cười, hạnh phúc, vị tha… nhưng anh đã không học được cách đừng nhớ em!
19/ Nếu anh được 1.000đ thôi cho mỗi lần nghĩ về em, thì dù có chia tay nhau, anh cũng sẽ là tỉ phú
20/ Anh chóng quên lắm! Anh không bao giờ nhớ nổi một gương mặt đã qua. Nhưng vì em anh sẽ tạo ra một ngoại lệ. Anh nhớ em!
21/ Dù bao mùa đông lạnh giá trôi qua anh cũng không bao giờ để em ra đi. Mỗi đêm về con tim anh lại thêm nhớ em nhiều và anh hiểu rằng ko thể sống mà ko có em.
22/ Em à! Anh đang nhớ em, thực sự rất nhớ! Nhưng chẳng có cách nào để đến bên em và ôm em thật chặt.
23/ Anh đã cố gắng để nghĩ rằng chắc gặp em đó chỉ là sự rung động nhất thời của trái tim, rồi anh sẽ quên em nhanh thôi, nhưng sự thực lại không phải vậy. Ngày ngày hình bóng em vẫn quanh quẩn đâu đó trong tâm trí, lành lạnh trái tim anh mỗi khi nhớ về em.
24/ Anh ước gì 1 ngày có 25 giờ để anh có 1 giờ không nghĩ đến em! Em yêu, trong tâm trí anh luôn tồn tại bóng hình em. Anh yêu em!
25/ Đã nhiều đêm anh thức trắng chỉ để nghĩ đến em không biết em đang làm gì có nhớ anh không. Anh ước chi em ở bên anh để được ôm chặt em dấu yêu vào lòng. Em đã lấy đi trái tim anh mãi mãi. Anh thật hạnh phúc vì điều đó. Anh yêu em hơn tất cả và anh luôn cần có em – thiên thần của anh.
26/ Em yêu! Em có biết là anh nhớ em nhiều lắm không? Không giây phút nào trái tim anh không nguôi nhớ em. Cái nóng của mùa hè hay cái lạnh của mùa đông cũng không ngăn nổi nỗi nhớ của anh… Yêu em nhất trên đời – tình yêu của anh.
27/ Có đôi khi lý trí anh bảo con tim anh, thôi không yêu, không giận hờn, không nhớ…, nhưng trái tim anh vốn là tên quái gỡ, cứ cồn cào tha thiết gọi tên em.!
28/ Hôm nay trời mưa và se lạnh mình cảm thấy nhớ một người, không biết người đó có nhớ đến mình không?
Chúng mình sẽ mãi bên nhau
-Dẫu biết rằng cố quên là sẽ nhớ.
-Nên đập đầu mất trí để mà quên.
-Nhưng vẫn còn 1 điều luôn trăn trở
Đập đầu rồi lỡ chết thật thì sao?
Chết thật rồi ghệ mình ai nâng đỡ?
( Nguồn: http://www.tinnhanhay.net/tin-nhan-bay-to-noi-nho-nguoi-yeu-hay-va-y-nghia-nhat.html)
5 Điều Cần Ghi Nhớ Khi Thi Lấy Chứng Chỉ Klpt
1. Chứng chỉ KLPT là gì?
Các chứng chỉ tiếng Hàn phổ biến nhất là TOPIK và KLPT. TOPIK là chứng chỉ tiếng Hàn có hiệu lực nhất và thiên về học thuật. Ngược lại, KLPT thích hợp với những ai có nguyện vọng xuất khẩu lao động Hàn Quốc và nó cũng là một trong những chứng nhận bắt buộc với những người lao động nước ngoài tại Hàn Quốc.
Kỳ thi KLPT diễn ra hàng năm và được tổ chức bởi Bộ Lao Động Hàn Quốc và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam nhằm đánh giá năng lực tiếng Hàn của người lao động. Bài thi KLPT có 2 hình thức là KLPT và B-KLPT (EPS). Bài thi B-KLPT là bài kiểm tra dành cho những người mới bắt đầu học tiếng Hàn từ 150-200 giờ hoặc nhiều hơn.
Mục đích của B-KLPT là đánh giá khả năng giao tiếp tiếng Hàn đối với những người lao động ở mức độ cơ bản. Khi sinh hoạt và làm việc tại Hàn Quốc, người lao động nước ngoài sẽ dễ dàng, thuận tiện hơn. Ngoài ra, người lao động cũng hiểu biết đươc sự an toàn lao động và những qui định hay những bất lợi nào đó trong công việc.
2. Đặc trưng kỳ thi chứng chỉ tiếng Hàn B-KLPT – EPS:
Mục đích của B-KLPT là đánh giá khả năng giao tiếp tiếng Hàn trong phạm vi căn bản đối với những người lao động. Khi gặp và tiếp xúc với người ngoại quốc hay người Hàn Quốc sống ở nước ngoài với mục đích là dễ dàng sử dụng ngôn ngữ. Bài kiểm tra tiếng Hàn yêu cầu trong các tình huống phải rõ ràng mạch lạc.
3. Cấu trúc bài thi tiếng Hàn KLPT:
Hình thức thi Phần thi Câu hỏi Điểm Tổng điểm Thời gian
Nghe Tranh ảnh 8 32 100 40 phút
Đàm thoại 9 36
Nói chuyện 8 32
Đọc hiểu Từ vựng 6 24 100 50 phút
Văn phạm & cách sử dụng 6 24
Thực hành thông tin 7 28
Đọc hiểu 6 24
Tổng cộng
50 200 200 90 phút
4. Phương pháp đánh giá chứng chỉ KLPT:
Điểm Trình độ năng lực Tiêu chuẩn đánh giá trình độ giao tiếp tiếng Hàn Tiêu chuẩn đánh giá năng lực sử dụng từ chuyên môn
Dưới 120 Trình độ giao tiếp chưa hoàn chỉnh Kiến thức về tiếng Hàn rời rạc, biết ít từ mới, chỉ biết cấu trúc cú pháp, không có khả năng giao tiếp với người khác. Không có khả năng tham gia giao tiếp hàng ngày bằng tiếng Hàn
120 ~160 Hạn chế trong cách biểu đạt ngôn từ cơ bản Có khả năng ứng đáp tiếng Hàn đơn giản trong các tình huống thân thuộc hay trong sinh hoạt hàng ngày, độ chính xác và việc hoàn chỉnh ngôn ngữ còn thiếu. Là người mới học tiếng Hàn nên khó khăn trong viêc diễn đạt mọi thứ bằng chữ viết và lời nói. Chỉ có thể hiểu và giao tiếp nhất định trong những tình huống sinh hoạt hàng ngày được giới hạn từ trước. Gặp khó khăn trong các hoạt động xã hội.
161~ 200 Có khả năng tham gia các hoạt động xã hội cơ bản. Có khả năng giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và trong quan hệ với người khác, nhưng gặp khó khăn trong việc sử dụng thành thạo các cách diễn đạt đa dạng trong nhiều tình huống. Với vốn từ vựng cơ bản, có khả năng viết thư hoặc email ngắn, viết lại những yêu cầu đơn giản trong công việc vì vậy có khả năng sử dụng vốn từ chuyên môn cơ bản trong các tình huống nhất định.
5. Lịch thi và địa điểm thi chứng chỉ KLPT:
Để đăng kí thi, Bạn vui lòng truy cập chúng tôi hoặc đến Số 59 – Nguyễn Khả Trạc – Cầu Giấy – Hà Nội để đăng kí trực tiếp.
Thông tin liên hệ:
➤ CN Hà Nội: Tòa nhà A1/D21 ngõ 11 Duy Tân, Cầu Giấy, HN Điện thoại: 043.7957.382 Hotline: 096.728.9362 ➤ CN Hải Phòng: Tầng 3 tòa nhà Sholega, số 275 Lạch Tray, Ngô Quyền, HP Điện thoại: 031.3833.113 (Nhánh 14) Hotline 0981.074.326 ➤ CN Huế: Tầng 5, tòa nhà Techcombank, 24 Lý Thường Kiệt, TP Huế Điện thoại: 054 3933 774 ➤ CN Đà Nẵng: Tầng 3, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, Hải Châu, Đà Nẵng. (05113.656.205) ➤ CN HCM: Lầu 4, Toà Nhà MB 538 CMT8 P11, Quận 3 (08 399 30988)
Quốc Ca Việt Nam Và Quốc Ca Nhật Bản
Việt Nam và Nhật Bản trong những năm gần đây có những bước tiến vượt bậc trong quan hệ giao thương và cả văn hóa nghệ thuật. Trong đó lĩnh vực trao đổi và xuất khẩu lao động được chú ý đặc biệt. Khi bạn đến Việt Nam thì tìm hiểu quốc ca Việt Nam là điều hiển nhiên, và khi bạn đến Nhật Bản thì biết sơ qua bài quốc ca Nhật Bản cũng là điều rất cần thiết.
Vậy bạn đã biết rõ về nội dung cũng như nguồn gốc 2 bài hát cho tổ quốc này chưa? Cùng tìm hiểu thôi nào!
Quốc ca nước Việt Nam – Bài “Tiến quân ca” của tinh thần dân tộc
Mỗi đất nước đều có 1 bài hát quốc ca để thể hiện tinh thần dân tộc và lòng tự tôn khi đi ra biển lớn. Nước Việt Nam của chúng ta cũng vậy! Ai ai cũng có thể cất vang bài quốc ca với sự tự hào dâng cao nhưng còn rất nhiều bạn trẻ vẫn chưa am tường về nguồn gốc xuất xứ của bài hát đặc biệt này. Đây là câu trả lời dành cho bạn!
Nguồn gốc bài quốc ca của nước Việt Nam
Bài hát quốc ca của Việt Nam được chính thức sử dụng từ năm 1976 sau khi được toàn bộ đại biểu quốc hội biếu quyết thông qua. Nguồn gốc của bài hát này chính là bài hát “Tiến Quân ca” do nhạc sỹ Văn Cao sáng tác năm 1944. Trước năm 1975, bài Tiến Quan ca được xem là bài hát biểu tượng cho nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa.
Tên bài hát quốc ca Việt Nam là gì?
Như đã đề cập, quốc ca Việt Nam có tên gọi nguyên bản là ” Tiến Quân ca “. Đây là một bài hát có nhịp mạnh mẽ, ngôn ngữ hào hùng và có sức mạnh khích lệ tinh thần người nghe cực kỳ hiệu quả. Nó được nhạc sỹ Văn Cao sáng tác phục vụ cho Cách Mạng Tháng 8 năm 1945.
Khi được chọn làm quốc ca thì lời bài hát Tiến Quân ca được sửa chữa một số chỗ như thay từ “Việt Minh” thành “Việt Nam”.
Lời bài hát quốc ca Việt Nam
Từ khi được chính thức lưu hành toàn quốc thì bài quốc ca Việt Nam gồm có 2 lời:
Lời 1
Đoàn quân Việt Nam đi Chung lòng cứu quốc Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước, Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca. Đường vinh quang xây xác quân thù, Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu. Vì nhân dân chiến đấu không ngừng, Tiến mau ra sa trường, Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta vững bền.
Lời 2
Đoàn quân Việt Nam đi Sao vàng phấp phới Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới, Đứng đều lên gông xích ta đập tan. Từ bao lâu ta nuốt căm hờn, Quyết hy sinh đời ta tươi thắm hơn. Vì nhân dân chiến đấu không ngừng, Tiến mau ra sa trường, Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta vững bền.
Học hát quốc ca Việt Nam có khó không?
Học hát quốc ca Việt Nam là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân, là sự tôn trọng của mỗi người khi đến sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
Các bài quốc ca trong lịch sử Việt từ thời khai hoang lập quốc
Quốc ca đầu tiên của Việt Nam
Từ thế kỷ 19 trở về trước có khá nhiều bài hát dùng trong hoàng cung nội tộc nhưng để xác định chính xác bài quốc ca thì rất khó. Do đó chúng ta chỉ xác định bài quốc ca từ thời vua Bảo Đại – Vị vua cuối cùng của nước Việt Nam.
Vào thời vua Bảo Đại thì nhà vua chọn quốc kỳ là Cờ Long Tinh và quốc ca là bài hát Đăng Đàn Cung được sử dụng chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung. Lúc này miền Nam Kỳ lục tỉnh vẫn còn là thuộc địa của Pháp nên không sử dụng hoặc rất ít nơi sử dụng quốc ca của chế độ vua Bảo Đại.
Quốc ca Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa
Trong giai đoạn 1945 – 1975 thì sự kiện đáng chú ý nhất là hiệp đinh Geneva chia đất nước thành 2 miền và lấy vĩ tuyến 17 làm mốc ranh giới quân sự. Lúc này nước Việt Nam có 2 bài quốc ca ở 2 đầu tổ quốc.
Miền Bắc do Đảng cộng sản lãnh đạo lấy quốc ca là bài hát Tiến Quân ca
Miền Nam do chính phủ Việt Nam Cộng hòa lãnh đạo và quốc ca là bài hát Tiếng gọi công dân
Sau khi chính quyền Việt Nam Công Hòa sụp đổ thì bài hát Tiến quân ca mới chính thức được hát vang trên mọi miền đất nước. Và từ năm 1975 thì bài hát Tiếng Gọi Công Dân cũng không được lưu hành rộng rãi nữa mà dần đi vào quên lãng. Hiện nay chỉ có một nhóm nhỏ các sỹ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn sử dụng và thỉnh thoảng có hát tại các sự kiện tưởng niệm tại Mỹ và một số quốc gia khác.
Lời bài quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa
Quốc ca của chính quyền Việt Nam công hòa có khá nhiều bản, tuy nhiên bản chính thức của bài Tiếng Gọi Công Dân có lời bài hát như sau:
“Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên, Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Dù cho thây phơi trên gươm giáo, Thù nước, lấy máu đào đem báo. Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy, Người Công Dân luôn vững bền tâm trí. Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ! Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống Xứng danh nghìn năm dòng giống Lạc Hồng!”
Quốc ca Nhật Bản – Tinh hoa tâm hồn Võ Sĩ Đạo
Nguồn gốc bài quốc ca Nhật Bản
Quốc ca Nhật Bản có tên gọi nguyên bản là KimiGayo – dịch theo Hán thư là Quân Chi Đại. Đây là một bài hát cổ đã xuất hiện và được sử dụng từ thế kỷ thứ 10 tại xứ Phù Tang. Lời của bài hát này được sáng tác dựa trên một bản hòa âm cổ trong tác phẩm kinh điển Cổ Kim hòa ca tập xuất hiện vào thời đại Heian trong lịch sử nước Nhật Bản.
Tác giả của bài hát là nhạc sỹ Hiromori Hayashi – Trưởng ban nhạc cung đình nội sảnh Nhật Bản sáng tác năm 1880. Kể từ năm 1893 thì thiên hoàng Minh Trị bắt đầu cho phép lưu hành toàn quốc và phổ cập thành bài quốc ca chính thức của đất nước mặt trời mọc.
Xem lời bài quốc ca Nhật Bản ở đâu?
Hiện nay với sự phát triển của công nghệ thông tin thì bạn có thể tìm thấy lời bài hát quốc ca Nhật Bản tại khắp mọi nơi. Với đầy đủ các phiên bản tiếng Nhật, tiếng Hán, tiếng phiên âm cũng như tiếng Việt nên chúng ta có thể dễ dàng theo dõi lời bài hát.
Bài quốc ca Nhật KimiGayo được dịch sang nghĩa Tiếng Việt như sau:
“Hoàng triều của Người Qua ngàn đời, và tám ngàn đời Những viên sỏi nhỏ kết thành những tảng đá cổ kính rêu phong.”
Mặc dù nổi tiếng với những hình tượng Võ sĩ đạo mạnh mẽ hoặc Yakuza bí ẩn huyền thoại nhưng quốc ca Nhật Bản lại vô cung nhẹ nhàng sâu lắng. Đó giống như một lời tâm tình với non sông, lời trò chuyện sâu lắng và chứa ý nghĩa sâu sắc nhiều tầng mà mỗi người sẽ có góc nhìn và cách hiểu khác nhau.
Học hát quốc ca Nhật Bản có khó không?
Nét tương đồng giữa quốc ca Việt Nam và quốc ca Nhật Bản
Ý nghĩa quốc ca Việt Nam
Thuở nhỏ còn đi học, mỗi thứ hai đầu tuần chúng ta đều được hát quốc ca và hướng về phía quốc kỳ tươi thắm. Những công dân xa quê hoặc đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản đôi khi nhớ về quê hương và thì thầm hát bài quốc ca hào hùng. Đó là ý nghĩa thiêng liêng nhất mà bài quốc ca mang lại cho mỗi chúng ta – Lòng tự tôn dân tộc.
Bài hát Tiến Quân ca với lời nhạc hào hùng mạnh mẽ, từng nốt nhạc cất lên đều thể hiện tấm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam.
Nhiều thế hệ người Việt Nam đã hát Quốc ca với nhiệt huyết từ mỗi trái tim cho dân tộc và đất nước, sự tự hào về truyền thống yêu nước và ý chí bất khuất của một dân tộc nhỏ bé nhưng không tầm thường.
Mỗi câu chữ trong bài hát quốc ca của Việt Nam đều là một lời khuyên nhủ nhẹ nhàng nhưng sâu lắng cho những thế hệ trẻ. Hãy sống và cống hiến cho quê hương đất nước, cùng chung tay đồng lòng bảo vệ tổ quốc và xây dựng non sông ngàn năm vững bền.
Ý nghĩa quốc ca Nhật Bản
Được một nhạc sỹ danh tiếng người Nhật soạn lời và được một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức hòa âm, bài quốc ca Nhật Bản trở thành một tượng đài của văn hóa xứ Phù Tang.
Mặc dù chỉ có đôi dòng ngắn gọn và được cất vang chưa đến 1 phút nhưng quốc ca Nhật Bản ẩn chứa rất nhiều hàm ý cao cả và thiêng liêng.
Đây giống như một bức tâm thư mà những thế hệ tổ tiến muốn truyền đạt lạ cho con cháu người Nhật tinh thần của dân tộc, sự biết ơn những thế hệ đi trước và mong muốn xây dựng đất nước cường thịnh lâu dài.
Bài quốc ca này đã từng được bầu chọn là bài quốc ca ý nghĩa nhất thế giới trong một sự kiện âm nhạc của các sinh viên nhạc viện.
Quốc ca Nhật Bản còn được xem như một bức thư tình ngàn năm để gửi tình yêu quê hương đến mẹ thiên nhiên và những đấng sinh thành, lãnh đạo quốc gia.
Đó là lời thì thầm chứa đựng nhiều tầng lớp ý nghĩa. Để từ một bài hát ngắn gọn nhưng đủ sức mạnh để thúc đẩy một dân tộc nhỏ bé, một quốc gia nghèo nàn vươn lên thành con Rồng Châu Á và siêu cường của thế giới.
Điểm tương đồng trong tinh thần của bài quốc ca 2 nước
Xét về nội dung, cả hai bài quốc ca đều hướng đến tình yêu quê hương đất nước và khát vọng độc lập tự chủ. Bên cạnh đó là những ý nghĩa hàm ẩn răn dạy cho các thế hệ sau về non sông đất nước, về cách sống và làm việc cống hiến cho màu cờ sắc áo.
Mỗi bài quốc ca đều thể hiện được vẻ đẹp của tinh thần dân tộc, ca ngợi sự hào hùng của những thế hệ ngàn năm dựng nước giữ nước. Từng câu từng chữ trong 2 bài quốc ca đều làm cho những công dân sở tại thêm yêu nước hơn và thêm động lực để cống hiến cho tổ quốc.
Kết luận
Mỗi đất nước đều có những vẻ đẹp riêng và những bản sắc dân tộc không thể nhầm lẫn. Và bài hát quốc ca chính là biểu tượng cho tinh thần dân tộc độc lập ấy. Từng hoàn cảnh hình thành đất nước mà bài hát quốc ca sẽ có những định hướng nội dung và ý nghĩa khác nhau.
Cập nhật thông tin chi tiết về Nỗi Nhớ Và Thi Ca trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!