Xu Hướng 6/2023 # Nhân Sinh Quan Phật Giáo Trong Tứ Diệu Đế # Top 12 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Nhân Sinh Quan Phật Giáo Trong Tứ Diệu Đế # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Nhân Sinh Quan Phật Giáo Trong Tứ Diệu Đế được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

ĐÀO THỊ KIM CÚC

(Thích Đàm Phúc)

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG TỨ DIỆU ĐẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Tôn giáo học

Hà Nội – 2014

ĐÀO THỊ KIM CÚC

(Thích Đàm Phúc)

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG TỨ DIỆU ĐẾ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học Mã số: 60 22 03 09

Người hướng dẫn khoa học: chúng tôi Nguyễn Thúy Vân

Hà Nội – 2014

MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 3 1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………………………… 3 2. Tình hình nghiên cứu …………………………………………………………………………….. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ………………………………………………………… 8 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ……………………………………………….. 9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………. 9 6. Đóng góp của luận văn …………………………………………………………………………… 10 7. Bố cục luận văn …………………………………………………………………………………….. 10 B. NỘI DUNG …………………………………………………………………………………………. 11 Chƣơng 1: MỘT SỐ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ TỨ DIỆU ĐẾ ……………………………………………………………….. 11 1.1 Nhân sinh quan và Nhân sinh quan Phật giáo ……………………………………. 11 1.1.1. Khái niệm Nhân sinh quan. ………………………………………………………… 11 1.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo …………………………………………………………… 14 1.2. Giới thiệu chung về Tứ diệu đế. …………………………………………………………. 27 1.2.1. Nguồn gốc ra đời ………………………………………………………………………. 27 1.2.2. Nội dung Tứ diệu đế ………………………………………………………………….. 30 Chƣơng 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO THỂ HIỆN TRONG GIÁO LÝ TỨ DIỆU ĐẾ VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ ………………………………………………………………………………………………… 35 2.1. Quan niệm của Phật giáo về Khổ (Khổ đế – Dukkha) ………………………… 35 2.2. Quan niệm của Phật giáo về nguyên nhân của Khổ (Tập đế Samudaya Dukkha). ………………………………………………………………………………… 42 2.3. Quan niệm của Phật giáo về sự chấm dứt khổ đau (Diệt đế- Nirodha Dukkha). …………………………………………………………………………………………………. 46 2.4. Quan niệm của Phật giáo về con đƣờng Diệt khổ (Đạo đế- Nirodha Gamadukkha) …………………………………………………………………………………………. 55 2.5. Đánh giá những giá trị nhân sinh quan Phật giáo ………………………………. 63

1

2.5.1. Nhân sinh quan Phật giáo là những nội dung có giá trị nhân bản sâu sắc, khuyến khích đời sống tâm linh hướng thiện, lành mạnh. …………… 63 2.5.2. Nhân sinh quan Phật giáo đề cao sức mạnh tự giải thoát làm chủ bản thân của con người bằng trí tuệ và đạo đức. …………………………………….. 67 2.5.3. Nhân sinh quan Phật giáo thể hiện khát vọng về sự công bằng, bình đẳng của con người trong xã hội …………………………………………………… 71 C. KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………… 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………… 77

2

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI- TCN, sau đó được lưu hành rộng rãi ở khu vực Châu Á và lan sang các nước Châu Âu. Mặc dù tồn tại với tư cách là một tôn giáo, nhưng những nội dung giáo lý của Phật giáo lại thể hiện nhiều tư tưởng triết học sâu sắc nên ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan trọng, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa, đạo đức, xã hội và tư tưởng người Việt nam. Từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trình bày quan niệm của mình về kiếp sống con người, về sự tồn tại của con người trong vô vàn các sự vật, hiện tượng của thế giới, về sự giác ngộ và cái đích mà con người hướng tới. Đây là những quan niệm do đức Phật trải nghiệm và đã “ngộ” ra trong quá trình tu tập. Mục đích chính trong tư tưởng của Phật giáo là sự giải thoát chúng sinh khỏi nỗi khổ của cuộc đời. Đó là mục đích tối hậu, là vấn đề trung tâm của giáo lý Phật giáo. Luận điểm xuất phát: nước ngoài biển khơi chỉ có một vị mặn, đạo của ta dạy đây cũng chỉ có một vị là vị giải thoát của Phật giáo đã nói lên tư tưởng xuyên suốt đó. Trong giáo lý Phật giáo, tư tưởng về con người chiếm vị trí trọng tâm. Trong ba tạng Thánh điển, tư tưởng về con người ở cả ba thì quá khứ, hiện tại và tương lai luôn được rốt ráo đề cập đến. Nói đến con người là nói đến nhân sinh, nói đến quan niệm của con người về vai trò, vị trí, giá trị và ý nghĩa cuộc sống của đời người. Theo Phật giáo, trong đời sống, mỗi chúng ta đều mang sẵn trong người một nhân sinh quan riêng biệt. Bởi chỗ riêng biệt đó, mỗi người có những nhận xét về cuộc sống khác nhau. Tuy sự nhận xét có trăm ngàn cách, nhưng không ngoài hai điểm căn bản “đời người khổ hay vui”. Khổ, vui là tiêu chuẩn để quán sát con người.

3

4

Phật giáo với tư cách là một tôn giáo của phương đông. Qua phần khái quát những nội dung cơ bản về Phật giáo: từ cuộc đời, lời dạy của đức Phật đến các phái bộ cũng như giáo lý của Phật giáo đã cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản của tôn giáo này. Cuốn “Đại cương triết học Phật giáo” của Thích Đạo Quang, Nhà xuất bản Hương Sen (không rõ năm xuất bản). Đây là cuốn sách do một nhà tu hành biên soạn, dựa trên những giáo lý căn bản của Phật giáo, nhưng được triển khai dưới góc nhìn triết học. Cuốn sách được chia thành ba tập: Tập thứ nhất: Tự luận; Tập thứ hai: Bản luận; Tập thứ ba: Các luận, đã luận giải một cách khái quát những nội dung tư tưởng căn bản của Phật giáo như: thuyết duyên khởi; thuyết thật tướng; vấn đề giải thoát…v..v.. Cuốn: “Phật học quần nghi” của Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm là cuốn sách Phật học mang tính phổ thông. Tác giả cuốn sách đã khái quát những vấn đề Phật học thường gặp dưới dạng các câu hỏi để giảng giải về giáo lý của đức Phật với sự kiến giải phong phú, sinh động giúp người đọc không chỉ thu nạp những tri thức Phật học mà còn được chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trên con đường tu tập. Cuốn “Lời giáo huấn của Phật đà” của Walpola Rahula, do Ngô Đức Thọ dịch, nhà xuất bản tôn giáo, HN, 1999 cũng đã trình bày rất cô đọng, dễ hiểu giáo lý Phật giáo như nguồn gốc, quan điểm tôn giáo của đạo Phật; kiến giải về nỗi khổ và con đường giải thoát…. Trong Cuốn: “Việt nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang, nhà xuất bản Văn học Hà nội, 1994 đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào Việt nam, vai trò của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước của các triều đại phong kiến. Cuốn: “Lịch sử Phật giáo Việt nam” do Nguyễn Tài Thư (chủ biên), nhà xuất bản KHXH, HN, 1988, các tác giả đã phân tích lịch sử du nhập và quá trình phát triển của Phật giáo; các tông phái Phật giáo và phân tích vai trò của Phật giáo đối với lĩnh vực tư tưởng chính trị trong suốt chiều dài lịch sử Việt nam. Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình như: Cuốn “Đối thoại giữa Triết học và Phật giáo của Jean Francois Revel và Matthieu Ricard do Hồ Hữu Hưng dịch, Phật giáo những vấn đề Triết học của O.O.

5

6

Những vấn đề về nhân sinh quan Phật giáo với tư cách là một nội dung tư tưởng triết học cũng được đề cập rải rác trong từng nội dung cụ thể hoặc toàn bộ giáo lý qua một số công trình tiêu biểu như: “Đại cương triết học Phật giáo Việt nam”, tập một: từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu, NXBKHXH, HN, 2002. Trong công trình này, tác giả Nguyễn Hùng Hậu đã dành hẳn chương cuối của cuốn sách để trình bày về nhân sinh quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật giáo Việt nam. Những lý giải của tác giả từ góc độ triết học đã giúp người đọc hình dung một cách có hệ thống những tư tưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo từ quan niệm về con người đến quan niệm về cuộc đời con người để từ đó khảo sát các quan niệm khác nhau về nhân sinh quan của Phật giáo Việt nam qua các thời kỳ lịch sử. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Toan “Quan niệm về giải thoát trong Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống người Việt nam hiện nay” bảo vệ năm 2006 lại bàn đến một trong những nội dung cơ bản nhất của nhân sinh quan Phật giáo: vấn đề giải thoát, từ đó làm rõ ảnh hưởng của quan niệm này của Phật giáo đến đời sống người Việt nam hiện nay trên những bình diện cơ bản của đời sống như: kinh tế, xã hội, chính trị, đạo đức…. Cuốn: “Tứ diệu đế” của Đức Đạt – Lai Lạt Ma XIV, nhà xuất bản tôn giáo, 2012, là cuốn sách có tính chất kinh điển ghi lại những bài giảng của Đức Đạt – Lai Lạt Ma XIV với ngôn ngữ hiện đại để dẫn dắt người đọc đến với nội dung cơ bản nhất trong giáo lý của Phật giáo: Tứ diệu đế, giúp người đọc hình dung phần nào những giáo pháp cơ bản của Phật giáo được áp dụng để giải thích và quán chiếu, nhằm khai mở con đường nhận thức ra đau khổ, dẹp bỏ nó để đi đến hạnh phúc viên mãn. Trong cuốn: “Đạo đức Phật giáo với đạo đức người Việt nam” của Đặng Thị Lan, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà nội, 2006 tác giả trên cơ sở phân tích mối liện hệ giữa đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống dân tộc đã phân tích một cách thuyết phục ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức người Việt nam hiện nay. Chính sự hòa quyện này đã tạo nên sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt nam để chiến thắng các kẻ thù xâm

7

8

Mục đích: Luận văn trình bày một cách hệ thống quan niệm về nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong giáo lý Tứ diệu đế và đánh giá giá trị của quan điểm này. Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: – Hệ thống hoá một số khái quát chung về Nhân sinh quan Phật giáo và Tứ diệu đế. – Phân tích nội dung nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong Tứ diệu đế và đánh giá giá trị của những quan điểm này. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả luận văn dùng phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo học, triết học như: phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về Nhân sinh quan Phật giáo và những giá trị của nó.

9

10

Chƣơng 1 MỘT SỐ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ TỨ DIỆU ĐẾ 1.1 Nhân sinh quan và Nhân sinh quan Phật giáo. 1.1.1. Khái niệm Nhân sinh quan. Từ buổi sơ khai của xã hội loài người cho đến thời kì xã hội văn minh hiện đại hiện nay, có hai câu hỏi lớn luôn là nỗi trăn trở của con người mà mọi lời giải thích đều chưa thực sự thỏa đáng: Vũ trụ là gì? Và con người từ đâu mà có? Hai câu hỏi nan giải này luôn là những thách thức, ám ảnh tâm thức con người. Đã có biết bao nhà tư tưởng, triết gia, đạo sĩ… mài mòn sách vở, dốc cạn tâm lực để mong mở được cánh cửa chân lý, tìm hiểu tường tận về vũ trụ và con người. Nhưng tất cả đều như những kẻ lữ hành loanh quanh mãi trong rừng rậm của tri kiến, vẫn không tìm được lối ra, chưa có những lời giải đáp hoàn hảo nhất. Trong quá trình tồn tại, lao động và sinh sống, con người khác con vật ở chỗ họ không chỉ tồn tại thích nghi một cách thụ động mà mục đích chính trong hoạt động sống của con người là chinh phục tự nhiên, tìm cách biến đổi thế giới theo yêu cầu cuộc sống của mình. Quá trình tìm tòi, giải đáp những câu hỏi về thế giới, về con người đã làm hình thành nên những quan niệm nhất định về thế giới, về con người, về vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó. Đó chính là thế giới quan. Vậy thế giới quan là gì? Thế giới quan, theo quan niệm của Triết học Mác- Lênin là “toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí của con người trong thế giới ấy” [14;7]. Như vậy, thế giới quan là biểu thị cách nhìn khái quát đối với toàn bộ thế giới trong đó có con người với tư cách là một bộ phận của thế giới.

11

Về nguồn gốc, thế giới quan ra đời từ cuộc sống, nó chỉ tồn tại ở con người, là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức nhưng bao hàm trong nó cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan, cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Thế giới quan được hình thành trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thực tiễn. Chủ thể của thế giới quan có thể là cá nhân hay một nhóm, một cộng đồng người trong xã hội. Về hình thức thế giới quan có thể biểu hiện dưới dạng các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ. Về cấu trúc, vì thế giới quan là một hiện tượng tinh thần phức tạp nên có nhiều cách tiếp cận khi nói tới các bộ phận của thế giới quan. Nhưng nhìn chung đều thừa nhận có ba yếu tố cơ bản : tri thức, tình cảm, niềm tin. Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới, là kết quả của nhận thức thế giới. Tri thức có nhiều loại. Tri thức về tự nhiên, xã hội và con người. Tri thức tự nó chưa phải là thế giới quan, chỉ khi kết hợp với niềm tin (với tư cách là sự xác quyết giá trị chân lý của tri thức) và tình cảm (sự yêu mến và tin tưởng vào tính đúng đắn của tri thức), tri thức mới trở nên sâu sắc, thành lý tưởng, là động cơ, cơ sở của con người hành động. Vì thế, thế giới quan nhất quán là sự thống nhất giữa tri thức, niềm tin và tình cảm để từ đó có thể xác lập được lập trường, quan điểm. Thế giới quan bao gồm trong nó nhân sinh quan (khi đưa ra những quan niệm về con người, vị trí và giá trị cuộc sống của con người). Chức năng của thế giới quan là chức năng nhận thức, chức năng xác lập giá trị, chức năng đánh giá, chức năng điều chỉnh hành vi, từ đó định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con người. Thế giới quan có ba hình thức: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.

12

Thế giới quan huyền thoại là hình thức thế giới quan đặc trưng của người nguyên thủy. Nó phản ánh những quan niệm của người nguyên thủy về thế giới dựa trên sự kết hợp giữa tri thức và sự tưởng tượng. Trong hình thức thế giới quan này các yếu tố như tri thức và xúc cảm, lý trí và tín ngưỡng, thật và ảo ….luôn hòa quyện, đan xen vào nhau tạo nên sự phản ánh, những quan niệm đặc thù của người nguyên thủy về thế giới và con người. Thế giới quan tôn giáo là hình thức phản ánh thế giới khách quan một cách hư ảo, dựa căn bản trên niềm tin tôn giáo. Nó là sự giải thích thế giới trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bởi lực lượng siêu nhiên, thần thánh. Đặc trưng chủ yếu của hình thức thế giới quan này là niềm tin cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế giới khác, tốt đẹp và hoàn mỹ mà con người sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. Thế giới quan triết học là “thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, nguyên lý, phạm trù, quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân con người, mà còn chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận” [2;278]. Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức con người đạt tới trình độ cao với năng lượng trừu tượng hóa, khái quát hóa của tư duy trừu tượng Như vậy, thế giới quan chính là biểu hiện của cách nhìn bao quát đối với thế giới bao gồm cả thế giới bên ngoài, cả con người và cả mối quan hệ của người đối với thế giới. Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nam cho hành động của con người. Thế giới quan có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Nó giúp con người xác định mục tiêu, phương hướng hoạt động của bản thân, trên cơ sở đó, hoạt động của con người mới mang tính hướng đích và thể hiện được tính tự giác cao. Thế giới quan giúp con người xác định lý tưởng, hoài bão,

13

ước mơ, ý nghĩa cuộc sống. Có một thế giới quan đúng đắn sẽ hướng con người hoạt động theo sự phát triển theo tính quy luật của tự nhiên và xã hội, góp phần vào sự tiến bộ của xã hội. Nhân sinh quan là bộ phận của thế giới quan (hiểu theo nghĩa rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người, đời người, là những quan niệm về mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người. Đó là sự phản ánh tồn tại xã hội ở những cấp độ khác nhau của con người. Nội dung của nhân sinh quan biểu hiện những nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hoài bão của con người trong mỗi chế độ xã hội cụ thể. Mỗi thời đại, giai đoạn lịch sử khác nhau, nhân sinh quan của con người là khác nhau. Ngay trong bản thân mỗi con người thì nhân sinh quan cũng có thể thay đổi tùy vào điều kiện khách quan và nhận thức chủ quan của mình. Nhân sinh quan vừa mang tính giai cấp, vừa có tính xã hội rộng lớn khi vượt thoát khỏi những hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân thông thường để vươn tới tầm khái quát lý luận. Do đó nghiên cứu vấn đề nhân sinh quan tức là “nghiên cứu vấn đề bản chất, mục đích thái độ và hành vi của đời sống con người” [26;7]. Nhân sinh quan có vai trò rất quan trọng, nó có tính định hướng cho toàn bộ hoạt động sống và hành vi của con người trong xã hội. Trong cuộc sống, con người luôn suy nghĩ về cuộc sống của chính mình và không lúc nào ngừng hoạt động để phục vụ cho cuộc sống của mình. 1.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI TCN ở miền đông bắc Ấn độ. Đây là thời kỳ của chế độ nô lệ kiểu phương đông với chế độ phân chia đẳng cấp khắt khe và sự thống trị tư tưởng của Đạo Bà la môn. Những tư tưởng của Phật giáo khi ra đời như là sự phản kháng lại những bất công trong xã hội, mong muốn một sự bình đẳng trước hết về tinh thần, ý thức, tôn giáo. Người sáng lập ra Phật giáo là thái tử Tất

14

Đạt Đa, họ Cồ Đàm (Gautama Siddhattha) con vua Tịnh Phạn (Shuddhodana) thuộc bộ tộc Thích ca (Sakya), một bộ tộc nhỏ ở trung lưu sông Hằng. Đức Phật Thích Ca trên cơ sở kế thừa các tư tưởng có tầm ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ cổ đại như kinh Upanishad, kinh Veda….sáng lập ra trường phái tôn giáotriết học mới dựa trên ba quan điểm nền tảng: Vô ngã, vô thường và duyên khởi để đi đến mục đích tối hậu là giải thoát chúng sinh khỏi nỗi khổ đau nơi nhân thế, bằng nỗ lực của bản thân mình để tỉnh ngộ, vượt thoát đạt tới Niết bàn. Tư tưởng triết học Phật giáo mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa nhân văn và tính biện chứng sâu sắc. Nhìn chung, các giáo lý của Phật giáo đều xoay quanh những kiến giải về thế giới và con người. Tuy nhiên, nếu phân chia một cách tương đối thì các lý thuyết của Phật giáo về : Pháp, Bản thể, Tâm, Vô thường, Duyên khởi, Sắc không …là những quan niệm về thế giới. Các lý thuyết về Vô ngã, Luân hồi, Nhân quả, Nghiệp và Nghiệp báo, Thập nhị nhân duyên, Tứ diệu đế, Giải thoát và Niết bàn là nói về con người, đó cũng là những nội dung của nhân sinh quan Phật giáo. Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo là quan niệm của Phật giáo về con người và đời người, về mục đích của cuộc sống và cách thức giải thoát con người khỏi mọi khổ đau, đạt tới Niết bàn. Đối với Phật giáo nguyên thủy, khía cạnh vũ trụ quan, thế giới quan có phần mờ nhạt, trong khi đó khía cạnh nhân sinh quan lại nổi lên khá rõ. Phật giáo không coi trọng nguyên lý, nguyên nhân hay căn nguyên như ta thường thấy trong các hệ thống triết học khác, không thừa nhận có đấng thần linh sáng tạo ra vạn vật. Theo Phật giáo, vũ trụ không phải là qui tâm độc nhất, đó là trường cộng sinh của vạn hữu. Phật giáo quan niệm mọi vật được tạo thành có ít nhất là hai nguyên nhân, những sáng hóa hay biến thành của các nguyên nhân đi trước nối tiếp trong liên tục thời gian từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

15

Phật giáo cho rằng chân lý là ở ngay đời sống thực tế hiện hữu. Chân lý có được từ hai khía cạnh: thực tế thể hiện ra bên ngoài và thực tế trừu tượng (chỉ có thể nắm bắt được qua nhiều lần quan sát và xét đoán trên thực tiễn). Các phương pháp nhận thức của Phật giáo dựa trên mối quan hệ giữa tâm và vật, quan hệ giữa chủ thể và khách thể, quan hệ giữa ý căn và quá trình phát triển của nhận thức. Bằng phương pháp quán lưu chuyển và hoàn diệt về Thập nhị nhân duyên, đức Phật đã chứng đạt trí tuệ sáng suốt, đoạn trừ tất cả mọi sự chướng ngại, thoát ly sinh tử khổ đau và đạt được Nhất thiết chủng trí. Phật giáo quan niệm rằng, mọi sự vật “có” và “không” đều nằm trong quy luật tương đối, tức nó “có” và có trong sự không tồn tại vĩnh viễn, mà có để rồi biến đổi, suy hoại trở về “không” và “không” lại là một hình thái cho sự bắt đầu “có” của sự vật mới. Để giải đáp những thắc mắc con người do đâu mà có? Có từ khi nào? Nó tùy thuộc vào hiện tượng diến tiến. Cái “hiện tượng diễn tiến tùy thuộc những điều kiện” ấy được nói rõ trong Thập nhị nhân duyên. Đây là bài pháp giảng về tiến trình của hiện tượng sinh tử luân hồi, nguồn gốc đau khổ và chỉ nhằm mục đích giúp con người thoát khỏi các phiền não của đời sống. Nội dung cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong những quan niệm về con người, về đời người, về giải thoát, Niết bàn.v.v.. Trong quan niệm về con người, trước hết Phật giáo đưa ra quan niệm về cấu tạo thân thể con người và bản chất của con người. Thể hiện quan điểm duy vật khi quan niệm con người được cấu tạo từ các yếu tố của thế giới vật chất, là một bộ phận của thế giới đó nên khi lý giải về số phận con người và

16

đời người, Phật giáo bắt đầu từ những quan điểm về “vô thường”, “vô ngã”, “duyên khởi”… Vô thường (anitya) là quan điểm nói về sự vận động, biến đổi phát triển không ngừng nghỉ của thế giới. Theo Phật giáo, thế giới là một dòng chuyển động liên tục. Vạn vật trong vũ trụ đều trải qua bốn thời kỳ sinh- trụ-dị -diệt hay thành -trụ -hoại- không. Trong bốn thời đó, thời kỳ trụ lại hết sức ngắn ngủi, chỉ bằng một sát na (chỉ bằng một nháy mắt), bởi vậy, sự tồn tại chỉ là tạm thời, trong dòng biến dịch đó, sự vật thoắt có, thoắt không, không đáng nương tựa: “Nên biết tất cả các hành là vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán. Phải cầu đạo giải thoát hầu thoát khỏi thế gian này” [9; 437]. Có hai loại vô thường: sát na vô thường là sự chuyển biến nhanh, trong thời gian ngắn, thậm chí chỉ là một chớp mắt, người ta chưa kịp nhận ra và cảm nhận thì nó đã biến mất. Nhất kỳ vô thường là sự chuyển biến trong từng giai đoạn, có quá trình ra đời, biến đổi, phát triển và diệt vong theo chu trình thành – trụ- hoại- không. Trong sự biến đổi đó, cái đã thành hình thực ra đang trong quá trình tan rã, cái chưa hiện hữu mới là cái sẽ đích thực tồn tại, vì thế, thế giới là sắc sắc không không: “không phải khi vạn vật sinh ra mới là sinh, khi vạn vật diệt, mới gọi là diệt, mà từng phút, từng giây, từng sát na, sự sống và sự chết liên tiếp xảy ra” [68; 75]. Vì thế gian là vô thường nên mọi vật đều vô tự tính (không có bản thể riêng) hay còn gọi là vô ngã (Anatman). Trong sự chuyển động liên tục của thế giới, sự tồn tại của con người chỉ là giả tạm theo triết lý nhân duyên, là sự tập hợp của ngũ uẩn. Đủ nhân duyên hợp lại thì thành, hết nhân duyên thì tan rã, hư hoại. Vậy sống, chết cũng chỉ là sự hợp tan của ngũ uẩn giống như cái nhà là sự giả hợp của tranh, tre, nứa, lá, bùn, đất…, cái xe là giả hợp của bánh, càng, gọng, nan hoa….tách từng bộ phận đó ra thì sự vật không còn là nó.

17

Từ quan niệm về “vô ngã”, “vô thường”, Phật giáo đưa ra quan niệm về cấu tạo thân thể con người dựa vào thuyết ngũ uẩn. Uẩn nghĩa là sự tụ tập, tích tập theo từng loại, cùng loại, cùng với tính chất giống nhau, nhóm lại một nhóm. Điểm thống nhất của con người và thế giới theo Phật giáo thực chất là không có tự ngã. Tất cả chỉ là sự tan hợp của ngũ uẩn. Thế giới là thế giới của duyên sinh nên ngũ uẩn đó chính là thập nhị nhân duyên ở mặt tự thể. Quan niệm này của Phật giáo bị chi phối bởi thuyết “duyên khởi” rất đậm nét. Duyên khởi (pratityyasamutpada) là sự ghép của hai từ “Pratĩt” nghĩa là “phụ thuộc vào” và “samutpãda” có nghĩa là “sự sinh khởi”. Nguyên lý này có nghĩa là sự hiện hữu của tất cả mọi sự vật trong vũ trụ chỉ là kết quả của sự tương tác giữa các nguyên nhân (nhân) và điều kiện (duyên), nó không chỉ đúng đối với từng sự vật mà là nguyên lý tồn tại chung của toàn bộ thực tại. Nhân là nguyên nhân, là năng lực tiềm ẩn của mọi sự hình thành, biến đổi. Duyên là những quan hệ, những điều kiện, những tác nhân giúp cho nhân phát khởi hiện hành. Vì thế: “khi phân tích sự vật trong nhận thức bằng cách chia chẻ chúng thành từng yếu tố cấu thành, bạn sẽ hiểu ra được rằng bất cứ sự vật nào cũng đều hình thành với sự phụ thuộc hoàn toàn vào các yếu tố khác. Do đó, không một sự vật nào có tự tính tồn tại riêng rẽ” [17;44]. Và chỉ khi thấu hiểu nguyên lý duyên khởi mới thấy được Pháp, với tư cách là các sự vật, hiện tượng phong phú trong đời sống hiện thực, các dạng tồn tại của thế giới. Từ nguyên lý duyên khởi như vậy nên khi lý giải về cấu tạo của con người và sự tồn tại của con người trong thế giới, Phật giáo cho rằng có năm yếu tố cấu tạo nên thân thể và tinh thần con người. Cái được gọi là chúng sinh gồm năm uẩn, ngoài năm uẩn ấy không có chúng sinh. Nếu bỏ năm uẩn ra sẽ không còn gì tồn tại, không có linh hồn hay bản ngã trong một uẩn riêng lẻ, không có linh hồn trong năm uẩn hợp lại, mà linh hồn cũng không có ngoài năm uẩn ấy. Năm uẩn này kết hợp với nhau thành một giả tướng, giả tướng ấy được gọi là con người. Năm uẩn đó chính là (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) trong đó “sắc” uẩn là yếu tố vật chất, “thụ, tưởng, hành, thức uẩn” là yếu tố

18

Nhân Sinh Quan Phật Giáo Và Những Vấn Nạn Của Xã Hội Đương Thời

Học viện Phật giáo Việt Nam tại chúng tôi Dẫn nhập

Khổ đau và hạnh phúc là hai phạm trù mà con người luôn cảm nghiệm trong đời sống hằng ngày. Dường như rằng khi đón nhận hạnh phúc, đa phần người ta ít suy nghĩ vì sao mình được hạnh phúc mà chỉ việc hưởng thụ. Tuy nhiên, khi đón nhận khổ đau con người lại lại luôn đắn đo, trăn trở lý do tại sao họ phải khổ đau, khổ đau đau ấy từ đâu… Từ đây, vô số lập luận được vin vào để làm giảm thiểu nổi khổ tâm lý để tồn tại. Theo giáo lý Phật giáo, mọi hình thái khổ đau (sự thật về khổ hay khổ đế) của con người từ xưa đến nay không phải thần thánh tạo, không phải do định mệnh, không do bất cứ ngoại lực nào chi phối, mà bắt nguồn từ lòng tham lam, khát ái của chính con người. Quan điểm này được đức Phật tuyên bố trong chân lý thứ hai ( tập đế hay nguyên nhân của khổ) của giáo lý Tứ Diệu Đế: nguyên nhân chính của khổ đau chính là lòng khát ái, tham dục của con người (Tanha). Theo chúng tôi, lời dạy này vẫn còn giá trị nguyên vẹn khi đối chiếu với khổ đau mà mỗi chúng ta đang phải cảm nghiệm. Hơn thế nữa, với những gì đã và đang xảy ra cho con người và thế giới tự nhiên, có lẽ cũng xứng đáng để chúng ta dành ít thời gian kiểm chứng những lời dạy này của đức Phật qua những vấn nạn mà nhân loại ngày nay đang đối mặt.

Như đã đề cập ở trên, trong cái nhìn Phật học, những vấn nạn hiện nay đều khởi sinh từ một nguyên nhân chính: đó lòng tham quá độ, thiếu lòng bác ái và vị tha của con người. Lý do cho lập luận trên có thể được hiểu như sau: Khủng hoảng niềm tin bởi vì phần lớn con người thời nay có khuynh hướng nặng về vật chất, hưởng thụ, mất lòng tin vào đời sống tâm linh, tôn giáo, không tin đạo lý nhân quả. Khủng hoảng đạo đức bởi lẽ ý tưởng thực dụng đang ăn mòn những giá trị nhân văn, cơn khát thỏa mãn cảm xúc đang đốt cháy những giá trị văn hóa tinh thần. Khủng hoảng môi trường vì thế giới thiên nhiên bị lạm dụng, khai thác một cách không thương tiếc để phục vụ cho cơn đói dục vọng, cảm xúc của con người. Khủng hoảng tài chánh bởi lẽ lòng tham đang biến con người trở thành nô lệ cho khát ái của chính mình; cụ thể tham nhũng, hối lộ, móc ngoặt, biến chất, bất chấp hậu quả đều là hệ quả của lòng tham vô đáy nầy. Phần lớn con người thời nay đang bị đắm chìm trong ý niệm ” sở hữu thay vì hiện hữ u”. Có thể thấy rằng những khuynh hướng sống lệch lạc trên là biểu hiện của cực đoan “hưởng thụ dục lạc”, vốn có nguồn gốc từ triết lý đoạn diệt. Như thế, nguyên nhân của mọi khủng hoảng hiện nay rõ ràng đều có gốc rễ từ lòng tham dục của con người và hậu quả của nó đã đưa nhân loại chìm sâu trong thế giới chiến tranh, nghèo đói, trộm cắp, bão lụt, thiên tai…

Theo quan điểm Phật giáo, ái dục hay lòng tham của con người bao gồm trong ba loại: (a) dục ái hay khát ái (kàmmatanhà); (b) hữu ái (bhavatanhà)và (c) vô hữu ái (vibhavatanhà). Dục ái hay khát ái (kammatanha) là lòng đam mê, sự thèm khát nhục dục. Lòng dục này là động cơ chính đưa đến việc con người tàn sát mọi loài sanh vật, khai thác quá độ thế giới tự nhiên để thỏa mãn cơn đói cảm xúc mà hệ quả là thiên tai, hạn hán, bảo lũ, sóng thần…mà cả thế giới đang phải đối mặt. Hữu ái (bhavatanha) là thèm khát sự hiện hữu, sống lâu, sự trở thành, sự nổi tiếng. Nó là nguồn gốc của mọi hình thức đấu tranh, chiến tranh để dành địa vị, danh vọng, của cải vật chất, tín đồ… Giết người, trộm cướp, tàn hại lẫn nhau… đều là sản phẩm của loại dục vọng này. Vô hữu ái ( vibhavatanhà) nghĩa là chán ghét sự hiện hữu, chán ghét cuộc sống, thèm khát sự tự hủy diệt. Rõ ràng, ba loại khát ái (tanha) này đã tạo nên một thế giới đầy khổ đau và biến động như hiện nay. Vì vậy, theo Phật giáo, nếu muốn có cuộc sống, an bình, hạnh phúc thật sự thì con người cần phải làm chủ dục vọng ( tanha), hạn chế lòng dục, kiềm chế lòng dục, và cuối cùng phải đoạn trừ lòng dục.

Những phẩm cần thiết để chuyển hóa vấn nạn

Chắc chắn rằng không có một nền văn hóa, văn minh nào trên thế giới này lại ca ngợi hay đồng thuận với những ý nghĩ, cử chỉ, hành động đưa đến tội lỗi, làm tổn thương đến cuộc sống của tự thân và tha nhân! Chắc chắn rằng không có dân tộc, tôn giáo nào lại khuyến khích, cổ vũ người ta nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh, tham lam, những tư tưởng tội lỗi, vô minh, vốn là gốc rễ tạo nên mọi hình thái khổ đau trên thế gian này! Nếu như thế, nhân loại ngày nay sẽ không có lý do gì để phản đối đạo Phật vì những lời dạy đầy trí tuệ và nhân ái như thế.

Những thay đổi về tư duy của xã hội đương thời

Thêm vào đó, nếu chúng ta quan sát cách mà nhân loại ngày nay phản ứng trước những cuộc khủng hoảng thì sẽ nhận thức được chân giá trị của giáo lý trên; bởi vì ai cũng biết rõ rằng chính sách kinh tế của tư bản chủ nghĩa là sản xuất và tiêu thụ; thành công của nền kinh tế thị trường là kích thích được sở thích, lòng dục của người tiêu dùng; mục tiêu của nó là làm mọi cách để tiêu thụ tất cả sản phẩm đã được sản xuất. Rõ ràng, học thuyết kinh tế này đã đạt được mọi chỉ tiêu mà nó đề ra. Trong một thời gian dài, nhân loại đã xem nó như là cứu cánh của cuộc sống; người ta như ngất ngây với những tiện nghi cuộc sống do nó đem lại và trở thành kẻ miên hành trong thiên đường hưởng thụ và tiêu thụ. Nhưng, sau một thời gian tận dụng, khai thác mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, từ trên trời đến dưới biển, để phục vụ cho những cảm xúc, dục vọng vô đáy của chính mình, con người, cụ thể là những người chủ trương lối sống này, đã làm cho toàn bộ hệ sinh thái trên hành tinh này bị mất cân bằng. Từ đây, những thảm cảnh mà nhân loại khắp thế giới đang gánh chịu khắp nơi như mưa không thuận, gió không hoà, bão táp, sóng thần, động đất, băng tan, là những hậu quả tất yếu của việc làm thiếu cân nhắc. Hiện tượng lũ lụt, sóng thần, thiên tai, hạn hán… mà con người thời nay phải gánh chịu từng ngày, từng giờ có thể được xem như là một sự tự vệ của thiên nhiên sau khi cơ thể của nó bị xâm phạm một cách thái quá. Nói theo ngôn ngữ của Arnold. J. Toynbee và D. Ikeda ” Dường như không có gì để nghi ngờ rằng quyền lực kiểm soát môi trường của con người đã đạt tới một mức độ, mà ở đó quyền lực này sẽ dẫn đến sự tự diệt vong nếu như người ta tiếp tục sử dụng nó để phục vụ tham vọng của mình… “

Rất may, sau một thời gian miên hành trong thế giới hưởng thụ, nhân loại cũng đã tỉnh thức và nhận ra cái thảm họa đang cận kề. Từ đây, người ta bắt đầu nỗ lực kiếm tìm giải pháp để cứu vãn tình thế. Những hoạt động của các tổ chức như “Hòa Bình Xanh” (Green Peace), chống phát triển vũ khí hạt nhân, chống ô nhiễm môi trường, chống chặt cây phá rừng, v.v… là những phong trào tiêu biểu. Đặc biệt, trong tháng 03 năm 2009, để đối phó với sự khủng hoảng năng lượng, nhằm tránh sự cạn kiệt tài nguyên chất đốt, đồng thời nhằm hạn chế đưa vào không gian các chất phế thải độc hại (như khí CO2) làm ảnh hưởng đến tầng khí Ozon, hiệu ứng nhà kính và những thảm họa khác, quỹ Quốc Tế Bảo Vệ Thiên Nhiên (WWF) đã kêu gọi con người khắp thế giới hưởng ứng “GIỜ TRÁI ĐẤT” (Earth Hour). Nội dung của nó là kêu gọi mọi người tự nguyện không dùng đèn điện trong vòng một giờ (từ 20giờ 30 đến 21giờ 30- tính theo giờ địa phương). Những người tổ chức hy vọng rằng người dân của khoảng 1.000 thành phố sẽ tham gia “Ngày Trái Đất”; tuy nhiên, kết quả của nó lại vượt quá sự mong chờ. Theo kết quả thống kê, người dân của hơn 4.000 thành phố của trên 88 quốc gia đã đồng thanh hưởng ứng việc làm đầy ý nghĩa này trong năm 2009. Cần nói thêm rằng vào tháng 03 năm 2007, khi phong trào “Giờ Trái Đất” được đề xướng, chỉ một thành phố duy nhất đáp ứng lời kêu gọi này: đó là thành phố Sydney của Úc; nhưng trong những năm gần đây, ngày lễ “Giờ trái đầy” này đã được con người trên khắp hành tinh này hưởng ứng một cách tự nguyện và tích cực. Hầu như không có đất nước nào trên thế giới không tham gia hoạt động đầy ý nghĩa và trí tuệ này. Hoặc thử quan sát cách mà người dân các nước có nền công nghệ phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Đức, Ý, v.v… phản ứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, ta sẽ nhận ra được những chuyển biến trong lối tư duy và cách hành xử của họ. Trước thời khủng hoảng, hưởng ứng phương châm của nền kinh tế thị trường là ” sản xuất và tiêu thụ“, người ta mua sắm bất cứ cái gì họ thích, luôn đổi mới mọi tiện nghi trong cuộc sống, chạy theo thời mốt, từ chuyện quần áo, trang điểm… cho đến xe hơi, nhà ở. Lý do cho lối sống này là người ta muốn khoe khoang, tự hào sự giàu có, sang trọng, đẳng cấp của mình ( hữu ái-bhavatanha) với thế giới còn lại. Nói theo ngôn ngữ của nhà phân tâm học người Đức, Erich Fromm, đặc điểm đời sống của nền kinh tế thị trường là trao đổi và tiếp nhận, là đổi chác và tiêu thụ; tất cả mọi thứ, cả tinh thần lẫn vật chất, tôn giáo, tâm linh, đều trở thành đối tượng để đổi chác và tiêu thụ, thậm chí chính con người cũng trở thành những món hàng để mua bán trong lãnh vực kinh doanh, thương mại.

Nhưng trong thời gian gần đây, tư duy con người đang có chiều hướng thay đổi. Người ta chỉ sắm những thứ người ta cần chứ không mua những thứ người ta thích; người ta chỉ mua những phương tiện giao thông tiết kiệm nhiên liệu và thân thiện với môi trường, mà không mua những chiếc xe đắt tiền với dáng vẻ bóng lộn, sang trọng bề ngoài… Sự khủng hoảng của ngành xe hơi, sự chao đảo của các ngành thời trang cao cấp, xa xỉ đã nói lên quan niệm sống mới của người dân các xứ sở này. Có thể nói rằng, nguyên nhân của nó, một mặt, là do sự suy thoái kinh tế đã dẫn đến thái độ sống có vẻ tiêu cực này; nhưng mặt khác, vì nhận chân được mối hiểm họa đang đe dọa toàn bộ sự sống trên quả đất này đã khiến người ta hành xử một cách tỉnh táo hơn. Nói khác đi, với sự thay đổi này, nhân loại đã và đang nỗ lực để kiềm chế lòng khao khát, sở thích, dục vọng của mình, vốn là những nguyên nhân tạo ra tất cả sự khủng hoảng hiện nay. Đây chính là con đường để chấm dứt khổ đau mà đức Phật đã đề cập trong chân lý thứ ba ( sự diệt khổ hay diệt Đế) của bài pháp Tứ Diệu Đế: ” Ái diệt là Niết Bàn “.

Khuynh hướng sống mới và giáo lý Trung Đạo của Phật giáo

Chắc chắn rằng khi người ta từ bỏ một thói quen, một tập quán vốn đã trở thành tư duy và lối sống của họ, người ấy đã tìm thấy một lối sống khác có lợi ích hơn, đã đem đến an lạc và hạnh phúc cho họ; bởi vì, đối với con người, mục đích của cuộc sống không phải là cái hay, cái đẹp mà là hạnh phúc.Trong một chừng mực nào đó, hạnh phúc được hiểu như là sự hiện hữu các cảm giác thoải mái và vắng mặt các cảm giác khổ đau. Thế nhưng, lối sống thực dụng, hưởng thụ vật chất để thỏa mãn cảm giác và cảm xúc mà con người thực nghiệm và từng trải bấy lâu nay dường như chưa bao giờ làm cho họ cảm thấy vừa đủ, vì trong lãnh vực khoái cảm vật chất, cảm giác khoái cảm của nó càng cao thì thời gian càng ngắn; cường độ khoái cảm trong lãnh vực vật chất luôn tỷ lệ nghịch với thời gian. Rõ ràng, khi lòng dục không được thỏa mãn, khát vọng ấy sẽ thiêu đốt và thúc dục người ta lùng sục, tìm kiếm những cảm giác mới; tất nhiên, cường độ của chúng phải mạnh hơn các cảm giác trước. Đây là động cơ chính cho các ngành công nghiệp ra đời, sản xuất các phương tiện giải trí về vật chất, thậm chí cả những loại thuốc kích thích làm tổn thương đến sức khỏe và đời sống con người như thuốc lắc, thuốc phiện, cocaine, v.v… với mục đích làm thỏa mãn nỗi thèm khát cảm giác, cảm xúc của con người. Nghịch lý thay, càng hưởng thụ dục lạc người ta càng cảm thấy thèm khát vì sự thiếu thốn về nó và trở thành nô lệ cho chính khát ái của mình; tình huống này có thể ví như người đang khát nước mà lại vốc nước biển để uống và dĩ nhiên, người ta sẽ không bao giờ cảm thấy đã khát!

Nghiêm trọng hơn, trạng thái không thỏa mãn với khát ái, dục vọng (kammatanha) của bản thân khiến cuộc sống người ta rơi vào khủng hoảng với tâm lý luôn luôn trống trải và thiếu thốn. Người ta nhàm chán cảm xúc, nhàm chán bản thân, nhàm chán sự sống. Hệ quả của nếp sống trên là hành vi thác loạn, rượu bia say sưa, quậy phá nổi loạn và cuối cùng dẫn đến tự tử. Đây là biểu hiện của loại khát ái thứ ba ( tức vô hữu ái-vibhavatanha), mà bài tham luận này đã nêu ở trên. Căn cứ theo dữ liệu của Liên Hợp Quốc thống kê hằng năm, quốc gia có kỷ lục tệ hại nhất về cả việc giết người, tự tử, rượu chè là Hoa Kỳ, Đan Mạch, Tân Tây Lan và Thụy Điển. Tuy nhiên, khuynh hướng sống này không những đang bùng nổ ở các nước châu Âu, mà cũng đang diễn tiến một cách đáng lo ngại tại châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, v.v….

Như thế, do nhận chân được những sai lầm trong cái thấy và cách suy nghĩ (đạo Phật gọi là tà kiến và tà tư duy), dẫn đến sự khủng hoảng trong mọi khía cạnh của đời sống, người ta mới có những bước chuyển biến và thay đổi sâu sắc trong lối tư duy và cách ứng xử của bản thân. Lối sống mà phần lớn con người thời nay chọn lựa chú trọng đến bình diện tinh thần. Thay vì lao mình vào trong những trò chơi nguy hiểm để tìm kiếm lạc thú, thay vì chạy đông chạy tây để tìm kiếm những phương tiện giải trí mới lạ, những loại thức ăn, thức uống, thuốc gây ra cảm giác kích thích cao độ, nhiều người lại thích đắm mình trong những không gian yên tịnh, môi trường sống thiên nhiên để cảm nghiệm sự thanh khiết của trời đất với một tâm hồn thanh thản. Nếu như ngày hôm qua người ta thích đến vũ trường, tụ điểm giải trí, phòng trà, quán nhậu để kiếm tìm cảm giác, cảm xúc nhằm lấp đầy sự trống trải của nội tâm trong thế giới âm thanh màu sắc đinh tai nhức óc, thì hôm nay phần lớn lại chọn mái ấm gia đình, bà con thân hữu để tận hưởng những giờ phút nghỉ ngơi quý báu trong tình cảm thân thương, trân quý của người thân sau những giờ phút lao động mệt nhọc. Nếu thời gian trước đây người ta chỉ nghĩ đến cuộc sống cá nhân, lợi ích cá nhân, tìm cách để thỏa mãn mọi cảm xúc riêng tư, thì ngày nay nhân loại đang mở rộng lòng mình để chăm sóc đến cuộc sống tha nhân, hạnh phúc của tha nhân, từ cuộc sống của các loài hữu tình cho đến sự sống của thế giới tự nhiên.

Có thể nói rằng, nghệ thuật sống này đã chuyển tải đầy đủ tinh thần từ bi (metta-karuna) và trí tuệ (panna) của đạo Phật: Vì nhờ có trí tuệ mà người ta nhận biết đúng sai, lợi hại; nhờ từ bi mà người ta biết thương người và thương chính mình, thương cỏ cây, vạn vật. Dĩ nhiên, lối sống này đã và đang đưa đến nhiều lợi ích thiết thực cho người thực hành nó; vì sự chọn lựa này không chỉ giúp người ta tiết kiệm được tiền bạc, tài sản, bảo trọng được sức khỏe, góp phần vào việc giữ gìn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái, mà con đường sống hướng thượng này còn mang lại nhiều niềm hạnh phúc cho người thực hiện nó. Đối với tất cả mọi người, vấn đề lý tưởng tối cao và ý nghĩa của cuộc sống cốt yếu là vấn đề hạnh phúc. Tất nhiên, hạnh phúc mà lối sống này đề cao là hạnh phúc tinh thần, vì theo Phật giáo, cảm thọ (hay cảm giác) liên hệ đến vật chất chỉ có giá trị bằng một phần mười sáu (1/16) so với cảm thọ (hay cảm giác), hạnh phúc do lòng từ đem lại. Hơn thế nữa, theo kết quả nghiên cứu, yếu tố thời gian trong lãnh vực hạnh phúc tinh thần (hay tâm linh) có một vai trò khác biệt nếu so sánh với lãnh vực khóai cảm vật chất; cường độ cảm xúc tâm linh thì tỷ lệ thuận với thời gian; cảm xúc khóai cảm càng cao thì thời gian tồn tại của nó được kéo dài ra. Đây là lý do tại sao càng ngày thế giới Âu Mỹ lại càng cảm thấy thích thú và bị cuốn hút bởi triết lý sống của Phật giáo, do vì sau khi ứng dụng lời dạy của đức Phật vào cuộc sống, những con người đầy kinh nghiệm cảm xúc này đã thực sự cảm giác được giá trị của lối sống đơn giản nhưng đầy hiệu quả này, như lời phát biểu giáo sư Rhys Davids sau đây: ” Dầu là Phật tử hay không phải Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới, và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo nào có cái gì cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát Chánh Đạo của đức Phật. Tôi chỉ còn có một việc làm là thu xếp nếp sống của tôi sao cho phù hợp với con đường ấy “.

Do vậy, có thể nói rằng nghệ thuật sống này sẽ là một trong những chọn lựa khôn ngoan cho những ai đang bối rối trước cơn lốc khủng hoảng này, bởi vì hiệu quả mà nó đem lại chuyên chở đầy đủ những chất liệu cần thiết mà hầu hết mọi người đang mong ước và kiếm tìm. Với việc ứng dụng chân lý thứ tư ( con đường đưa đến sự diệt khổ hay đạo đế), gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, vào trong đời sống hằng ngày, hành giả sẽ lập tức cảm nhận được sự thanh thản, nhẹ nhàng, an tịnh, hạnh phúc luôn hiện diện trong từng bước đi, từng hơi thở của tự thân. Thêm vào đó, nghệ thuật sống này của Phật giáo còn có khả năng giúp con người tỉnh táo để từng bước giải quyết được mọi sự rối ren, khủng hoảng trong hiện tại, đồng thời thiết lập lại mọi giá trị sống cho cả thế giới con người lẫn thế giới tự nhiên.

Tài liệu tham khảo

Trung Bộ Kinh tập III, Đế Phân Biệt Tâm Kinh

Tăng Chi Bộ Kinh tập IV

A.J Toynbee and D. Ikeda, Before It Is Too Late

Fromm, Psychoanalysis and Zen Buddhism

Fromm, The Art of Living, Harper, Collins Publishers

Will Durant, The Story of Philosophy

Trover Ling, Buddha, Max and God

Naranda, Đức Phật và Phật Pháp

[2] Tuy nhiên, những người nặng về duy tâm thi cho rằng đó là ân điển của thánh thần, thượng đế, đấng sáng thế….

[3] Trung Bộ Kinh III, Đế Phân Biệt Tâm Kinh

[4] Trích Thông Điệp 2018 của Antonio Gutteres, Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc ” … Buddhists and non-Buddhists alike can reflect on his life and draw inspiration from his teachings. Born a prince, he rose above self-interest and went into the world to help overcome human suffering. His teachings are based on the principle that compassion is central to enlightenment. And as such, his message of service to others is more relevant than ever. The world faces numerous challenges, from conflict to climate change, from prejudice to growing inequality. We see people turning inwards. And we see a crisis of solidarity. The Buddha’s teachings can inspire us to become global citizens.”

[5] A.J. Toynbee and D. Ikeda, Before It is Too Late, Tokyo-Newyord -London, 1978..

[6] E. Fromm, Psychoanalysis and Zen Buddhism, tr. 78-79

[7] Theo Phật giáo, cực đoan thứ hai là triết lý thường hằng. Hai cực đoan đức Phật luôn khuyên mọi người cần phải tránh xa.

[8] Kinh Tương Ưng V, Trung Bộ III, Đế Phân Biệt Tâm

[9] Kinh Trung Bộ III, Đế Phân Biệt Tâm Kinh

[10] Kinh Tương Ưng Bộ

[11] Trích Thông Điệp 2018 của Antonio Gutteres, Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc … The Buddhist world view teaches us to see ourselves as a part of this world and not as its masters. And Buddhism’s emphasis on non-violence stands as a powerful call for peace. From peace, to climate change, to human rights, we see how much the teachings of the Buddha are so relevant in the work of the United Nations today. Now more than ever, Buddhist communities and all of us must give every day meaning to the Buddha’s message of tolerance, empathy and humanism.

We must resist those who seek to twist a call for love into a cry for hate.”

[12] A.J. Toynbee and D. Ikeda, Man Himself Must Choose,tr. 43

[13] Erich Fromm, The Art of Living.

[14] Trung Bộ Kinh III, Đế Phân Biệt Tâm Kinh

[15] Will Durant, The Story of Philosophy.

[17] G. Banzelade, Đạo Đức Học.

[18] Trover Ling, Buddha, Max and God

[19] G. Banzelade, Đạo Đức Học.

[20] Đại Tạng Kinh Việt Nam, Kinh Tăng Chi Bộ, Tập IV

[21] G. Banzelade, Đạo Đức Học.

[22] Nàrada Thera, The Buddha and His Teaching

Luận Văn Tiểu Luận Phân Tích Nhân Sinh Quan Triết Học Phật Giáo Và Liên Hệ Với Bản Thân

Để phân tích nhân sinh quan triết học phật giáo, chúng ta cần phải biết lịch sử hình thành và phát triển của triết học Phật giáo. Trường phái Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ V trước Công nguyên do Xítđácta Gôtama (563-483 Trước Công nguyên) sáng lập và nhanh chóng được truyền bá ở miền Bắc Ấn Độ. Năm 29 tuổi Xítđácta Gôtama xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Nhưng qua 7 năm theo các bậc chân tu khổ hạnh của truyền thống tu luyện Ấn Độ mà người vẫn chưa tìm ra ch ân lý. Cuối cùng người lang thang đến khu rừng thiêng Uravela miền Bắc Ấn Độ và ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm người phát hiện ra bản tính vô ngã vô thường của thế giới, tiếp tục ngồi gốc cây bồ đề them 49 ngày nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau. Người cho rằng mình đã tìm được con đường cứu vớt chúng s inh. Từ đó người ta gọi ông là Phật, nghĩa là người đã giác ngộ, thấu hiểu chân lý. Giáo đoàn phật giáo được ông xây dựng và đi rao giảng giáo lý của mình. Những nội dung cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của Phật giáo là một hệ thống rất đồ s ộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh tạng (ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng, nói vế thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca. Vậy nhân sinh quan là gì? Nhân sinh quan là cách nhìn nhận đời sống, công tác, xã hội, lịch sử, dựa theo lợi ích của giai cấp mình. Nhân s inh quan cách mạng. Nhân s inh quan của giai cấp công nhân đấu tranh để cải tạo xã hội. Nhân sinh quan cộng s ản. Nhân sinh quan của nhữ ng người cộng s ản đấu tranh để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, đầy lòng tin tưởng ở tư ơng lai tốt đẹp củ a loài người và sẵn sàng hi sinh chiến đấu cho tương lai ấy. Nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy mang tính nhân bản sâu sắc nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan, bi quan yếm thế, không tưởng về đời sống Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật duyên khởi đi đến nhận thứ c là vô thủy, vô chung, từ nhữ ng thuyết vô thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi: – Con người là gì ? Từ đâu mà s inh ra? Chết rồi đi đâu ? Vị trí của con người trong Đạo Phật. – Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ. -Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là gì ? Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì đây là giáo lý kinh điển củ a Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên

TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC

TIN KHUYẾN MÃI

Thư viện tài liệu Phong Phú

Hỗ trợ download nhiều Website

Nạp thẻ & Download nhanh

Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay

Nhận nhiều khuyến mãi

Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay

NẠP THẺ NGAY

DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN

Phật Giáo Và Đạo Đức Sinh Học Hiện Đại

Ngày nay, khi khoa học phát triển, người ta đã tìm thấy sự gần gũi giữa Phật giáo và khoa học. Nhiều bài viết nghiên cứu về sự tương đồng giữa và khoa học ngày càng nhiều. Khi Phật giáo tiếp tục lan rộng ở các nước phương Tây, sự tiếp cận Phật giáo với khoa học hiện đại ngày càng được nghiên cứu và ứng dụng trong việc lý giải một số vấn đề về nền tảng đạo đức cơ bản. Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ, một đất nước thuộc truyền thống văn hóa châu Á. Do vậy, người ta thường tò mò về cách thức truyền thống châu Á cổ đại này sẽ đáp ứng như thế nào đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức đang đối mặt với thế giới hiện đại. Đạo đức sinh học Phật giáo là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật ở phương Tây không phải là mới mẻ, nhưng trong những năm gần đây cũng đã có sự gia tăng đáng kể ở các nước châu Á. Các trường phái Phật giáo có truyền thống phong phú về tư tưởng đạo đức sinh học. Nhà nghiên cứu đạo đức Phật giáo phải đối mặt bây giờ là phải tạo ra một sự thích ứng đối với vấn đề mới, phù hợp với tinh thần của các giá trị Phật giáo và phù hợp với truyền thống kinh điển phong phú của nó. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng vì có rất ít bài kinh và sự nghiên cứu bài bản trong lĩnh vực mới mẻ này. Bởi lẽ, nền văn học tiên phong nhất của Phật giáo đã hơn 2600 năm nay, và nhiều vấn đề chúng ta phải đối mặt ngày nay là kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội hiện đại mà gần như không thể tưởng tượng được trong thời cổ đại. Trong việc xây dựng cây cầu từ cũ đến mới, có rất nhiều vấn đề khập khiễng và bất đồng có thể xảy ra. Và còn quá sớm để nói đến những giải pháp dứt khoát. Đồng thời, nó trở nên thích hợp để điều tra làm thế nào những vấn đề trong thực tế giữa các Phật tử, những người hoạt động tự nhiên trong một thế giới mà vai trò của tôn giáo ảnh hưởng lớn đến hành vi của họ.

Chú thích

[1] Hottois g., Parizeau m.h., Les mots de la bioéthique. Un vocabulaire encyclopédique, De Boeck-Université, coll “Sciences Ethiques Sociétés”, 1993

[2] Trường-bộ-kinh, Kinh Tướng số 30.

[3] Trường-bộ-kinh, Kinh Sa Môn quả.

[4] Trung-bộ- kinh, kinh Chánh kiến.

[5] Ibid,

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhân Sinh Quan Phật Giáo Trong Tứ Diệu Đế trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!