Xu Hướng 6/2023 # Nguyên Lý Về Sự Phát Triển Và Ý Nghĩa Phương Pháp Luận # Top 11 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Nguyên Lý Về Sự Phát Triển Và Ý Nghĩa Phương Pháp Luận # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Nguyên Lý Về Sự Phát Triển Và Ý Nghĩa Phương Pháp Luận được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hiểu một cách chung nhất, “nguyên lý” là những tư tưởng ban đầu, xuất phát, có vai trò định hướng, chỉ đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp theo.

– Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

– Ta cần phân biệt khái niệm ” vận động” và khái niệm ” phát triển “:

+ Vận động là mọi biến đổi nói chung. Khái niệm này có ngoại diên lớn hơn khái niệm phát triển.

+ Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật. Phát triển gắn liền với sự ra đời của cái mới này.

Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cũng như chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Như thế, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động.

– Quan điểm biện chứng thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của quá trình phát triển. Sự phát triển có thể diễn ra theo con đường quanh co, phức tạp, trong đó không loại trừ bước thụt lùi tương đối.

– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.

Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.

Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.

– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.

Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.

Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…) mà không có sự biến đổi về chất.

Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.

Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.

Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.

Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.

Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.

Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.

Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…

Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng lớn của con người.

Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.

III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển

Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:

– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.

– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.

Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.

– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.

Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.

Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.

Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.

Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.

– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.

Phương Pháp Luận Tiếp Cận Về Sự Phát Triển Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

Phương pháp luận tiếp cận về sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa

1. Phương pháp luận tiếp cận mục tiêu và “con đường” quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

1) Quan điểm của Đảng ta về phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: xây dựng một đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quản lý có hiệu lực – hiệu quả của Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, nhân dân làm chủ; với một nền tảng kinh tế vững mạnh, một đời sống văn hoá tinh thần phong phú, nhân văn, vừa hiện đại vừa giàu bản sắc dân tộc.

Đối với một đất nước phát triển theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa (trong thời kỳ quá độ), chính bản chất của chế độ chính trị – xã hội, của nền tảng tư tưởng – đạo đức của xã hội, của hệ giá trị xã hội – hệ giá trị con người, của các mục tiêu phát triển xã hội như nêu trên được thể hiện ở đường lối phát triển đất nước và được chế định ở Hiến pháp, ở hệ thống pháp luật, ở hệ thống cơ chế chính sách, ở phương thức quản lý được xác lập phù hợp và hiệu quả, ở các chuẩn mực con người và công dân…là tiền đề, là điều kiện, là cơ chế bảo đảm cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó mọi thành phần kinh tế, mọi lực lượng xã hội, mọi tổ chức xã hội và mọi thành viên xã hội hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, thực hiện sáng tạo, có hiệu quả các cơ chế chính sách, tạo dựng nên các giá trị tốt đẹp của dân tộc, của con người, của xã hội, đóng góp cho sự phát triển đất nước, mang lại lợi ích cho mỗi con người, mỗi gia đình, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thì đó là thực chất góp phần đảm bảo cho đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức này nói lên “ai, lực lượng nào” góp phần tạo nên động lực, sức mạnh và hiệu quả thực tế để đất nước phát triển theo những mục tiêu và những giá trị tốt đẹp. Một doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ liên tục, không đảm bảo được đời sống cho người lao động, không đóng góp được cho Nhà nước và xã hội thì khó có thể nói rằng doanh nghiệp nhà nước này góp phần tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển theo định hướng XHCN. Ngược lại, một doanh nghiệp ngoài nhà nước phát triển có hiệu quả, thực hiện tốt pháp luật của nhà nước, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, thực hiện tốt các chính sách xã hội, đảm bảo tốt đời sống của người lao động, như thế có góp phần vào sự phát triển theo định hướng XHCN của đất nước không ?!; Hàng chục triệu hộ nông dân không sản xuất theo mô hình HTX – Tập thể hóa như trước đây, nhưng đã và đang tạo nên những thành tựu lớn lao trong nông nghiệp – một cứu cánh của đất nước, chắc chắn là đã có đóng góp vô cùng quan trọng trong định hướng phát triển XHCN của đất nước. Trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội cũng có thể nêu lên các ví dụ tương tự. Vì thế tính định hướng XHCN phải được quy tụ ở mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó cũng là ngọn cờ Đại đoàn kết Dân tộc để xây dựng – bảo vệ – và phát triển Đất nước theo định hướng XHCN.

2) Cần làm rõ hơn mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, cơ chế thị trường với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong một thời gian dài trước đây, nước ta (cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác) với quan niệm chủ nghĩa xã hội sai lệch, giáo điều, đã có nhận thức không đúng về bản chất của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và mối quan hệ với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã cho rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm đặc trưng bản chất của chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường là phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; kinh tế thị trường không dung hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Cơ chế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa phải là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp cao độ.

Quá trình thực hiện đường lối Đổi mới đã mang lại cho chúng ta những nhận thức mới cả về lý luận và thực tiễn về bản chất kinh tế thị trường và mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ tổng kết lý luận và thực tiễn Đảng ta đã đề ra đường lối Đổi mới đất nước, từng bước tiếp cận với cơ chế thị trường, với sản xuất hàng hoá. Đến Đại hội VIII, Đảng ta đã nêu rõ: ” Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”[1]. Đến Đại hội IX, Đảng ta đã tiến lên một bước cao hơn, khẳng định: “Mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[2], và nêu rõ những đặc trưng cụ thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ hơn bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng tự nó không đồng nghĩa với tư bản chủ nghĩa”. Chúng ta cần phải sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới góc độ thể chế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “Đó là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[3]. Có thể nói rằng, từ chỗ coi kinh tế thị trường là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản, không dung hợp với chủ nghĩa xã hội, tiến lên coi kinh tế thị trường không phải là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể vận dụng và phát triển kinh tế thị trường, cao hơn nữa coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là cuộc một bước ngoặt có tính lịch sử cả về lý luận và thực tiễn của Đảng ta, của đất nước ta. Những quan điểm cơ bản của Đảng ta thể hiện một số nội dung quan trọng sau đây:

+ Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm bản chất – đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể và cần thiết vận dụng và phát triển kinh tế thị trường.

+ Kinh tế thị trường là một trình độ phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, là trình độ phát triển của xã hội.

+ Kinh tế thị trường có những mặt mạnh, tích cực; đồng thời có những mặt hạn chế, tác động tiêu cực tới quá trình phát triển; các mặt tích cực và tiêu cực tác động khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau; trong kinh tế khác với trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội; trong giáo dục khác với trong trong khoa học công nghệ, trong y tế… Việc vận dụng đúng đắn, có hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng của mỗi nhà nước.

+ Mỗi nước, mỗi thể chế kinh tế – chính trị – xã hội, tuỳ theo điều kiện cụ thể lại vận dụng và phát triển kinh tế thị trường với những nội dung, hình thức, qui mô, cấp độ khác nhau.

+ Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải chỉ thể hiện ở phương diện chính sách xã hội, lại càng không phải chỉ là sự bao cấp xã hội, mà tính định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện đồng bộ ở ba phương diện: xây dựng cơ chế phát triển để giải phóng triệt để sức sản xuất nhiều thành phần; hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, dân giàu, nước mạnh; thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển con người, các chính sách xã hội, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Như vậy, nếu không đảm bảo được sự phát triển mạnh mẽ để mang lại được lợi ích mọi mặt thiết thực ngày càng cao cho nhân dân, để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn như nêu trên, thì không thể nói là tính định hướng xã hội chủ nghĩa được đảm bảo và phát triển cao hơn, đầy đủ hơn.

+ Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là mối quan hệ “kết hợp”, vận dụng đơn giản, chủ quan duy ý chí, “muốn thì làm, không muốn thì thôi”. Ở đây là mối quan hệ hữu cơ tạo nên cơ chế mới với bản chất và động lực mới cho sự phát triển khách quan theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, những mặt mạnh, những mặt tích cực của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường có tác động cùng chiều, làm tăng thêm sức mạnh phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, những mặt bất cập, hạn chế của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường lại có tác động tiêu cực, làm yếu đi sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy một nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phải hoàn thiện cơ chế phát huy cao những mặt mạnh, tích cực, đồng thời hạn chế, triệt tiêu những tác động tiêu cực, phù hợp và hiệu quả đối vởi từng lĩnh vực .

3) Trong định hướng chung về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta nêu rõ phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế phát triển không chỉ về lĩnh vực kinh tế, mà cả cơ chế phát triển các lĩnh vực dịch vụ tiếp cận với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh vực. Đối với các lĩnh vực dịch vụ, một mặt phải quán triệt những nguyên tắc chung, định hướng chung, đồng thời cần phải thấu suốt những đặc điểm riêng của từng lĩnh vực (như giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học – công nghệ …)để xây dựng cơ chế phù hợp góp phần đảm bảo phát triển các lĩnh vực này theo đúng định hướng, mục tiêu và hiệu quả. Nhưng trên thực tế về nhận thức và xây dựng thể chế phát triển các lĩnh vực này còn rất nhiều bất cập và yếu kém, chậm hơn so với lĩnh vực kinh tế.

2. Thực tiễn xác định mục tiêu và “con đường” phát triển định hướng XHCN

           1) Về mục tiêu

Khi xác định mục tiêu phát triển xã hội, thường phải xem xét các phương diện sau: lý luận và thực tiễn; lý tưởng và hiện thực. Khi nói nhân loại sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội, thì xét về mặt lý luận và lý tưởng, mục tiêu chung của nhân loại phải là những giá trị tốt đẹp chung, phản ánh kết quả quá trình phát triển khách quan của nhân loại, nó mang tính phổi biến và khái quát. Tuy nhiên, những giá trị tốt đẹp chung đó được thể hiện và tồn tại thông qua các giá trị cụ thể của mỗi quốc gia – dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, với những cấp độ và hình thức khác nhau. Vì thế mục tiêu của mỗi nước đi lên CNXH bao giờ cũng phải mang các giá trị chung của nhân loại trong sự hài hoà với các giá trị tốt đẹp của mỗi dân tộc. Những giá trị tốt đẹp chung của nhân loại như tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, hạnh phúc… được thể hiện cụ thể với những sắc thái và hình thức khác nhau ở mỗi dân tộc. Đồng thời, bản thân những giá trị tốt đẹp hiện thực của nhân loại cũng như của mỗi dân tộc không phải là bất biến, là một quá trình phát triển ngày càng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn trong sự đấu tranh với những cái cũ, lạc hậu.

Chính vì vậy, khi xác định mục tiêu của quá trình phát triển định hướng XHCN cần phân biệt rõ phương diện lý luận – lý tưởng của mục tiêu và phương diện thực tiễn – hiện thực của mục tiêu. Tính thực tiễn – hiện thực đòi hỏi phải xem xét tính khả thi, tính giai đoạn, tính trung gian quá độ, tính hai mặt của nội dung các mục tiêu (tức không chỉ đề cập đến các mặt, các giá trị tích cực, tốt đẹp cần và có thể đạt được, mà còn phải xem xét đầy đủ những mặt không thuận, thậm chí tiêu cực có thể nảy sinh, thí dụ những chính sách bao cấp qua phúc lợi xã hội quá cao cũng có thể có những mặt trái của nó trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển). Như vậy, các mục tiêu mang tính lý tưởng cao chỉ có thể đạt tới thông qua quá trình thực hiện được một loạt các mục tiêu hiện thực cụ thể, trung gian, quá độ.

Cách tiếp cận nêu trên đã được phản ánh trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng khi xác định mục tiêu xây dựng đất nước trong mỗi chặng đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với các cấp độ sau:

– Cấp độ nhân loại, Cương lĩnh nêu rõ: “Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[4]. Điều này nói lên những mục tiêu, những giá trị tốt đẹp cơ bản, cốt lõi chung của nhân loại sẽ đạt tới trong quá trình đấu tranh – phát triển lâu dài.

– Mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[5]. Có thể coi đây là mục tiêu lý tưởng vừa mang tính nhân loại vừa mang giá trị dân tộc trong điều kiện cụ thể của Việt Nam đi lên CNXH.

Nhưng mục tiêu nêu trên cũng mới là mục tiêu khái quát những giá trị cơ bản nhất, cốt lõi nhất mà đất nước ta, nhân dân ta sẽ phải phấn đấu để đạt được sau thời kỳ quá độ còn khá dài. Trong mỗi chặng đường của thời kỳ quá độ, các nội dung của mục tiêu tổng quát đó cần phải được cụ thể hoá cho phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của đất nước. Chính vì vậy, Văn kiện của Đại hội XI đã nêu rõ việc thực hiện các mục tiêu này là “một qúa trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biểu đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển”[6]. Như vậy việc xác định các mục tiêu và giải pháp cho mỗi chặng đường phải rất khoa học và thực tiễn, tránh rơi vào chủ quan, giáo điều như đã từng diễn ra trong lịch sử.

– Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ đã được nêu trong Cương lĩnh của Đảng là: “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”[7]. Vì thời kỳ quá độ là một khoảng thời gian khá dài, do đó thiếu những tiền đề khách quan và chủ quan để xác định thật chi tiết mục tiêu cụ thể khi kết thúc thời kỳ quá độ, nên Cương lĩnh đã nêu lên mục tiêu tổng quát như trên.

– Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI đã được khái quát cô đọng là: “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[8]. Có thể nói đây là mục tiêu trung tâm, cốt lõi nhất của nước ta trong giai đoạn từ nay đến giữa thế kỷ XXI. Bởi vì nếu không thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thì các mục tiêu khác khó có thể đạt được (nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ).

Cũng có ý kiến cho rằng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải là mục tiêu mang đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội, mà là giải pháp phát triển đất nước ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Lập luận này có khía cạnh hợp lý. Song mặt khác cần thấy rằng đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có trình độ phát triển còn thấp, tất yếu phải trải qua các bước, các mục tiêu trung gian, quá độ. Vì vậy, mục tiêu xây dựng một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải được coi là một mục tiêu trọng yếu, cơ bản trong bước đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội để đi tới các mục tiêu cao hơn của chủ nghĩa xã hội.

– Mục tiêu đến năm 2020: chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020 đã xác định mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị – xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”[9]. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát chiến lược đã cụ thể hoá thành các mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường cho giai đoạn 2011-2020. Từ các mục tiêu của giai đoạn 2011-2020, Văn kiện Đại hội XI, XII cũng đã xác định các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể cho kế hoạch 5 năm 2011-2015, 2016-2020 với nhiều nội dung đã được định lượng trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, đến nay, cho thấy mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” đã không thể đạt được.

Qua việc xác định các mục tiêu cho mỗi chặng đường trong quá trình phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như trên, có thể thấy:

– Các mục tiêu, giá trị chung mang tính khách quan về những giá trị tốt đẹp của nhân loại cần được thể hiện cụ thể, hài hoà trong các giá trị riêng của mỗi dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.

– Các mục tiêu vừa mang định tính vừa mang tính định lượng. Mục tiêu xác định cho giai đoạn càng dài, càng xa sẽ càng mang tính khái quát cao và mang tính định tính. Mục tiêu xác định cho giai đoạn càng ngắn, càng gần càng phải được định lượng hoá; giữa các mục tiêu định lượng và mục tiêu định tính có quan hệ hữu cơ với nhau.

– Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước còn kém phát triển phải qua nhiều bước trung gian, quá độ, do đó khó có thể tuyệt đối hoá máy móc rằng chỉ tập trung thực hiện các mục tiêu cụ thể này đảm bảo “tính chất xã hội chủ nghĩa”, còn không coi trọng thực hiện các mục tiêu – giải pháp kia “không mang tính xã hội chủ nghĩa”. Bởi vì sự phát triển của một xã hội là mang tính tổng hợp, chế định lẫn nhau của tất cả các mặt, các lĩnh vực, và việc thực hiện các mục tiêu trung gian, quá độ đó đều phải phục vụ cho sự phát triển hướng tới những giá trị tốt đẹp hơn.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định luận điểm “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, vì nó phản ánh đúng bản chất và tính chất trung gian, quá độ (vừa có chủ nghĩa xã hội lại vừa chưa có chủ nghĩa xã hội). Tính chất xã hội chủ nghĩa sẽ từng bước được nâng lên và mở rộng ra khi thực hiện có hiệu quả các mục tiêu trung gian, quá độ đó. Thấu suốt luận điểm “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” sẽ khắc phục được bệnh giáo điều, máy móc, xa rời thực tiễn trong việc xác định các mục tiêu và giải pháp phát triển đất nước. Có quan điểm cho rằng tính chất xã hội chủ nghĩa được thể hiện chủ yếu ở các chính sách xã hội và coi đó là ưu việt của chủ nghĩa xã hội, do đó khi đề xuất xây dựng và thực hiện một số mục tiêu xã hội đã không xem xét trong tương quan chặt chẽ với các lĩnh vực khác và trong sự phù hợp với trình độ phát triển cụ thể, thậm chí vượt quá khả năng của nền kinh tế. Rõ ràng đây là một cách tiếp cận không thực tế.

Luận điềm “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” với cách tiếp cận về mục tiêu như nêu trên phù hợp với luận điểm của Mác – Ăngghen rằng: các hình thức phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội có trước chưa thể mất đi và vẫn còn động lực phát triển khi các điều kiện – tiền đề khách quan cho sự tồn tại của nó vẫn còn. Minh chứng cho điều này là hiện nay ở Việt Nam số hộ nông dân sản xuất nhỏ mang nặng tính tự cung tự cấp (đặc biệt là ở vùng núi cao) và các hộ làm nghề thủ công vẫn còn tồn tại trong một thời gian dài nữa. Việc từng bước đưa các hộ này phát triển lên trình độ cao hơn không đơn giản và không thể một sớm một chiều.

Thực tiễn cho thấy rằng việc xác định đúng, phù hợp các mục tiêu phát triển trong mỗi giai đoạn còn đòi hỏi phải gắn bó hữu cơ, biện chứng với các cơ chế chính sách và giải pháp thực hiện phù hợp với trình độ phát triển cụ thể, nếu không hiệu quả sẽ thấp hoặc không đạt được mục tiêu đặt ra.  

Phương Pháp Luận Là Gì? Ý Nghĩa Và Phân Loại Phương Pháp Luận

1.1. Phương pháp luận là gì

Phương pháp luận là mặt học thuyết hay lý luận về phương pháp, hay hệ thống những quan điểm, nguyên lý đã được công nhận là chuẩn xác và sử dụng hiệu quả.

Theo như quan điểm của triết học Mác – Lênin thì phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.

Phương pháp luận là một phạm trù rất rộng, phạm vi bao quát của phương pháp luận rất lớn. Cho nên để biết rõ về phương pháp luận cần hiểu rõ ý nghĩa của nó. Một số ví dụ nổi bật về phương pháp luận:

Phương pháp Hiện tượng học (Phenomenology)

Phương pháp Dân tộc học (Ethnography)

Phương pháp Lý thuyết cơ sở (Grounded Theory)

1.2. Ý nghĩa của phương pháp luận

Phương pháp luận là gì là điều mà chúng ta cứ mãi thắc mắc và đã được hé lộ ở trên. Thế ý nghĩa phương pháp luận ra sao, nó có thật sự quan trọng hay không?

Có phương pháp luận, bài nghiên cứu của bạn không những logic trong cấu trúc câu từ mà nội dung có sức thuyết phục rất cao. Phương pháp luận có ý nghĩa như cách để xác định hướng đi cho tiến trình nghiên cứu một đề tài và tìm ra cấu trúc logic nhất cho các công trình khoa học hiện tại.

Phương pháp luận cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, cách để nâng cao tiềm lực khoa học và để các công trình khoa học đạt hiệu quả cao.

Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp luận là những hệ thống, nguyên lý, quan điểm làm cơ sở để xây dựng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu khoa học.

Các quan điểm mà phương pháp luận nghiên cứu khoa học đưa ra thường mang khuynh hướng triết học, tuy nhiên không đồng nhất với triết học.

Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học cũng được xem như là một hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cơ chế sáng tạo.

2. Phân loại phương pháp luận

Phương pháp luận được chia làm hai loại chính, đó là:

2.1. Phương pháp luận bộ môn (ngành)

Phương pháp luận bộ môn hay phương pháp luận môn học có cấp độ hẹp nhất. Ở phương pháp này, các nguyên tắc và quan điểm được rút ra từ một lý thuyết khoa học chuyên ngành, nó phải phản ánh được quy luật của một lĩnh vực cụ thể như triết học, kiểm toán, văn học, toán học,…

2.2. Phương pháp luận chung

Phương pháp luận chung được chia thành 2 cấp độ khác nhau:

Phương pháp luận chung nhất: Là phương pháp thể hiện chung nhất để mô tả tổng quan nhất các nguyên tắc, quan điểm khái quát. Phương pháp này được sử dụng như cơ sở để xác định phương pháp luận chung và phương pháp luận ngành.

Phương pháp luận chung: Là phương pháp dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm có đối tượng được nghiên cứu chung.

Đối với phương pháp luận trong kinh tế học, các nhà kinh tế có thể chấp nhận những phương pháp luận trong ngành tự nhiên, nhưng thực tiễn xã hội là một hệ thống mở. Đó có thể là có nhiều biến số can thiệp, hoặc không nhất thiết phải kiểm soát mọi yếu tố như trong phòng thí nghiệm.

Về chủ nghĩa thực chứng, lý thuyết phải nhất quán với nhau và thể hiện được sự logic của nội dung. Ví dụ một số phát biểu về phương pháp luận “Không gì có thể được chứng minh là luôn luôn đúng”:

Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng mô hình của mình là hoàn chỉnh hoặc đã thiết lập quan hệ nhân quả.

Chúng ta tiến bộ nhờ chứng minh vấn đề là sai bằng cách lặp lại các thử nghiệm và loại bỏ những vướng mắc không có tác dụng.

Phương Pháp Luận Là Gì? Ý Nghĩa Nghiên Cứu Phương Pháp Luận

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cớ chê sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đôi tượng khoa học, cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp kỹ thuật và lôgíc tiên hành nghiên cứu một công trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức , quản lý qúa trình ấy. Vậy khái niệm phương pháp luận là gì, ý nghĩa phương pháp luận nghiên cứu khoa học là gì? Bạn cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết sau đây.

+ Tổng hợp mẫu lời mở đầu bài tiểu luận các ngành mới nhất

+ Tổng hợp các đề tài luận văn thương mại điện tử hay nhất

1. Phương pháp luận là gì?

Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định.

Vậy phương pháp luận là gì? Phương pháp luận (Methodology) là học thuyết hay lý luận về phương pháp. Đó là hệ thống những quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo, xây dựng các nguyên tắc hợp thành phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả. Trong đó quan trọng nhất là các nguyên ly có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có tác dụng định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Phương pháp và phương pháp luận là khác nhau.

Phương pháp là phạm trù rất rộng, cho liên phạm vi bao quát của phương pháp luận rất lớn. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho mình hàng loạt những nhiệm vụ quan trọng sau đây:

+ Nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết các quy luật phát triển của khoa học hiện đại.

+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà khoa học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ.

+ Nghiên cứu những quan điểm tổng quát, những cách tiếp cận đối tượng nhận thức, đồng thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, với tư cách là con đường, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể, đây là vấn đề trung tâm của phương pháp luận.

+ Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên cứu khoa học không những nằm trong lôgíc nhận thức mà còn nằm trong cấu trúc nội dung một công trình khoa học. Cho nên Phương pháp luận nghiên cứu khoa học một mặt xác định các bước đi trong tiến trình nghiên cứu một đề tài, mặt khác còn tìm ra cấu trúc lôgic nội dung của các công trình khoa học đó.

+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, coi đó là một khâu ứng dụng chính các thành tựu khoa học, nhằm nâng cao tiềm lực khoa học và tổ chức quá trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.

Tóm lại phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cớ chê sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đôi tượng khoa học, cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp kỹ thuật và lôgíc tiên hành nghiên cứu một công trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức , quản lý qúa trình ấy.

– Khoa học hiện đại có kết cấu bởi nhiều thành phần, trong đó có ba bộ 4 phận chủ yếu và quan trọng sau đây:

+ Hệ thống những khái niệm phạm trù, những quy luật, các lý thuyết, học thuyết khoa học.

+ Hệ thống trí thức ứng dụng đưa các thành tựu khoa học vào sản xuất và quản lý xã hội, nhằm cải tạo thực tiễn.

+ Hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu, về các con đường tìm tòi, sáng tạo khoa học.

Vậy vị trí của phương pháp luận là gì? Phương pháp luận chính là một trong ba bộ phận quan trọng của khoa học.

– Nghiên cứu khoa học luôn là sáng tạo và cách mạng, trong mỗi giai đoạn phát triển của khoa học hiện đại đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới đối với khoa học, phải tìm ra các phương pháp nghiên cứu mới, phải phát hiện ra các con đường mới để ứng dụng khoa học vào thực tiễn. Có thể nói: Hoàn thiện về phương pháp luận là sự đòi hỏi thường xuyên của sự phát triển khoa học hiện đại.

– Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá trình khái quát lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học và nó trở thành công cụ sắc bén để chỉ dẫn tất cả các nhà khoa học và các nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản lý và thực hành sáng tạo khoa học.

– Ngày nay trong thế giới hiện đại, để hoàn thành có chất lượng bất cứ một loại công việc nào, nhà chuyên môn cũng phải là người sáng tạo, có ý thức tìm tòi các con đường, các phương pháp tạo động mới. Thiếu tinh thần sáng tạo không có chỗ đứng trong cuộc sống đầy sôi động. Cải tiến chuyên môn thông qua con đường hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm phát triển khoa học và công nghệ. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn.

Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là một bộ phận quan trọng của khoa học. Hoàn thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự tự ý thức về sự phát triển của bản thân khoa học. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn.

Tham khảo tại nguồn: Tri Thức Cộng Đồng

Cập nhật thông tin chi tiết về Nguyên Lý Về Sự Phát Triển Và Ý Nghĩa Phương Pháp Luận trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!