Bạn đang xem bài viết Nghiên Cứu Xã Hội Học Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Quản lý khoa học
–
Qua việc xem xét (review) các báo cáo khoa học xã hội xuất bản trong các tạp chí chuyên ngành khoa học xã hội ở Việt Nam (Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, Vietnam Social Science Review, Thông tin Khoa học Xã hội, Tạp chí Khoa học Xã hội, v.v.) và trong các tạp chí chuyên ngành xuất bản ở ngoài Việt Nam, có thể nhận định rằng chưa có sự nối liền nghiên cứu xã hội học giữa Việt Nam và thế giới.
Nhiều nguyên nhân có thể đưa đến việc thiếu sự liên kết của xã hội học ở Việt Nam với xã hội học thế giới. Trước hết, phần lớn các nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam chưa được thực hiện trên quan điểm coi kiến thức (knowledge) là sự tích lũy các hiểu biết (understandings) được khám phá ra bằng nghiên cứu để giải đáp các câu hỏi về thực tế xã hội. Phần lớn các báo cáo khoa học xã hội xuất bản ở Việt Nam thường thiếu phần xem xét tổng quan tài liệu (literature review) vốn được dùng làm nền tảng cho các đề tài nghiên cứu. Các đề tài nghiên cứu thường là các vấn đề cá biệt của xã hội Việt Nam nhưng ít khi được đặt trong khung cảnh kiến thức chung của xã hội học. Các nghiên cứu xã hội ở Việt Nam cũng thường ít sử dụng lý thuyết (theory) hay các hệ qui chiếu quan điểm (research paradigm) trong quan sát và phân tích nên thường không đi xa hơn việc mô tả (description) sự kiện thực tế, nhưng chưa đi đến trình độ giải thích (explain) thực tế bằng kiểm chứng giải thuyết (hypothes is testing) hay bằng lý thuyết. Do đó, kết quả nghiên cứu thường chỉ có giá trị thông tin (information) chứ không đưa ra các hiểu biết (understandings) mới để đóng góp vào kiến thức xã hội học nói chung (trường hợp ngoại lệ là các báo cáo khoa học xã hội xuất ban trong các tập san chuyên ngành quốc tế).
Trong các bài báo cáo về nghiên cứu khoa học xuất bản ở Việt Nam, phương pháp nghiên cứu thường được trình bày rất sơ sài và không đủ để độc giả thẩm định được chất lượng (quality) của việc lấy mẫu và dữ liệu nghiên cứu, cũng như cách đo lường các khái niệm (concept measurement) và quá trình phân tích (analytical procedure). Các nghiên cứu định lượng thường sử dụng các mẫu nghiên cứu rất nhỏ (dưới 100 trường hợp) và thường không mang tính đại diện và tiêu biểu. Kỹ thuật phân tích dùng cho nghiên cứu định lượng còn đơn giản với kỹ thuật phân tích từng biến số một (univariate analysis) dùng cho hệ thống mô tả (descriptive statistics) như phần trăm (percentage) hay tỷ lệ (rate). Sự liên hệ giữa các yếu tố xã hội với hiện tượng quan sát vốn được dùng để giải thích các hiện tượng xã hội thường không được đề cập đến vì thiếu các kỹ thuật phân tích phức tạp dùng hai hay nhiều biến số một lúc (bivariate analysis và multivariate analysis).
Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, xã hội Việt Nam đã trải qua rất nhiều thay đổi, không ít vấn đề phức tạp nảy sinh trong mối liên hệ giữa xã hội và con người. Đó là cơ hội quý giá để xã hội học Việt Nam đóng góp vào kiến thức xã hội học nói chung qua việc xuất bản các nghiên cứu xã hội và các khám phá mới từ nghiên cứu trong các tạp chí chuyên ngành quốc tế (tạp chí có độc giả trên thế giới). Muốn vậy trước hết hoạt động nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam cần được nâng cao với sự chú trọng đặc biệt tới phương pháp nghiên cứu.
Về Hệ Thống Khái Niệm Cơ Bản Trong Nghiên Cứu Biến Đổi Cơ Cấu Xã Hội Ở Việt Nam Hiện Nay
Biến đổi xã hội
Biến đổi xã hội là một đặc trưng chung của mọi xã hội. Tất cả các xã hội luôn tồn tại trong quá trình vận động và phát triển (hoặc suy thoái). Chính sự vận động đó là quá trình liên tục diễn ra biến đổi xã hội. Theo các nhà nghiên cứu xã hội hiện đại, chính trong quá trình đó mà các thành tố của cấu trúc xã hội, các giá trị, chuẩn mực, thiết chế, quan hệ xã hội, hệ thống phân tầng xã hội biến đổi theo thời gian. Về cơ bản, sự biến đổi xã hội thường diễn ra theo hai quá trình kiến tạo và truyền bá. Đó là sự kết hợp hai hay nhiều nhân tố đang tồn tại và vận động thành các quy tắc sử dụng mới. Kiến tạo bao gồm cả vật chất, vật chất, văn hóa và cấu trúc xã hội. Xã hội càng phức tạp và đa dạng thì biến đổi càng diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ. Những nhân tố ảnh hưởng đến biến đổi xã hội rất phức tạp. Ta có thể phân chia thành nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Nhân tố bên trong xuất phát từ bên trong một cơ thể xã hội cụ thể và bao giờ cũng diễn ra những biến đổi quan trọng trong tổ chức và cấu trúc xã hội. Các nhân tố bên ngoài thường được nhắc đến là: cách mạng công nghệ – kỹ thuật, tư tưởng, xung đột và bất bình đẳng cấu trúc. Các nhân tố bên ngoài có nguồn gốc từ môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội cụ thể mà xã hội đó tồn tại. Chính sự tương tác giữa hệ thống xã hội cụ thể với môi trương tự nhiên – xã hội bên ngoài mà cả hai cùng biến đổi. Tuy nhiên ở đây chỉ quan tâm tới sự biến đổi của một xã hội cụ thể. Một nhân tố bên ngoài của sự biến đổi thể hiện rõ nhất là quá trình truyền bá trong tương tác lẫn nhau giữa hai hệ thống bên trong và bên ngoài. Đó thực tế là sự giao tiếp và trao đổi với nhau thông tin và tư tưởng một cách thường xuyên. Nhà xã hội học T.Parsons giải thích biến đổi xã hội xuất phát từ hai nguồn gốc: có thể do tác động từ bên ngoài hệ thống xã hội cũng có thể do sự căng thẳng từ chính bên trong hệ thống. K. Marx giải thích mọi xung đột và biến đổi xã hội suy đến cùng đều bắt nguồn từ xung đột giai cấp, do mâu thuẫn lợi ích giai cấp. Theo K. Marx, điều kiện vật chất là cơ sở của xung đột và các quan hệ kinh tế cơ bản quyết định cấu trúc xã hội. Giải thích về điều này, M. Weber cho rằng thị trường mới chính là cơ sở kinh tế của giai cấp chứ không phải là tài sản kinh tế. Ông khẳng định, yếu tố quan trọng cho sự di động xã hội đi lên của cá nhân hay nhóm xã hội là khả năng chiếm lĩnh thị trường. Nghiên cứu về biến đổi xã hội ở nước ta nhiều năm qua chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ triết học với quan niệm chung là sự vận động và phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, là sự thay thế nhau của các hình thái – kinh tế xã hội. Thời gian gần đây, khi xã hội học ngày càng trở thành một ngành khoa học quan trọng trong nghiên cứu xã hội thì đa số các nghiên cứu về biến đổi xã hội được tiếp cận dưới góc độ xã hội học. Các lý thuyết xã hội học được vận dụng trong nghiên cứu xã hội học về biến đổi xã hội phổ biến là: thuyết tiến hóa, thuyết chức năng – cấu trúc và thuyết xung đột gắn liền với tên tuổi của các tác giả: A. Comte, T. Parsons, M. Weber và K. Marx. Cơ cấu xã hội Cơ cấu xã hội là một trong những vấn đề trung tâm của nghiên cứu xã hội, vì lẽ đó, hầu như các ngành khoa học xã hội đều nghiên cứu cơ cấu xã hội theo cách tiếp cận và mục đích của mình. Có thể nêu, một số ngành khoa học xã hội cơ bản nghiên cứu cơ cấu xã hội là: triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, kinh tế học, chính trị học, sử học và xã hội học. Các thành tựu nghiên cứu về cơ cấu xã hội trên thế giới thời kỳ cận – hiện đại thường gắn liền với tên tuổi của các nhà triết học, xã hội học như: K. Marx, F. Enggels, A. Comte, M. Weber, H. Fischer, I Robertson,… Cho đến nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu xã hội, tuy nhiên, có thể nêu một cách chung nhất, cơ cấu xã hội là kết cấu và dạng thức tổ chức bên trọng của một hệ thống xã hội nhất định, đó là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản nhất cấu thành hệ thống xã hội. Những thành tố của cơ cấu xã hội tạo nên xã hội loài người. Trong đó, những thành tố cơ bản là: nhóm, vị thế, vai trò xã hội, mạng lưới xã hội và thiết chế xã hội. Định nghĩa này nêu bật được các đặc trưng cơ bản của cơ cấu xã hội sau: Thứ nhất, cơ cấu xã hội không những được xem là tổng thể, một tập hợp các bộ phận cấu thành xã hội, mà còn là kết cấu và dạng thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội. Như thế xã hội loài người, rõ ràng cũng giống như mọi khách thể vật chất khác, là một hệ thống cơ cấu hay một cấu trúc nhất định, bao gồm những thành tố, các mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò và chức năng nhất định. Cơ cấu xã hội luôn được xem xét trong sự gắn bó với khái niệm hệ thống xã hội, tuy nhiên, khái niệm cơ cấu xã hội hẹp hơn nó chỉ phản ánh bộ khung, dạng thức kết cấu bên trong của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội. Thứ hai, cơ cấu xã hội được xem là sự thống nhất bên trong của các nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội. Quan niệm này khắc phục được sự phiến diện khi qui cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội; cũng khắc phục được sự tách rời giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Đúng ra, cơ cấu xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt: các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội. Sự vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội xuất phát từ sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt, các mối liên hệ các yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội. Thứ ba, khi nhìn nhận cơ cấu xã hội “bộ khung” tạo dựng cơ thể xã hội cho ta biết được một xã hội cụ thể nào đó được cấu thành từ những nhóm xã hội nào. Nhóm lớn như: một quốc gia, dân tộc, giai cấp, chính đảng, tầng lớp; nhóm nhỏ như: một tổ chức, cơ quan, xí nghiệp, lớp học… Cũng qua đó ta thấy được vị thế, vai trò và mạng lưới của từng cá nhân, từng nhóm xã hội, các thiết chế xã hội và các quan hệ xã hội… Các thành tố cấu thành cơ cấu xã hội Trong các lý thuyết xã hội học về nhóm ta còn bắt gặp sự phân chia nhóm thành nhóm quy ước và nhóm tự nhiên. Nhóm quy ước là loại nhóm do con người tạo lập vì những mục đích nhất định. Nhóm tự nhiên là những nhóm tồn tại thực một cách không tuân theo một chủ ý riêng trong đời sống xã hội. Nhóm quy ước mang tính ước lệ, tạm thời không bền vững và phục thuộc vào ý muốn của người tạo ra nó. Nhóm tự nhiên tồn tại, vận động và phát triển theo những qui luật khách quan. Nghiên cứu cơ cấu xã hội cần nhận thức đúng hai loại nhóm này bởi lẽ cơ cấu xã hội được tạo nên chỉ bởi các nhóm tự nhiên. Vị thế xã hội: Vị thế hay còn được gọi là vị trí trong cấu trúc xã hội. Tuy nhiên, vị thế còn nói lên thế và lực của chủ thể. Vị thế quyết định chỗ đứng và phương thức ứng xử của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Tùy theo các góc độ khác nhau mà mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có những vị thế khác nhau. Trong quan hệ xã hội, thường vị thế nghề nghiệp mang ý nghĩa quan trọng hơn cả, nó qui định những đặc trưng riêng của cá nhân hay nhóm xã hội. Vị thế xã hội có các đặc điểm: Không nhất thiết gắn với người có uy tín và địa vị cao; Không phụ thuộc vào ý kiến của mỗi người về bản thân; Vị thế của mỗi người cần đối chiếu hay gắn với những tiêu chuẩn khách quan của xã hội; Vị thế của mỗi người là vị trí xã hội của người đó được xã hội thừa nhận và suy tôn; Vị thế mang tính ổn định tương đối… Vị thế xã hội có các nguồn gốc: Dòng dõi, của cải, nghề nghiệp, chức vụ và quyền lực; trình độ học vấn và các cấp bậc, chức sắc tôn giao, thân tộc… Vị thế xã hội thường được chia làm 4 loại: Vị thế tự nhiên là những đặc trưng, thiên chức mang tính chất mặc định khó có thể thay thế như chủng tộc, giới tính, tuổi; Vị thế xã hội là những đặc trưng, vai trò, nghĩa vụ thuộc về đời sống văn hóa xã hội, con người ta đạt được trong quá trình sản xuất và sinh sống của mình; Vị thế then chốt có thể do chính bản thân tạo ra nhưng cũng có thể do sự ưu tiên nào đó (như đẳng cấp, dòng dõi, thừa kế…) của xã hội; Vị thế không then chốt đó là những vị thế không đóng vai trò quyết định đặc điểm hay hành vi ứng xử xã hội của chủ thể. Vai trò xã hội: đó là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế cụ thể. Vai trò là sự thể hiện một cách sinh động của vị thế trong những quan hệ nhất định. Một vị thế, có thể có nhiều vai trò khác nhau và vai trò sẽ thay đổi trong các quan hệ khác nhau cũng như vai trò sẽ thay đổi khi vị thế thay đổi. Xã hội học về vai trò thường tập trung nghiên cứu các nội dung: Một vai trò xã hội có thể có nhiều mức độ biểu hiện hay sắc thái khác nhau; Vai trò không chỉ biểu hiện thành hành vi bên ngoài mà còn thể hiện những nội dung tinh thần bên trong; Bất kỳ vai trò nào cũng tồn tại trong sự gắn bó với các vai trò khác; Vai trò bao giờ cũng trong một khuôn khổ giới hạn nhất định, ngoài giới hạn đó nó không còn là vai trò nữa; Sự không phù hợp vai trò của chủ thể dẫn đến căng thẳng và xung đột xã hội; Vai trò và nhân cách gắn bó mật thiết và quy định nhau trong quan hệ xã hội; Mỗi chủ thể bao giờ cũng có nhiều vai trò khác nhau;… Có 4 loại vai trò xã hội: Vai trò chỉ định là vai trò được qui định một cách mặc định, chủ thể dù muốn hay không cũng không có quyền từ chối; Vai trò lựa chọn là vai trò có được do nỗ lực của chủ thể, chủ thể dành được nó trong đời sống xã hội; Vai trò then chốt là vai trò quan trọng nhất trong nhóm các vai trò của chủ thể tại một thời điểm cụ thể nào đó; Vai trò tổng quát đó là sự phối hợp các vai trò khác nhau của chủ thể tạo nên một vai trò chung bao hàm trong đó ý nghĩa của nhiều vai trò khác. Mạng lưới xã hội: Xã hội là tổng hợp của các mối quan hệ. Mạng lưới là phức hợp các mối quan hệ của cá nhân, nhóm, cộng đồng, các tổ chức. Tất cả các mối quan hệ của xã hội tạo nên mạng lưới xã hội. Không cá nhân, nhóm, cộng đồng, tổ chức hay đoàn thể nào có thể đứng ngoài mạng lưới xã hội. Trong đời sống xã hội, con người phải xử lý một phức hợp quan hệ xã hội tồn tại một cách chằng chịt với tư cách là mạng lưới xã hội, trong các mối quan hệ đó có những quan hệ đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với vị thế và vài trò của chủ thể buộc họ phải thực hiện; tuy nhiên, trong đó cũng có rất nhiều mối quan hệ không mang tính bắt buộc và đòi hỏi con người phải thực hiện. Mạng lưới xã hội là một thành tố cơ bản cấu tạo nên cơ cấu xã hội. Chính thông qua các mối quan hệ phức hợp của mạng lưới xã hội mà cơ thể xã hội vận hành và biến đổi. Đặc biệt, qua mạng lưới xã hội, các thành viên xã hội có thể chia sẻ, trao đổi thông tin, kiến thức, nguồn lực để tăng cường thêm sức mạnh cho mình, tổ chức và cho cả xã hội. Chính tính hài hòa hay rối loạn của mạng lưới xã hội quyết định sự phát triển hay đình trệ của xã hội. Thiết chế xã hội: Thiết chế xã hội là một tổ chức nhất định của hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội được thực hiện bằng sự thống nhất hài hòa giữa các hành vi của con người và các chuẩn mực, quy phạm xã hội. Trong nghiên cứu cơ cấu xã hội, thiết chế xã hội được xem là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm hoạt động hướng tới một mục đích cơ bản của xã hội tại một thời điểm nhất định. Khi nói tới thiết chế xã hội nghĩa là nói tới một xã hội vận động và phát triển tuân theo kỷ cương và qui tắc. Thiết chế xã hội có thể được xem xét theo cơ cấu bên trong và cơ cấu bên ngoài. Theo đó, với cơ cấu bên trong thiết chế biểu hiện là tổng thể con người, cơ quan được trang bị những phương tiện vật chất nhất định và thực hiện các chức năng xã hội cụ thể; với cơ chế bên ngoài, thiết chế xã hội là tập hợp những tiêu chuẩn được định hướng theo mục tiêu về hành vi của con người nhất định trong một hoàn cảnh cụ thể. Thiết chế xã hội có 2 chức năng chủ yếu là: Khuyến khích, điều chính, điều hòa hành vi của con người sao cho phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của xã hội; và, Chế định, kiểm soát, giám sát nhu cầu và hoạt động của các hành vi lệch chuẩn. Sự tồn tại, ổn định và phát triển của mọi xã hội có được là do có sự quản lý và kiểm soát xã hội, chính thiết chế xã hội thực hiện các chức năng quản lý và kiểm soát xã hội. Thiết chế xã hội có những đặc điểm cơ bản là: Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm; Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc lẫn nhau; Những thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội chủ yếu. Có nhiều loại thiết chế xã hội khác nhau cùng tồn tại nhưng trong đó các thiết chế cơ bản là các thiết chế: chính trị, kinh tế, pháp luật, gia đình, giáo dục, y tế, khoa học, quân đội, đạo đức, dư luận xã hội… Các phân hệ cơ cấu xã hội Có nhiều cách phân hệ cơ cấu xã hội tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau của các ngành khoa học cũng như các mục đích nghiên cứu và quản lý xã hội. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung trao đổi các phân hệ cơ cấu cơ bản là: cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội – nghề nghiệp; cơ cấu xã hội – dân số; và, cơ cấu xã hội – dân tộc. Cơ cấu xã hội – giai cấp: Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp, người ta không chỉ nghiên cứu giai cấp mà còn nghiên cứu cả các tầng lớp, các tập đoàn người khác nhau của xã hội. Trong nghiên cứu, người ta thường tập trung vào qui mô, kích thước, vị thế, vai trò và tương quan giữa các giai cấp, sự quan hệ và liên minh giữa các giai cấp, các tầng lớp, tập đoàn xã hội với nhau; những biến đổi trong cơ cấu lợi ích, xu hướng biến đổi vị thế, vai trò của các giai cấp, các tầng lớp, tập đoàn xã hội. Đồng thời cũng nghiên cứu các giá trị, chuẩn mực, xu hướng, tính cơ động xã hội, tính tích cực, sở hữu… của các gia cấp, tầng lớp, qua đó thấy được khuôn mẫu, văn hóa, lối sống, xu hướng và mục tiêu của các gia cấp, tầng lớp, tập đoàn khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những cách tiếp cận nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp chỉ tập trung nghiên cứu những tập đoàn người tạo nên những giai cấp cơ bản có ý nghĩa quyết định sự vận động và biến đổi xã hội. Trong các nghiên cứu này người ta tập trung nghiên cứu thực trạng cơ cấu các gia cấp, qui mô giai cấp, vai trò, sứ mạng và tương lại của các giai cấp và qua đó chỉ ra giai cấp cơ bản quyết định sự biến đổi cơ cấu xã hội và phát triển xã hội. Cơ cấu xã hội – nghề nghiệp: Nó là hệ quả của sự phát triển sản xuất, sự phát triển ngành nghề và phân công lao động xã hội. Nghiên cứu cơ cấu xã hội – nghề nghiệp là tập trung nhận diện thực trạng cơ cấu, tỷ trọng các ngành nghề, những đặc trưng, xu hướng và sự tác động qua lại lẫn nhau của các ngành nghề cũng như sự biến đổi, thay đổi ngành nghề của một xã hội nhất định. Trong xã hội hiện đại người ta thường tập trung nghiên cứu lực lượng lao động cũng như các ngành nghề cụ thể của lao động công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và một số ngành nghề đặc thù khác; đồng thời, người ta cũng nghiên cứu cơ cấu lao động theo giới tính, lứa tuổi, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ… Ngoài ra, người ta cũng tiếp cận nghiên cứu cơ cấu xã hội – nghề nghiệp dưới góc độ phân tích lực lượng lao động theo lãnh thổ, vùng, miền, khu vực kinh tế xã hội; theo lao động trong các khu vực, thành phần kinh tế khác nhau; theo lao động trong khu vực kinh tế kết cấu hay kinh tế phi kết cấu; theo độ tuổi người lao động cũng như mức độ có việc làm và thất nghiệp của người lao động. Điều cơ bản là qua nghiên cứu thực trạng cơ cấu xã hội – nghề nghiệp là để nhận diện sự biến đổi của nó và tác động của sự biến đổi ấy đến cơ cấu xã hội, đến đời sống xã hội và ngược lại. Qua đó có thể dự báo xu hướng vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội nghề nghiệp nói riêng và biến đổi cơ cấu xã hội nói chung. Cơ cấu xã hội – dân số: Trong nhiều trường hợp người ta cũng gọi là cơ cấu xã hội – nhân khẩu. Ở đây tập trung nghiên cứu các tham số cơ bản như mức sinh, mức tử, biến động cơ cấu dân số cơ học, tự nhiên, di dân, đô thị hóa, tỷ lệ giới tính và cơ cấu độ tuổi, cơ cấu thế hệ. Bên cạnh đó, cũng chú ý nghiên cứu sức khoẻ sinh sản, đặc trưng văn hóa, tôn giáo, dân tộc, vùng miền của dân số. Qua phân tích thực trạng cơ cấu xã hội – dân số ta có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của dân số của một xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định; cũng như mức độ ảnh hưởng, sự tác động của biến đổi cơ cấu xã hội – dân số đến sự vận động và phát triển của kinh tế, xã hội, an ninh, văn hóa, tài nguyên, môi trường… Cao hơn nữa đó là sự tác động đến tổng thể chất lượng cuộc sống của con người. Điều này có nghĩa là những tác động của sự biến đổi cơ cấu xã hội – dân số đến tổng thể đời sống xã hội và môi trường và đến lượt nó, nó lại tác động trở lại đối với cơ cấu dân số. Cơ cấu xã hội – dân tộc: Đó trước hết là nghiên cứu thực trạng các dân tộc và sự khác biệt giữa các dân tộc. Cụ thể, nó tập trung nghiên cứu quy mô, tỷ trọng, phân bố và sự biến đổi số lượng, chất lượng, đặc trưng, xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội nội bộ mỗi dân tộc cụ thể và sự tương quan giữa chúng với công đồng các dân tộc. Bao giờ nghiên cứu biến đổi cơ cấu – xã hội một dân tộc cụ thể cũng đặt nó trong tổng thể các dân tộc của một quốc gia, chính sự biến đổi cơ cấu – dân tộc của các dân tộc cụ thể quyết định sự biến đổi cơ cấu – dân tộc của quốc gia đó. Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội – dân tộc người ta cũng đặt nó trong mối quan hệ khăng khít với các phân hệ cơ cấu xã hội cơ quan khác của một xã hội nhất định, cũng như với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, dân số, tôn giáo… Nghiên cứu cơ cấu xã hội – dân tộc không chỉ nhằm nhận diện đúng sự biến đổi của cơ cấu dân tộc trong một xã hội nhất định mà còn tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, chiến lược, chủ trương để quy hoạch và phân bổ lại cơ cấu dân cư, lực lượng lao động, ngành nghề, việc làm, các nguồn tài nguyên phù hợp với chiến lược phát triển chung; đồng thời cũng phù hợp với những điều kiện tự nhiên – xã hội từng vùng miền, từng dân tộc cụ thể. Cũng từ đó có chiến lược bảo tồn văn hóa và bản sắc dân tộc, xây dựng tình đoàn kết anh em giữa các dân tộc, tích cực góp phần giữa vững an ninh quốc phòng, bảo vệ biên giới quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ.
PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu
Theo Tạp chí Cộng sản
Một Số Lý Thuyết Xã Hội Học Trong Nghiên Cứu Biến Đổi Cơ Cấu Xã Hội
Thứ hai, 19 Tháng 9 2016 16:34
11203 Lượt xem
(LLCT) – Trong một xã hội chuyển đổi như ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu cơ cấu xã hội – nghề nghiệp, sự biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp là chìa khóa để nắm bắt được quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, việc làm để từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng năng động, tiến bộ, phù hợp, đồng thời hóa giải những xu hướng xơ cứng, thoái bộ, bất ổn, thậm chí là cả nguy cơ đổ vỡ xã hội.
Biến đổi cơ cấu xã hội là sự thay đổi từng bước của cơ cấu xã hội về thành phần, quy mô, vai trò và mối liên hệ giữa các yếu tố trong từng phân hệ cơ cấu xã hội.
Biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp là những biến đổi về kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của mỗi hệ thống ngành nghề nhất định, được biểu hiện bằng sự biến đổi của các mối quan hệ giữa các ngành nghề, các kiểu loại nghề. Sự biến đổi này có thể là sự thay đổi từ nghề này sang nghề khác, từ nghề giản đơn đến nghề có yêu cầu trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao hoặc từ nghề đơn sang nghề kết hợp. Nó cũng có thể là sự thay đổi trong từng ngành hướng đến sự phù hợp với thị trường lao động.
Có nhiều cách tiếp cận, lý thuyết khác nhau để nghiên cứu, phân tích về cơ cấu xã hội – nghề nghiệp. Tuy nhiên, một số lý thuyết xã hội học sau đây được cho là phù hợp khi nghiên cứu về cơ cấu xã hội – nghề nghiệp.
1. Lý thuyết đoàn kết xã hội và phân công lao động của E.Durkheim
Cùng với sự biến đổi hình thức phân công lao động là sự xuất hiện kiểu xã hội mới. Với trình độ phân công lao động ngày càng cao thì vai trò và nhiệm vụ lao động càng bị phân hóa và chuyên môn hóa sâu sắc. Kết quả là các cá nhân càng phải tương tác với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, quan hệ với nhau một cách chặt chẽ và đó chính là sự đoàn kết hữu cơ(3[1]).
Sự đoàn kết xã hội cũng phụ thuộc vào sự phân công lao động. E.Durkheim chỉ ra các yếu tố xã hội của sự phân công lao động. Ông cho rằng sự di cư và tích tụ dân cư, đô thị hóa và công nghiệp hóa đã làm tăng mật độ tiếp xúc, quan hệ và tương tác giữa các cá nhân, nhóm và tổ chức trong xã hội. Mật độ năng động tăng lên làm cho mức độ cạnh tranh cũng tăng lên trong xã hội buộc các cá nhân muốn tồn tại thì phải “đấu tranh”, cạnh tranh với nhau thông qua sự phân công lao động tức là sự chuyên môn hóa chức năng, nhiệm vụ([1]4).
E.Durkheim chỉ ra rằng sự phân công lao động tỷ lệ thuận với quy mô và mật độ xã hội. Sự phân công lao động càng tinh vi, chuyên môn hóa chức năng xã hội càng cao thì các cá nhân, các nhóm xã hội càng tương tác chặt chẽ với nhau và càng phụ thuộc lẫn nhau. Kết quả là sự phân công lao động trong xã hội thực hiện chức năng tạo ra sự đoàn kết xã hội và củng cố tinh thần đoàn kết xã hội, nói theo ngôn ngữ khoa học xã hội học hiện đại là tạo ra sự hội nhập xã hội. Khi nào sự phân công lao động không làm tròn chức năng đoàn kết xã hội thì có nghĩa xã hội rơi vào trạng thái bất bình thường, khủng hoảng. Do đó, nhà xã hội học, giống như thày thuốc, có nhiệm vụ nghiên cứu tình trạng khủng hoảng, “bệnh tật” của xã hội để góp phần đưa ra các giải pháp cứu chữa nhằm giúp cơ thể xã hội trở lại trạng thái bình thường, “lành mạnh”([1]5).
Xuất phát từ quan niệm cho rằng sự phân công lao động bình thường là sự phân công bảo đảm thực hiện chức năng một cách bình thường, tức là tạo ra được sự đoàn kết xã hội, E.Durkheim chỉ ra ba hình thức phân công lao động bất bình thường do không thực hiện được chức năng đoàn kết xã hội như sau:
(1) Hình thức phi chuẩn mực. Đây là sự phân công lao động một cách tùy tiện, tự phát, rối loạn do thiếu sự kiểm soát và điều tiết từ phía hệ các giá trị, chuẩn mực xã hội. Sự phân công phi chuẩn mực diễn ra dưới tác động của “bàn tay vô hình” theo cách nói của Adam Smith. Theo E.Durkheim, sự quản lý và điều chỉnh từ phía xã hội mà cụ thể là nhà nước rất cần thiết đối với sự phân công lao động bình thường trong xã hội, nếu khác đi thì có thể xảy ra tình trạng phân công lao động bất bình thường dưới hình thức phi chuẩn mực(6[1]).
(2) Hình thức cưỡng bức – bất công. Đây là sự phân công lao động một cách bắt buộc và bất bình đẳng xảy ra khi các cá nhân buộc phải chấp nhận những vị trí lao động, nghề nghiệp không phù hợp với năng lực, phẩm chất cá nhân, nhưng lại phù hợp với lợi ích của một nhóm khác dẫn đến tình trạng bất công trong phân phối theo kiểu “làm nhiều hưởng ít”. Hình thức phân công lao động cưỡng bức – bất bình đẳng diễn ra phổ biến trong hệ thống xã hội có chế độ người bóc lột người([1]7).
(3) Hình thức thiếu đồng bộ. Đây là sự phân công lao động thái quá dẫn đến tình trạng “siêu chuyên môn hóa” làm cho sự điều phối không theo kịp tốc độ chuyên môn hóa, dẫn đến trạng thái lệch lạc, trục trặc, “cọc cạch”, thiếu sự hợp tác, thậm chí mâu thuẫn, xung đột xã hội(8[1]).
Như vậy, quá trình phân công lao động bất bình thường với ít nhất ba hình thức trên, theo quan điểm của E.Durkheim sẽ dẫn đến một cơ cấu xã hội phi chuẩn mực, bất bình đẳng, mâu thuẫn và thậm chí có thể xảy ra xung đột. Còn phân công lao động bình thường là hình thức phân công hợp lý, phù hợp với các tiền đề, điều kiện, đặc điểm của người lao động, góp phần phát triển cá nhân và xã hội một cách lành mạnh và chuẩn mực. Đó là hình thức phân công lao động phù hợp với trình độ, yêu cầu khách quan những luôn biến động của xã hội. Nó được thể hiện qua cách nói “ai giỏi nghề gì, làm nghề nấy”. Phân công lao động bình thường là quá trình chuyên môn hóa lao động theo năng lực cá nhân và nhu cầu xã hội, góp phần tích cực vào việc hình thành, củng cố và ổn định cơ cấu, trật tự xã hội. Điều này tất nhiên sẽ dẫn đến những biến đổi khách quan và phù hợp về cơ cấu xã hội – nghề nghiệp trong xã hội.
2. Lý thuyết mâu thuẫn xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen
Chưa khi nào C.Mác nhận mình là nhà xã hội học nhưng đóng góp của ông cho khoa học xã hội học thì thật sự vĩ đại. Ông đã tìm ra quy luật xã hội, đem lại chìa khóa để tìm hiểu xã hội từ những vấn đề lớn nhất của nhân loại đến những vấn đề thường ngày của mỗi cá nhân([1]9). Một trong những đóng góp lớn của C.Mác chính là việc cùng Ph.Ăngghen sáng tạo ra chủ thuyết mâu thuẫn xã hội (hay còn gọi là thuyết xung đột xã hội) trong xã hội học hiện đại.
Nếu các tác giả của trường phái lý thuyết cấu trúc – chức năng nhấn mạnh tính trật tự, cân bằng thì thuyết mâu thuẫn xã hội nhấn mạnh sự mâu thuẫn, xung đột và sự biến đổi xã hội. Theo quan điểm của C.Mác – Ăngghen, các bộ phận, thành tố của xã hội không chỉ cùng tồn tại, tác động qua lại lẫn nhau mà còn luôn mâu thuẫn, thậm chí đối kháng, xung đột nhau. Đó là nguồn gốc thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Theo C.Mác – Ph.Ăngghen, xã hội có giai cấp bao gồm các tập đoàn xã hội có lợi ích khác nhau. Toàn bộ sự phát triển của xã hội từ buổi đầu thời đại văn minh cho đến tận ngày nay luôn diễn ra trong mối quan hệ mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Theo các ông, cơ sở vật chất của các xã hội văn minh hiện đại chính là sự bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác. Và chính sự mẫu thuẫn, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc và động lực của sự biến đổi, vận động của lịch sử xã hội loài người. Thuyết mâu thuẫn của C.Mác – Ph.Ăngghen cho rằng phải phân tích đặc điểm xã hội, động cơ của các bên tham gia mâu thuẫn và bản chất của mối quan hệ mâu thuẫn thì mới đưa ra được các giải pháp thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Sự khan hiếm nguồn lực tất yếu sẽ tạo ra những dòng lao động chuyển cư tự phát làm thay đổi một cách cơ học bộ mặt cơ cấu xã hội – nghề nghiệp. Sự thay đổi “cơ học” này, một mặt có vai trò điều hòa một cách hợp lý hơn sự phân bố lao động, nhưng mặt khác nó cũng để lại những hệ lụy xã hội, hay nói cách khác, nó góp phần tạo ra sự biến đổi xã hội theo hướng tiêu cực. Sự phân công lao động cũng có tính hai mặt, một mặt nó “sắp đặt” những cá nhân với kỹ năng, tay nghề phù hợp vào những công việc phù hợp, góp phần nâng cao năng suất lao động và tính đồng thuận, đoàn kết xã hội, tạo ra một cơ cấu xã hội – nghề nghiệp hài hòa, năng động. Nhưng sự phân công lao động gắn với lợi ích vị kỷ thì không phải lúc nào cũng mang lại những điều tích cực như vậy. Sự ganh đua vào những vị trí công việc, nghề nghiệp tốt – đồng nghĩa với lợi ích tốt – sẽ không còn khách quan, lành mạnh giữa các cá nhân trong xã hội. Những người có lợi ích cao sẽ có nhiều khả năng hơn trong việc duy trì, thăng tiến vị trí nghề nghiệp của không chỉ bản thân họ mà cả những người thân của họ. Điều này sẽ dẫn đến một cơ cấu xã hội – nghề nghiệp trì trệ, xơ cứng và bất hợp thức, đồng nghĩa với việc gia tăng những bất ổn xã hội.
3. Lý thuyết hành động xã hội của M.Weber
M.Werber(1864-1920) là nhà xã hội học người Đức. Một trong những khái niệm quan trọng nhất của ông cho xã hội học là “Hành động xã hội”. Theo đó, hành động xã hội là những hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động có tính đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới người khác, trong đường lối, quá trình của nó([1]11), và xã hội học có nhiệm vụ lý giải, thông hiểu động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội.
Trong lý thuyết của mình, M.Weber đã phân chia hành động xã hội ra thành bốn loại(12[1])để lý giải sự vận hành của xã hội, trong đó có biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp. Cụ thể như sau:
Hành động duy lý – công cụ:là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Điều này cho thấy dù trong bất kỳ một xã hội nào, truyền thống hay hiện đại thì người lao động – một cách tự nhiên – luôn có sự tính toán, lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, trình độ của họ và với điều kiện thực tế của xã hội (tức là có tính đến người khác) để đạt được năng suất, chất lượng, hiệu quả và lợi ích cao nhất. Đây là sự lựa chọn hành động khôn ngoan, hợp lý và cũng là nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến sự biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp trong xã hội hiện nay.
Hành động duy lý giá trị:là hành động được thực hiện vì bản thân hành động (mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào những mục đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy lý. Điều này hàm ý rằng, người lao động có những đặc điểm cá nhân riêng (trình độ học vấn, năng lực, kinh nghiệm và địa vị xã hội…) khi lựa chọn nghề nghiệp nhưng khi thực hiện nghề nghiệp thì chưa chắc họ đã đạt hiệu quả cao, bởi trong nhiều trường hợp, họ mới chỉ đề cao giá trị cá nhân chứ chưa đề cao giá trị nghề nghiệp nên có thể dẫn đến sự biến đổi nghề nghiệp một cách khiên cưỡng.
Hành động cảm tính (cảm xúc):là hành động do trạng thái xúc cảm hoặc tình cảm bột phát, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động. Điều này lý giải rằng, trong một số trường hợp, hành động lựa chọn nghề nghiệp của người lao động còn dựa vào cảm tính chủ quan, theo trào lưu xã hội… chứ chưa đi sâu phân tích bản chất nội tại bên trong của mỗi ngành nghề, khả năng phù hợp giữa năng lực thực hiện nghề nghiệp với nghề nghiệp được chọn và khả năng thích ứng với thị trường. Điều này cũng góp phần tạo ra sự biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp.
Hành động theo truyền thống: là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghi lễ, phong tục tập quán được truyền từ đời này sang đời khác. Điều này chỉ ra rằng, trong một số trường hợp, người lao động muốn giữ nghề nghiệp của mình, thực hiện nghề theo kinh nghiệm có sẵn, ngại tiếp cận với những ngành nghề mới, kỹ năng thực hiện nghề nghiệp mới và hiện đại. Hành động này cản trở sự thay đổi từ nghề nghiệp này sang nghề nghiệp khác khi thị trường và xã hội thay đổi.
Mặc dù phân loại hành động xã hội như trên, nhưng theo M.Weber, xã hội học hiện đại tập trung nghiên cứu loại hành động duy lý – công cụ vì đặc trưng quan trọng nhất của xã hội hiện đại là hành động xã hội của con người ngày càng trở lên duy lý, thận trọng, chính xác về mối quan hệ giữa công cụ/phương tiện và mục đích/kết quả. Do vậy, việc nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội -nghềnghiệp cũng cần được tập trung theo hướng này, hướng của sự lựa chọn, chuyển đổi nghề nghiệp một cách thực dụng trên cơ sở tính toán hiệu quả.
4. Lý thuyết sự lựa chọn duy lý của George Homans
George Homans (1910-1989)là nhà xã hội học người Mỹ, một trong các tác giả nổi tiếng của lý thuyết trao đổi xã hội. G.Homans được bầu làm Chủ tịch Hội Xã hội học Hoa Kỳ năm 1964 và được phong giáo sư danh dự của Đại học Havard năm 1988.
Khi nghiên cứu về hành vi xã hội, G.Homans đã đưa ra khái niệm “hành vi xã hội sơ đẳng”được hiểu là những hành vi mà con người lặp đi lặp lại không phụ thuộc vào việc nó có được hoạch định trước hay không. Hành vi xã hội sơ đẳng được diễn ra dưới nhiều hình thức, từ phản xạ có điều kiện, đến kỹ năng, kỹ xảo đến thói quen. Theo G.Homans, hành vi sơ đẳng là cơ sở của sự trao đổi giữa hai hay nhiều người.
G. Homans chỉ ra ba đặc trưng cơ bản của hành vi xã hội. Một là,hiện thực hóa – hành vi phải được thực hiện trên thực tế chứ không phải trong ý niệm. Hai là, hành vi đó được khen thưởng hay bị trừng phạt từ phía người khác. Ba là,người khác ở đây phải là nguồn củng cố trực tiếp đối với hành vi chứ không phải là nhân vật trung gian của một cấu trúc xã hội nào đó([1]13).
Khi nghiên cứu về hành vi, Homans đã đưa ra sáu định đề của hành vi duy lý bao gồm: (1) định đề phần thưởng (hành động nào hay được khen thưởng thì càng có khả năng được lặp lại); (2) định đề kích thích (nếu một kích thích nào đó đã từng khiến một hành động được khen thưởng thì một kích thích mới càng giống kích thích đó bao nhiêu thì càng có nhiều khả năng làm cho hành động tương tự như trước đây lặp lại bấy nhiêu); (3) định đề giá trị (giá trị của hành động càng cao thì chủ thể càng có xu hướng lặp lại hành động đó bấy nhiêu); (4) định đề duy lý (cá nhân sẽ lựa chọn những hành động mà giá trị hoặc khả năng đạt kết quả là lớn nhất); (5) định đề giá trị suy giảm (giá trị của phần thưởng sẽ giảm nếu thường xuyên nhận được phần thưởng đó); và (6) định đề mong đợi (chủ thể hành động sẽ hài lòng nếu mong đợi của họ được thực hiện và ngược lại).
Từ các định đề trên, Homans chỉ ra rằng hành vi lựa chọn nghề nghiệp của con người đều có tính quy luật, tức là chịu sự chi phối có tính tất yếu bên trong của mỗi thành phần và mỗi kiểu loại nghề nghiệp khác nhau. Vì các hoạt động nghề nghiệp của con người được thúc đẩy bởi khát vọng để đạt được những phần thưởng và tránh các chi phí vô ích, đồng thời kích thích nghề nghiệp phát triển theo hướng vi mô và nâng cao giá trị nghề nghiệp trong xã hội. Nếu trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người thực hiện một cách có khoa học, mang tính chuyên môn hóa cao và nhiệt tình với nghề nghiệp thì kết quả hoạt động nghề nghiệp của con người sẽ được nâng cao hơn, từ đó giúp con người hòa nhập vào các quan hệ xã hội thuận lợi hơn, đây là sự mong đợi của con người trong thực hiện nghề nghiệp mà họ đã chọn và không muốn phải biến đổi. Tuy nhiên, với sự tương tác của con người trong các quan hệ xã hội, nếu hoạt động nghề nghiệp bị suy giảm giá trị, gây thiệt thòi cho người lao động và không đem lại lợi ích tối ưu cho họ thì chủ thể có xu hướng thay đổi nghề nghiệp. Đây là một hành vi lựa chọn hiện thực trên thực tế chứ không phải trên ý niệm, vì bản chất của con người luôn có xu hướng nhân bội giá trị kết quả hành động của mình thông qua hoạt động nghề nghiệp.
Bốn chủ thuyết trên chưa phải là hầu hết các chủ thuyết xã hội học, càng không phải là hầu hết các lý thuyết khoa học xã hội ứng dụng trong nghiên cứu biến đổi xã hội nói chung và biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học cũng đã thừa nhận rằng, sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi nghiên cứu về biến đổi xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp mà không sử dụng ít nhất một trong bốn chủ thuyết trên.
Mỗi lý thuyết đều đưa ra những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau của mình, nhưng các lý thuyết đều có một hệ thống luận điểm khá chặt chẽ, logíc và khá hoàn chỉnh theo cách tiếp cận của mình, tạo cơ sở khoa học cho những cắt nghĩa về sự biến đổi cơ cấu xã hội – nghề nghiệp. Việc cắt nghĩa, giải thích, thông hiểu được bắt đầu từ những biến đổi của các thành phần, mối quan hệ cá nhân – xã hội, mạng lưới nghề nghiệp, kiểu loại nghề nghiệp, vị thế, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành nghề trong mạng lưới của từng nhóm xã hội… đến sự biến đổi trong những quyết định lựa chọn nghề nghiệp ngày càng hợp lý (duy lý) của con người trong xã hội hiện đại.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 11-2015
(1) Lê Ngọc Hùng: “Lý thuyết về phân hóa xã hội: Từ Emile Durkheim đến Peter Blau”, Tạp chí Xã hội họcsố 1, 2014, tr.95.
(2), (3), (4), (5), (6), (7),(8), (11), (12) (13) Lê Ngọc Hùng: Lịch sử và lý thuyết Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.156, 156, 157, 157, 158, 158, 158, 199, 199-200, 365.
(9) Vũ Khiêu: “Các Mác, người thày vĩ đại của Xã hội học”, Tạp chí Xã hội học, số 1/1983.
(10) C.Mác – Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.1, Nxb Sự thật, Hà Nội 1980, tr.559.
TS Phạm Minh Anh
Viện Xã hội học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Min
Chính Sách An Sinh Xã Hội Ở Việt Nam
Thứ ba, 21 Tháng 11 2017 11:17
1. Quan niệm về an sinh xã hội tại Việt Nam
Một số tác giả cho rằng “an sinh xã hội” chủ yếu là “bảo hiểm xã hội”(2) và có thể được hiểu là “sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”(3).
(2) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro về sức khỏe khi ốm đau, tai nạn, tuổi già và khi bị thất nghiệp thông qua các hình thức, cơ chế bảo hiểm xã hội để bù đắp một phần thu nhập bị mất hoặc bị suy giảm.
Mô hình chính sách an sinh xã hội theo vòng đời
3. Thực trạng chính sách an sinh xã hội
Các văn bản chính sách. Hiện nay, Việt Nam có 146 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội (1997-2013) ( . Trong đó, văn bản thuộc “Nhóm chính sách hỗ trợ giáo dục tối thiểu” – Quyết định 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23-12-1997 của Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập, là chính sách an sinh xã hội được ban hành sớm nhất và hiện nay vẫn đang áp dụng. Các văn bản chính sách an sinh xã hội không được ban hành đồng đều trong các năm: giai đoạn 1997-2005 có 11 văn bản, nhưng năm 1999, 2001 và 2003 không có văn bản nào. Còn lại 135 văn bản được ban hành năm 2006-2013, trung bình mỗi năm ban hành 16-17 văn bản (Riêng năm 2013 ban hành nhiều nhất với 31 văn bản).
Các nhóm nội dung chính sách an sinh xã hội.Trong 146 văn bản, có hai văn bản chính sách về an sinh xã hội chung là Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 1-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết 70/NQ-CP của Chính phủ ngày 1-11-2012 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15/NQ/TW. Còn lại 144 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội được chia thành bốn nhóm chính sách an sinh xã hội, cụ thể:
Chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn với 18 văn bản hiện hành (2000-2013) và được chia thành hai nhóm nhỏ: trợ giúp xã hội gồm 16 văn bản chính sách hiện hành(2000-2013) và hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị trường gồm 2 văn bản chính sách hiện hành (2010-2011);
An sinh xã hội theo nghĩa hẹp, bao gồm các khoản trợ cấp(11): Các khoản trợ cấp bằng tiền gồm phúc lợi trợ cấp bằng tiền hàng tháng, trợ cấp đột xuất trong trường hợp thảm họa, thiên tai; trợ cấp cho người có thu nhập thấp; trợ cấp tiền điện (từ năm 2011); Phúc lợi bảo hiểm xã hội bao gồm lương hưu trong đó có lương hưu cho những người nghỉ hưu trước tháng 7-1995 (do ngân sách nhà nước chi trả) và lương hưu cho những người nghỉ hưu sau tháng 5-1995 (do Bảo hiểm Việt Nam chi trả); Trợ cấp cho người có công với cách mạng; Hỗ trợ công chức làm việc tại các vùng khó khăn, hỗ trợ xây dựng công trình ngăn lũ, tái định cư các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số (kể từ năm 2009); hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực nông thôn (kể từ 2009); trợ cấp cho các xã biên giới với Lào và Campuchia (từ 2009); hỗ trợ xây dựng nông thôn mới (từ 2010), hỗ trợ sản xuất, nuôi trồng thủy sản ở hải đảo (từ 2010).
Hệ thống an sinh xã hội được xây dựng nhằm vào các mục tiêu như giúp người dân giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, phòng chống các rủi ro và góp phần thúc đẩy phát triển(14). Do vậy, để có thể đánh giá đầy đủ, khách quan và chính xác chất lượng và hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội cần nghiên cứu từ góc độ người dân về an sinh xã hội. Câu hỏi đặt ra ở đây là người dân, hộ gia đình thu nhập như thế nào từ an sinh xã hội? Câu hỏi lớn hơn là: An sinh xã hội lũy tiến như thế nào? Câu trả lời mang tính chất giả thuyết và nghịch lý là người dân có thu nhập từ an sinh xã hội với mức giá trị tuyệt đối và tương đối không lớn và không lũy tiến. Dựa vào kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, các nhà nghiên cứu xác định được các thành phần và cấu trúc thu nhập từ an sinh xã hội(15) của các hộ gia đình. Cụ thể, thu nhập bình quân đầu người là 6,1 triệu đồng /năm, trong đó thu nhập từ an sinh xã hội chiếm 4% tương đương với 264 nghìn đồng. Thu nhập từ an sinh xã hội có cấu trúc gồm sáu thành phần (trợ cấp giáo dục, trợ cấp y tế, bảo hiểm xã hội cho người đang làm việc, phúc lợi xã hội và bảo hiểm xã hội – hưu trí). Trong đó, bảo hiểm xã hội – hưu trí chiếm tỷ trọng lớn nhất tới 61,8%, trợ cấp y tế là 22,6%, phúc lợi xã hội là 9,2%, bảo hiểm xã hội cho người đang làm việc chiếm tỷ trọng nhỏ nhất với 1,6%. Điều này cho thấy, chính sách an sinh xã hội đã bỏ rơi nhóm tuổi lao động đang làm việc và đặt trọng tâm quá nặng vào bảo hiểm hưu trí. Theo cấu trúc 3 thành phần của an sinh xã hội vẫn thấy rõ các hộ gia đình Việt Nam chủ yếu thu nhập từ bảo hiểm xã hội (hưu trí và bảo hiểm hiểm xã hội cho người đang làm việc) với tỷ trọng 63,4%, trợ cấp xã hội y tế, giáo dục 27,4% và phúc lợi xã hội chỉ chiếm 9,2%.
Cả mức thu nhập và tỷ trọng thu nhập từ an sinh xã hội của các hộ gia đình ở thành thị đều cao hơn so với các hộ gia đình ở nông thôn: cụ thể thu nhập từ an sinh xã hội bình quân đầu người /năm ở thành thị là 10,2 triệu đồng, gấp đôi so với 4,7 triệu đồng ở nông thôn; tỷ trọng thu nhập an sinh xã hội ở thành thị là 166%, nhiều gấp đôi so với tỷ trọng 78% ở nông thôn.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2017
(2) Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2013) trích theo Trung tâm Nghiên cứu phát triển: Rà soát chính sách gắn kết xã hội tại Việt Nam, OECD, Development Center, 2014, tr.139.
Cập nhật thông tin chi tiết về Nghiên Cứu Xã Hội Học Ở Việt Nam trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!