Bạn đang xem bài viết Một Số Về Thẻ Ngân Hàng được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1. Khái niệm Thẻ ngân hàng (thường được gọi tắt là “thẻ”): Là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thoả thuận. Các tổ chức phát hành thẻ hiện nay bao gồm các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và một số công ty tài chính. 2. Phân loại thẻ ngân hàng Thẻ ngân hàng được phân loại như sau: – Theo phạm vi lãnh thổ sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ nội địa và thẻ quốc tế. Việc phân loại thành thẻ nội địa hay thẻ quốc tế là dựa trên phạm vi chủ thẻ có thể sử dụng thẻ, còn về mặt tính năng thì cả thẻ nội địa hay thẻ quốc tế đều có thể là thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng hoặc thẻ trả trước. + Thẻ nội địa được sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và sử dụng các dịch vụ khác trong nước. + Thẻ quốc tế được sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và sử dụng các dịch vụ ở cả trong nước và ở nước ngoài. Các thương hiệu thẻ quốc tế đã được các ngân hàng tại Việt Nam phát hành là Visa, MasterCard, JCB, American Express, UP. Khi có nhu cầu thanh toán trong các chuyến công tác, du lịch hoặc phục vụ cho học tập, mua sắm ở nước ngoài thì thẻ quốc tế là một lựa chọn tiện dụng và hiệu quả cho khách hàng.
Thẻ nội địa
Thẻ quốc tế
Tuy nhiên, hiện nay, thông qua kết nối của tổ chức chuyển mạch thẻ trong nước là Banknetvn với các tổ chức chuyển mạch ở nước ngoài, thẻ nội địa của một số ngân hàng ở Việt Nam phát hành đã có thể sử dụng để giao dịch tại ATM và các điểm chấp nhận thẻ ở một số nước khác. Điều này cho thấy sự phát triển về mặt công nghệ, kỹ thuật và các quan hệ hợp tác, liên kết của hệ thống thanh toán thẻ của Việt Nam với thế giới, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ cho các chủ thẻ Việt Nam.
- Theo nguồn tài chính đảm bảo cho việc sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước. + Thẻ ghi nợ (debit card) là loại thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ mở tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn Chiếc thẻ loại này ban đầu được biết đến là thẻ rút tiền mặt, với tính năng rút tiền mặt từ tài khoản thanh toán của chủ thẻ tại các máy giao dịch tự động (ATM), vì thế loại thẻ này thường được gọi là thẻ ATM. Thay vì trước kia, chủ thẻ phải đến quầy giao dịch ngân hàng, xếp hàng theo thứ tự để làm thủ tục rút tiền thì giờ đây chủ thẻ chỉ cần đến máy ATM (của ngân hàng mình hoặc các ngân hàng có liên kết), thực hiện thao tác đút thẻ vào máy, nhập mã số bảo mật PIN, nhập số tiền cần rút và nhận tiền. Chính vì tiện ích “giao dịch tự động” này mà chủ thẻ có thể thực hiện việc rút tiền mặt vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, ngay cả ngoài giờ làm việc, trong các ngày nghỉ, lễ, tết.
Thẻ ghi nợ
Từ chiếc thẻ ATM với tính năng đơn giản là rút tiền mặt, các ngân hàng đã phát triển chiếc thẻ ghi nợ với thêm nhiều tính năng đa dạng hơn. Vẫn tích hợp đầy đủ các tiện ích của thẻ ATM như: rút tiền, kiểm tra số dư, chuyển khoản…, thẻ ghi nợ hiện nay còn được sử dụng để mua hàng hoá tại siêu thị hoặc thanh toán hoá đơn tại các nhà hàng; đặc biệt có thể sử dụng trong thanh toán các giao dịch trực tuyến trên internet (đặt mua vé máy bay, mua hàng trên các trang thương mại điện tử…) với thao tác thực hiện đơn giản, dễ dàng. Trên thực tế hiện nay, một số người đồng nhất khái niệm thẻ ghi nợ với “thẻ ATM”, điều này là không chính xác. Với đặc điểm được phát hành dựa trên tài khoản thanh toán của khách hàng, “có bao nhiêu, tiêu bấy nhiêu” nên chủ thẻ hoàn toàn chủ động chi tiêu trong phạm vi số tiền trong tài khoản của mình; tuy nhiên, chủ thẻ cũng cần lưu ý việc quản lý số dư trong tài khoản để chắc chắn rằng các giao dịch của mình được thực hiện. + Thẻ tín dụng (credit card) là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được cấp theo thoả thuận với tổ chức phát hành thẻ.
Thẻ tín dụng
Thông thường, thẻ tín dụng được ngân hàng cấp cho chủ thẻ với một hạn mức nhất định dựa trên cơ sở đánh giá và thẩm định uy tín tín dụng, mức lương hàng tháng của chủ thẻ hoặc số tiền ký quỹ hay tài sản mà chủ thẻ đảm bảo tại ngân hàng. Với đặc điểm là “chi tiêu trước, trả tiền sau”, thẻ tín dụng hỗ trợ đắc lực cho chủ thẻ thực hiện nhanh chóng các giao dịch thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ hay trên các website thương mại điện tử. Định kỳ đến một ngày nhất định theo quy định của từng ngân hàng, ngân hàng gửi một bảng kê cụ thể các khoản chi tiêu trong tháng trước đó của chủ thẻ tín dụng và yêu cầu chủ thẻ thanh toán. Chủ thẻ có thể chọn thanh toán số tiền trước thời hạn ghi trong thông báo, khi đó chủ thẻ không phải trả lãi. Nếu không, chủ thẻ có thể lựa chọn trả số tiền tối thiểu, phần còn lại có thể trả từ từ và sẽ bị tính lãi theo quy định của ngân hàng. Các ngân hàng thường phân thẻ tín dụng theo hạng nhằm quản lý đối tượng khách hàng như thẻ chuẩn (standard), thẻ vàng (gold), thẻ bạch kim (platinum)… Chủ thẻ sử dụng thẻ tín dụng có phân hạng càng cao thì được hưởng càng nhiều ưu đãi và dịch vụ chất lượng hơn. + Thẻ trả trước (prepaid card) là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi giá trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền mà chủ thẻ đã trả trước cho tổ chức phát hành thẻ. Điều đó có nghĩa là, khi chủ thẻ có một chiếc thẻ trả trước thì có thể “nạp tiền” vào thẻ qua các kênh của ngân hàng và chi tiêu trên số tiền đã nạp đó.
Thẻ trả trước
Thẻ trả trước bao gồm thẻ trả trước xác định danh tính (thẻ trả trước định danh) và thẻ trả trước không xác định danh tính (thẻ trả trước vô danh). Điểm khác biệt cơ bản về tính năng giữa thẻ trả trước vô danh và thẻ trả trước định danh là sau lần nạp tiền lần đầu, thẻ trả trước vô danh sẽ không được nạp thêm tiền và chỉ được sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, số dư trên một thẻ trả trước vô danh không được vượt quá năm triệu đồng Việt Nam theo quy định hiện hành. Các loại thẻ trả trước hiện nay chủ yếu sử dụng để thanh toán chi phí mua xăng, dầu, dịch vụ giải trí, dịch vụ giao thông – vận tải và thanh toán trên các website thương mại điện tử. 3. Những thông tin chủ yếu của một thẻ ngân hàng
Hình ảnh mặt trước của thẻ
Hình ảnh mặt sau của thẻ
Thẻ ngân hàng thông thường được thiết kế là một miếng nhựa (plastic) có kích thước tiêu chuẩn (thường là 8,5*5,5 cm) và có một băng từ ở mặt sau lưu trữ thông tin về chủ thẻ, cũng có thể có chíp điện tử để lưu trữ các thông tin, dữ liệu khác. Trên chiếc thẻ nhựa thường có tên hoặc logo của tổ chức phát hành thẻ, tên chủ thẻ, ngày hiệu lực của thẻ, số thẻ, logo của tổ chức thẻ quốc tế (như Visa, MasterCard, JCB) hoặc tổ chức chuyển mạch thẻ trong nước (như Banknetvn). Chủ thẻ cần lưu ý ký chữ ký của mình vào dải trống được thiết kế trên mặt sau của tấm thẻ. Ngoài ra, trên thẻ còn có một số thông tin hữu ích khác như số điện thoại chăm sóc khách hàng, website của tổ chức phát hành thẻ để chủ thẻ có thể liên hệ trong các trường hợp cần thiết. Trên thế giới hiện nay đã xuất hiện loại thẻ phi vật lý (thẻ ảo) mà tổ chức phát hành thẻ cấp cho chủ thẻ để giao dịch qua internet, điện thoại di động mà không cần in ra thẻ vật lý (thẻ nhựa thông thường). Tại Việt Nam cũng đã có một vài ngân hàng thí điểm thử nghiệm loại thẻ này. Mã số xác định chủ thẻ (Personal Identification Number – viết tắt là PIN) là mã số mật của cá nhân được tổ chức phát hành thẻ cung cấp cho chủ thẻ, sử dụng trong một số giao dịch thẻ để chứng thực chủ thẻ. Mã số này do chủ thẻ chịu trách nhiệm bảo mật. Chủ thẻ cần lưu ý là không nên đặt PIN theo ngày sinh, số điện thoại,… để tránh người khác có thể đoán biết. Trong trường hợp bị mất thẻ và bị lộ PIN hoặc nghi ngờ bị lộ PIN, chủ thẻ nên gọi ngay đến số điện thoại đường dây nóng (hotline) của ngân hàng phát hành thẻ để thông báo sự cố và được hỗ trợ giải quyết, hạn chế tối đa rủi ro phát sinh nếu người khác lợi dụng thẻ để rút tiền. Máy giao dịch tự động (Automated Teller Machine – hay viết tắt là ATM) đã trở thành từ ngữ thông dụng cùng với thẻ ngân hàng khi xuất hiện ở Việt Nam. ATM là thiết bị mà chủ thẻ có thể sử dụng để gửi, nạp, rút tiền mặt, chuyển khoản, tra cứu thông tin giao dịch thẻ hoặc sử dụng các dịch vụ khác. Cùng với số lượng thẻ phát hành tăng lên nhanh chóng trong các năm gần đây, mạng lưới ATM cũng được các ngân hàng đầu tư trang bị, nâng cấp, kết nối liên thông giữa các hệ thống của các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu giao dịch của chủ thẻ trên cả nước. Một máy ATM thế hệ mới có thể bao gồm nhiều tính năng hỗ trợ chủ thẻ thực hiện các giao dịch như: rút tiền mặt, nộp tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán hóa đơn (điện, nước, điện thoại, thẻ tín dụng), gửi tiền tiết kiệm, tra cứu thông tin (số dư, tỷ giá, địa điểm đặt máy ATM, sao kê…), và cả dịch vụ rút tiền mặt mà không cần phải dùng thẻ. Đơn vị chấp nhận thẻ là các tổ chức, cá nhân chấp nhận thanh toán hàng hoá và dịch vụ bằng thẻ. Các đơn vị chấp nhận thẻ thường là các nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng,… nơi đặt các thiết bị chấp nhận thẻ (như máy POS, EDC). Đặc biệt, gần đây các ngân hàng và đối tác công nghệ đã cung cấp ra thị trường giải pháp điểm chấp nhận thanh toán thẻ trên thiết bị di động (mPOS), hỗ trợ các đơn vị chấp nhận thẻ có thể chấp nhận thanh toán qua thiết bị điện thoại di động cả thẻ quốc tế và thẻ nội địa của nhiều ngân hàng. Giải pháp mPOS được thiết kế phù hợp với nhiều loại hình kinh doanh và dịch vụ, từ các công ty, nhà hàng, tổ chức cung ứng hàng hóa, dịch vụ có giao hàng và thu tiền tại nhà, đảm bảo an toàn và hiệu quả. Việc mở rộng của hệ thống các đơn vị chấp nhận thẻ và kết nối liên thông mạng lưới thiết bị chấp nhận thẻ của các ngân hàng trên toàn quốc thời gian qua đã giúp chủ thẻ có thể thanh toán một cách đơn giản và thuận tiện hơn. Cụ thể là chủ thẻ của các ngân hàng có thể thanh toán bằng thẻ thông qua POS mà một ngân hàng trang bị tại điểm chấp nhận thẻ mà không cần phải dùng tiền mặt cũng như không cần có nhiều loại thẻ của nhiều ngân hàng như trước đây. Bản thân các ngân hàng cũng không cần cùng lúc lắp đặt thiết bị chấp nhận thẻ riêng của mình tại một đơn vị chấp nhận thẻ, gây lãng phí không cần thiết.
Hình ảnh chủ thẻ thực hiện thao tác thanh toán bằng thẻ tại máy POS
Hiện nay, nhiều ngân hàng phối hợp với các đơn vị chấp nhận thẻ như các cửa hàng, siêu thị điện máy, trung tâm thương mại, công ty dịch vụ du lịch, giải trí,… đã dành thêm nhiều ưu đãi cho khách hàng khi thanh toán bằng thẻ, góp phần khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Các chủ thẻ cũng cần lưu ý là họ có quyền sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ mà không bị phân biệt giá so với trường hợp thanh toán bằng tiền mặt, không phải trả thêm tiền hoặc phụ phí cho đơn vị chấp nhận thẻ. 5. Một số lưu ý để giao dịch an toàn với thẻ ngân hàng Nguyên tắc chung: – Khi nhận thẻ, Quý khách cần thực hiện kiểm tra các thông tin trên thẻ để đảm bảo đúng với các thông tin Quý khách đãđăng ký. – Đổi ngay mã số cá nhân (PIN) đối với các thẻ ghi nợ mà ngân hàng cung cấp tại máy ATM để kích hoạt thẻ. – Không ghi mật khẩu lên thẻ hoặc gần nơi để thẻ để tránh việc lộ thông tin và bị lợi dụng. Luôn bảo mật thẻ và PIN của thẻ trong mọi trường hợp: Không đưa thẻ của mình cho bất cứ người nào khác trừ những nhân viên của ngân hàng hoặc các nhân viên thu ngân của ĐVCNT được chỉ định để làm việc với Quý khách; – Không tiết lộ các thông tin in trên hai mặt trước và sau thẻ cũng như số PIN cho bất cứ ai. Quý khách là người duy nhất được biết các thông tin đó. – Khi thực hiện giao dịch sử dụng PIN, Quý khách nên lưu ý: Đảm bảo không ai nhìn thấy số PIN khi thực hiện giao dịch (bằng cách che bàn phím). Nên đổi số PIN thường xuyên. Nếu nhập sai PIN 03 lần liên tiếp, thẻ sẽ bị khóa để đảm bảo an toàn. - Đăng ký và sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng (i- B@nking, SMS B@nking…) để đảmbảo: Đượcthông báo các biến động liên quan đến tài khoản cá nhân hoặc hạn mức thẻ ngay khi một giao dịch thẻ được thực hiện; Chủ động khóa/mở tính năng chi tiêu trên internet đối với thẻ tín dụng quốc tế để kiểm soát các giao dịch thanh toán online; Kiểm tra chi tiết sao kê thẻ tín dụng quốc tế. Thông báo ngay cho ngân hàng những thay đổi của Quý khách về địa chỉ cư trú, địa chỉ gửi sao kê, thay đổi số điện thoại liên hệ, chữ ký… Nguyên tắc bảo quản thẻ: - Không bẻ cong thẻ, gấp thẻ; – Không để thẻ gần những thiết bị điện tử có thể phát sóng, từ tính mạnh có thể làm hỏng dữ liệu trên thẻ; - Tránh làm xước băng từ mầu đen ở mặt sau của thẻ; – Giữ thẻ cẩn thận và để thẻ ở vị trí có thể giúp Quý khách sớm phát hiện việc mất thẻ. Nguyên tắc khi giao dịch tại máy ATM: Quan sát kỹ máy ATM trước khi thực hiện giao dịch, đặc biệt tại các vị trí: kheđọc thẻ, bàn phím, camera. Nếu nhận thấy máy ATM có các thiết bị lạ hoặc có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào, Quýkhách ngừng giao dịch và thông báo ngay cho các ngân hàng qua hotline của các ngân hàng. Nên dùng tay che bàn phím khi nhập mật khẩu PIN. Cần đợi máy chi tiền ra, không nên bỏ đi ngay để tránh trường hợp máy ATM nhả tiền chậm vàngười khác có thể lấy được số tiền này. Nguyên tắc khi giao dịch thẻ để thanh toán trên Internet: Chỉ sử dụng thông tin thẻ để thanh toán tại các website uy tín, không nên sử dụng máy tính công cộng khi thực hiện các giao dịch thanh toán online. Đọc kỹ các chính sách của đơn vị trước khi đồng ý thanh toán. Luôn nhớ Thoát/Đăng xuất khỏi website sau khi kết thúc giao dịch. (Nguồn: Tham khảo tại http://www.sbv.gov.vn)
Một Số Thông Tin Về Mạng Lte
Băng thông rộng dành cho di động hiện đang trở thành hiện thực bởi cơn sốt công nghệ mạng 4G hay còn gọi là mạng LTE (Long Term Evolution). Đây là thế hệ thứ 4 được phát triển từ 3G hiện tại không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng mà còn cho các nhà cung cấp mạng di động.
Mạng LTE đang dần thay thế các công nghệ 2G và 3G trước đây để trở thành mạng chủ lực trên thế giới. Với sử mở rộng công nghệ LTE này thì các công nghệ trước đây như CDMA và GSM cũng sẽ cùng tồn tại trên thị trường cung cấp dịch vụ mạng.
Dưới đây là một số thông tin về công nghệ mạng LTE hoạt động như thế nào và lợi ích kinh tế được mong đợi từ mạng LTE này sẽ mang đến cho nhà mạng hiệu quả ra sao?
Cách thức hoạt động mạng LTE
Mạng LTE là sự thay đổi tần số và băng thông sử dụng. Khi so sánh với mạng GSM 3G sử dụng tần số 5Mhz, thì mạng LTE sử dụng tần số trải rộng hơn từ 1.4 Mhz đến 20 Mhz với các tiêu chuẩn băng thông bao gồm 1.4, 3, 5, 10, 15 và 20 Mhz.
Đây là tiềm năng tương lai đối với các nhà cung cấp dịch vụ khi có thể cung cấp tốc độ sử dụng mạng cao hơn tuỳ vào khả năng cung cấp băng thông tại quốc gia sở hữu công nghệ.
Hầu hết các băng tần đều dùng công nghệ chia đôi tần số gọi là FDD bao gồm gởi và nhận dữ liệu. Công nghệ này đã được sử dụng rộng rãi tại các quốc gia Bắc Mỹ, Châu Âu và một số thị trường châu Á.
Bên cạnh đó, công nghệ chia đôi thời gian sử dụng cho việc gởi và nhận dữ liệu cùng lúc được triển khai tại các quốc gia như Ấn Độ và Trung Quốc tương tự như công nghệ TD-LTE có thể sử dụng trên mỗi Mhz.
Mạng LTE sử dụng 2 đường là gởi và nhận dữ liệu từ tháp anten đến thiết bị. Trong đó mạng LTE sử dụng một OFDMA có thể sử dụng cho nhiều đầu vào cũng như nhiều đầu ra để giảm độ trễ tín hiệu và tăng tốc độ mỗi kênh.
Mạng LTE chuẩn sắp xếp theo cấu trúc 4 x 4 để truyền và nhận tín hiệu từ anten. Ngược lại, mạng LTE sử dụng tín hiệu SC-FDMA bởi hầu hết thiết bị hỗ trợ đều gởi tín hiệu không hiệu quả vì vậy tín hiệu SC-FDMA hỗ trợ nhằm tăng hiệu quả gởi dữ liệu trên các thiết bị.
Lợi ích từ mạng LTE
Lợi ích lớn nhất từ mạng LTE là khả năng truyền tải dữ liệu tốc độ cao về lý tuyết có thể tải dữ liệu lớn hơn 100 Mbps và gởi dữ liệu với tốc độ cao hơn 50 Mbps tuỳ thuộc vào băng thông truyền tải dữ liệu mỗi kênh, cấu trúc MIMO và chất lượng mạng.
Hiện tại, hầu hết mạng LTE sử dụng dữ liệu ở mức 5Mbps đến 25 Mbps nhưng trong tương lai với những cải tiến mới thì tốc độ sẽ được nâng cao hơn phục vụ cho các dịch vụ Internet.
Các thiết bị như máy tính xách tay, smartphone, tablet và thậm chí là thiết bị điện tử hay camera đều sử dụng mạng LTE để truy cập mà không còn sợ những vấn đề như các công nghệ trước đang gặp.
Sự xuất hiện các dịch vụ VoIP sử dụng mạng LTE sẽ dần thay thế các dịch vụ gọi và nhắn tin thông thường mang lại lợi ích trong việc tiết kiệm chi phí xây dựng và bảo trì hệ thống, bên cạnh đó là những khả năng như “plug and play”, tự cấu hình và tối ưu sẽ là một lợi thế mới đối với công nghệ LTE.
Tăng trưởng toàn cầu trên thế giới mạng
Hiện đã có 200 nhà cung cấp dịch vụ mạng LTE vào tháng 8/2013 và dự kiến sẽ tăng tưởng đến 425 nhà cung cấp dịch vụ mạng LTE vào năm 2023 và đến hết quý 2/ 2013 đã có 64.8 triệu thuê bao sử dụng dịch vụ mạng LTE tại thị trường Mỹ và Canada.
Thị trường mạng LTE toàn cầu đã có tăng trưởng từ 75 triệu thuê bao vào tháng 12/2012 lên 126 triệu thuê bao vào tháng 6/2013. Có lẽ dịch vụ mạng LTE vẫn đang trong giai đoạn đầu phát triển nhưng tương lai về mạng 5G hay mạng LTE-Advanced sẽ là một triển vọng có thể trở thành hiện thực.
Thông Tin Về Dịch Vụ Trong Ngân Hàng
Internet Banking là gì?
Internet Banking là gì? Đây là dịch vụ ngân hàng trực tuyến hay ngân hàng điện tử thực hiện thông qua mạng Internet của các ngân hàng.
Thiết bị để sử dụng cho dịch vụ này là các công cụ có kết nối với internet như: Điện thoại, laptop, máy tính.
Với dịch vụ Internet Banking này khách hàng sẽ có thể thực hiện được hầu hết các giao dịch tại ngân hàng mà không cần phải đến phòng giao dịch của ngân hàng để thực hiện.
Bạn có thể kết nối với ngân hàng ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay cả khi ở nhà bạn vẫn có thể chuyển tiền hay tra cứu tài khoản chỉ bằng vài thao tác.
Việc giao dịch vụ Internet Banking sẽ được bảo mật xác thực bởi mã OTP của hệ thống tạo. Chúng sẽ được gửi đến số điện thoại mà khách hàng đã đăng ký.
Hơn hết, mức phí của dịch vụ Internet Banking rất rẻ có ngân hàng thu phí còn có ngân hàng thì không.
Mức phí trung bình cho việc sử dụng dịch vụ khoảng 8.000 – 10.000đ/1 tháng. Thực sự rất rẻ đúng không nào!
Những điều cần biết về Internet banking?
Những tiện ích của khách hàng khi sử dụng dịch vụ Internet banking là gì?
Dịch vụ Internet banking giúp quản lý thông tin tài khoản của khách hàng như: Tiền gửi thanh toán, tiền vay, tiền gửi tiết kiệm, truy vấn số dư và sao kê giao dịch.
Dịch vụ Internet banking giúp chuyển khoản trong nội bộ ngân hàng hoặc liên ngân hàng. Bạn chỉ cần thực hiện vài thao tác là đã có thể được tiền.
Giúp chuyển tiền nhận bằng CMND/Hộ chiếu ở trong hay ngoài hệ thống của ngân hàng.
Chúng còn giúp thanh toán trực tuyến các hoạt động của khách hàng như: Đóng tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, mua thẻ game, mua thẻ điện thoại, mua thẻ visa ảo, nạp tiền internet,…
Tất cả các hoạt động có thu tiền trên Internet. Vậy đăng ký dịch vụ này bằng cách nào?
Đăng ký Internet Banking như thế nào?
Bên cạnh vấn đề Internet Banking là gì? Nhiều khách hàng còn tò mò không hiểu xem cách thức để đăng ký Internet Banking như thế nào?
Việc đăng ký và sử dụng dịch vụ Internet Banking vô cùng đơn giản. Bạn sẽ không phải làm giấy tờ hay thủ tục lại phức tạp. Bạn chỉ cần thực hiện đăng ký theo cách sau:
Cách 1:
Cách 2:
Bạn có thể gửi thông tin cá nhân của mình về việc đăng ký sử dụng dịch vụ Internet Banking thông qua hệ thống website của ngân hàng.Tuy nhiên, với cách làm này chỉ có một số ngân hàng áp dụng.
Chỉ cần đăng ký được hoàn thành là bạn đã có thể thực hiện được những giao dịch có trên dịch vụ Internet Banking mà ngân hàng cung cấp.
Nguồn: SHBS tổng hợp
5
/
5
(
1
bình chọn
)
Mã Pin Thẻ Atm Vietcombank Có Mấy Số? Thông Tin Về Thẻ Atm Vietcombank
Thẻ atm Vietcombank có những đặc điểm gì?
Thẻ atm Vietcombank là “đứa con tinh thần” của ngân hàng Vietcombank phát hành ra thị trường trong suốt những năm qua. Mọi công dân Việt Nam hoặc nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam, trên 18 tuổi và có CMND/ hộ chiếu đều có thể đến các chi nhánh của vietcombank để đăng ký mở thẻ này. Thẻ atm vietcombank chủ yếu là loại thẻ ghi nợ. Dùng để giao dịch trong nội bộ nước Việt Nam.
Thẻ atm vietcombank được làm theo công nghệ phát hành thẻ chip hiện đại nhất ( EMV). Công nghệ này giúp mỗi chiếc thẻ của khách hàng như một bộ vi xử lý máy tính thu nhỏ.
Thẻ ghi nợ của Vietcombank ngày nay không còn chỉ dừng lại ở những chức năng cơ bản như chuyển tiền, rút tiền nữa. Mà nó còn cho phép khách hàng thanh toán online trên các website thương mại điện tử. Trả tiền điện, nước, mạng… hàng tháng.
Điều kiện đăng ký mở thẻ atm vietcombankNgân hàng Vietcombank yêu cầu khách hàng phải có đủ một số điều kiện cơ bản sau để mở thẻ:
– Là công dân mang quốc tịch Việt Nam. Nếu là công dân nước ngoài sinh sống tại Việt Nam thì phải có giấy tờ hợp pháp.
– Có CMND/ căn cước/ hộ chiếu.
– Có năng lực hành vi dân sự.
– Từ 18 tuổi trở lên.
– Đã có tài khoản ngân hàng vietcombank. Nếu chưa có sẽ được mở tài khoản song song với việc mở thẻ.
Khi sử dụng thẻ, khách hàng phải tuân thủ tuyệt đối những yêu cầu đưa ra từ phía ngân hàng:
– Điền đầy đủ thông tin cá nhân và thông tin cần thiết khác trong phiếu yêu cầu mở thẻ.
– Ngân hàng sẽ hẹn bạn 7 – 10 ngày sau quay lại lấy thẻ atm. Bạn có thể đến trễ hơn nhưng không được quá 45 ngày.
– Người đến nhận thẻ phải làm chủ thẻ atm. Không cho phép uỷ quyền người khác đến lấy.
– Phí phát hành thẻ lần đầu: Thực chất của việc phát hành thẻ là bạn sẽ được miễn phí mở thẻ. Tuy nhiên, bạn vẫn phải nộp cho ngân hàng 50 nghìn đồng để chuyển vào tài khoản ngân hàng làm số dư tối thiểu duy trì tài khoản.
– Rút tiền tại cây atm Vietcombank: 1.100 đồng/ lần. Chuyển tiền tại cây atm vietcombank: 3.300 đồng/ lần. Kiểm tra số dư tại cây atm vietcombank: miễn phí.
– Rút tiền tại cây atm khác vietcombank: 3.300 đồng/ lần. Chuyển tiền tại cây atm khác vietcombank: 5.500 đồng / lần. Kiểm tra số dư tại cây atm khác vietcombank: 550 đồng/ lần.
– Rút tiền khác ngân hàng qua thẻ atm: 7.700 đồng/ giao dịch dưới 100 triệu. Còn giao dịch trên 100 triệu tính thêm phí 0,022% số tiền chuyển.
– Ngoài ra nếu bạn làm mất thẻ atm vietcombank và phải cấp lại thẻ thì phải nộp 50.000 đồng. Quên mật khẩu yêu cầu ngân hàng cấp lại mất phí 10.000 đồng.
Mã pin mật khẩu thẻ ATM Vietcombank là gìMã pin thẻ ATM Vietcombank hay còn được gọi là mật khẩu. Mọi người vẫn tưởng đây là 2 loại mã khác nhau tuy nhiên nó là 1. Khi sử dụng thẻ atm bất cứ ai cũng phải chú ý đến mật khẩu mã pin của thẻ ATM. Không được tiết lộ ra ngoài cho người thứ 2 biết. Vì đây là bức tường bảo mật duy nhất của tài khoản.
Mã pin thẻ atm Vietcombank có mấy số?Mã pin là lớp bảo vệ thẻ atm cơ bản và quan trọng nhất. Trong trường hợp không may bị mất thẻ và rơi vào tay người khác. Thì cũng khó mà lấy được tiền trong tài khoản vì còn có lớp mật khẩu bảo vệ này.
Để kích hoạt thẻ atm vietcombank. Bạn phải đến cây atm vietcombank gần nhất để đổi mật khẩu. Cây atm khác vietcombank chỉ giúp bạn thực hiện các giao dịch chuyển tiền, rút tiền mà không đổi mật khẩu được.
Các bước đổi mật khẩu mã pin thẻ atm vietcombank– Bước 1: Mang thẻ atm đến cây atm vietcombank gần nhất.
– Bước 3: Chọn ngôn ngữ là Tiếng Việt. Hoặc ngôn ngữ nào mà bạn thành thạo.
– Bước 5: Màn hình máy atm sẽ chuyển sang giao diện mới để cho bạn lựa chọn tính năng. Lúc này bạn nhấn chọn Đổi mã pin.
– Bước 6: Bạn nhập mã pin cũ vào rồi nhấn Enter.
– Bước 7: Nhập mật khẩu mới cũng gồm 6 số. Nên chọn mật khẩu dễ nhớ, có ý nghĩa đối với bạn. Không đặt mật khẩu kiểu 123456, 000000… vì nó rất dễ đoán.
– Bước 8: Nhập mã pin mới 1 lần nữa để xác thực. Xong rồi nhấn Enter.
Gợi ý nên đọc: Bị mất thẻ ATM Vietcombank phải làm sao
Một Số Khái Niệm Cơ Bản Về Thông Tin Và Hiệu Quả Thông Tin
Thông tin
Chúng ta đang sống trong thời đại mà thuật ngữ thông tin được đề cập mọi lúc, mói nơi: thông tin, một nền công nghiệp thông tin, một xã hội thông tin, thông tin là nguồn lực của sự phát triển, thông tin là lợi nhuận…
Có thể nói, Khái niệm thông tin là khái niệm cơ bản của khoa học, cũng là khái niệm trung tâm của xã hội trong kỷ nguyên số. Mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người đều dựa trên một hình thức giao lưu thông tin nào đó. Mọi tri thức đều bắt nguồn bằng một thông tin về những điều đã diễn ra, về những cái người ta đã biết, đã nói và đã làm. Và điều đó luôn xác định bản chất và chất lượng của những mối quan hệ của con người
1.1 Khái niệm thông tin
Có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Thậm chí ngay các từ điển cũng không thể có một định nghĩ thống nhất. Ví dụ từ điển Oxford English Dictionary thì cho rằng thông tin là điều mà người ta đánh giá hoặc nói đến; là tri thức, tin tức. Một số từ điểm thì đơn giản đồng nhất thông tin với kiến thức – Thông tin là điều mà người ta biết, hoặc thông tin là sự chuyển giao tri thức làm tăng thêm sự hiểu biết của con người,…
Nguyên nhân của sự khác nhau trong việc sử dụng thuật ngữ này chính là do thông tin không thể sờ mó được. Người ta bắt gặp thông tin chỉ trong quá trình hoạt động, thông qua các tác động trừu trượng của nó.
Trong cuốn “Bùng nổ truyền thông”[1], Từ Latin “Informatio”, gốc của từ hiện đại “Information” (thông tin) cho rằng, thuật ngữ thông tin có thể hiểu theo hai hướng nghĩa: thứ nhất, thông tin là nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình dạng; thứ hai, thông tin là nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng. Hai hướng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt. Tuy nhiên, cùng sự phát triển của xã hội, khái niệm thông tin cũng phát triển theo.
Theo nghĩa thông thường, thông tin là tất cả các sự kiện, sự việc, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thông tin hình thành trong quá trình giao tiếp: một người có thể nhận thông tin trực tiếp từ người khác thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong môi trường xung quanh.
Theo quan điểm triết học, thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh…hay nói rộng hơn bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người,
Khi khoa học công nghệ phát triển đến trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, thuật ngữ thông tin cũng có những cách hiểu khác nhau khi sử dụng đến nó.[2]
Trong lĩnh vực viễn thông, thông tin là toàn bộ hoạt động nhằm mục đích vận chuyển, đảm bảo tính chính xác của các thông điệp.
Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, thông tin hoạt động chủ yếu dựa trên nội dung của các thông điệp, nhất là khi tiếp xúc với công chúng.
Trong lĩnh vực báo chí, thông tin được dùng để nói đến chất liệu ngôn ngữ sống, sự miêu tả câu chuyện, bằng chúng, chỉ cần nó thể hiện một nhân tố của thực tại. Ví dụ khi ta sử dụng thông tin để nói về câu chuyện do nhà báo kể lại bao gồm một hoặc một số sự kiện liên kết thành.
Như vậy, cùng sử dụng thuật ngữ thông tin, nhưng khái niệm thông tin mà các nhà báo sử dụng hoàn toàn khác với những khái niệm thông tin mà các nhà kỹ thuật viễn thông xử lý hoặc thông tin mà các nhà tin học chế tạo. Để có cái nhìn phù hợp với định hướng, trong nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào phân tích thuật ngữ thông tin trong báo chí.
1.2 Thông tin trong báo chí
Định nghĩa trên của E.P.Prôkhôrốp dường như hơi bó hẹp về thông tin trong báo chí. Bởi vì nếu hiểu theo định nghĩa trên thì cảm tưởng như một số các tư liệu của một số bài báo hay một số chương trình sẽ không phải là thông tin như phóng sự, điều tra, phim tài liệu…
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”[4] cho rằng thông tin trong báo chí đang tồn tại hai cách hiểu: Một là, tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Hai là, sự loan báo cho mọi người biết.
Theo cách hiểu đầu tiên, thông tin thể hiện tính chất khởi đầu, khởi điểm (tương tự với khái niệm hình tượng trong nghệ thuật, hàng hóa trong kinh tế…). Đây là đặc trưng cơ bản của báo chí nói chung.
Còn theo cách hiểu thứ hai, là sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện có để truyền đạt kết quả sáng tạo của nhà báo ra thế giới xung quanh. Như vậy, thông tin cũng chính là chức năng của báo chí (theo nghĩa là sử dụng phương tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo).
Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành cầu nối giữa báo chí và công chúng. Nó là dụng cụ làm việc của nhà báo, với sự giúp đỡ của dụng cụ đó, những công việc đa dạng và quan trọng được thực hiện.
Nhiều khi một tin ngắn cũng được coi là thông tin (Ví dụ: tôi vừa nhận được một thông tin quan trọng). Đây là cách hiểu theo nghĩa hẹp, vì thông tin trên báo chí chỉ là một phần nhỏ của tất các tư liệu được công bố đến công chúng (vì một tờ báo, một chương trình không thể nói hết được tất cả các thông tin, họ chỉ chọn lựa những thông tin tác động đến số đông hoặc số đông cần).
Tất cả các tác phẩm báo chí (tin vắn, phim tài liệu, phóng sự…) đều chứa đựng trong mình một hàm lượng thông tin nhất định. Mặc khác, các tiêu đề cũng hàm chứa các giá trị thông tin: vị trí của tác phẩm trên trang báo, chương trình truyền hình, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ báo… dường như chúng đều có chứa đựng thông tin. Nghĩa là chúng đều có tác dụng làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn nhưng vẫn giữa được nguyên phần tư liệu của nó. (Ví dụ cỡ chữ của một bài báo có tác dụng nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin chứa đựng trong bài báo đó).
Thuật ngữ thông tin còn có những cách hiểu rộng hơn. Để hiểu thuật ngữ này một cách đầy đủ, đòi hỏi phải xem xét từng ứng dụng riêng biệt. Chúng ta vẫn có thể gọi toàn bộ các tác phẩm, hay hệ thống tin tức… là thông tin. Hiểu theo các gọi này, thuật ngữ thông tin là một danh từ tập hợp.
Đôi khi, công chúng tiếp cận với các sản phẩm báo chí mà không thu nhận được điều gì mới mẻ, họ sẽ nói “tác phẩn nghèo thông tin” thậm chí là “không có thông tin”. Điều này dường như vô lý với khái niệm chúng ta đã đề cập ở trên. Nhiệm vụ của các tác phẩm báo chí là đem đến thông tin cho công chúng, nhưng tại sao họ lại không tìm thấy chúng trong các tác phẩm? Dường như thông tin trong các tác phẩm báo chí này không phản sánh được thực tế cuộc sống, không thỏa mãn nhu cầu của công chúng.
Nhận thức về thông tin phát triển song song với nhận thức về chức năng, đối tượng phản ánh của báo chí. Muốn có sự nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác định được mục đích hoạt động của báo chí, đồng thời phải nêu lên định hướng có tính nguyên tắc cho những hoạt động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hướng rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phương pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin có hiệu quả để thực hiện chức năng của báo chí.
Một hướng quan trọng trong cách tiếp cận thông tin báo chí là mỗi một tác phẩm, mỗi một chương trình cần phải được xem xét kỹ lưỡng trong hệ thống những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác phẩm báo chí là điểm trung gian của hệ thống nhà báo – tác phẩm – công chúng.
Tác phẩm khi đưa lên báo chí, đối với công chúng, tác phẩm đó mới chỉ thể hiện qua chất lượng của thông tin tiềm năng. Bởi vì những thông tin đó chưa chắc đã được công chúng tiếp nhận. Có nhiều tác phẩm báo chí không thể đến được với công chúng, có thể do kỹ thuật, do công chúng không có thời gian, hay cũng có thể do bản thân các tác phẩm đó không hấp dẫn. Điều này dẫn đến tình trạng thông tin tiềm năng không chuyển thành thông tin hiện thực.
Thông tin hiện thực là những thông tin được nhà báo sáng tạo và được công chúng tiếp nhận qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc có thể họ là người nhận thứ hai (nghe người đã từng đọc, từng xem qua kể lại). Việc đảm bảo sự ổn định trong mối quan hệ lẫn nhau giữa nhà báo và công chúng được thể hiện qua các tác phẩm và chương trình là cần thiết, đảm bảo cho thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện thực. Vì thế, trong khoa học hiện đại có một các định nghĩa về thông tin: Thông tin không chỉ là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo chí khi đã được công chúng tiếp nhận.
Trong hoạt động báo chí, khi tìm hiểu về khái niệm thông tin cần đặt nó trong mối liên hệ trực tiếp với vấn đề hiệu quả, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức và giáo dục đạo đức cho họ để họ có hành động đúng đắn. Vì vậy, chúng ta cũng có thể đồng tình với khái niệm về định nghĩa thông tin: Thông tin là phần tri thức được sử dụng để định hướng, tác động đến những hành động tích cục và quả lý xã hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm phẩm chất, sự hoàn thiện và phát triển hệ thống.[5]
Ở dạng hoàn chỉnh, khái niệm thông tin chứa đựng nội dung rất phong phú, nó có quan hệ trực tiếp đến chứ năng và hiệu quả của công tác báo chí, đến nguyên tắc cung cấp thông tin, đến những yêu cầu nghiệp vụ báo chí và những nguyên tắc tác động lẫn nhau của các mặt nói trên. Khái niệm thông tin là nền tảng của công tác báo chí, cho nên khi nghiên cứu lý luận báo chí, nhà nghiên cứu luôn chú ý đến ý nghĩa của thuật ngữ này.
Hiệu quả
2.1 Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả là gì? Thuật ngữ này cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tài liệu và nhiều lĩnh vực định nghĩa. Cụ thể:
Cuốn điển tiếng pháp Lepetit Lasousse định nghĩa, hiệu quả là kết quả đạt được trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định[6]. Còn từ điển Bách khoa Tiếng Việt lại định nghĩa, hiệu quả là kết quả đạt được giống nhau nhưng sử dụng ít thời gian, công sức và nguồn lực nhất.
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, các nhà ngôn ngữ học định nghĩa khái niệm hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại. Trong khi đó, ở lĩnh vực quản lý hành chính, các nhà quản lý hành chính lại cho rằng, hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của khoa học hành chính, là sự so sánh giữa các chi phí đầu tư với các giá trị của đầu ra, sự tăng đối đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra – đầu vào.
Tác giả Phạm Quang Sáng[7] trong nghiên cứu của mình định nghĩa, hiệu quả là phép so sánh dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu, hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, xác định hiệu quả thường gắn với một hoạt động kinh tế cụ thể và thường cho chúng ta những con số chính xác và cụ thể. Còn đối với các hoạt động xã hội nói chung, hiệu quả thông tin báo chí nói riêng, để tính được hiệu quả đạt được như thế nào sẽ rất khó khăn và phức tạp. Bởi đây là hoạt động mang tính chất định tính nhiều hơn định lượng.
Như vậy, thuật ngữ hiệu quả tương đối phong phú về khái niệm, để tối ưu hóa cách hiểu về khái niệm này, chúng ta nên gắn khái niệm với một nội dung, bối cảnh cụ thể để phân tích.
2.2 Hiệu quả thông tin
Để xác định hiệu quả thông tin, đầu tiên chúng ta cần phải đánh giá được mục tiêu của truyền đạt thông tin, đó là quá trình nhằm cho khách thể: nghe, thấy, hiểu, đồng ý, hành động và phản hồi thông tin.
Việc phản hồi thông tin giúp cho chủ thể biết người tiếp nhận đã: Đã nghe đúng hay chưa? Đã hiểu đúng hay hiểu lầm và hiểu bao nhiêu? Có đồng ý không và trong phạm vi nào? Và dự định hành động, hành động hay không hành động?
Như vậy, hiệu quả thông tin có thể được xác định là:
a, Hiệu quả thông tin là kết quả thông tin đạt được theo yêu cầu trong một khoảng không gian, thời gian, công sức và nguồn lực cụ thể.
b, Hiệu quả thông tin là phép so sánh dành để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu, hoạt động của chủ thể cung cấp thông tin và khách thể tiếp nhận thông tin và chi phí mà họ bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Theo cách định nghĩa này thì hiệu quả thông tin được hiểu gồm đầy đủ các khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, là phép so sánh chỉ mối quan hệ trước – sau, cao – thấp, nhiều – ít giữa kết quả đạt được của quá trình thông tin (đầu ra) và chi phí về mặt thời gian, công sức và nguồn lực (đầu vào). Như vậy, thương số giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” càng lớn thì hiệu quả càng cao.
Cụ thể, coi việc cung cấp thông tin cho công chúng là hoạt động thường xuyên, nhưng nếu công chúng tiếp cận, sau đó nhận thức, hiểu và thay đổi hành vi theo các mục đích của thông tin thì quá trình thông tin đó đã đạt được hiệu quả nhất định.
Thứ hai, là kết quả thực hiện các mục tiêu, hoạt động mà chủ thể cung cấp thông tin đưa đến khách thể tiếp nhận thông tin trong một khoảng không gian và thời gian nhất định.
Ví dụ để đáp ứng nhu cầu phát triển hợp tác sâu rộng trong tương lai, lãnh đạo Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) đưa ra quyết định tăng cường cung cấp các thông tin về lĩnh vực kinh tế của các nước trong khu vực này lên trên trang báo của mình. Công chúng Việt Nam có thêm một kênh quan trọng để tiếp cận các thông tin hữu ích từ TTXVN. Từ đó góp phần trong việc hình thành các hiểu biết, nhận thức và có thể là những ý tưởng phát triển để kinh doanh và hội nhập sâu rộng hơn với các nước trong khu vực ASEAN.
Thứ ba, là chi phí bỏ ra để thực hiện các kết quả đó. Đó có thể là nguồn tài chính để truyền thông tin, nguồn nhân lực phóng viên, biên tập viên để tạo và cung cấp thông tin, hệ thống các tranh thiết bị kỹ thuật tác nghiệp để tạo ra những hiệu quả thông tin đến công chúng.
Dưới góc nhìn kinh tế học, thông tin là những hàng hóa đặc biệt. Để tạo ra những hàng hóa đó, cũng sẽ tốn những tri phí cho khoa học kỹ thuật, công nghệ và nhân lực con người.
Cuối cùng là điều kiện thực hiện quá trình thông tin và các nguồn lực hiện có. Đó là những yếu tố có tính chất ảnh hưởng đến quá trình thông tin như: năng lực tiếp cận thông tin của công chúng tiếp nhận, năng lực chuyên môn của người (nguồn) cung cấp thông tin, nền tảng mối quan hệ giữa người (nguồn) cung cấp thông tin với công chúng tiếp nhận, môi trường tiếp nhận, cơ sở vật chất kỹ thuật, yếu tố văn hóa xã hội…
Những yếu tố quyết định hiệu quả thông tin
3.1 Tiếp cận từ góc nhìn mô hình truyền thông tin
Để tổ chức hoạt động truyền thông có hiệu quả, cần phải hiểu mô hình của thông tin hoạt động như thế nào, nắm được các yếu tổ cơ bản và mối quan hệ thông tin của chúng.
Sơ đồ các phần tử của quá trình truyền thông
Mô hình truyền thông tin trên gồm 9 phần tử. Hai phần tử thể hiện các bên chủ yếu tham gia truyền thông là chủ thể (người gửi) và người nhận. Hai phần tử khác đại diện cho các công cụ truyền thông là thông điệp và phương tiện truyền thông. Bốn yếu tố khác tiêu biểu cho các chức năng truyền thông thông tin là mã hóa, giải mã, phản ứng đáp lại và phản hồi. Phần tử cuối cùng là hệ thống nhiễu.
Để thông tin có hiệu quả, mô hình truyền thông nhấn mạnh những yếu tố then chốt trong hệ thống truyền thông. Chủ thể phải biết mình thông tin đến công chúng nào và muốn có phản ứng đáp lại như thế nào. Họ mã hóa thông điệp theo cách có tính đến quá trình giải mã thông điệp thông thường của công chúng mục tiêu. Họ phải tạo ra những kênh liên hệ để có thể biết được phản ứng đáp lại của người nhận với thông điệp đó.
Để đảm bảo thông điệp có hiệu quả, quá trình mã hóa của người gửi (chủ thể thông tin) phải ăn khớp với quá trình giải mã của người nhận. Thông điệp về cơ bản phải là những tín hiệu quen thuộc đối với người nhận thì thông điệp càng có hiệu quả. Điều này đặt ta vấn đề cần giải quyết cho những người truyền đạt thông tin từ một tầng lớp xã hội muốn truyền đạt có hiệu quả đến một tầng lớp xã hội khác.
Nhiệm vụ của người gửi là đưa được thông tin của mình đến người nhận trong môi trường có rất nhiều nhiễu, vì người ta bị tác động của hàng trăm các thông điệp khác mỗi ngày. Do đó người truyền thông phải tạo ra các thông điệp làm sao để thu hút được sự chú ý của công chúng mặc dù xung quanh có nhiều tác nhân phân tán.
3.2 Tác động của số lượng và chất lượng thông tin
Mỗi thông điệp truyền thông hoàn chỉnh, được phát qua kênh truyền, đến người nhận là một quá trình chuyển từ thông tin tiềm năng sang thông tin hiện thực. Vì thế , hiệu quả của hoạt động thông tin cũng cần được xem xét từ quan điểm thông tin, thể hiện mối quan hệ giữa thông tin tiềm năng và thông tin hiện thực. Công chúng tiếp nhận thông tin (về số lượng và chất lượng) thông qua việc tiếp xúc với các tác phẩm (thông tin tiềm năng) thường trải qua hai bước
Bước một: lựa chọn trong tác phẩm những gì thỏa mãn nhu cầu của họ. Ví dụ một bài báo có chứa đựng 100 đơn vị thông tin tiềm năng (có thể coi một đơn vị thông tin là một ý trọn vẹn trong tác phẩm), nhưng người đọc chỉ tiếp nhận được 20 đơn vị (thông tin hiện thực). Như vậy số lượng thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện thực là 20%. Có thể biểu thị về số lượng của sự tiếp nhận đó thông qua mối quan hệ giữa thông tin hiện thực và thông tin tiềm năng như sau:
I (số lượng) = i (hiện thực)/ i(tiềm năng) x 100%)
(I = Information – thông tin)[8]
Bước hai: là việc xử lý thông tin hiện thực, do ảnh hưởng của thông tin hiện thực vừa được tiếp nhận đã làm thay đổi nhận thức tính cách của quần chúng. Thông tin mới đã tác động làm hình thành các khái niệm, quan điểm, mục đích… bằng những cách khác nhau như hệ thống hóa, phát triển, làm sâu sắc hơn, điều chỉnh hay phá vỡ đi, làm giảm giá trị đi… Sự thay đổi này không do số lượng mà do chất lượng thông tin được tiếp nhận. Tính chất của những thông tin dạng này phản ánh chức năng của nó. Có thể biểu hiện theo công thức
I (chất lượng) = F (thông tin hiện thực)
(F = Feasibility – tính khả thi, tính thực tiễn)
Mức độ chất lượng của thông tin không phụ thuộc vào khối lượng được tiếp nhận mà phụ thuộc vào ý nghĩa, giá trị và ảnh hưởng của nó đối với công chúng.
Những công thức trên không phải dùng để kiểm kê số lượng thông tin của tác phẩm, mà nó phản ánh chính xác chất lượng của thông tin, điều này có tác động đến hiệu quả của thông tin.[7]
Từ các công thức trên chỉ ra một điều, để có thể tạo ra hiệu quả thông tin, chúng ta cần chú trọng cùng một lúc cả hai yếu tố số lượng và chất lượng và đảm bảo tính cân đối của cả hai yếu tố này.
3.3 Thực hiện các mục tiêu đáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin, có tính đến khả năng của chủ thể sáng tạo (tác giả) và công chúng tiếp nhận
Tính hiệu quả còn phụ thuộc vào những phẩm chất cụ thể của các tác phẩm được quy định bởi tài khéo léo vận dụng của chủ thể tạo ra nó (công nghệ, thủ pháp, nghệ thuật hoặc tài năng vốn có). Sự khéo léo ấy lại phụ thuộc vào việc tác giả nắm vững các phương pháp hoạt động của thông tin. Chuỗi mắt xích ấy (phương pháp – sự khéo léo – chất lượng – tính hiệu quả) mang chung khái niệm bao quát là tính hiệu quả của thông tin.
Do vậy, mọi yếu tố đều phục vụ ý đồ đạt cho được kết quả cuối cùng đang tìm kiếm của công chúng. Vậy nên, tất cả những yếu tố trong hoạt động của tác giả, mọi thành tố của hình thức và nội dung tác phẩm của tác giả phải định hướng vào một đối tượng công chúng cụ thể.
Điều hiển nhiên là để tổ chức một cách có hiệu quả hoạt động của mình, chúng ta cần hiểu biết về công chúng của mình và phải biết sử dụng kiến thức đó vào trong công việc sáng tạo và cung cấp thông tin. Ở đây, tính chất của mối quan hệ lẫn nhau giữa người sáng tạo, cung cấp và thông tin là nhất thiết phải có.
Công chúng tiếp nhận thông tin có thể phân biệt thành nhiều dạng:
– Công chúng tiêu thụ – đó là bộ phận tích cực, độc lập hình thành thái độ của mình với thông tin. Công chúng trở thành thính giả, độc giả, khán giả do ý chí của riêng họ, độc lập lựa chọn những nguồn thông tin nào đó có thể tiếp xúc thường xuyên hoặc ngẫu nhiên. Họ sẽ lựa chọn một nguồn thông tin nào đó khi mà họ cảm nhận được rằng nguồn thông tin đó đem đến cho họ những giá trị ý nghĩa về phương diện chủ quan và thỏa mãn nhu cầu của họ.
– Công chúng tương tác – đó là một bộ phận có những biểu hiện tích cực trong mối quan hệ ngược chiều (thông báo, phản hồi với những nguồn tạo ra hoặc cung cấp thông tin cho họ những lời nhận xét, đề nghị, nguyện vọng, tư vấn, khuyến cáo…)
– Công chúng dự tính: nhóm đối tượng được chủ thể thông tin đặc biệt hướng tới. Trong các chính sách thông tin, họ luôn muốn nhóm công chúng đó thành công chúng của mình và đưa ra nhiều chính sách thông tin để thực hiện mục tiêu đó.
– Công chúng tiềm năng: nhóm công chúng chưa tham gia vào quá trình tiếp nhận thông tin, nhưng có khả năng tiếp cận thông tin trong tương lai. Để biến nhóm công chúng này thành nhóm công chúng tiêu thụ, nhóm công chúng tương tác… thì phương hướng và chính sách thông tin phải trải qua những thay đổi căn bản
– Ngoài ra còn nguồn công chúng thứ cấp – nguồn công chúng tiếp nhận các thông tin thông qua một nhóm đối tượng công chúng đầu tiên (nhóm được trực tiếp tiếp nhận thông tin từ nguồn cung cấp).
Từ những nhóm công chúng đó, chủ thể cung cấp thông tin cần tìm ra những phương pháp để truyền tải thông tin phù hợp với các nhu cầu và đồng thời cũng làm xuất hiện ở công chúng sự quan tâm tích cực và làm sao để thông tin ấy được công chúng chủ động tìm kiếm và khai thác.
Chủ thể cung cấp thông tin cần có sự quan tâm sống động đến công chúng, sự tin cậy ngày càng được củng cố từ công chúng. Do đó, sự bất bình của công chúng, những lời than vãn về việc công chúng không quan tâm, không hiểu, không chú ý, trước hết phải dành cho chính chủ thể cung cấp thông tin: vì chính họ đã không biết cách thiết lập mối quan hệ với công chúng.
Còn công chúng, với tư cách là người sử dụng sản phẩm thông tin thì chẳng có lỗi gì cả: cần thiết lập quan hệ với công chúng như nó vốn như thế. Nhưng đồng thời cũng không được để công chúng dẫn dắt và không được hành động theo nguyên tắc “hãy cung cấp cho công chúng tất cả những gì họ muốn”.
Một số nhân tố để tăng tính hiệu quả thông tin
Để tăng tính hiệu quả thông tin, bên cạnh việc hiểu biết công chúng, chúng ta cũng cần biết những cách hành động sao cho đạt được thành công đối với công chúng ấy trong cách thông tin.
Chúng ta sẽ thấy có một nghịch lý nào đó: một mặt cần phải đi theo công chúng (thỏa mãn những lợi ích của họ), mặt khác lại phải thường xuyên đi trước công chúng (thúc đẩy bước tiến của họ theo hướng phù hợp với nhu cầu). Đó là con đường khó khăn nhưng duy nhất có thể thực hiện được và thực sự có hiệu quả.
Điều này đòi hỏi áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với các nhóm công chúng khác nhau, phải biết ứng xử với công chúng trên cơ sở dựa trên những lợi ích và nhu cầu của họ
Lưu ý đến quy luật của sự chú ý và sự ghi nhớ
Để tối ưu hóa việc tiếp nhận thông tin, chúng ta cũng cần tính đến những quy luật của sự chú ý và sự ghi nhớ. Việc khai thác thông tin sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu thông tin ấy được xuất hiện phù hợp với quy tắc đi từ sự việc đáng chú ý đến kết luận chủ yếu, đi từ cái giật gân đến cái hợp quy luật, từ hiện tượng đến bản chất…
Đồng thời cần làm cho công chúng xem tác giả là đại điện của chính mình và cảm thấy thú vị và bổ ích khi tiếp xúc với tác giả. Ví dụ nếu tổng thể đầu đề đa cung cấp được thông tin quan trọng nhất đối với công chúng thì phần nội dung tiếp theo sẽ là phần triển khai chi tiết.
Xây dựng thuộc tính gần gũi
Một thông tin đáp ứng các đòi hỏi về tính gần gũi có thể có ý nghĩa chung đối với nhiều công chúng, nhưng cần tìm kiếm những điểm tiếp xúc với các nhóm công chúng khác nhau. Chính điều đó là lý do khiến cho các ấn phẩm và các chương trình khác nhau có các sắc thái khác nhau, khiến những tác phẩm thông tin hướng đến các nhóm đối tượng cụ thể có thể tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
Ví dụ để cùng đến với nhận thức về vấn đề hội nhập toàn cầu thì phải dẫn dắt đồng bào dân tộc đi theo con đường này, với người dân ở nông thôn phải bằng con đường khác, còn đối với người dân thành thị lại phải là con đường khác. Như vậy, cách tiếp cận khác nhau đối với cùng một vấn đề cùng là điều cần thiết giống như cách tiếp cận duy nhất để tiếp cận các các nhóm công chúng khác nhau.
Vậy là để biết cách tiếp cận công chúng cần phải có tư liệu sống là điều có ý nghĩa quan trọng đối với công chúng, rồi dựa trên những tư liệu hấp dẫn khác nhau mà đưa công chúng xích gần với nguồn tư liệu sống quan trọng ấy đối với công chúng mặc dù chúng không thuộc phạm vi những lợi ích trực tiếp của họ.
Xây dựng các tình huống
Tính tình huống được biểu hiện ở quá trình đưa ra các suy xét, luận cứ, kết luậnn của tác giả thường xuyên xoay quanh những tình huống cụ thể của cuộc sống. Trong mỗi tác phẩm, thuộc tính đó biểu hiện ra một cách khác nhau: ví dụ bài phóng sự về một sự kiện có tính chất riêng lẻ sẽ khác với bài phóng sự về một vấn đề vĩ mô của đất nước. Vì trong vấn đề vĩ mô này, việc đưa ra những tình huống chỉ là những góc nhìn nhỏ, mang tính điển hình biểu trưng của luận cứ, luận điểm, khác với sự kiện đơn lẻ, rõ ràng trong từng chi tiết nhỏ. Tất nhiên, trong quá trình cung cấp thông tin, chúng ta đều cần hình dung trước trong đầu những tình huống cụ thể, sau đó sớm có những suy nghĩ dựa trên những tình huống cụ thể đó của cuộc sống hoặc nó được rút ra từ cuộc sống.
Chúng ta tái hiện lại các hiện tượng của thực tại qua những biểu hiện bề ngoài và cả những mối liên hệ nội tại của những biểu hiện ấy, làm rõ nội dung và ý nghĩa của chúng trong tiến trình giới thiệu, phân tích trước công chúng, tựa hồ như thu hút công chúng vào việc tìm kiếm chân lý. Khi đó những lý lẽ và những kết luận của chúng ta trở nên có cơ sở dựa trên nền tảng vững chắc của cuộc sống.
Thậm chí trong trường hợp chúng ta không hướng vào công luận, mà chẳng hạn, hướng vào thế giới quan hoặc ý thức lịch sử, thì điều quan trọng là mối liên hệ với thời hiện tại: gắn với những sự kiện thường nhật hoặc, rút ra những bài học cho thời đại ngày nay, cung cấp những lời giải đáp căn bản (thuộc lĩnh vực triết học, luật phát, đạo đức học…) đối với các vấn đề nóng hổi hiện tại.
Xây dựng kịch tính
Không một hiện tượng nào của cuộc sống lại không có những xung đột (từ những bất đồng nhỏ đến những cuộc đấu tranh gay gắt), thông qua những va chạm người ta thấy diễn ra quá trình trình bày và phát triển của xã hội.
Thông qua việc vạch rõ, chỉ ra và phân tích thực chất của những xung đột, thể hiện kịch tính của những gì đang diễn ra, chúng ta thu hút một cách có hiệu quả công chúng vào việc theo dõi đày cảm xúc sự diễn biến và kết cục của tình huống xung đột.
Thúc đẩy kịch tính trong việc tìm kiếm chân lý: Chỉ rõ những sự phiêu lưu trong suy nghĩ của chúng ta trong tiến trình tìm lời giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, trong quá trình suy ngẫm, kể cả những suy ngẫm về những tình huống xung đột. Tiến trình điều tra thông tin đã làm gia tăng sự chú ý của công chúng. Điều đó khó có thể đạt được trong trường hợp thể hiện một cách đơn giản các kết luận đã được đưa ra, căn cứ theo các kết quả phân tích trong đầu, buộc người ta phải theo dõi dự phát triển của tư duy, thẩm tra tính chất đúng đắn của các lý lẽ và luận cứ của chúng ta. Chính tính kịch trong thông tin đã giúp hình thành thái độ tích cực của công chúng với cái được điều tra, việc họ cảm thụ thông tin cũng đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
Xây dựng tính kịch qua con đường của hình thức giao tiếp đối thoại tích cực với công chúng, trò chuyện cởi mở với công chúng. Trường hợp trực tiếp hướng đến công chúng, chúng ta có thể sử dụng các loại hình hùng biện (các câu hỏi được đưa ra tựa hồ như nhân danh công chúng).
Tổ chức đối thoại với công chúng là hết sức quan trọng, nó có sứ mạng giao tiếp với công chúng, lưu ý đến tính chất và trạng thái của ý thức quần chúng. Việc tìm hiểu ý thức quần chúng giúp người ta thấy rõ trong ý thức ấy có cái gì đúng, cái gì không đúng, cái gì tồn tại dưới hình thức câu trả lời hoặc vấn đề được nêu ra, còn thiếu vắng điều gì trong những cái cần thiết.
Do đó, trong tiến trình đối thoại với công chúng, nhu cầu thông tin được bộc lộ ra như là sự cần thiết phải phát triển, bổ sung, làm sâu sắc thêm những quan điệm đúng đắn, đấu tranh, lấn át, tranh luận với những quan điểm không đúng, trả lời những câu hỏi quan trọng đối với công chúng…Vậy là hình thức đối thoại không manh tính chất hình thức, mà có nội dung sâu sắc, nó giúp giải quyết các vấn đề quan trọng về nguyên tắc của thông tin.
Xây dựng tính kịch trong việc đối thoại với người phản biện trước mắt công chúng. Cuộc tranh luận này sẽ làm gia tăng rất mạnh sự chú ý và ý muốn của công chúng muốn biết rõ xem cái gì đã xảy ra, điều gì đang được tranh luận, khiên nó giúp cho việc nâng cao tính hiệu quả của thôn tin đến với công chúng.
Như vậy, gia tăng hiệu quả thông tin cần chú ý đến nhiều biện pháp khác nhau. Nếu chúng ta hiểu rõ và kết hợp các biện pháp hợp lý thì kết quả và hiệu quả của thông tin đến với công chúng càng cao.
Tài liệu tham khảo
Afanaxiep, “Thông tin xã hội và định hướng xã hội”, Nxb Matxcova, Năm 1975.
E.P. Prôkhôrốp, “Cơ sở lý luận báo chí “, Nxb Thông tấn, năm 2004.
Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ (CEPEW), “Giới thiệu về quyền tiếp cận thông tin”, Nxb Hồng Đức, năm 2023
Từ điển Bách khoa Tiếng Việt
Từ điển Lepetit Lasousse, Paris, năm 1999
TS. Phạm Quang Sáng, “Thực trạng giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21”, chuyên đề “Một số vấn đề cơ bản về phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2011-2023″ của Viện Nghiên cứu con người.
Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, Nxb. ĐHQGHN, năm 2005.
[1] Philipe Breton, Serge Proulx, “Bùng nổ truyền thông”, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1996.
[2] Thông tin trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật được dùng để chỉ hình thức vật chất của thông tin mà nó chuyên chở (dùng chỉ đơn vị cơ bản trong hệ thống số nhị phân (bit) chứa đựng trong dòng điện của máy điện toán trước khi nó được chiếu vào một mạng dữ kiện)
[3] E.P. Prôkhôrốp, “Cơ sở lý luận báo chí “, Nxb Thông tấn, năm 2004, Tập 1 – Tr25,26.
[4] Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, Nxb. ĐHQGHN, năm 2005, Tr55.
[5] Afanaxiep, “Thông tin xã hội và định hướng xã hội”, Nxb Matxcova, Năm 1975, Tr33.
[6] Từ điển Lepetit Lasousse, Paris, năm 199, Tr57.
[7] TS. Phạm Quang Sáng, “Thực trạng giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21”, chuyên đề “Một số vấn đề cơ bản về phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2011-2023” của Viện Nghiên cứu con người.
[8] Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, Nxb ĐHQGHN, năm 2005, Tr63
Nguyễn Đình Hậu
Bài chuyên đề cho đề tài của Ban Thế giới, TTXVN
Partager :
Số lượt thích
Đang tải…
Pre Order Là Gì? Và Một Số Thông Tin Cần Biết Về Hàng Pre Order
Thuật ngữ Pre order luôn luôn đi kèm cùng với những thuật ngữ “order”, hay “hàng order”. Vậy hàng Pre order là gì? Cũng như Pre order có những đặc điểm gì nổi bật? Pre order & order có sự khác nhau như thế nào? Tất cả sẽ được Chuyển Nhà 24H giải đáp cụ thể trong bài viết sau đây. Đừng bỏ lỡ!
Khái niệm hàng order là gì? Và Pre order là gì?Hiện nay với cùng với sự phát triển và bùng nổ mạnh mẽ của mạng internet đã tạo điều kiện cho sự phát triển nổi bật của việc bán hàng order. Những sản phẩm bán hàng order vô cùng đa dạng & phong phú với nhiều chủng loại hàng hóa, đầy đủ các mặt hàng cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày hoặc sản xuất.
Order được dịch ra theo tiếng Việt có nghĩa là đặt hàng, đặt mua hàng hóa. Đây là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh, buôn bán, và thương mại điện tử.
Hàng order được hiểu là các mặt hàng không có sẵn tại cửa hàng. Nếu bạn có nhu cầu cần đặt mua sản phẩm nào đó thì cần đặt cọc cho shop để shop nhập hàng về. Thời gian hàng hóa vận chuyển về khoảng từ 10 đến 14 ngày hay có thể ngắn hơn, dài hơ. Tùy thuộc vào từng đơn vị cung cấp dịch vụ order hàng hóa đó.
Hàng order thường được dùng khi bạn có nhu cầu đặt hàng trên các website thương mại điện tử như Amazon, Rakuten, Walmart hay Ebay, …
Hàng Pre order là gì?Hàng Pre order là thuật ngữ dùng để chỉ những mặt hàng phải đặt cọc trước khi được phát hành. Thời gian phát hành các sản phẩm sẽ được ghi rõ trong phần mô tả thông tin chi tiết của sản phẩm đó.
Thông thường hàng Pre order bạn sẽ phải đợi từ 6 tháng đến 1 năm. Thời gian nhận hàng cụ thể sẽ được đơn vị bán hàng thông báo cho bạn khi bạn đặt cọc đơn hàng thành công.
Khác nhau giữa hàng Pre order và hàng OrderVề đảm bảo an toàn hàng hóa
Cả hàng order lẫn hàng Pre order đều rất khó để biết được độ an toàn chính xác của hàng hóa, kiểm định được chất lượng sản phẩm. Bởi do cả hai loại hàng này, bạn đều không thể kiểm tra trực tiếp. Cũng như sờ nắn được sản phẩm mà chỉ có thể tìm hiểu thông qua hình ảnh hoặc mô tả sản phẩm.
Về giá thành sản phẩm:
Giá thành các sản phẩm order thường sẽ rẻ hơn so với những sản phẩm Pre order. Vì vậy bạn có thể cân đối chi phí để chọn lựa mua hàng order hay hàng Pre order.
Dịch vụ order hàng hóa quốc tế chất lượng – uy tínChuyển Nhà 24H là đơn vị chuyên order hàng hóa quốc tế chuyên tuyến Nhật, Mỹ, cung cấp những dịch vụ như mua hộ hàng Mỹ uy tín, mua hộ hàng Nhật chuẩn chất lượng, an toàn và tin cậy.
Bạn muốn order hàng Mỹ giá rẻ, hay đặt mua hàng Nhật chất lượng trên các website thương mại điện tử tại Mỹ, tại Nhật, vui lòng liên hệ đến Chuyển Nhà 24H để được hỗ trợ một cách tốt nhất.
Dịch vụ order hàng hóa của Chuyển Nhà 24H nổi bật với nhiều ưu điểm, mang đến nhiều lợi ích cho quý khách hàng:
Vận chuyển nhanh chóng: Đối với tuyến Mỹ: Thời gian mua hàng & vận chuyển về Việt Nam, giao hàng đến tay người nhận chỉ từ 9 đến12 ngày. Còn đối với tuyến Nhật, thì thời gian mua hộ chỉ từ 5 đến 7 ngày.
Giao hàng tại nhà: Chuyển Nhà 24H thực hiện giao phát hàng đến tận địa chỉ nhà khách hàng, áp dụng cho tất cả các tỉnh thành trên toàn quốc.
Cước phí rẻ: Cước phí dịch vụ tại Chuyển Nhà 24H luôn ở mức thấp và ưu đãi trên thị trường, đảm bảo tiết kiệm chi phí tài chính cho quý khách hàng, cam kết không phát sinh thêm bất kỳ một khoản phí nào khi nhận hàng.
Bảo hiểm hàng hóa: Hàng hóa trong quá trình vận chuyển được bảo đảm an toàn lên đến 100%. Shipquocte sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm đền bù trong các trường hợp xảy ra sự cố dẫn đến hàng bị hư hỏng hay thất lạc.
Cam kết mua đúng link sản phẩm như khách hàng yêu cầu, đúng số lượng, kích thước và màu sắc …
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Về Thẻ Ngân Hàng trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!