Xu Hướng 3/2023 # Liệu Định Luật Moore Còn Đúng Cho Điện Thoại Thông Minh Vào Năm 2022? # Top 6 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Liệu Định Luật Moore Còn Đúng Cho Điện Thoại Thông Minh Vào Năm 2022? # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Liệu Định Luật Moore Còn Đúng Cho Điện Thoại Thông Minh Vào Năm 2022? được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong quá trình phát triển các bộ vi xử lý (linh hồn của máy tính, điện thọai và các thiết bị điện tử), định luật Moore thường được sử dụng để đánh giá tốc độ phát triển của công nghệ (kích thước tới hạn của linh kiện, mật độ linh kiện trên một đơn vị diện tích, tốc độ của các bộ vi xử lý…). Định luật Moore gắn liền với thời kì hoàng kim của công nghệ vi điện tử, của bán dẫn Silic. Khi kích thước tới hạn của công nghệ giảm dần tới kích thước tới hạn của vật lý (kích thước nguyên tử, phân tử), một câu hỏi đặt ra là liệu định luật Moore có còn nghiệm đúng nữa không, liệu các tiến bộ trong công nghệ nano, trong lĩnh vực vật liệu điện tử có đảm bảo cho sự ra đời của các bộ vi xử lý tốc độ ngày càng cao hơn không. Hãy đến Bách Khoa học Vật lý kỹ thuật để tham gia vào việc chế tạo các bộ vi xử lý thế hệ mới.

Định luật Moore là gì?

Gordon Moore, đồng sáng lập công ty Bán dẫn Fairchild, đồng thời là Giám đốc điều hành của Intel tại thời điểm đó, đã xuất bản một bài báo vào năm 1965 cho thấy số lượng bóng bán dẫn (tranzito) có trong các mạch tích hợp tăng gấp đôi mỗi năm. Tốc độ tăng số lượng tranzito trong mạch tích hợp được dự đoán sẽ kéo dài đến năm 1975. Vào năm 1975, ông đã sửa đổi dự báo của mình, ông dự đoán số lượng tranzitor trong mạch tích hợp sẽ tăng gấp đôi cứ sau hai năm.

“Mật độ bóng bán dẫn lớn hơn không nhất thiết phải dẫn đến hiệu suất và tốc độ cao hơn.”

Định luật Moore tiếp tục nghiệm đúng nhờ vào sự phát triển của công nghệ vi điện tử và công nghệ bán dẫn. Nói cách khác, các tranzito bên trong chip được chế tạo ở kích thước ngày càng nhỏ hơn. Công nghệ sản xuất đã  phát triển từ kích thước 6µm vào năm 1976 đến kích thước 7 nm vào năm 2019, công nghệ này đã làm giảm kích thước của chip đi 850 lần

Một yếu tố quan trọng đóng góp vào sự thành công của định luật Moore là lý thuyết về kích thước Dennard. Dựa vào một bài báo năm 1974 công bố cùng với Robert Dennard, điều này dự đoán rằng nếu các tranzito tiếp tục giảm, hiệu suất trên mỗi watt tiêu thụ sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 18 tháng. Đây là lý do tại sao bộ xử lý nhỏ hơn có hiệu quả sử dụng năng lượng cao hơn. Tuy nhiên, các quan sát cho thấy tốc độ này bắt đầu chậm lại từ những năm 2000. Mặc dù các linh kiện ngày càng nhỏ hơn nhưng mức tăng hiệu suất sử dụng năng lượng không tăng tương ứng với kì vọng do các giới hạn của vật lý.

Định luật Moore đã nghiệm đúng với sự phát triển của công nghệ vi điện tử trong suốt thời kì hoàng kim của công nghệ bán dẫn Si (1970 – 2000). Tốc độ giảm kích thước tới hạn trong các con chip từ 14nm xuống còn 10nm và hơn thế nữa , trong thời gian gần đây, thường được so sánh với các dự đoán của Moore để đánh giá liệu tiến bộ công nghệ có bị chậm lại hay không. Kể từ khoảng năm 2010, đã có rất nhiều dự đoán về sự kết thúc của Luật Moore. Tuy nhiên, liệu các dự đoán có đúng và liệu định luật Moore đã hết ứng nghiệm.

Định luật Moore và Smart phone (Điện thoại thông minh)

Ảnh chụp một con chip của điện thoại thông minh (Credit: David Imel / Android Authority)Ảnh chụp một con chip (Bộ vi xử lý) của hãng Kirin

Số lượng tranzito trong một bộ vi xử lý (Counting transistors)

Không phải mọi nhà sản xuất chip đều công bố số lượng bóng bán dẫn bên trong bộ xử lý của mình, vì nó là một thống kê khá vô nghĩa. May mắn thay, cả Apple và Công ty Huawei HiSilicon đều đưa ra con số gần đúng vè số lượng tranzito/chip trong các sản phẩm gần đây của họ.

Đầu tiên nhìn vào số lượng bóng bán dẫn bên trong các hệ thống vi mạch hiện đại.Trong năm 2015, chip Kirin 950 (Huawei) có khoảng 3 tỷ tranzito. Vào năm 2017, chip Kirin 970 có 5,5 tỷ – tăng gần gấp đôi chỉ sau hai năm, và đến năm 2019 đã đạt tới khoảng 10 tỷ tranzito trong chip Kirin 990. Như vậy, chỉ thiếu vài phần trăm là số lượng tranzito có trong chíp tăng đúng gấp đôi sau hai năm – Moore vẫn đúng ở đây.

Vào năm 2015, Giám đốc điều hành Intel – Brian Krzanich- đã lưu ý rằng việc tăng gấp đôi số lượng bóng bán dẫn của nó mất gần hai năm rưỡi. Có vẻ như ngành công nghiệp di động có thể nhanh hơn một chút so với điều đó, với hơn thời gian chỉ gần hai năm.

Tuy nhiên, khi tính toán mật độ bóng bán dẫn trên một milimet vuông, các hệ thống vi mạch trên điện thoại thông minh thực sự đang làm rất tốt việc bám sát dự đoán của Moore. Từ năm 2016 đến 2018, Huawei đã tăng gần gấp ba số lượng bóng bán dẫn trên mỗi milimet vuông từ 34 đến 93 triệu. Điều này là nhờ bước nhảy từ công nghệ 16nm lên 7nm. Tương tự, chip Kirin 990 mới nhất có 111 triệu bóng bán dẫn trên mỗi mm², gần như gấp đôi chính xác 56 triệu mỗi mm² trong năm 2017 với chip Kirin 970 – công nghệ 10nm. Nó cũng giống như câu chuyện về sự tiến triển mật độ của Apple trong những năm qua.

“Định luật Moore vẫn được áp dụng, nhưng nó bắt đầu lạc nhịp.”

Như vậy định luật Moore vẫn nghiệm đúng với công nghệ chip điện thoại thông minh. Thật đáng ngạc nhiên khi một dự đoán về công nghệ từ năm 1975 tiếp tục nghiệm đúng cho tới năm 2020. Việc chuyển sang công nghệ 5 nm dự kiến vào cuối năm 2020 đầu năm 2021, vì vậy chúng ta sẽ tiếp tục chứng kiến sự cải thiện mật độ bóng bán dẫn trong năm tới. Tuy nhiên, các nhà sản xuất chip có thể thấy khó khăn hơn khi chuyển sang công nghệ 3 nm và nhỏ hơn nữa vào giữa và cuối thập kỷ này. Điều này có thể khiến định luật Moore không còn đúng vào năm 2030.

Hiệu suất thì sao?

Hiệu năng hệ thống tổng thể, được đánh giá từ Antutu, cho thấy hiệu suất cao nhất tăng gấp đôi giữa năm 2016 và 2018 và tăng gần gấp đôi giữa năm 2017 và 2019. Kết quả hệ điều hành Basemark chỉ ra một xu hướng rất giống nhau trên các chipset tốt nhất của các hãng.

Nhìn gần hơn vào CPU, có một bước nhảy nhất định về hiệu suất lõi đơn trong năm 2018 và 2019, nhờ việc áp dụng bộ xử lý Arm Cortex-A nhanh hơn và các nút xử lý nhỏ hơn. Luật Moore dường như giữ vững ở đây. GPU cũng cho kết quả tương tự là hiệu năng tăng gấp đôi từ năm 2016 đến 2018. Các mô hình 2017 đến 2019 một lần nữa chứng kiến những cải tiến đều tăng gấp đôi.

Đã có những hoài nghi về rằng hiệu suất ko còn tăng gấp đôi sau hai năm nữa, nhưng vẫn còn quá sớm để nói trước điều gì, chúng ta cần nhiều dữ kiện và thời gian trong hơn để xác nhận việc chậm lại trong việc tăng hiệu suất.

Tất cả các tranzito này để làm gì?

Kiểm tra hiệu năng của CPU và GPU khi hoạt động độc lập là một cách đánh giá hiệu quả các chipset sử dụng số lượng bóng bán dẫn ngày càng tăng của chúng. Bộ vi xử lý của điện thoại thông minh là những cấu trúc ngày càng phức tạp, nó bao gồm các modem không dây, bộ xử lý tín hiệu hình ảnh (ISP) và bộ xử lý học máy, và nhiều thành phần khác.

Trong vài năm qua, chất lượng xử lý hình ảnh đã được cải thiện rất nhiều, với số lượng cảm biến ngày càng tăng cũng được hỗ trợ.  Đòi hỏi ISP ngày một mạnh hơn và lớn hơn. Chips cũng có tốc độ 4G LTE tích hợp nhanh hơn và một số cung cấp hỗ trợ 5G tích hợp. Không quên cải tiến cho Bluetooth và Wi-Fi, cũng chiếm không gian silicon. Máy học hoặc bộ xử lý AI cũng đang phát triển mạnh mẽ và phổ biến cho mọi thứ, từ bảo mật nhận dạng khuôn mặt đến chụp ảnh tính toán.

Chip điện thoại thông minh mạnh hơn, đầy đủ tính năng và được tích hợp dày đặc hơn bao giờ hết. Thực tế rằng định luật Moore vẫn còn nghiệm đúng và sẽ còn được sử dụng để đánh giá sự phát triển của điện thoại thông minh. Ít nhất là bây giờ.

Màu xanh – SoCs cho điện thoại di động của Hãng AppleMàu vàng – SoCs cho điện thoại di động của Hãng Kirin(SoC: System on a chip – Hệ thống trên một vi mạch)Định luật Moore vs. chipset của điện thoại thông minh (https://infogram.com/1py171xkwy0vmga3w77x2q73mkfyzrww3gn)

Xanh: Sản phẩm có cấu hình cao nhất;Vàng – Sản phẩm có cấu hình trung cấp;Đỏ – Sản phẩm có lợi thế về giá nhất;Hiệu suất hoạt động chuẩn của các Android SoC khác nhau thay đổi theo từng năm.(https://infogram.com/1px2kz7dnzrr60uq0pqd6ql976cnpr57n3z)

Bài viết gốc: https://www.androidauthority.com/moores-law-smartphones-1088760/

Người dịch: Hoàng Tiến Anh (KTHN-K64), Phan Ánh (VLKT-K63)

Bình chọn

In

Tweet

Định Luật Acsimet Liệu Có Đúng?

1 – Chỉ có hai lực: P là trọng lực vật và Fa là lực chất lỏng đặt lên vật.

2 – Hai lực này “đẩy” nhau.

3 – Vì “đẩy” nhau nên khi chưa cân bằng sẽ là “Ngẫu lực”.

V…..V

Thứ 1: Không chỉ có hai lực đặt lên vật

Có nhiều lực đặt lên vật thả trong chất lỏng, chưa được đề cập đến như trường hợp sau: Hình 1 và 2 mô tả hai vật nổi cấu tạo từ hai chi tiết: A có dạng đĩa rỗng (hình 3 là hình chiếu của A) và B có dạng ống. Nhưng khi lắp ghép B vào A. Chi tiết A ở hai tư thế khác nhau tạo nên hai vật nổi 1 và 2 khác nhau nhưng có lượng choán nước như nhau:

Vật nổi 1 (hình 1) có tư thế mặt đĩa A nằm vuông góc với bề mặt chất lỏng.

Vật nổi 2 (hình 2) co tư thế mặt đĩa A nằm song song với bề mặt chất lỏng.

Ống B thông với A để điều chỉnh vật chìm đến độ sâu ấn định trên ống B.

Khi dùng ngoại lực tác dụng, cùng ấn (hoặc nâng) hai vật nổi đến độ sâu như nhau. Nhìn vào hình vẽ cũng đã thấy, khi ngoại lực thôi tác dụng. Hai vật nổi lên với các tốc độ khác nhau, có sự sai khác nhau về thời gian. Gọi sai khác này là “độ trễ”. Vậy lực nào tạo nên “độ trễ”? Điều đó cho thấy không chỉ có hai lực đặt lên vật thả trong chất lỏng.

Đặt tên vật nổi theo phương thức này là “nổi VN-A”, hoặc “nổi ống”, “nổi treo”.

Gọi lực cản trở Fa là Fv làm vật nổi chậm.

Gọi lực càn trở P là Ft làm chậm tốc độ chìm, hay rơi của vật nổi

Các lực Fv, Ft tạo nên sai khác về thời gian nổi , tạo nên “độ trễ”.

Đặc điểm có “độ trễ” vô cùng quan trọng khi vật “nổi VN-A” ở trong môi trường có sóng (thủy động), môi trường biển. Đó là tạo ra khả năng triệt tiêu dao động của vật nổi trong sóng gió. Tạo ra một vật “nổi tĩnh” trong sóng gió nhưng vẫn nổi lên xuống theo thủy triều, đó là kiểu nổi, chủng loại vật nổi đang rất cần trong đời sống.

Thứ 2: Không phải “lực đẩy” tác dụng lên vật

Định luật khẳng định hai “lực đẩy” nhau, có nghĩa hai lực P và Fa trái chiều dẫn đến:

– Khi hai lực trùng nhau trên một đường thẳng chúng đẩy nhau.

– Khi hai lực chưa trùng nhau chúng sẽ tạo nên một “ngẫu lực”. Đây là kết luận được giảng dạy ở chương trình đại học đối với một vật nổi (tầu thuyền) khi lực đẩy Fa chưa thẳng hàng với trọng lực P của vật nổi.

Điều đó cho thấy việc xác định nếu không phải “lực đẩy” mà là loại lực khác có nghĩa không phải là “ngẫu lực” sẽ trở thành cần thiết.

Thí nghiệm mô tả trong sách giáo khoa lớp 8 chứng minh độ lớn lực “ĐẨY” trong định luật như sau:

1 – (hình 10.3a) Dưới lực kế treo một bình A, tiếp theo vật nặng P, lực kế chỉ giá trị P1.

2 – (hình 10.3b) Nhúng vật nặng vào bình tràn B đựng đầy nước, nước từ bình tràn ra, lực kế chỉ giá trị P2.

3 – (hình 10.3c) Nước tràn đổ trở bình A, lực kế chỉ trở lại giá trị P1.

Từ thí nghiệm thả một vật vào trong chất lỏng, vật bị mất đi một phần trọng lượng mà đã cho rằng, trọng lượng (lực) bị mất là bị “đẩy”, là chưa đủ cơ sở bởi lẽ, thể tích nước tràn mới chỉ cho biết:

1 – Thể tích vật.

2 – Trọng lượng thể tích nước tràn luôn phải bằng trọng lượng vật bị mất.

Còn phương, chiều của lực phụ thuộc, lực “đẩy” từ đâu ra? Ở đây vật và nước đều đang bị trọng lực tác động nên hai trọng lực cùng phương, chiều không thể đẩy lên nhau. “Một vật nhúng vào chất lỏng bị chất lỏng đẩy thẳng đứng…”. Nếu là thế, đây sẽ là một nghịch lý, trong khi có thể có những khả năng khác thuận lý hơn đó là:

Có thể là vật “đè”, “nén” lên chất lỏng, (cũng như hai vật rắn đè lên nhau) và vì chất lỏng không đủ “cứng vững” nên vật bị “lún” vào chất lỏng đến khi nào trọng lượng của nó bằng trọng lượng chất lỏng mà nó chiếm chỗ, nếu lớn hơn nó sẽ chìm xuống đáy để chất lỏng “đè” lên nó…

Cũng có thể nó bị “treo” trong chất lỏng và nếu trọng lượng của nó lớn hơn trọng lượng chất lỏng mà nó chiếm chỗ thì “dây treo” sẽ đứt, nó sẽ rơi xuống đáy chất lỏng. Nếu nhỏ hơn nó bị treo trên mặt chất lỏng và khi bằng thì có thể treo nó ở bất kỳ vị trí nào trong lòng chất lỏng và đó là lơ lửng.

Nếu là thế thì sẽ thuận lý thuyết về hợp lực và phân tích lực, không còn là “nghịch lý” nữa. Cho nên để chứng minh lực do chất lỏng đặt lên vật nổi có phải là “lực đẩy” hay không bằng cách, xác định hai lực có phải là “ngẫu lực” hay không? Nếu không phải là “ngẫu lực” thì không phải là “lực đẩy”.

Có một điều dễ nhận thấy rằng, mọi vật thả trong nước, trọng lượng vật là P luôn nằm trong thể tích chất lỏng bị choán chỗ là Fa nên tâm ngẫu lực T cũng nằm trong Fa.

Vì vậy, nếu nghi vấn không phải là “ĐẨY” thì cần phải “nhìn thấy” hai lực có phải là “ngẫu lực” hay không bằng cách đưa T ra ngoài Fa, đủ xa đến mức nếu là ngẫu lực, Fa cũng phải quay quanh T như P và ngược chiều nhau.

Nhìn vào hình vẽ 4, 5, 6 và nhất là hình 7 khi cho Fa trong hình 6 quay quanh T theo mô hình ngẫu lực ta có thể thấy không thể xẩy ra quay tại tâm T. Với mô hình này, có thể dễ dàng thí nghiệm để kiểm tra các kết luận sau:

1 – Tương tác giữa hai lực P, Fa không phải là “ngẫu lực” mà là “mô men” trong đó P là lực tác dụng, Fa là điểm đặt, khoảng cách P, Fa là độ dài tay đòn mô men.

2 – P, Fa là mô men nên:

“Một vật thả trong chất lỏng, trọng lượng (P) của nó bị treo trong, trên hoặc dưới thể tích chất lỏng (V1) bị nó choán chỗ”.

Khi nhìn vào một vật nổi (trên mặt chất lỏng) và gọi thể tích chất lỏng bị choán chỗ là V1 thì thể tích còn lại của vật nổi, phần thể tích trên mặt nổi là V2. Như vậy có nghĩa là ta đã nhìn vật nổi theo thể tích.

Từ góc nhìn này cho thấy rõ một điều, đó là trong một vật nổi luôn tồn tại hai thể tích có hai trạng thái nổi khác nhau. Từ đây ta thấy rằng:

Khi V2 = 0 vật lơ lửng.

Khi V2 < 0 vật chìm.

Khi nhìn vật nổi theo thể tích sẽ thấy, nguyên lý nổi cổ truyền hình thành từ cách nổi ngẫu nhiên, cho nên hai thể tích như một cặp song sinh dính liền không thể tách rời buộc thể tích V1 bị treo liền dưới V2 nên phải nằm ở môi trường dao động dữ dội nhất cùng V2. Trong khi chỉ cần tách rời hai trạng thái, đặt chúng đến đúng vị trí thuận lợi vốn có của chúng, để hạn chế tác hại của sóng gió, khai thác hiệu quả các ưu thế của từng trạng thái mà tạo hóa đã tạo ra?

Có thể tạo một vật nổi tĩnh không bị dao động bởi sóng gió trong môi trường thủy động, môi trường đại dương theo hướng tách rời hai thể tích?

Có thể tách rời hai thể tích, sửa chữa, cải tạo lại phương thức nổi?

Nguyên lý nổi VN-A đã trả lời, đã chỉ dẫn cách tạo nên vật nổi tĩnh bằng việc tách rời hai thể tích, tạo nên một kiểu nổi khác biệt với kiểu nổi cổ truyền từ cổ xưa đến nay, hoặc cũng có thể đã biết kiểu nổi này nhưng chưa khai thác được các tính năng ưu việt của nó, đồng thời từ kiểu nổi này cho thấy lý thuyết nổi chưa đề cập đến những lực khác mà chỉ chú trọng đến hai lực đặt lên một vật nổi là chưa đủ!

Resurrection Remix Mang Android 10 Lên Hàng Tấn Điện Thoại Thông Minh

Nhiều người tiếp cận nhiều điện thoại thông minh trên thị trường vì tỷ lệ chất lượng / giá cả cao, nhiều người sau đó yêu thích giao diện đồ họa mà các thiết bị đầu cuối này áp dụng và các tính năng được cung cấp nhưng sau đó, chắc chắn bạn sẽ thấy mình có một chiếc điện thoại thông minh không đồng bộ hơn với thời đại. Những lần khác, điều đó xảy ra thay vì bạn không thấy mình với giao diện đồ họa của thiết bị, nhưng may mắn thay cho tất cả những tình huống này và các tình huống khác, mod đã giải cứu.

Và nếu bạn là một người sành sỏi, chắc chắn nếu tôi nhắc đến Resurrection Remix, một loạt những kỷ niệm và cảm xúc đẹp sẽ hiện ra trong tâm trí bạn. ROM tùy chỉnh này được biết đến với phong cách và khả năng tùy chỉnh, lấy tín hiệu từ các ROM tốt nhất hiện có như LineageOS, Pixel Experience và OmniROM. Cách đây một thời gian, các nhà phát triển đã chuẩn bị làm việc để giới thiệu Android 10 trong Resurrection Remix, sau giai đoạn thử nghiệm beta ban đầu, hiện đã sẵn sàng cho bản phát hành chính thức cho nhiều điện thoại thông minh của các OEM phổ biến nhất đang lưu hành.

Resurrection Remix mang Android 10 lên hàng tấn điện thoại thông minh

ROM tùy chỉnh Resurrection Remix mới lên phiên bản 8.5.7 và dựa trên hệ điều hành Android 10. Ngoài việc cung cấp Android 10, ROM còn tích hợp các bản vá bảo mật mới nhất của tháng 2020 năm XNUMX. Nếu bạn đang nghĩ đến việc cài đặt Resurrection Remix trên điện thoại thông minh của bạn, bạn sẽ tìm thấy thêm thông tin và thông tin chi tiết qui

 .

Danh sách đầy đủ các thiết bị đã nhận được bản dựng chính thức ổn định của Resurrection Remix dựa trên Android 10 như sau:

ASUS

ASUS ZenFone 5Z (Z01R)

ASUS ZenFone Max M1 (X00P)

ASUS ZenFone Max Pro M1 (X00TD)

 Google

Google Nexus 6P (câu cá)

Google Pixel 2 XL (taimen)

Motorola

Moto G6 Plus (evert)

Moto G7 Plus (hồ)

Moto Z3 Play (beckham)

OnePlus

OnePlus 3 (oneplus3)

OnePlus 6 (enchilada)

OnePlus 6T (fajita)

OnePlus 7 Pro (guacamole)

OnePlus 7T (hotdogb)

OnePlus 7T Pro (hotdog)

Samsung

Samsung Galaxy S9 (starlte)

Samsung Galaxy S9 + (star2lte)

Samsung Galaxy Note 9 (vương miện)

Đối với các thiết bị Xiaomi, chúng tôi giới thiệu cho bạn bài viết này. Hãy nhớ rằng các bản dựng Resurrection Remix đã có các ứng dụng của Google, vì vậy bạn không cần phải flash một gói GApps riêng để có được Cửa hàng Google Play và các dịch vụ khác của Google Play.

[Nguồn]

TechToday cũng có trên ➡️ Google Tin tức ⭐️ Kích hoạt starlet và theo dõi chúng tôi!

Sự Chấm Dứt Của Định Luật Moore

Những tiên đoán của Moore tập trung vào các vi mạch (còn gọi là mạch tích hợp), công cụ tính toán chính của máy tính hiện đại. Trong số các bộ phận chính trong một chip điện tử là các bóng bán dẫn: những bộ chuyển mạch điện tử nhỏ xíu, dựa vào đó mà mạch logic của chip điện tử được xây dựng, cho phép nó xử lý thông tin.

Trong một bài báo đăng ngày 19 tháng 4 năm 1965, Moore đã dự đoán rằng bằng cách thu nhỏ các bóng bán dẫn, các kĩ sư có thể tăng gấp đôi số lượng các bóng bán dẫn có thể lắp đặt trên một chip điện tử mỗi năm. (Sau đó, ông sửa lại dự báo của mình thành mỗi 2 năm, như cách mà định luật thường được nêu). Tăng gấp đôi trong một khoảng thời gian định kỳ là tăng trưởng theo cấp số nhân: không phải là một khái niệm dễ hiểu với những người suy nghĩ đơn giản. Intel tính toán rằng các bóng bán dẫn mà họ sản xuất ra ngày nay chạy hiệu quả gấp 90.000 lần và có giá thành rẻ hơn 60.000 lần so với cái đầu tiên được Intel sản xuất vào năm 1971. Nếu một chiếc xe hơi sử dụng 15 lít xăng cho mỗi 100 km và tốn 15.000 đô la Mỹ, thì để nâng cao hiệu năng với cách tương tự, nó sẽ tiêu thụ ít hơn 2/10 mililit xăng trên mỗi 100 km với chi phí (của chiếc xe) chỉ bằng một phần tư.

Tuy nhiên trong thế giới vật lý của chúng ta sự tăng trưởng theo cấp số nhân cuối cùng cũng đến hồi kết. Dự đoán về cái chết của định luật Moore cũng xuất hiện từ khi nó ra đời. Tuy vậy, định luật vẫn thường thách thức những người hoài nghi, mang lại lợi ích cho chúng ta khi được sử dụng những thiết bị điện tử tiêu dùng nhỏ và mạnh mẽ. Tuy nhiên, cuối cùng, các dấu hiệu đang dồn tích lại, cho thấy rằng định luật đang dần đuối sức. Vấn đề không phải là chúng ta sắp chạm đến giới hạn vật lý (mặc dù việc sản xuất các bóng bán dẫn chỉ rộng 14 nanomet, hay một phần tỷ mét -công nghệ tiên tiến nhất hiện tại- có thể khá phức tạp). Intel nói rằng công ty có thể duy trì được định luật thêm ít nhất 10 năm nữa, rốt cuộc làm nhỏ bóng bán dẫn xuống còn 5 nanomet, bằng khoảng độ dày của một màng tế bào. Và các chiến lược khác cung cấp những cách bổ sung để tăng hiệu suất: hãng cũng đã bắt đầu ngăn xếp lại các cấu phần, mà về cơ bản giống như xây dựng các chip 3D.

Nếu định luật Moore bắt đầu yếu đi, thì nguyên nhân chính là do yếu tố kinh tế. Như đã được trình bày ban đầu bởi Moore, định luật này không chỉ nói về việc giảm kích cỡ của bóng bán dẫn, mà còn về việc giảm giá của chúng. Cách đây vài năm, khi các bóng bán dẫn rộng 28 nanomet là công nghệ tiên tiến nhất, các nhà sản xuất chip nhận ra rằng chi phí thiết kế và sản xuất của họ bắt đầu tăng mạnh. Những nhà máy chế tạo thiết bị bán dẫn mới giờ đây có giá hơn 6 tỉ đôla Mỹ. Nói cách khác: bóng bán dẫn có thể được thu nhỏ hơn nữa, nhưng bây giờ chúng đang trở nên đắt hơn. Và với sự nổi lên của điện toán đám mây, việc nhấn mạnh tốc độ bộ vi xử lý ở máy tính để bàn và máy tính xách tay đã không còn cần thiết nữa. Thành phần chính của phân tích đã không còn là bộ vi xử lý nữa, mà là các giá đặt server hoặc thậm chí trung tâm dữ liệu. Câu hỏi đặt ra không phải là có bao nhiêu bóng bán dẫn có thể nén vào một con chip, mà là về mặt kinh tế sản xuất tới mức nào thì là hiệu quả. Định luật Moore sẽ đi đến hồi kết, nhưng trước tiên nó đã trở nên không còn phù hợp (về mặt kinh tế) nữa.

Cập nhật thông tin chi tiết về Liệu Định Luật Moore Còn Đúng Cho Điện Thoại Thông Minh Vào Năm 2022? trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!