Xu Hướng 3/2023 # Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh # Top 5 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hiến pháp của Liên hiệp vương quốc Anh (England, Scotland, Wales and Northern Ireland) là tập hợp một số luật và các nguyên tắc pháp luật, các điều ước quốc tế, các án lệ, tập quán của Nghị viện và các nguồn khác. Liên hiệp vương quốc Anh không có một văn bản Hiến pháp duy nhất như hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là lý do mà nhiều người nói rằng Hiến pháp của nước Anh là hiến pháp không thành văn, không pháp điển hoá hoặc gọi đó là hiến pháp thực tế1. Để lý giải điều này, chúng ta tìm hiểu một số sự kiện quan trọng gắn với sự ra đời của Hiến pháp và chủ nghĩa Hiến pháp ở Anh.

1. Những giai đoạn, những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong tư tưởng lập hiến ở Anh

1.1. Hiến chương tự do năm 1100

Vương quốc Anh được hình thành từ giữa thế kỷ IX, vào năm 927 khi bảy vùng đất nước Anh đều thuần phục sự cai trị của vua Anh. Tuy nhiên, đến ngày 14/10/1066, Vua Harold II của Anh bị bại trận và bị giết trong trận chiến Hastings với Công tước William của vùng Normandy nước Pháp. Sau khi người Norman xâm chiếm nước Anh, Vua Henry I  lên ngôi và trị vì từ năm 1100 đến 1135. Khi mới lên ngôi, Vua Henry I đã ban hành Bản hiến chương tự do (Charter of Liberties) năm 1100. Bản Hiến chương tuyên bố: “Nhờ ơn Thượng đế và Hội đồng quý tộc của toàn thể Vương quốc Anh mà ta được trao vương miệng Hoàng đế”. Với Hiến chương về tự do, nhà vua thừa nhận quyền cai trị đất nước của Vua không những xuất phát từ ý chí Thượng đế mà còn từ ý chí của Hội đồng quý tộc. Có thể nói, đây là bước đầu chuyển từ tư tưởng quân chủ chuyên chế sang tư tưởng quân chủ lập hiến.

1.2. Hiến chương Magna Carta 1215

Vua John trị vì nước Anh từ năm 1199 đến 1216. Năm 1215, các nhà quý tộc Anh buộc Vua John ký Hiến chương Magna Carta, còn  gọi  là The Great Charter (Hiến chương vĩ đại). Hiến chương Magna Carta thừa nhận các quyền chính trị và dân sự của cá nhân như quyền của các thương nhân có thể ra, vào, ở lại hoặc di chuyển trong lãnh thổ nước Anh để buôn bán. Hiến chương cũng đảm bảo cho các cá nhân trung thành với vua có quyền nhập cảnh, xuất cảnh và tái nhập cảnh vào Vương quốc Anh2.

1.3. Triều đại Vua Henry III thế kỷ XIII và sự  thành lập Nghị viện Anh năm 1265

Vua Henry III (1207-1272) thừa kế ngai vàng của Vua John khi mới lên 9 tuổi. Vì vậy, triều đình Anh quốc phải thiết lập chế độ nhiếp chính cho đến khi Vua Henry đủ 20 tuổi.

Dưới áp lực của các nhà quý tộc, đứng đầu là Simon de Montfort, Vua Henry phải chấp nhận sự ra đời và tồn tại của Nghị viện đầu tiên của nước Anh năm 1265. Đến đời Vua Richarch II, vào năm 1381, một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân nổ ra. Tuy bị thất bại nhưng nó đã góp phần quan trọng trong việc xoá bỏ chế độ nông nô.

1.4. Đạo luật về quyền lực tối cao năm 1534

Dưới triều Vua Henry VIII, một đạo luật về quyền lực tối cao được ban hành năm 1534 quy định Vua là người đứng đầu tối cao của nhà thờ Anh; còn Luật về quyền lực tối cao năm 1559 quy định Nữ hoàng Elizabet I là thống đốc tối cao của nhà thờ Anh. Tuy nhiên, Nữ hoàng phải được sự đồng ý của Nghị viện khi ban hành bất cứ chính sách nào. Nghị viện ngay từ thời kỳ Nữ hoàng Elizabet trị vì đã có hai viện. Thượng viện đại diện cho tầng lớp quý tộc nên được gọi là House of Lords (Viện quý tộc), còn Hạ viện đại diện cho tầng lớp trung lưu trong xã hội nên được gọi là House of Common (Viện bình dân). Hạ viện nhanh chóng phát triển do sự phát triển đột biến của tầng lớp trung lưu trong xã hội. Đặc biệt, trong Hạ viện xuất hiện khối Nghị sĩ đại diện cho những người theo đạo Tin lành luôn đòi hỏi mở rộng các quyền cho những người theo đạo này. Tuy nhiên, Nữ hoàng Elizabet I là người có tính cách mạnh mẽ nên không để cho nhóm nghị sĩ này thao túng.

1.5. Triều đại Tudors (1485-1603)

Trong thời kỳ dòng họ Tudors trị vì nước Anh (1485 -1603)3, học giả Geoffrey Elton đã xây dựng bản Hiến pháp Tudors theo trường phái nhà nước Hy Lạp cổ đại, với mô hình của Cộng hoà Sparte. Học giả khá nổi tiếng cùng thời là John Aylmer đã cổ vũ cho tư tưởng lập hiến của Bản hiến pháp này và cho rằng Hiến pháp Tudors là anh em, họ hàng với nền cộng hoà cổ điển Sparte. Mặc dù Hiến pháp Tudors không được Nghị viện và Vua chấp nhận nhưng cùng với Geoffrey Elton, John Aylmer và một số người cùng thời đã làm sống lại tư tưởng dân chủ thời kỳ Hy Lạp cổ đại và ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng lập hiến ở Anh thời kỳ này là xây dựng một chế độ chính trị kết hợp những tư tưởng dân chủ Hy Lạp thời kỳ cổ đại với chế độ quân chủ mới ở Anh để xây dựng chế độ cộng hoà Nghị viện.

1.6. Vua James I (1603-1625)

Khi Nữ hoàng Elizabeth I từ trần (năm1603), không có sự bàn luận, ngai vàng của Nữ hoàng được chuyển giao cho cháu là James VI, con trai của Nữ hoàng Scotland và James VI của Scotland trở thành Vua James I của Vương quốc Anh. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thiết lập liên hiệp Anh. Vua James I của Anh là người sùng bái học thuyết quyền lực của Vua xuất phát từ ý chí Thượng đế. Vua do Thượng đế lựa chọn và chỉ chịu trách nhiệm trước Thượng đế, do vậy, nhà vua phải toàn quyền. Quan điểm này của James I được củng cố thêm bởi niềm tin tôn giáo vì James là người theo đạo Tin lành, người luôn tin rằng số phận con người do Chúa định đoạt. James I vì thế đã chống lại tư tưởng bầu cử, đặc biệt là quan điểm phổ biến lúc bấy giờ ở Anh là giáo đoàn bầu ra các mục sư của họ.

1.7. Vua Charles I và các cuộc chiến tranh

Vua Charles I thừa kế ngai vàng của Vua James năm 1625. Cũng như cha đẻ của mình, Vua Charles I tin vào quyền của Thượng đế và tiếp tục tranh đấu với Nghị viện để bảo vệ các quyền của mình. Nghị viện trong thời kỳ này nắm quyền kiểm soát thuế và đang đấu tranh để được quyền quyết định nhiều hơn nữa trong lĩnh vực thuế. Theo truyền thống, Nghị viện sẽ bỏ phiếu ra Nghị quyết khi Vua mới lên cầm quyền quy định các loại thuế và mức thuế, nghĩa vụ đóng thuế hàng hoá như rượu vang hoặc vải len… tạo thành nguồn thu nhập hàng năm của Vua. Giờ đây, Nghị viện muốn đánh giá lại các thứ thuế đó hàng năm để có thể kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn thu hàng năm của Vua. Để ngăn cản việc này, Vua Charles I đã giải tán Nghị viện. Vua Charles đòi rất nhiều tiền lãi từ khoản cho các nhà quý tộc vay và cũng nhận được nhiều tiền từ các loại thuế, đặc biệt là thuế thu từ những tàu thuyền neo đậu trên bờ biển nước Anh. Để thu được nhiều tiền hơn nữa, Vua Charles lại cho thu thuế tàu thuyền trong nội địa các quận và khoản thuế mới này Vua đặt ra mà không có sự phê chuẩn của Nghị viện là vi phạm luật tập quán của Anh. Điều này làm cho người dân Anh chống đối lại Sắc lệnh của Vua. Tuy nhiên, Vua Charles I đã gây chiến với Pháp, Tây Ban Nha và cuộc chiến tranh tốn kém này đòi hỏi nhà Vua phải có nhiều tiền hơn nữa. Charles đã triệu tập Nghị viện năm 1629, yêu cầu Nghị viện đặt thêm một loại thuế nữa để có tiền mua sắm vũ khí và nuôi quân đội. Nghị viện chấp thuận đề nghị của Vua Charles I với điều kiện Vua phải ký phê chuẩn vào Đạo luật về quyền thỉnh cầu của nhân dân; trong đó bắt buộc Vua phải tuân thủ luật của Nghị viện. Đạo luật hạn chế quyền lực của Vua bằng các quy định: Vua không thể ban hành lệnh thiết quân luật ở Anh trong thời bình; Vua không thể thu thuế nếu Nghị viện không chấp thuận; Vua không thể tuỳ tiện bắt giam người dân; Vua không thể cho đóng quân trong nhà tư nhân.

Sau khi đạt được nguyện vọng, nhận được luật thuế mới do Nghị viện ban hành năm 1629, Vua giải tán Nghị viện và phá bỏ nguyên tắc đã xác lập trong Đạo luật về quyền thỉnh cầu của nhân dân4.

Trong thời kỳ này đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh, các cuộc chiến tranh giữa Anh với Pháp và Tây Ban Nha đều do Công tước của Buckingham gây ra. Vua Charles I cùng với Tổng giám mục của nhà thờ Canterbury là William Laud đã tiến hành chiến tranh với Scotland nhằm mục đích chuyển hoá dân Scotland vào giáo phái Tin lành của nhà thờ Anh. Cuộc chiến tranh này được gọi là chiến tranh giám mục diễn ra trong hai năm 1639-1640. Cuộc chiến tranh này có hai giai đoạn chính. Trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh, Vua Charles I  kêu gọi Nghị viện đặt ra thuế mới để phục vụ chiến tranh, nhưng Nghị viện từ chối. Sau đó, Charles I tuyên bố giải tán Nghị viện. Sau đó, Charles I lại triệu tập Nghị viện một lần nữa. Và lần này để chấp nhận lập ra một loại thuế mới, Nghị viện đặt ra những điều kiện ngặt nghèo buộc Charles phải tuân theo như một ông vua của chế độ quân chủ lập hiến. Những điều kiện đó là: phải đàn hạch Thomas Wentworth và William Laud; thực hiện Luật “Triennial Act” (Luật ba năm) năm 1641. Theo đó, Nghị viện  phải họp 3 năm một lần dù có sự đồng ý của Vua hay không; xoá bỏ thiết chế toà án gọi là “The Court of Star Chamber” (Toà Sao) khét tiếng là toà án bất công và tàn bạo, nơi mà công tố viên và thẩm phán xét xử là một và do Vua Charles I khống chế; xoá bỏ Toà án cấp cao (High Court). Toà án này cũng như Toà Sao đã xét xử một cách bất công, dựa trên các thuyết lý của tà đạo, đã không còn là toà án của pháp luật; tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo và cho phép lưu hành bản sao các tài liệu mà trong đó các công chức đã tố cáo tội phạm mà Charles I đã thực hiện từ khi lên ngôi vua; chấp nhận không bao giờ giải tán Nghị viện nếu không được sự đồng ý của Nghị viện.

1.8. Oliver Cromwell và khối thịnh vượng chung

Mặc dù giành được thắng lợi nhưng phái Nghị viện Anh đã không thiết lập được giáo phái trưởng lão Tin lành thành tôn giáo quốc gia như đã hứa hẹn nên ba bộ phận: quân đội kiểu mới của Cromwell, Nghị viện và quân đội Scotland đã tách biệt. Những người Scotland được trả một khoản tiền báo đáp sự giúp đỡ của họ và được đưa về nước. Oliver Cromwell đề nghị Nghị viện phục hồi các giám mục của nhà thờ Anh và Vua Charles I như một chế độ quân chủ lập hiến và cho phép sự tồn tại của các tôn giáo khác ngoài đạo Tin lành. Nghị viện chấp thuận khôi phục ngai vàng cho Charles I nhưng không chấp nhận tôn giáo khác ngoài đạo Tin lành. Nghị viện quyết nghị giải tán quân đội nhưng quân đội từ chối thực hiện quyết nghị của Nghị viện. Vua Charles I lúc này lại đề nghị sự cứu viện của Scotland và hứa hẹn sẽ thiết lập giáo phái trưởng lão đạo Tin lành trên nước Anh. Cuộc nội chiến mới lại nổ ra vào năm 1648 giữa một bên là Scotland, những Nghị sĩ theo giáo phái trưởng lão đạo Tin lành, những người trung thành với Vua Charles I và bên kia là quân đội kiểu mới và bộ phận còn lại của Nghị viện. Trong cuộc nội chiến lần này với trận chiến ở Breston 1648, Cromwell với quân đội của mình đã đánh bại quân của Vua Charles I. Sau chiến thắng của Cromwell, theo sáng kiến một sĩ quan trong quân đội, Nghị viện đã loại bớt 143 trong số 203 Nghị sĩ theo giáo phái trưởng lão của đạo Tin lành làm cho giáo phái này chỉ còn thiểu số trong nghị viện. Nghị viện mới ra hai nghị quyết quan trọng: xoá bỏ chế độ quân chủ, xoá bỏ Viện quý tộc trong Nghị viện, đàn hạch vua Charles I; thiết lập nền cộng hoà gọi là “Khối thịnh vượng chung” nhưng thực chất là nền chuyên chính của Cromwell.

Scotland chống lại nền cộng hoà Cromwell và tuyên bố con trai của Charles I ở Edinbourgh là Vua Charles II. Tuy nhiên, Charles II bị quân đội của Cromwell đánh bại vào năm 1650. Charles II phải chạy trốn sang và cư trú ở Pháp đến năm 1660. Cromwell tiến về Ireland, do xung đột với đạo Cơ đốc nên trong các trận đánh với quân Ireland ông cho quân đội tàn sát không thương tiếc. Điều này làm cho người Ireland căm phẫn và nổi loạn chống lại ông. Cromwell đã giải tán Nghị viện và tự tuyên bố mình là người bảo hộ của nước Anh.

1.9. Richard Cromwell và Charles II

Cromwell mất năm 1658 và ngai vàng được truyền lại cho con trai là Richard Cromwell. Thực hiện chế độ chuyên chế quân sự nhưng Richard không thể thống nhất được các nhóm tôn giáo và người thiểu số. Tướng George Monk của Scotland đã tiến đánh và lật đổ ngai vàng của Richard. Sau khi nắm được chính quyền, năm 1660, George Monk triệu tập những người còn lại của Nghị viện nhóm họp. Nghị viện biểu quyết giải tán Nghị viện để thành lập Nghị viện mới. Nghị viện được thành lập từ năm 1640 đến lúc này tồn tại được 20 năm nên được gọi là “Long Parliament” (Nghị viện dài). Nghị viện mới được thành lập đã quyết định tái lập chế độ quân chủ và đưa Charles II (lúc này đang còn cư trú ở Pháp) về làm Vua của Anh.

1.10. Hiệp ước liên hiệp 1706 và việc thành lập Liên hiệp Anh năm 1707

Ngày 22/6/1706, Hiệp ước Liên hiệp giữa Anh và Scotland được ký kết. Hiệp ước này nhanh chóng được Nghị viện của Anh và Scotland phê chuẩn. Nghị viện của Anh và Scotland cũng thông qua Luật liên hiệp vào năm1707.

Gần một thế kỷ sau đó, Vương quốc Ireland, đất nước được đặt dưới sự kiểm soát của Anh từ năm 1541 đến 1691 đã thông qua Luật liên hiệp để gia nhập Liên hiệp Vương quốc Anh vào năm 1800.

1.11. Cải cách toà án nửa cuối thế kỷ XIX

Trước năm 1875, ở Anh tồn tại hai hệ thống toà án cạnh tranh với nhau. Toà án thông luật (Common law Courts) là hệ thống các toà án hoàng gia xét xử theo nguyên tắc áp dụng án lệ. Do thủ tục tố tụng của hệ thống toà án này phức tạp nên không phải ai cũng có thể bảo vệ được công lý thông qua hệ thống toà án này. Đây chính là lý do mà Toà đại pháp quan (Chancery Court) – toà án xét xử trên cơ sở luật công bình (equity) ra đời. Luật công bình là tổng thể các quy phạm pháp luật do Toà đại pháp quan tạo ra để bổ sung, bù đắp những lỗ hổng của hệ thống thông luật thời đó. Luật công bình tôn trọng luật án lệ; luật công bình không phủ định mà chỉ là sự bổ sung cho luật án lệ. Trước năm 1875, Luật công bình và thông luật có sáu điểm khác nhau cơ bản: nguồn gốc của quy phạm pháp luật thông luật là án lệ, còn nguồn gốc của quy phạm luật công bình là các nguyên tắc công bằng, công lý; quy phạm pháp luật của luật công bình chỉ được áp dụng ở Toà đại pháp quan, các Toà thông luật không được phép áp dụng; các Toà thông luật khi xét xử có đoàn bồi thẩm, ở Toà án công bình xét xử không có bồi thẩm đoàn; các Toà thông luật xét xử theo thủ tục tranh tụng đối kháng, chú trọng các luận cứ bằng lời nói, thủ tục ở Toà công bình là thủ tục thẩm vấn, coi trọng các tài liệu thành văn; toà thông luật ra các bản án, còn Toà công bình ban hành các lệnh, quyết định; khi có tranh chấp về thẩm quyền xét xử, Toà đại pháp quan thường có ưu thế hơn Toà công bình.

 Luật Toà án tối cao năm 1873 đã thành lập Toà án tối cao bao gồm hai bộ phận là Toà án cấp cao (High Court of Justice) và Toà phúc thẩm (Court of Appeal). Toà án cấp cao bao gồm ba phân toà là Chancery Division (Toà Đại pháp quan); Family Division (Toà gia đình); Queen Bench,s Division (Toà nữ hoàng)5. Với sự cải cách này, hai hệ thống toà án thông luật và luật công bình đã hoà nhập vào một và trở thành các toà chuyên trách của Toà án cấp cao. Hai hệ thống toà án này vẫn giữ những nét đặc trưng của mình; tuy nhiên, Luật mới cho phép tất cả các toà có thể áp dụng cả thông luật và luật công bình. Cùng với việc cải tổ hệ thống toà án, Luật Toà án tối cao 1873 cũng đơn giản hoá thủ tục tố tụng bằng cách quy định tất cả các loại vụ việc đều được bắt đầu bằng một loại trát gọi là trát triệu tập. Cuộc cải cách thủ tục tố tụng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì trước cuộc cải cách này, ở các Toà án thông luật ở Anh có đến khoảng 80 loại trát khác nhau phụ thuộc vào các hình thức khởi kiện khác nhau. Hệ thống trát phức tạp này đã làm cho nhiều người dân không thể tiếp cận được công lý.

Một đạo luật quan trọng khác được ban hành trong thời gian này là Luật về thẩm quyền xét xử phúc thẩm 1876. Đạo luật thành lập Uỷ ban tư pháp của Thượng viện là cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng ở Anh. Như vậy, Thượng viện Anh vừa là một trong hai viện của cơ quan lập pháp đồng thời là cơ quan nắm quyền tư pháp tối cao.

1.12. Những cải cách của Công đảng vào những năm cuối thế ký XX đầu thế kỷ XXI

Từ năm 1997 đến năm 2001, Công đảng cầm quyền và đã tiến hành các cuộc cải cách đáng lưu ý như: thành lập Nghị viện ở Scotland và Hội đồng ở xứ Wales và Bắc Ai-len với cách thức bầu cử trực tiếp; thành lập Hội đồng ở London kết hợp với chức vụ Thị trưởng do dân trực tiếp bầu; thực hiện cải cách Thượng viện, huỷ bỏ 92 chức vụ Thượng nghị sĩ là quý tộc kế truyền; nội luật hoá Công ước châu Âu về quyền con người bằng việc ban hành Luật về quyền con người năm 1998; ban hành Luật về tự do thông tin năm 2000; ban hành Luật về các đảng phái chính trị, bầu cử và trưng cầu dân ý năm 2000; thành lập Uỷ ban bầu cử để tổ chức thực hiện các hoạt động bầu cử và trưng cầu dân ý; thành lập ngân hàng nước Anh độc lập với tất cả các thiết chế khác; thành lập Toà án tối cao  ngày 1/10/2009.

Sự thành lập Toà án tối cao được tiến hành trên cơ sở Luật cải cách hiến pháp 2005. Toà án tối cao bao gồm 12 thẩm phán do Nữ hoàng bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng.

Toà án Tối cao của Liên hiệp Anh là toà phúc thẩm cuối cùng và cao nhất đối với tất cả các vụ án trên tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự (hành chính, thương mại, lao động) của Anh, xứ Wales và Bắc Ailen và lĩnh vực dân sự của Scotland. Đối với lĩnh vực hình sự ở Scotland thì Toà án tư pháp cấp cao vẫn là cơ quan xét xử phúc thẩm hình sự cao nhất. Việc thành lập Toà án tối cao Liên hiệp vương quốc Anh đã tách quyền tư pháp ra khỏi Thượng viện, một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

2. Các đặc điểm cơ bản của Hiến pháp Anh

2.1. Chủ quyền tối cao của Nghị viện và nhà nước pháp quyền

Vào thế kỷ XIX, một luật gia, một nhà Hiến pháp học Anh nổi tiếng là A.V. Dicey đã viết rằng: “Hai trụ cột của Hiến pháp Anh là chủ quyền tối cao của Nghị viện và nhà nước pháp quyền”6. Theo học thuyết chủ quyền tối cao thuộc về Nghị viện, Nghị viện có thể ban hành bất kỳ luật nào mà nó muốn. Các luật do Nghị viện ban hành có hiệu lực tối cao và là nguồn cuối cùng của pháp luật. Điều này trái ngược với các nước có Hiến pháp thành văn, tất cả các luật do Nghị viện ban hành đều không được trái với Hiến pháp. Rất nhiều luật của Liên hiệp Vương quốc Anh có ý nghĩa như là Hiến pháp. Ví dụ, Nghị viện Anh có quyền kéo dài nhiệm kỳ của mình. Đạo luật năm 1911 và năm 1949 quy định nhiệm kỳ của Nghị viện là 5 năm; tuy nhiên, nó có thể kéo dài nếu hai viện đồng ý. Quyền này được sử dụng trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai, Nghị viện thành lập năm 1935 đã kéo dài nhiệm kỳ của mình đến năm 1945. Tuy nhiên, Vua vẫn giữ lại quyền giải tán Nghị viện theo tư vấn của Thủ tướng. Nghị viện có quyền thay đổi diện mạo của các viện và mối quan hệ giữa hai viện. Luật năm 1999 đã thay đổi thành viên của Thượng viện, huỷ bỏ 92 Thượng nghị sĩ là quý tộc kế truyền. Nghị viện không những có quyền kéo dài nhiệm kỳ mà còn có quyền quyết định hàng thừa kế ngai vàng. Quyền này đã được thực hiện trong thời gian gần đây nhất bằng việc ban hành Luật thoái vị ngai vàng 1936 với hệ quả của nó là Vua Edward VIII thoái vị và con, cháu của vị vua này đã mất quyền thừa kế ngai vàng. Nghị viện còn có quyền tước bỏ và điều chỉnh quyền lực của Vua.

Theo quy định của Luật Tổ chức nghị viện, Nghị viện bao gồm Vua, Thượng viện, Hạ viện. Hạ viện có 646 thành viên do nhân dân bầu theo chế độ bầu cử đơn danh và đa số tương đối. Luật về Thượng viện năm 1999 quy định Thượng viện bao gồm 26 giám mục của các nhà thờ của Anh, 92 đại biểu bầu từ các quý tộc kế truyền và khoảng vài trăm quý tộc suốt đời.

 Quyền bổ nhiệm các giám mục các nhà thờ Anh, quyền phong tặng danh hiệu quý tộc kế truyền và quý tộc suốt đời thuộc về Vua theo tư vấn của Thủ tướng. Theo Luật Nghị viện năm 1911 và 1949, Nghị viện có thể, trong một số hoàn cảnh nhất định, thông qua luật không cần sự tán đồng của Thượng viện. Mặc dù tất cả các văn bản luật do Nghị viện thông qua phải được Vua phê chuẩn mới trở thành luật nhưng trên thực tế từ năm 1708 đến nay, Vua Anh chưa bao giờ từ chối phê chuẩn.

Hạ viện Anh có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải từ chức. Việc bỏ phiếu bất tín nhiệm không cần phải Thượng viện hay Vua phê chuẩn.

Nghị viện cũng có truyền thống có thể cách chức các bộ trưởng theo thủ tục đàn hạch, Hạ viện buộc tội và Thượng viện xét xử. Tuy nhiên, từ năm 1806 đến nay, quyền này của Nghị viện không được sử dụng. Luật cải cách Hiến pháp năm 2005 cho phép Nghị viện cũng có thể xét xử theo thủ tục đàn hạch để cách chức các thẩm phán nếu họ có hành vi không phù hợp với tư cách thẩm phán.

Nghị viện Anh có khá nhiều quyền nên nhà Hiến pháp học của Anh là Enoche Powel đã viết: “Ngoài lịch sử Nghị viện, nước Pháp vẫn có lịch sử của mình. Nhưng nếu bỏ qua lịch sử Nghị viện, nước Anh không còn tồn tại”7. Nhận xét này cũng rất phù hợp với câu châm ngôn nổi tiếng về Nghị viện Anh: “Nghị viện có thể làm được tất cả trừ việc biến người đàn ông thành người đàn bà”.

2.2. Chế độ quân chủ lập hiến

 “Nhà vua trị vì mà không cai trị” – câu nói của nhà văn Anh Walter Bagehot về nhà vua Anh đã trở thành câu châm ngôn nổi tiếng về chế độ quân chủ lập hiến ở Anh. Theo Hiến pháp, Vua là người đứng đầu Nhà nước có rất nhiều quyền nhưng những quyền đó nhà vua không trực tiếp thực hiện hoặc thực hiện theo sự tư vấn của Thủ tướng. Theo Hiến pháp, Vua có các thẩm quyền sau đây: bổ nhiệm và miễn nhiệm Thủ tướng; bổ nhiệm và miễn nhiệm các bộ trưởng; bổ nhiệm các công chức cấp cao; triệu tập, trì hoãn, khai mạc, bế mạc các kỳ họp của Nghị viện và giải tán Nghị viện; tuyên bố chiến tranh và hoà bình; tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang; phê chuẩn các hiệp ước; bổ nhiệm các giám mục và Tổng giám mục của nhà  thờ Anh; phong tặng các danh hiệu quý tộc.

Quyền bổ nhiệm Thủ tướng của Vua, phần lớn chỉ mang tính hình thức vì sau khi bầu cử Nghị viện ai cũng biết trước thủ lĩnh của Đảng cầm quyền sẽ trở thành Thủ tướng. Lần cuối cùng Vua bổ nhiệm Thủ tướng không theo ý chí của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện là bổ nhiệm Harold Wilson làm Thủ tướng tháng 2/1974 mặc dù Đảng của Harold Wilson không chiếm đa số trong Hạ viện. Nữ hoàng Elizabeth II đã thực hiện quyền này theo sự tư vấn của Hội đồng cơ mật.

Quyền miễn nhiệm Thủ tướng cũng thường là hệ quả của việc Hạ viện bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. Lần cuối cùng Vua nước Anh tự mình quyết định bãi nhiệm Thủ tướng không cần việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ là vào năm 1834, Vua Wiliam IV đã giải thể Chính phủ của Lord Melbourn thay nó bằng Chính phủ của Công tước Wellington. Quyền phủ quyết luật của Vua cũng mang tính hình thức vì lần cuối cùng quyền này được thực hiện  là vào năm 17088.

2.3. Chế độ chính trị lưỡng đảng

Cũng như Hoa Kỳ, nước Anh có chế độ chính trị đa nguyên nhưng vì chỉ có hai đảng có khả năng thay nhau cầm quyền nên được gọi là chế độ chính trị lưỡng đảng. Công đảng và Đảng Bảo thủ thường xuyên thay nhau cầm quyền. Khi một trong hai Đảng này thắng cử trong bầu cử Nghị viện, Đảng thứ hai sẽ trở thành đảng đối lập. Đảng đối lập là lực lượng kiểm tra, giám sát và phản biện đường lối chính sách của Đảng cầm quyền.

2.4. Sự gắn kết và thống nhất giữa lập pháp và hành pháp

 Do Chính phủ được thành lập từ đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện và Nghị viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải giải tán, nên giữa Chính phủ và Nghị viện có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết. Đối với Anh, chế độ dân chủ Nghị viện buộc Chính phủ phải lãnh đạo đất nước trong và thông qua Nghị viện. Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể trước Nghị viện nên muốn tồn tại đến hết nhiệm kỳ, Chính phủ phải luôn ở trong vòng kiểm soát của Nghị viện.

2.5. Sự tách bạch giữa chính trị và công vụ

Nước Anh xây dựng nền công vụ vô tư và khách quan bằng việc quy định công chức không đảng phái, các tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức vụ trong bộ máy hành chính và tư pháp không gắn với các đảng phái chính trị, không cần một bằng chính trị cao cấp nào. Phẩm chất của công chức là nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và tuân thủ pháp luật.

2.6. Tư pháp độc lập và án lệ

Người Anh có thể tự hào về nền tư pháp của mình, một nền tư pháp độc lập không chịu sự sai khiến của bất cứ đảng phái chính trị nào. Thẩm phán có uy tín cao, bằng việc áp dụng án lệ cũng có thể sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để duy trì trật tự pháp luật và công bằng xã hội. Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời và chủ yếu từ các luật sư có uy tín trong xã hội.

2.7. Tập quán hiến pháp

Người Anh quan niệm pháp luật là đại lượng của công bằng, công lý, vì thế pháp luật được hiểu không những là những quy tắc bắt buộc thực hiện do các cơ quan nhà nước ban hành mà còn là những quy tắc do cuộc sống tạo lập nên, mặc dù trong pháp luật thành văn không tìm thấy. Quan niệm mềm dẻo về pháp luật cho phép người Anh thừa nhận các tập quán hiến pháp. Đó là những quy tắc mang tính bắt buộc đối với một số hành vi chính trị được hình thành từ lâu trong đời sống chính trị. Chẳng hạn, theo quy định của Hiến pháp, Vua có đặc quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng nhưng thực tế đã hình thành tập quán hiến pháp, Vua chỉ bổ nhiệm Thủ lĩnh của đảng cầm quyền làm Thủ tướng. Vua có quyền phủ quyết luật nhưng hình thành tập quán hiến pháp Vua phê chuẩn luật khi đa số nghị sĩ đã chấp thuận thông qua dự luật.

(1) http://en.wikipedia.org/wiki/Constitution of the United Kingdom.

(2) Constitutional and Administrative law by Hilaire Barnett, Ed. Cavendish Publishing Limited, London 2000, p. 833.

(3) Webster,s new world college dictionary, Third Edition, by Victoria Neufeld & David B. Guralnik Macmillan USA 1988, p.1438.

(4) http://en. Wikipedia.org/wiki/history_of_the_Constitution_of_the_United_Kingdom.

(5) Xem: Thái Vĩnh Thắng, Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại, Nxb. Tư pháp, 2010, tr. 356.

(6) http://en. chúng tôi Kingdom  4/30/2010.

(7) Claude Leclerque – Droit Constitutionel et institutions politiques,Litec 1992.

 (8) http://en.wikipedia.org/wiki/constitution_of_th_United_Kingdom

Bảo Hiến, Chủ Nghĩa Lập Hiến Và Nhà Nước Pháp Quyền

I. Khái niệm và lịch sử phát triển của vấn đề bảo hiến

Bảo hiến (hay còn được gọi là bảo vệ hiến pháp hoặc tài phán hiến pháp1-constitutional review/judicial review), theo định nghĩa của một số từ điển pháp luật phổ biến, có thể hiểu là thẩm quyền của các tòa án của một quốc gia được xem xét và đánh giá tính hợp hiến của các đạo luật hoặc quyết định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.2 

Sở dĩ bảo hiến thường được gọi là judicial review vì từ trước đến nay nó gắn liền với chức năng của tòa án trong việc xem xét tính pháp lý trong hoạt động của các cơ quan hành chính3.

Khi nói về lịch sử của vấn đề bảo hiến, Arne Mavčič chia thành các giai đoạn như sau4:

Trước Chiến tranh thế giới thứ I

Những yếu tố ban đầu của bảo hiến được cho là xuất hiện vào thời cổ Hy Lạp, khi pháp luật nước này phân biệt giữa một nomos (văn bản pháp luật có chức năng như hiến pháp) và một psephisma (văn bản pháp luật có chức năng như một nghị định, hiệu lực thấp hơn). Một psephisma, bất kể nội dung quy định về vấn đề gì, cũng không được trái với nomos, nếu trái sẽ bị coi là vô hiệu.

Một số khía cạnh của bảo hiến sau đó được áp dụng trong hệ thống pháp luật của Đức từ năm 1180 (về sau được đề cập trong Hiến pháp Weimar). Ngoài ra, các hình thức sơ khai của bảo hiến cũng xuất hiện ở một số nước châu Âu khác như ở Pháp (từ giữa thế kỷ XIII), Bồ Đào Nha (từ thế kỷ XVII), Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp, Áo, Romania (thế kỷ XIX). Mặc dù không có hiến pháp thành văn, nước Anh cũng được coi là có đóng góp quan trọng vào sự phát triển của lý luận và pháp luật về bảo hiến, vì từ thời trung cổ, người Anh đã khởi xướng ra thủ tục impeachment (hạch tội để bãi miễn quan chức nhà nước), đồng thời từ năm 1610 đã đề xướng nguyên tắc về tính tối thượng (supremacy) của Hiến pháp và quyền của tòa án được xem xét tính hợp hiến của các hoạt động của chính phủ – những điều mà sau đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thiết lập cơ chế bảo hiến ở Hoa Kỳ.

Ở Hoa Kỳ, vào cuối thế kỷ XVIII, tòa án đã ra một phán quyết tuyên bố các luật của đế chế Anh không có hiệu lực trên lãnh thổ các bang Bắc Mỹ. Tuy nhiên, phải đến năm 1803, trong vụ án nổi tiếng Marbury kiện Madison, quyền bảo hiến của tòa án mới được xác lập một cách chính thức ở Hoa Kỳ. Vụ Marbury kiện Madison cũng xác lập mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ, do các tòa án thực hiện – một trong những mô hình bảo hiến chính trên thế giới hiện được áp dụng ở nhiều quốc gia.

Trong thời gian giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới thứ I và thứ II

 Giai đoạn này được gọi là “thời kỳ của nước Áo” (the Austrian Period). Chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của hai nhà luật học Adolf Merkl và Hans Kelsen, Hiến pháp năm 1920 của Áo đã xác lập nền tảng của Tòa án Hiến pháp nước này, với độc quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Mô hình tòa án hiến pháp chịu trách nhiệm về bảo hiến sau đó được áp dụng ở nhiều quốc gia khác, đặc biệt là ở châu Âu, trở thành một trong các mô hình bảo hiến chính hiện nay trên thế giới.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ II

Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ chế bảo hiến tiếp tục được thiết lập ở khắp nơi trên thế giới. Trong thời kỳ này, ngoài tòa án (tòa án thường và tòa án hiến pháp) như ở Mỹ và Áo, ở một số nước, pháp luật còn giao quyền bảo hiến cho một số cơ quan khác, ví dụ như Hội đồng bảo hiến, các tòa đặc biệt thuộc Toà án tối cao, hoặc cho bản thân Nghị viện.

II. Các mô hình bảo hiến trên thế giới

Từ góc độ tổ chức, Arne Mavčič chia các thiết chế bảo hiến hiện hành trên thế giới thành các mô hình như sau5:

(1)   Mô hình Mỹ

Được hình thành từ vụ Marbury kiện Madison, đặc trưng của mô hình bảo hiến kiểu Mỹ là không thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách. Thay vào đó, tòa án ở mọi cấp về nguyên tắc đều có quyền bảo hiến, cụ thể là trong quá trình xét xử có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật có liên quan và có quyền tuyên bố quy định đó là vi hiến, đồng thời từ chối không áp dụng quy định đó. Vì vậy, đây còn được gọi là mô hình bảo hiến phi tập trung (decentralized constitutional review). Tuy nhiên, để bảo đảm tính thống nhất trong vấn đề này, chỉ quyết định của tòa án tối cao mới có hiệu lực bắt buộc với mọi toà khác và mới có thể vô hiệu hóa một đạo luật.

(2) Mô hình châu Âu lục địa  

Mô hình này còn được gọi là mô hình Áo, bởi như đã đề cập ở trên, nó được xác lập đầu tiên trong Hiến pháp năm 1920 của Áo, dựa trên lý thuyết của Adolf Merkl và Hans Kelsen mà trong đó kết hợp giữa nguyên tắc về tính tối cao của Hiến pháp và thẩm quyền tối cao của Nghị viện. Đặc trưng của mô hình này là không giao quyền bảo hiến cho toàn bộ hệ thống tòa án mà chỉ giao cho một cơ quan chuyên trách. Cơ quan này, nguyên thủy và thông thường được thành lập dưới hình thức một Tòa án Hiến pháp, nhưng sau đó còn được thành lập dưới một số hình thức khác như Hội đồng bảo hiến hay Viện bảo hiến…

Mặc dù có tên gọi khác nhau, các thiết chế bảo hiến theo mô hình châu Âu lục địa có những đặc điểm chung như sau: hoạt động bảo hiến được thực hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia; cơ quan bảo hiến thông thường không được coi là thuộc nhánh quyền lực tư pháp (kể cả khi có tên gọi là Tòa án Hiến pháp); thủ tục tố tụng khác với thủ tục tố tụng áp dụng ở hệ thống tòa án thường; các cơ quan bảo hiến có quyền tự chủ về hành chính và tài chính; vị thế, quyền hạn, việc thành lập hay bãi bỏ cơ quan bảo hiến thông thường thuộc quyền quyết định của Nghị viện; thẩm phán tòa hiến pháp được chỉ định bởi các cơ quan nắm quyền lực chính trị; thẩm quyền tài phán có tính chất đặc biệt: các phán quyết của cơ quan bảo hiến mang vừa mang tính pháp lý vừa mang tính chính trị; thông thường phán quyết của cơ quan bảo hiến có tính chất bắt buộc, cưỡng chế, nhưng có trường hợp chỉ có tính chất ngăn ngừa, tư vấn; phạm vi bảo hiến bao quát tất cả các văn bản pháp luật. 

(3) Mô hình hỗn hợp (Mỹ – châu Âu lục địa)

Đặc trưng của mô hình này là thẩm quyền bảo hiến được giao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách và hệ thống tòa án thường. Tuy nhiên, chỉ có cơ quan bảo hiến chuyên trách mới có quyền phán quyết một đạo luật hay quyết định là vi hiến, còn các tòa án thường chỉ có quyền không áp dụng một đạo luật nếu xét thấy nó không hợp hiến.

 Ở những quốc gia đang áp dụng mô hình bảo hiến hỗn hợp, cơ quan bảo hiến chuyên trách cũng có thể là Tòa hiến pháp, Tòa thượng thẩm (high court) hoặc các Tòa đặc biệt (special chambers) của Tòa tối cao.

(4) Mô hình Pháp

(5) Mô hình Nghị viện đồng thời có chức năng bảo hiến

Theo mô hình này, Nghị viện hoặc một cơ quan của Nghị viện sẽ giữ chức năng bảo hiến. Có quan điểm cho rằng, đây là mô hình riêng của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN)6 và một số nước chịu ảnh hưởng của phe XHCN trước đây, tuy nhiên thực tế không hẳn như vậy. Ngoài các nước XHCN trước đây (và hiện nay vẫn còn đang được áp dụng ở Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Bắc Triều Tiên) mô hình này còn thấy ở một số nước khác, bao gồm các nước tư bản chủ nghĩa và quân chủ lập hiến, cụ thể như Phần Lan, Bahrain, Kuwait, Oman, Brunei, Australia…

Hầu hết quốc gia trên thế giới thuộc về một trong số năm mô hình bảo hiến kể trên, tuy nhiên, có một vài quốc gia không thuộc nhóm nào (không có cơ chế bảo hiến), cụ thể như Anh, Hà Lan, Lesotho, Liberia và Libi. Ngoài ra, theo phân loại của Arne Mavčič, còn một mô hình nữa có tên gọi là mô hình Khối thịnh vượng chung mới (the New (British) Commonwealth Model) có duy nhất một quốc gia là Mauritius theo đuổi. Arne Mavčič cho rằng, mô hình này không thể xếp vào bất cứ kiểu nào đã nêu ở trên, tuy nhiên không mô tả rõ ràng những đặc trưng của nó.

 Bên cạnh các cơ quan bảo hiến quốc gia, Arne Mavčič cho rằng, một số cơ quan tài phán quốc tế, đặc biệt là các Tòa án nhân quyền khu vực, cũng có chức năng tài phán hiến pháp ở mức độ nhất định. Những cơ quan đó bao gồm: Tòa án nhân quyền châu Âu (the European Court of Human Rights, trụ sở ở Strasbourg, Pháp); Tòa án Công lý châu Âu (the Court of Justice of the European Community, trụ sở ở Luxembourg); Tòa án của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (the Court of EFTA, trụ sở ở Geneva, Thụy Sĩ); Tòa án nhân quyền châu Phi (the African Court of Human Rights) Ủy ban nhân quyền Liên Mỹ (Comision y la Corte Interamericanas de los Derechos Humanos)…

 

III. Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền, chủ nghĩa lập hiến và việc bảo hiến  

Nội dung cốt lõi của tư tưởng pháp quyền là đề cao quyền lực của nhân dân, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, sự thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đặt các thiết chế quyền lực trong sự ràng buộc của Hiến pháp và pháp luật, kiểm soát quyền lực, bảo đảm sự phân quyền, sự độc lập của Tòa án, bảo đảm tính minh bạch của pháp luật.

Một vấn đề cơ bản được đặt ra là: Vì sao trong Nhà nước pháp quyền lại cần đến sự thượng tôn Hiến pháp? Vấn đề này cần được lý giải như sau:

– Chủ nghĩa lập hiến là sự nhận thức về vai trò của Hiến pháp, là sự hiện hữu của Hiến pháp và sự tác động tích cực của nó đến đời sống chính trị và đời sống xã hội. Hiến pháp và trật tự hiến định thực tiễn là hai mặt của chủ nghĩa lập hiến. Khẳng định ở mức cao nhất về mặt pháp lý và bảo đảm thực hiện trong thực tiễn cuộc sống các lợi ích cao nhất, trường tồn và bền vững nhất của đất nước, của dân tộc, chủ nghĩa lập hiến được coi là yếu tố đầu tiên trong thang giá trị của Nhà nước pháp quyền. Bởi vậy, bảo hiến là bảo vệ lợi ích cao nhất, trường tồn nhất, bền vững nhất của đất nước và dân tộc, lợi ích của mỗi cá nhân và của mọi cá nhân, của mỗi giai cấp, tầng lớp. Nói khác đi, đó là bảo vệ chủ quyền của nhân dân.

– Nhà nước pháp quyền khác với Nhà nước không pháp quyền ở việc xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, giữa quyền lực công với quyền con người. Các tư tưởng về chế độ pháp trị, những hệ thống pháp luật đồ sộ trước đó dù có hoàn hảo đến mấy vẫn chưa vượt qua được logic của sự tùy tiện. Nhà nước pháp quyền đặt quyền con người trong tầm ngắm bảo hộ của nó và ở vị trí chủ đạo, từ đó đặt ra yêu cầu về trách nhiệm bảo đảm, bảo vệ quyền con người từ phía Nhà nước, đòi hỏi sự tự ràng buộc, tự hạn chế của quyền lực trước yêu cầu bảo vệ quyền con người. Là bản khế ước của mọi người, Hiến pháp có hai khả năng quan trọng: một là, những quy định của Hiến pháp về quyền con người là đầy đủ nhất, toàn diện nhất so với những quy định của các đạo luật; hai là, chính sự chế ước và hạn chế quyền lực đã trở thành lá chắn hữu hiệu chống lại sự tùy tiện của quyền lực đối với quyền con người. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền cần có Hiến pháp để bảo đảm được cốt cách đặc trưng của nó. Bởi thế, bảo hiến là bảo vệ quyền con người, là thực hiện mục tiêu và đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền.

IV. Đặc trưng của bảo hiến trong thể chế chính trị tập quyền 

Tư tưởng về bảo hiến bao gồm khía cạnh về một cơ chế hữu hiệu để bảo vệ phần thiểu số trong cơ chế chính trị và bảo vệ lợi ích toàn cục (quốc gia). Điều đó là bởi ở các quốc gia theo chế độ đại nghị, dường như cơ chế giải quyết xung đột giữa lập pháp và hành pháp đã hình thành những công cụ pháp lý khá hữu hiệu, đó là hình thức giải tán Nghị viện trước thời hạn và hình thức giải tán Chính phủ. Bằng những cách đó, thế cân bằng lợi ích luôn được duy trì khi sự cân bằng tỏ ra có vấn đề. Tuy nhiên, khi quyền lập pháp được đặt ở thế thượng phong, nhất là khi lập pháp được đặt ở vị trí tối thượng thì nguyên tắc phân quyền bị phá vỡ. Về hình thức, dường như trong trường hợp này vị thế nghiêng về lập pháp, nhưng thực chất từ khi đó “cơ chế đảng phái” đã bắt đầu xuất hiện. Cơ chế quyền lực nhà nước đã chuyển hóa thành cơ chế quyền lực chính trị. Đa số trong nghị viện thuộc về đảng đa số cầm quyền và nghị viện lúc đó trở thành công cụ thực hiện lợi ích của đảng hoặc liên minh các đảng cầm quyền mà thực chất là sự liên kết giữa lập pháp và hành pháp. Như vậy, nguyên tắc đa số của chế độ đại nghị gắn liền và thể hiện sự lệ thuộc của nghị viện vào chính phủ và đảng chính trị. Phe đối lập chỉ chỉ còn một cách duy nhất là dựa vào một cơ chế bảo vệ là tài phán hiến pháp. Bảo đảm sự cân bằng vốn có của cơ chế phân quyền là chức năng quan trọng của cơ chế tài phán hiến pháp. Nó còn có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của thiểu số trong hệ thống đa đảng trong cơ chế phân quyền.

Từ phân tích ở trên, có thể suy ra được vì sao cơ chế quyền lực nhà nước tập trung, không phân quyền, hay còn gọi là tập quyền, lại không cần đến hoặc coi nhẹ vấn đề tài phán hiến pháp. Bởi lẽ, theo cơ chế này, toàn bộ quyền lực về mặt hình thức thuộc về các cơ quan đại biểu cao nhất là Quốc hội. Quốc hội vừa là cơ quan lập hiến, vừa là cơ quan lập pháp, vừa có quyền giải thích, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Trong bối cảnh đó, nếu nảy sinh những cáo buộc, chỉ trích về một đạo luật nào đó là vi hiến, Quốc hội có thể làm cho nó hợp hiến bằng cách đưa ra giải thích, hoặc sửa đổi hay bãi bỏ nó – tất cả đều nhằm mục đích ‘nắn sửa” đạo luật đó cho phù hợp với Hiến pháp. Một cách khác, Quốc hội thậm chí có thể sửa đổi Hiến pháp để bảo đảm tính hợp hiến của một đạo luật nhất định. Rõ ràng là, trong bối cảnh quyền lực tập trung như vậy, không thực sự xuất hiện nhu cầu bức thiết về một công cụ là tài phán hiến pháp mà thiên chức của nó là bảo đảm cho sự vận hành một cơ chế kiểu khác – cơ chế phân quyền.

(1) Trong bài này, các tác giả sử dụng thay thế các thuật ngữ “bảo hiến”, “bảo vệ hiến pháp”, “tài phán hiến pháp”, mặc dù các khái niệm này đều chưa hoàn toàn phù hợp xét trong ngữ nghĩa pháp lý do chúng có phạm vi quá rộng và không xác định. Ở đây, một điều dễ hiểu đó là, mọi cá nhân, mọi thiết chế, tổ chức, mọi hoạt động đều có nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ hiến pháp. Từ cách tiếp cận này, khái niệm thích hợp hơn về mặt pháp lý có thể là “kiểm tra, giám sát Hiến pháp”. Kiểm tra, giám sát Hiến pháp có thể hiểu là một chức năng đặc biệt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp và sự thượng tôn Hiến pháp; bảo đảm để Hiến pháp thực hiện một cách trực tiếp trong các quan hệ hiện hữu.

(2)Xem http://www.britannica.com/EBchecked/topic/307542/judicial-review,http://legal-dictionary.thefreedictionary. com/judicial+review

(3) Xem http://www.britannica.com/EBchecked/topic/307542/judicial-review.

(4) Arne Mavčič, Historical Steps in the Development of Systems of ConstitutionalReview and Particularities of Their Basic Models, tại http://www.concourts.net/introen.php.

(5) Arne Mavčič, Historical Steps in the Development of Systems of Constitutional Review and Particularities of Their Basic Models, tại http://www.concourts.net/introen.php

(6) Tuy nhiên, một số học giả nước ngoài dường như không thừa nhận có cơ chế bảo hiến ở các nước theo mô hình XHCN, bởi họ cho rằng, bảo hiến chỉ có thể được xác lập trong các thể chế chính trị tam quyền phân lập – nơi mà tính độc lập của Tòa án được bảo đảm.

Nhân Quyền Trong Các Bản Hiến Pháp Việt Nam

[SV&KHPL] NHÂN QUYỀN TRONG CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM

Trong một nhà nước dân chủ, nhân quyền vẫn luôn chiếm một vị trí trung tâm, được bảo vệ trước quyền lực của nhà nước. Do vậy, dù là ở hoàn cảnh nào thì nhân quyền luôn được đề cao thông qua việc được quy định cụ thể trong Hiến pháp và ngày càng được hoàn thiện hơn để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, tình hình đất nước, và cả thế giới.

1. Dẫn nhập

Liên Hợp Quốc chính thức công nhận khái niệm nhân quyền vào năm 1948 với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Trong đó, thuật ngữ Nhân quyền được hiểu một cách đơn giản nhất là quyền con người: “những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”.

Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ có viết: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng rằng tạo hoá đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” . Như vậy, quyền con người – dù được nhìn nhận dưới góc độ nào, đều được hiểu là những quyền tự nhiên cơ bản của con người, không thể bị tước đoạt, chiếm giữ bởi bất cứ ai và bất cứ thế lực nào.

Nhìn nhận được vấn đề trên, các bản Hiến pháp của Việt Nam đều ghi nhận và bảo đảm quyền con người một cách tối đa. Sau các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 thì Hiến pháp 2013 đã có sự kế thừa một cách chọn lọc và ghi nhận quyền con người ở một tầm cao mới. Qua bài viết “Nhân quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam”, chúng tôi hy vọng sẽ mang lại một cái nhìn toàn diện về quyền con người trong các bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp 2013, cho quý độc giả.

2. Khái niệm nhân quyền

Nhân quyền (hay còn gọi là quyền con người) được hiểu là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào[1].

Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền: “Nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người”[2]

Tại Việt Nam, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu lợi ích tự nhiên, vốn có khách quan của con người được bảo vệ và ghi nhận trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.[3]

3. Quy định về nhân quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam

3.1 Hiến pháp 1946

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà [….] dân tộc Việt Nam đã có mọi quyền tự do [….] phụ nữ Việt Nam đã được ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền cá nhân của công dân”.

Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 09/11/1946 với 7 chương và 70 Điều. Trong đó, chương “Quyền và nghĩa vụ của công dân” được xếp thứ 2 gồm 18 Điều và đặt nghĩa vụ trước quyền lợi. Điều 7 Hiến pháp lần đầu tiên ghi nhận quyền bình đẳng trong lịch sử dân tộc trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất.[4]Ngoài ra, Hiến pháp cũng quy định đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện, có quyền tự do ngôn luận, quyền tư hữu tài sản được bảo đảm,… Đặc biệt tại Điều 21 ghi nhận: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”. Tuy nhiên, do là bản Hiến pháp đầu tiên nên Hiến pháp 1946 cũng có những hạn chế nhất định như: đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nền sơ học cưỡng bách và không học phí,…. đó là lý do vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Bản Hiến pháp chưa hoàn toàn, nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới, nước Việt Nam là một nước độc lập. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới: phụ nữ đã được đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền tự do của một công  dân… Hiến pháp đó cũng đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các dân tộc”.

3.2 Hiến pháp 1959

Như đã đề cập ở phần trên, Hiến pháp 1946, Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới bấy giờ, nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ VI, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946 và thành lập Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 01-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.

Hiến pháp năm 1959 bao gồm 10 chương 112 Điều, trong đó Quyền và Nghĩa vụ của công dân được quy định tại chương III (thay vì chương II như Hiến pháp 1946) bao gồm 21 Điều (từ Điều 22 đến 42). So với Hiến pháp 1946 thì Hiến pháp 1959 đã bổ sung những quy định mới về quyền con người như: Quyền khiếu nại tố cáo với cơ quan Nhà nước (Điều 29), Quyền làm việc (Điều 30), Quyền nghỉ ngơi (Điều 31). Bên cạnh quy định quyền, Hiến pháp 1959 cũng quy định cụ thể những nghĩa vụ cơ bản của công dân. Một điều đáng lưu ý, Hiến pháp 1946 đề cao vai trò của nhân dân trong quá trình lập hiến, theo đó nhân dân có quyền phúc quyết Hiến pháp – phúc quyết để thực thi quyền làm chủ đất nước và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia[5]. Tuy nhiên, Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 sau này đều bãi bỏ quyền này. Đây là một quyền dân chủ trực tiếp rất quan trọng của công dân và nên được khôi phục lại.

Với sự thay đổi của nền kinh tế – xã hội, Hiến pháp 1959 ra đời phần nào đã khắc phục được những hạn chế của Hiến pháp năm 1946 – những điều khoản không còn phù hợp với tình hình. Hiến pháp 1959 có thể xem như là một bước tiến mới trong quy trình kỹ năng lập hiến Việt Nam.

3.3 Hiến pháp 1980

So với Hiến pháp 1946 và 1959 thì nhân quyền trong Hiến pháp 1980 ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn về kỹ thuật lập pháp. Quy định ở các Điều luật ngày càng cụ thể hơn, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các quy định từ các bản Hiến pháp trước đó. Một ví dụ về việc kế thừa và phát triển kỹ năng lập pháp qua các bản Hiến pháp về nhân quyền, mà cụ thể là về quyền bình đẳng, được thể hiện qua các bản Hiến pháp như sau: nếu như Hiến pháp năm 1946 quy định tại Điều 6 đến Điều 9 trong đó có các nội dung là: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình. Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung. Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” thì đến Hiến pháp năm 1980, đối với Quyền bình đẳng nam, nữ (Điều 63), Hiến pháp bổ sung bốn điểm mới: một là, Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ để phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội; hai là, Nhà nước cần hoạch định chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ; ba là, xã viên hợp tác xã cũng được hưởng phụ cấp sinh đẻ; bốn là, Nhà nước và xã hội phải chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, các nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi khác. Không chỉ là nội dung ngày càng hoàn thiện mà số lượng các điều khoản ở Hiến pháp 1980 cũng nhiều hơn so với bản Hiến pháp trước. Nếu trước đây, ở Hiến pháp năm 1946 chỉ có 18 Điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân thì ở Hiến pháp năm 1959 là 21 Điều và Hiến pháp năm 1980 là 29 Điều.

Mặc dù ở Hiến pháp 1980 có những điểm tiến bộ hơn trong việc ghi nhận nhân quyền so với hai bản Hiến pháp trước, tuy nhiên, ở bản Hiến pháp này, ta vẫn thấy một số bất cập như khi quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn còn hạn chế, cách quy định các quyền trong Hiến pháp 1980 theo tư duy cũ, thể hiện tư tưởng “Nhà nước ban phát quyền” cho dân. Tuy nhiên, theo tinh thần Hiến pháp của các nước phát triển thì các quyền con người là bẩm sinh, vốn có của mỗi cá nhân con người, không ai có thể vi phạm và không chủ thể nào có thể ban phát. Nhà nước phải có trách nhiệm thừa nhận và đảm bảo những quyền đó được thực hiện trên thực tế. Như vậy, cách tiếp cận của Hiến pháp nước ta hoàn toàn khác với cách tiếp cận Hiến pháp của các nước phát triển. Một điểm hạn chế nữa ở bản Hiến pháp này là không thừa nhận sở hữu cá nhân. Có lẽ do quan niệm quá giản đơn và vội vàng nên các Hiến pháp năm 1959 và năm 1980 đã không thừa nhận sở hữu tư nhân. Trong những năm chiến tranh, quy định này có tác dụng rất lớn cho việc vận động nhân dân tập trung sức người, sức của vì sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Tuy nhiên khi bước sang công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thì quy định như trên lại là nguồn gốc cho sự cào bằng và thờ ơ với tư liệu sản xuất, dẫn đến tình trạng lãng phí của công, thiếu trách nhiệm trong việc quản lý tài sản, nạn tham ô công quỹ tràn lan và trở nên phổ biến. Hiến pháp 1980 cần khắc phục điểm yếu này và thể hiện nhận thức mới về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

3.4 Nhân quyền trong Hiến pháp 1992

Hoàn cảnh đất nước thay đổi, đang trên đà quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có những quy định về vấn đề nhân quyền trong Hiến pháp 1980 đã không còn phù hợp nữa mà buộc phải thay đổi bằng một bản Hiến pháp mới phù hợp hơn với tình hình đất nước lúc bấy giờ – Hiến pháp 1992. Có thể nói, những bản Hiến pháp càng về sau thì càng “ưu việt” hơn các bản Hiến pháp trước đó. Về hình thức thể hiện, các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 với kỹ thuật lập pháp chuẩn xác hơn. Lần đầu tiên, thuật ngữ “quyền con người” được thừa nhận trong Hiến pháp (ba bản Hiến pháp trước đồng nhất quyền con người với quyền công dân). Ngôn ngữ thể hiện chặt chẽ, phản ánh đúng hiện thực khách quan, bỏ đi một số câu chữ mang tính nhân văn nhưng không phù hợp với thực tiễn.

Số lượng các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong chương về Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng có bước phát triển, không chỉ so với ba bản Hiến pháp trước mà còn so với Hiến pháp của các nước. Nếu Hiến pháp 1946 có 28 Điều về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1959 có 21 Điều, Hiến pháp 1980 có 28 Điều thì Hiến pháp 1992 có 34 Điều trên tổng 147 điều của toàn bộ Hiến pháp. So riêng với Hiến pháp 1980 thì Hiến pháp 1992 chỉ giữ lại 4 Điều không sửa chữa, 26 Điều phải sửa đổi, bổ sung và thêm 4 Điều mới với sự sắp xếp hợp lý hơn. Cũng chính vì việc tăng các Điều luật hơn so với các bản Hiến pháp trước đó mà quyền công dân ở Hiến pháp 1992 được mở rộng hơn so với 3 bản Hiến pháp trước. Ví dụ, quyền sở hữu tài sản của công dân được ghi nhận một cách khái quát hơn (Điều 58).

 Dung lượng và những thay đổi về hình thức đó thể hiện kỹ thuật lập hiến ngày một nâng cao theo nguyên tắc luật phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và có tính khả thi. Cũng như các bản Hiến pháp năm 1946, 1959 hay 1980, các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được bổ sung và cụ thể hóa hơn để đi đến hoàn thiện. Các quyền cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp năm 1980 đã được chỉnh lý lại cho phù hợp với điều kiện thực tế của thời kỳ của quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận quyền tư hữu như là một trong những quyền cơ bản nhất của công dân. Việc xác định lại quyền tư hữu của công dân – một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là một nội dung căn bản nhất của bản Hiến pháp năm 1992 – Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và nhận thức lại các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những thành công trong việc ghi nhận về nhân quyền trong Hiến pháp Việt Nam.

Tuy vậy, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, những quy định về nhân quyền của Hiến pháp 1992 đã có một số điều không còn phù hợp cần thay đổi nó thể hiện qua các bất cập sau:

Thứ nhất, quyền con người đồng nghĩa với quyền công dân như quy định ở Điều 50 của Hiến pháp 1992 là thiếu chính xác, dễ gây nên sự hiểu lầm rằng ở Việt Nam, chỉ công dân Việt Nam mới có quyền con người, còn những người ngoại quốc thì không. Việc quy định như vậy đã trái với quy định về nhân quyền của thế giới, bởi lẽ nhân quyền là quyền tự nhiên, bất kì ai sinh ra cũng có mà không bị phân biệt giới tính, dân tộc…

Thứ hai, có thể nhận thấy trong các quy định của Hiến pháp Việt Nam là nhân quyền được quy định theo cách thức được Nhà nước thừa nhận. Điều này dễ gây hiểu nhầm rằng Nhân quyền là một quyền được Nhà nước ban phát cho người dân. Các quy định này rất dễ nhận thấy trong chương về Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, như các Điều 53, Điều 54, 56, 57, 58… của Hiến pháp năm 1992 đều quy định dưới dạng Nhà nước thừa nhận các quyền cho công dân một cách chủ quan duy ý chí, không phải là người dân được hưởng các quyền đó một cách mặc nhiên. Cách quy định này hoàn toàn khác cách tiếp cận của Hiến pháp các nước phát triển. Quyền của công dân là những quyền thuộc về tạo hóa ban cho con người, không ai có thể vi phạm hay có quyền ban phát cho người khác. Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cho những quyền đó được thực hiện trên thực tế. Đây là điểm quan trọng, cần đặc biệt lưu ý khi sửa đổi Hiến pháp 1992.

3.5 Nhân quyền – điểm sáng mới trong Hiến pháp 2013

Sau chặng đường hơn 10 năm đổi mới, hoàn cảnh cảnh đất nước thay đổi nên việc thay đổi Hiến pháp là một điều cần thiết để phù hợp hơn với tình hình hiện tại. Có thể nói, Di sản hiến định mà Hiến pháp năm 1946 để lại cho các Hiến pháp sau – Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và 2013 là rất lớn. Mỗi Hiến pháp đều ghi nhận cốt lõi những điều khoản về Nhân quyền trong Hiến pháp. Thế nhưng, qua mỗi giai đoạn các bản Hiến pháp đã bộc lộ những thiếu sót mà các nhà lập pháp chưa dự liệu được để Hiến pháp trở nên phù hợp với thực tiễn. Để đáp ứng những thiếu sót đó, bản Hiến pháp 2013 ra đời và đặc biệt là khi quy định về nhân quyền, nhân quyền được coi là điểm sáng[6]trong Hiến pháp 2013.

Trong bản Hiến pháp 2013 có 11 chương, 120 Điều. Trong đó, chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương có Điều luật nhiều nhất, gồm 36 Điều (từ Điều 14 đến Điều 49). Đây là chương quan trọng vì nói đến lập hiến là nói đến mối quan hệ giữa công dân và các cơ quan Nhà nước. Quyền con người được quy định trong chương II của Hiến pháp 2013, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân). So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 bổ sung nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:

Một là, đưa vị trí chương “Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân”  từ chương V trong Hiến pháp năm 1992 về chương II trong Hiến pháp 2013. Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là sự thay đổi về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức. Với quan niệm đề cao chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp, coi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí quan trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Mặc dù Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận thuật ngữ “quyền con người” – thông qua quy định “quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân” tại Điều 50, Hiến pháp năm 1992 lại chưa phân biệt rạch ròi được quyền con người với các quyền cơ bản của công dân.  Khắc phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con người” và “quyền công dân”. Trong Hiến pháp sửa đổi, khi nói đến quyền con người thì dùng từ “mọi người”, khi nói đến công dân Việt Nam thì dùng từ “công dân”. Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọngvề nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Theo quy định tại Điều 14, không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói trên do Luật định. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi quy định: việc hạn chế quyền con người, quyền công dân dứt khoát phải được quy định bằng Luật, không phải bằng văn bản dưới luật.

Hai là, Hiến pháp mới bổ sung một số quyền mới, thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta. Đó là Quyền sống (Điều 19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43). Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người.

Ba là, kỹ thuật lập hiến có nhiều đổi mới. Cách thể hiện có những điều riêng quy định về nguyên tắc như Điều 14, Điều 15. Các nhà lập hiến đã tham khảo các Điều ướcquốc tế mà Nhà nước ta là thành viên để nội dung các cách diễn đạt đảm bảo sự tương thích. Ngoài ra, quyền con người không chỉ đề cập ở chương II mà ở nhiều chương khác như chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Như vậy, bộ máy nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Cách tiếp cận quyền con người này thể hiện sự kế thừa và tiếp thu quan điểm tiến bộ của các nước trên thế giới.

4. Kết luận

Trong một nhà nước dân chủ, nhân quyền vẫn luôn chiếm một vị trí trung tâm, được bảo vệ trước quyền lực của nhà nước. Do vậy, dù là ở hoàn cảnh nào thì nhân quyền luôn được đề cao thông qua việc được quy định cụ thể trong Hiến pháp và ngày càng được hoàn thiện hơn để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, tình hình đất nước, và cả thế giới.

Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, là sự kết tinh của tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ mới. Việc hiến định, hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp sửa đổi là sự tiếp nối, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời chuyển hóa sâu sắc nhiều nội dung, tinh thần các Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, nhân quyền…; tạo nền tảng pháp lý cao nhất bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được thực hiện, đáp ứng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Giáo trình Luật Hiến pháp trường Đại học Luật TPHCM.

2.     Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.

3.      GS – TS. Nguyễn Đăng Dung, Cách tiếp cận hay là cách thức quy định nhân quyền trong Hiến pháp, Đại học quốc gia Hà Nội.

4.      Vũ Đình Hoè - Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam: Một mô hình mới – Hiến pháp dân tộc và dân chủ,Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam, Văn phòng Quốc hội, Nxb. Chính trị Quốc gia.

5.      Nguyễn Bình An, Hiến pháp với vấn đề nhân quyền, Luận văn thạc sỹ ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, Khoa Luật ĐH Luật Hà Nội.

6.      Hoàng Văn Hảo, Hiến pháp Việt Nam với vấn đề quyền con người, quyền công dân, 2001.

7.     Tuyên ngôn độc lập Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, lời nói đầu bản Tiếng Việt trong các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.

[1]http://vi.wikipedia.org/

[2]Giáo trình về quyền con người

[3]Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1999

[4] Điều 7 Hiến pháp 1946 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình”.

[5] Điều 21 Hiến pháp1946

[6]TS. Đinh Xuân Thao trả lời Thông tấn xã Việt Nam, http:/www.vietnamplus.vn/, truy cập ngày 08/10/2014

NGUYỄN PHÚC THIỆN

Hiến Pháp Năm 2013 Về Quyền Con Người, Quyền Cơ Bản Của Công Dân

1. Quan niệm về quyền con người, quyền cơ bản của công dân

Tư tưởng về quyền con người (human rights, droits de l’home), cũng có thể gọi là ” quyền của con người” – ” rights of human person” hình thành cùng với sự xuất hiện của những nền văn minh cổ đại, quyền con người xuất phát từ các quyền thiêng liêng, tự nhiên, vốn có của con người, không do chủ thể nào ban phát. Quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Ví dụ, về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước như quyền công dân, mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại, về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, nên chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của ” gia đình nhân loại “, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch,… Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.

Quyền con người được diễn đạt dưới nhiều giác độ khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh xã hội, văn hóa tín ngưỡng – tôn giáo; mục tiêu và định hướng của mỗi thể chế chính trị, mỗi kiểu nhà nước, quan điểm của từng giai cấp cầm quyền; hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi cá nhân và của từng ngành khoa học như; triết học, chính trị học, luật học, xã hội học…

Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền của con người luôn được cụ thể hóa bằng những quyền cơ bản của công dân (do được ghi nhận trong hiến pháp) và bao giờ cũng được xem là một chế định pháp luật rất quan trọng – đây là một trong những chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của một nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân cùng với các cá nhân trong xã hội. Thông qua đó, có thể xác định được mức độ dân chủ của một nhà nước, một xã hội.Vì vậy, những nhà lập pháp Việt Nam luôn hoàn thiện chế định pháp luật về quyền cơ bản của công dân trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp và luôn gắn liền với nghĩa vụ của công dân.

Khái niệm công dân trước hết biểu hiện tính chất đặc biệt của mối quan hệ pháp luật giữa nhà nước với một số cá nhân con người nhất định, khái niệm công dân hẹp hơn khái niệm cá nhân (con người), bởi vì trong một quốc gia không những chỉ có công dân của quốc gia đó mà còn có công dân nước khác và những người khôngquốc tịch. Như vậy, công dân xét về mặt pháp luật thuộc về một nhà nước nhất định, nhờ đó mà con người được hưởng những quyền của nhà nước quy định và đồng thời phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước đó. Trong Hiến pháp năm 2013, tại điều 17 cũng ghi nhận ” Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam “, nên khái niệm công dân gắn liền với khái niệm quốc tịch. Theo nghĩa, quốc tịch là mối liên hệ giữa một cá nhân con người với một nhà nước nhất định, nếu là công dân của một nhà nước thì được hưởng đầy đủ các quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật của nhà nước đó quy định, những người không phải là công dân của nhà nước đó thì quyền lợi và nghĩa vụ đương nhiên sẽ bị hạn chế.

Khái niệm ” công dân” cũng có thể là mối quan hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại cả trong những trường hợp mà công dân Việt Nam đã sinh sống ở nước ngoài nhưng vẫn còn mang quốc tịch Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 tại điều 18 cũng quy định: ” Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước “. Như vậy, xuất phát từ mối quan hệ giữa Nhà nước Việt Nam với công dân nước ngoài và người không có quốc tịch, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền con người, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và căn cứ vào những điều ước đã kí kết giữa Nhà nước Việt Nam với nước ngoài; mối quan hệ pháp luật đặc biệt đó thông thường phát sinh từ lúc những người nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam và chấm dứt khi họ rời khỏi lãnh thổ Việt Nam; mối quan hệ đó thường mang tính chất nhất thời, không có sự gắn bó lâu dài như mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước.

Trong hầu hết các nhà nước, địa vị pháp lý của công dân được hình thành bởi tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh về mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước, bên còn lại là công dân. Nội dung những quy phạm pháp luật tạo nên địa vị pháp lí của công dân, ở những nước khác nhau thì khác nhau, bởi địa vị pháp lý của công dân phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế – xã hội, chính trị, văn hóa, truyền thống … của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, cần thiết phải thấy rằng; địa vị pháp lý của công dân ở các nước trên thế giới ngày nay cũng có nhiều nét tương đồng. Các quy phạm pháp luật về địa vị pháp lý của công dân bao gồm nhiều chế định: quốc tịch, năng lực chủ thể của công dân, các quyền tự do và nghĩa vụ của công dân, các biện pháp đảm bảo thực hiện quy chế công dân; mỗi chế định điều chỉnh một mặt trong địa vị pháp lý của công dân.

Xét về nguồn gốc lịch sử, khái niệm ” quyền công dân ” (citizen’s rights) xuất hiện cùng với các cuộc cách mạng tư sản, cách mạng tư sản đã biến con người từ địa vị thần dân trong chế độ nhà nước quân chủ thành địa vị công dân trong hình thức nhà nước tư sản. Như vậy, khi đề cập đến quyền công dân là đề cập đến một bộ phận quyền con người theo các quy định của pháp luật với tư cách là một thành viên bình đẳng trong nhà nước, cho nên có thể nói quyền con người và quyền công dân có nội dung rất gần nhau. Tuy nhiên, quyền công dân không phải là hình thức cuối cùng của quyền con người mà nó thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và phải được thông qua một chế định pháp luật nhất định, đặc biệt là chế định về quốc tịch.

Theo từ điển tiếng Việt thì ” quyền công dân” được hiểu là ” quyền của người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền kinh tế văn hóa – xã hội“[1]. Như vậy, theo chúng tôi, có thể hiểu “quyền công dân” là quyền con người, được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình, là tập hợp những quyền đượcHiến pháp và pháp luật của mỗi Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện. Theo quan niệm của Mác, quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên ” xã hội công dân“. Như vậy, khái niệm ” quyền công dân” xuất hiện sau sự xuất hiện của khái niệm ” quyền con người” và được gắn liền với thời điểm ra đời của nhà nước tư sản và duy trì, phát triển đến xã hội ngày nay. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, khái niệm về quyền con người, quyền công dân ít khi được đề cập, cho nên có quan niệm quyền con người và quyền công dân là đồng nhất. Việt Nam cũng vậy, hầu hết trong các bản Hiến pháp đều không ghi nhận về quyền con người (trừ Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013), chỉ ghi nhận về quyền và nghĩa vụ của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 1992, tại Điều 50 ghi nhận về quyền con người: ” Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” – ở đây vẫn chưa có sự phân định rạch ròi giữa quyền con người và quyền công dân, quyền công dân như là hình thức pháp lý của quyền con người.

2. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam về quyền con người, quyền công dân

Kế thừa tư tưởng của các hiến pháp trước đó về quyền con người, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Chương 2 với tiêu đề: “QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN”. Theo đó,Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”. Như vậy, quyền con người và quyền công dân đã được hiểu ở hai nghĩa khác nhau: quyền con người và quyền công dân là những quyền độc lập với nhau; và quyền công dân là một bộ phận của quyền con người, quyền công dân là sự biểu hiện của quyền con người, được Hiến pháp và pháp luật thừa nhận. Chẳng những Việt Nam mà cộng đồng quốc tế cũng đều mong muốn hướng tới việc bảo vệ, phát triển quyền công dân cũng như bảo vệ các giá trị về quyền con người dựa trên sự ghi nhận của Hiến pháp và pháp luật của từng quốc gia phù hợp với thông lệ và quy định mang tính quốc tế.

Sự đấu tranh bảo vệ, giải phóng loài người thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, đi đến xây dựng xã hội dân sự, thực sự dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các dân tộc. Chính vì điều đó, quyền con người, quyền công dân là yếu tố quan trọng trong mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội và quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cơ bản nhất trong mọi hiến pháp.

Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm ” quyền con người ” với nội dung chính trị – pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.

Nhìn ở góc độ về khái niệm, ” quyền con người” không loại trừ và không thay thế được khái niệm ” quyền công dân“. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm đặt vị trí của chương ” Quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” -Chương II. Có thể nói đây cũng chính là sự kế thừa ” vị trí ” của Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, do nhiệm vụ chính trị của các thời kỳ là khác nhau nên có điều khác biệt, nếu như Hiến pháp năm 1946 đặt nghĩa vụ của công dân lên trước thì Hiến pháp năm 2013 lại đặt quyền của công dân lên trước. Một mặt điều này cho thấy quan điểm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, một mặt cho thấy quyền và nghĩa vụ trong tất cả các thời kỳ là có mối quan hệ mật thiết với nhau, có sự kế thừa và phát triển của Hiến pháp sau so với Hiến pháp trước.

Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ ” vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên ” vị trí ” Chương II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến Điều 82 – Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49 – Hiến pháp năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng mười lăm điều so với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm 1980. Trong đó, có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42, Điều 43), sửa đổi, bổ sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18, Điều 20 đến Điều 33, Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên ba điều (là những điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49), trong đó có những nội dung cực kỳ quan trọng cụ thể như sau:

– Điều 14 ghi nhận: ” Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng“. Đây thực chất là sự hiến pháp hóa quan điểm của Đảng về quyền con người ” Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định“[2] [3]. Như vậy, lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam ghi nhận ” Quyền con người“, điều này cho thấy không phải các bản Hiến pháp trước đó chúng ta không ghi nhận về ” quyền con người” (nhân quyền) mà trước đây chúng ta chưa phân biệt rõ hai khái niệm ” quyền con người” và ” quyền công dân“, hay nói cách khách chúng ta đã đồng nhất hai khái niệm trên, cũng chính vì điều này mà chúng ta bị các thế lực thù địch xuyên tạc Nhà nước ta không quan tâm đến ” quyền con người“, vi phạm nhân quyền…lần ghi nhận này có ý nghĩa hết sức quan trọng một mặt chúng ta phân biệt rõ hai khái niệm ” quyền con người” và ” quyền công dân“, ghi nhận ” quyền con người” đứng trước ” quyền công dân” cũng có nghĩa là chúng ta ghi nhận ” quyền con người” có nội hàm rộng hơn ” quyền công dân“, ” quyền công dân ” là một bộ phận của quyền con người, đồng thời cũng ghi nhận từ trước đến nay chúng ta luôn thừa nhận quyền con người đã được cụ thể hóa trong quyền công dân mà các Hiến pháp trước đây đã công nhận, có điều chúng ta chưa tách bạch độc lập về hai khái niệm trên.

– Điều 15 ghi nhậnbốn nguyên tắt hết sức cơ bản: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

– Điều 16 ghi nhận một vấn đề hết sức cơ bản, bằng việc tiếp thu những giá trị của nhân loại về quyền con người, đã nâng cao thêm tính công bằng công lý cho ” mọi người” (kể cả công dân Việt Nam và người nước ngoài và người không quốc tịch), mở rộng đối tượng được hưởng tính công bằng này là ” mọi người” chứ không chỉ riêng cho ” công dân” như Hiến pháp năm 1992, mặc dù về mặt nhận thức trước đây chúng ta cũng muốn công bằng cho mọi người nhưng việc thể hiện chưa sâu sắc ” Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội “.

– Điều 18 (sửa đổi, bổ sung Điều 49) là sự sáng tạo, khẳng định sức mạnh của một quốc gia độc lập ngang tầm, bình đẳng với các quốc gia khác, dân tộc khác trên thế giới “… Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giao nộp cho Nhà nước khác. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài” cũng nhằm khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới là một ” bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam “.

– Điều 19 ghi nhận ” Mọi người có quyền sống… ” đây là một điều mới, ghi nhận một quyền mới, đã thể chế một quyền hết sức cơ bản, quyền tự nhiên của con người vừa phù hợp công ước quốc tế về quyền con người vừa khẳng định tính khởi thủy của quyền con người như là một sinh vật sống và tồn tại trong thế giới khách quan.

– Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 72) thể hiện tính phù hợp hơn của tinh thần nhà nước pháp quyền, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ quan tòa án nhưng cũng khẳng định một trong những quyền của con người là được tòa án xét xử khi bị buộc tội, như vậy có thể hiểu rằng không một cơ quan nào khác được thực hiện quyền này nhằm đảm bảo tính công bằng công lý cho tất cả những người phạm tội và việc xét xử ấy cũng chỉ được xét xử bằng chính pháp luật và chỉ bằng pháp luật, họ có thể sử dụng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa để có thể ” gỡ” tội cho chính mình: ” Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm “; trong điều này ghi nhận hai quyền cơ bản; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác.

– Điều 29 ghi nhận: ” Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân“. Đây là sự phát triển Điều 53 của Hiến pháp năm 1992, tiếp tục khẳng định quyền được trưng cầu ý kiến, cách thể hiện cô đọng hơn và có sự giới hạn về độ tuổi của người dân được trưng cầu, phải là ” công dân đủ mười tám tuổi trở lên “, việc giới hạn độ tuổi như vậy cũng là cần thiết và phù hợi với điều kiện thực tiễn Việt Nam.

– Các Điều 30, Điều 31 tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 tại các Điều 74, Điều 72 và có tiếp thu tinh thần Nghị quyết số 49 về cái cách tư pháp, cải cách hành chính và các vấn đề về quyền khiếu nại, tố cáo.

– Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 58) đã ghi nhận hết sức cơ bản về quyền sở hữu tư nhân, việc ghi nhận này đã giúp cho việc nhìn nhận của thế giới về tính công bằng giữa chế độ sở hữu tư nhân và công hữu ” Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường “. Việc ghi nhận này giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài hiểu thêm về chế độ tư hữu ở Việt Nam là hiện hữu, không thể hiểu nhầm khi họ đầu tư là sợ quốc hữu hóa về tài sản như trước đây, tránh việc các thế lực thù địch lợi dụng công kích và theo đó, cũng giúp việc ghi nhận tại Chương III quy định về chế độ kinh tế là không cần liệt kê các thành phần kinh tế như các bản Hiến pháp trước nữa mà chỉ cần ghi nhận nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế có nhiều thành phần, cũng có thể hiểu rằng Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng quyền về tự do kinh doanh của mọi người, mở rộng hơn nữa quyền con người trong lĩnh vực kinh tế.

– Các Điều 41, Điều 42, Điều 43 là các điều mới ghi nhận những quyền thuộc về lĩnh vực đời sống tinh thần mà trước đây trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện, đó cũng do những điều kiện khách quan đang cho phép, đồng thời cũng buộc chúng ta phải ghi nhận, đặc biệt cần quan tâm ” Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41); ” công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42); ” mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” (Điều 43), sự thừa nhận này có thể hiểu giá trị con người cần được đề cao, đáng được đề cao và xem trọng. Đặc biệt là ghi nhận một quyền mới ” quyền được sống trong môi trường trong lành ” là điều hiển nhiên trong một xã hội văn minh, việc ghi nhận này có thể nói là khá muộn. Tuy nhiên, đã thể hiện sự cầu thị, tiếp thu, kế thừa những giá trị của nhân loại, làm điều kiện thúc đẩy môi trường xã hội văn minh, tiến bộ.

Tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, hơn suốt hai mươi năm qua các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và thực thi thông qua việc ghi nhận nội dung quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và nhân dân Việt Nam về sự quan tâm có tiếp thu, kế thừa những quan điểm, giá trị tiến bộ của truyền thống dân tộc, của thế giới, cùng những kinh nghiệm lập hiến, lập pháp của các nước tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội nước nhà.

Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên cạnh việc nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Cập nhật thông tin chi tiết về Lịch Sử Tư Tưởng Lập Hiến Và Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Hiến Pháp Anh trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!