Xu Hướng 3/2023 # Lấy Ý Kiến Nhân Dân Đối Với Dự Thảo Luật Bảo Đảm Trật Tự, An Toàn Giao Thông Đường Bộ # Top 8 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Lấy Ý Kiến Nhân Dân Đối Với Dự Thảo Luật Bảo Đảm Trật Tự, An Toàn Giao Thông Đường Bộ # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Lấy Ý Kiến Nhân Dân Đối Với Dự Thảo Luật Bảo Đảm Trật Tự, An Toàn Giao Thông Đường Bộ được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dự thảo Luật này cũng đã quy định cụ thể các nội dung sau: Hệ thống báo hiệu và quy tắc giao thông đường bộ (Chương II); Phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông (Chương III); Tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ (Chương IV); Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ (Chương V); Thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm và trách nhiệm pháp lý (Chương VI); Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ (Chương VII).

Đáng chú ý, quy tắc giao thông đường bộ quy định từ Điều 13 đến Điều 45 có các nội dung cơ bản như: quy tắc về phía đi, phần đường, nhường đường, tránh, vượt, chuyển hướng, lùi xe, vượt xe, dừng xe, đỗ xe, tốc độ, khoảng cách… Sửa đổi, bổ sung đầy đủ và rõ ràng hơn một số quy tắc giao thông, như: sử dụng làn đường, chuyển hướng, tránh, vượt, dừng, đỗ xe, nhường đường tại nơi đường giao nhau, sử dụng còi, đèn tín hiệu, mở cửa xe…; bổ sung quy định tốc độ tối đa của một số loại phương tiện có trọng tải lớn trên đường cao tốc; khoảng cách an toàn giữa các xe tương ứng với tốc độ và điều kiện mặt đường thời tiết, địa hình để đảm bảo an toàn giao thông…

Ngoài ra, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ sau đây: – Xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; báo cáo về tình hình trật tự, an toàn giao thông đường bộ với Chính phủ, Quốc hội.  – Cấp, thu hồi đăng ký, biển số các loại xe cơ giới. – Tổ chức kiểm định xe cơ giới của Công an sử dụng vào mục đích an ninh. – Sát hạch và cấp, đổi, thu hồi giấy phép lái xe; quản lý quá trình chấp hành pháp luật của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ sau khi được cấp giấy phép lái xe. – Chỉ huy, điều khiển giao thông, giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ; – Chủ trì kiểm tra, đánh giá về an toàn giao thông đối với các công trình giao thông đường bộ đang khai thác khi xảy ra vụ việc gây mất an toàn giao thông do nguyên nhân tổ chức giao thông hoặc khi có yêu cầu tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội trên đường bộ; tham gia hội đồng nghiệm thu đánh giá về an toàn giao thông đối với các công trình giao thông đường bộ trước khi đưa vào khai thác; tham gia ý kiến đối với việc điều chỉnh, thay đổi hệ thống báo hiệu đường bộ; – Điều tra, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ. – Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Thông báo tình hình trật tự, an toàn giao thông đường bộ trên các phương tiện thông tin đại chúng theo định kỳ hoặc đột xuất. – Quản lý, sử dụng trung tâm chỉ huy điều khiển hệ thống giám sát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. – Thống kê, tổng hợp, xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông đường bộ, đăng ký xe, xử lý vi phạm và quản lý người lái xe; kết nối, chia sẻ, cung cấp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. – Giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. – Kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về an toàn kỹ thuật của phương tiện khi tham gia giao thông đường bộ giữa hai kỳ kiểm định; xử phạt các hành vi vi phạm quy định về hoạt động kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới, hoạt động đào tạo lái xe. – Phối hợp với Bộ Giao thông vận tải về nội dung an toàn giao thông trong xây dựng kết cấu hạ tầng và vận tải đường bộ.

Dự thảo Tờ trình Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ cho biết: Theo thống kê của Bộ Công an, từ năm 2009 đến nay, tai nạn giao thông ở Việt Nam đã xảy ra 331.390 vụ, làm chết 100.227 người (chủ yếu trong độ tuổi lao động), bị thương 333.435 người, gây thiệt hại rất lớn về tài sản. So với thế giới, tai nạn giao thông Việt Nam ở mức cao, nguyên nhân gây tai nạn giao thông đường bộ do lỗi vi phạm của người tham gia giao thông là chủ yếu (chiếm trên 90% số vụ).

Ùn tắc giao thông xảy ra phức tạp tại các thành phố lớn do lưu lượng phương tiện tăng đột biến, trong khi quy hoạch giao thông, tổ chức giao thông, hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu, gây tắc nghẽn trên diện rộng tại các đô thị lớn và trên các tuyến cao tốc, quốc lộ trọng điểm… Ý thức chấp hành của một bộ phận người tham gia giao thông còn rất kém, đã phát hiện, xử lý 57.683.830 trường hợp vi phạm; phát hiện, xử lý gần 6.000 vụ phạm pháp hình sự trên tuyến giao thông; vi phạm vẫn có tính phổ biến, nhiều hành vi nguy hiểm như đi ngược chiều, lùi xe trên đường cao tốc, vượt đèn đỏ, đua xe trái phép, sử dụng ma túy, rượu, bia khi điều khiển phương tiện, chạy quá tốc độ, vượt ẩu, không chấp hành yêu cầu kiểm tra, kiểm soát, chống người thi hành công vụ…

So sánh năm 2019 với năm 2009, phương tiện giao thông bình quân tăng từ 10-15%/năm, chủ yếu là các phương tiện cá nhân, tập trung tại các đô thị lớn; thực trạng tham gia giao thông ở Việt Nam hiện nay là giao thông hỗn hợp với rất nhiều các loại phương tiện cơ giới, thô sơ… đa dạng về chủng loại, nơi sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu, trong đó chủ yếu là xe cá nhân, nhiều phương tiện không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật khi tham gia giao thông, nhiều phương tiện đã được mua, bán, cho, tặng qua nhiều chủ nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.

Vì vậy, xuất phát từ cơ sở chính trị, pháp lý và những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn nêu trên, việc ban hành Luật Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ là hết sức cần thiết để giải quyết những vấn đề cấp bách thực tiễn đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật về trật tự, an toàn giao thông, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và thi hành pháp luật trong lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Bảo Đảm Trật Tự An Toàn Giao Thông

Quản lý TTATGT là sự tác động có hướng đích của các chủ thể quản lý nhà nước về TTATGT trong đó CSGT là lực lượng nòng cốt; dựa t rên cơ sở hệ thống pháp luật về GTVT của nhà nước để điều chỉnh quá trình hoạt động GTVT và hành vi hoạt động của người tham gia giao thông, nhằm duy trì, ổn định và phát triển các yếu tố cấu thành hoạt động giao thông theo mục tiêu đã đề ra. Nhìn lại chặng đường 70 năm qua. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo sát đúng của Bộ Công an đối với công tác quản lý TTATGT. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được của công tác bảo đảm TTATGT trong 70 năm qua chúng ta cần khẳng định: TTATGT trên địa bàn cả nước vẫn cơ bản vẫn được giữ vững và ổn định; kết quả đó đã góp phần làm đẹp bộ mặt xã hội của đất nước, đồng thời là nền tảng cơ bản vững chắc để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế. Bên cạnh những kết quả đã đạt được không ai có thể phủ nhận, công tác bảo đảm TTATGT đang đặt ra những nhiệm vụ mới nặng nề, phức tạp hơn, do tác động của các yếu tố về chủ quan và khách quan; đặc biệt đối với các thành phố lớn, cần sớm nghiên cứu có biện pháp khắc phục kịp thời. Tình hình TTATGT trong những năm gần đây tuy ổn định, TNGT từng bước giảm cả ba tiêu chí nhưng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát mất TTATGT. Các yếu tố cấu thành hoạt động giao thông quốc gia như: hạ tầng giao thông, phương tiện giao thông, ý thức người tham gia giao thông, môi trường pháp lý trong công tác bảo đảm TTATGT chưa tương thích, đang tạo ra những xung đột trong lĩnh vực TTATGT nhưng chưa có lời giải tối ưu; theo đó, vi phạm pháp luật giao thông, tai nạn, ô nhiễm môi trường, UTGT, chống lại CSGT trong khi thi hành công vụ vẫn xảy ra…đang là những vấn đề bức xúc được xã hội quan tâm, chưa có giải tối ưu. Theo thống kê chưa đầy đủ, những yếu tố tác động đến TTATGT đang có những diễn biến khó lường: Trên lĩnh vực đường bộ: Từ năm 2010 đến hết năm 2015 đã xảy ra 34.512.071 vụ vi phạm, trung bình mỗi năm xảy ra 5.752.012 vụ, tiền phạt thu thu nộp ngân sách 14.217 tỷ, tước giấy phép lái xe: 2.087.606 trường hợp, tạm giữ 687.463 phương tiện. Tính chất hành vi vi phạm rất đa dạng: dừng đỗ sai qui định, đi sai làn đường, chạy quá tốc độ qui định, chở quá khổ, quá tải, người điều kiên khiển phương tiện xử dụng lồng độ cồn quá qui định, không chấp hành hiệu lệnh biến báo giao thông…. Về tai nạn từ năm 2010 đến hết năm 2015 cả nước đã xảy ra: 141.127vụ TNGT làm chết 58.487 người, trung bình mỗi năm có 9748 người chết do TNGT; số người bị thương 135.981 người trung bình mỗi năm có 22.663,5 người bi thương do TNGT. Về phương tiện giao thông cơ giới tính đến hết năm 2015 không kê số phương tiên của Quân đội và Công an xử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng và không kể số xe nhập lậu qua biên giới không được đăng ký, quản lý, lực lượng CSGT đã đăng ký, quản lý: 2.861.702 xe ô tô các loại, mô tô là 47.760.854 trung bình cứ 2 người Việt Nam có một xe mô tô, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến ùn tắc, tai nạn. Về tình hình UTGT, không kể số vụ UTGT cục bộ, đặc biét là tại các đô thị, các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ trọng điểm; kết quả thống kê các vụ ùn tắc kéo dài trên 1 giờ cho thấy từ năm 2010 đến hết năm 2015 trên địa bàn cả nước đã xảy ra: 1.137 vụ, trung bình mỗi năm xảy ra 189,5 vụ. Về tình hình chống lại lực lượng CSGT khi thi hành công vụ, không kể những vụ việc nhỏ không được các địa phương thông kê, tính từ năm 2006 đến hết năm 2015 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 594 vụ chống lại CSGT thi hành công vụ làm 7 cán bộ CSGT hy sinh, 256 cán bộ, chiến sỹ CSGT bị thương, lực lượng CSGT đã phối hợp các lực lượng nghiệp vụ xử lý 633 đối tượng chống lại CSGT thi hành công vụ. Trong đó tập trung tại các thành phố lớn Hà Nội chiếm 34,38%; Hải Phòng chiếm 6,8%; thành phố Hồ Chí Minh chiếm 6,6%; Quảng Ninh chiếm 2,1%; Bình Định chiếm 1,6%… Trên lĩnh vực ĐTNĐ tình hình TTATGT diễn biến cũng hết sức phức tạp. Về tai nạn ĐTNĐ từ năm 2010 đến hết năm 2015 trên địa bàn cả nước đã xảy ra: 805 vụ tai nạn, trung bình mỗi năm xảy ra 134,2 vụ. Làm chết 641 người, bị thương 136 người,; chìm đắm 796 phương tiện, thiệt hại 167,2 tỷ đồng. Tình hình vi phạm pháp luật giao thông ĐTNĐ từ 2010 đến hết 2015 đã xảy ra: 1.343.204 vụ vi phạm, không kể số vụ vi phạm ẩn không bị phát hiện, không bị xử lý; thu tiền phạt nộp kho bạc nhà nước 607.33 tỷ… Những con số về TTATGT đường bộ, ĐTNĐ nêu trên đang đặt ra cho các cơ quan quản lý Nhà nước về TTATGT, trong đó có lực lượng CSGT hết sức năng nề; cần phải có những giải pháp hữu hiệu, cấp bách, kịp thời để từng bước khắc phục những hạn chế, thiếu sót nói trên, để đáp ứng yêu cầu bảo đảm TTATGT trong những năm tới.

Kinh nghiệm trong công tác quản lý trật tự an toàn giao thông của Cảnh sát quốc gia Nhật Bản có thể, xem xét, vận dụng ở Việt Nam góp phần bảo đảm trật tự an toàn giao thông Trong phạm vi bài viết do thời gian và kiến thức hiểu biết còn hạn chế tác giả xin chia sẻ một vài kinh nghiệm nhận ra từ việc nghiên cứu hoạt động của Cảnh sát quốc gia Nhật Bản trong công tác bảo đảm TTATGT. Tác giả xin chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực đường bộ cũng là điều hiển nhiên vì nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đang quan tâm, vì TTATGT đường bộ đang phát sinh nhiều vấn đề phức tạp; đó là TNGT, ô nhiễm môi trường và UTGT, vi phạm TTATGT đường bộ đã đến mức báo động mà con người đang phải gánh chịu. Bảo đảm TTATGT đường bộ là một tất yếu, khách quan, là nhu cầu đòi hỏi của toàn xã hội, đang được các nhà quản lý quan tâm . Vậy làm thế nào để bảo đảm TTATGT? làm thế nào để người tham gia giao thông không phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do hoạt động giao thông đường bộ để lại? Có rất nhiều quan điểm, hiến kế và giải pháp khác nhau, kể cả trên phương diện lý luận và trong hoạt động thực tiễn. Ở quốc gia đất nước mặt trời mọc vào những năm đầu 70 của thế kỷ XX người nghiên cứu được biết trung bình một năm ở Nhật Bản có trên 17 nghìn người chết do TNGT, TNGT đã trở thành chiến nạn cần phải có biện pháp mạnh để đối phó với thảm họa này. Sau gần 50 năm lỗ lực thực hiện các giải pháp bảo đảm TTATGT đường bộ với mục tiêu: tất cả vì con người, được sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền, sự vào cuộc của các ngành các cấp, sự tham gia với ý thức trách nhiệm và tự giác của người dân, TTATGT đường bộ ở quốc gia Nhật Bản đã trở thành mong ước lý tưởng của nhiều quốc gia trên thế giới; số người chết do TNGT ở Nhật Bản từng bước giảm cơ bản, đến nay đã giảm hơn ¾ số người chết so với năm 1970.

Hệ thống giao thông của Nhật Bản có chỉ số an toàn bậc nhất thế giới

Đại tá, TS. Pham Trung Hòa Chuyên viên cao cấp – Học viện CSND

Trật Tự An Toàn Giao Thông

Tạp chí CSND – Để bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa (TTATGT ĐTNĐ), Đảng, Nhà nước, các cơ quan địa phương đã có nhiều giải pháp như ban hành văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ cho hoạt động quản lý, khai thác giao thông vận tải (GTVT) ĐTNĐ; tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thi hành pháp luật; thanh tra, TTKS, XLVP. Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về giao thông ĐTNĐ, Cục ĐTNĐ Việt Nam đã tham mưu Bộ GTVT kiến nghị Chính phủ một số giải pháp như: quy định rõ về quan hệ phối hợp trong quản lý đường thủy nội địa vận động cả hệ thống chính trị và nhân dân thực hiện các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa…

Tạp chí CSND – Công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trật tự an toàn giao thông (TTATGT) đường thủy đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo đảm TTATGT. Trong đó các cơ quan chức năng cần tiến hành các biện pháp sau: phải có sự phối kết hợp giữa các lực lượng, có sự chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương; tổ chức tốt các công tác điều tra cơ bản về đối tượng cần phải tuyên truyền giáo dục luật giao thông đường thủy nội địa (ĐTNĐ); cần phải phối hợp giữa các lực lượng và các cơ quan chức năng với các doanh nghiệp và các hợp tác xã vận tải thường xuyên mở các lớp tập huấn để tuyên truyền; gắn công tác tuyên truyền Luật giao thông ĐTNĐ với việc xây dựng các phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, phong trào bình yên sông nước; tăng cường công tác tuần tra kiểm soát xử lí các hành vi vi phạm Luật giao thông ĐTNĐ.

Tạp chí CSND – Thực hiện quy chế phối hợp thường niên, ngày 16/01/2017, Học viện Cảnh sát nhân dân (CSND) đã tổ chức Lễ ra quân tăng cường cho Công an thành phố Hà Nội 500 học viên (Khóa D40) nhằm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn Thủ đô dịp Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017. Tới dự Lễ ra quân có đồng chí Thiếu tướng PGS, TS. Đặng Xuân Khang – Phó Giám đốc Học viện CSND, đồng chí Đại tá Vũ Tiến Ỉnh – Phó Cục trưởng Cục Đào tạo – Tổng cục Chính trị Công an nhân dân. Về phía Công an thành phố Hà Nội có đồng chí Thượng tá Đinh Quang Thái – Phó Trưởng phòng PX13 và Thượng tá Phạm Văn Hậu – Phó Trưởng phòng PC67.

Xây Dựng Và Hình Thành Văn Hóa Giao Thông Ở Việt Nam Nhằm Nâng Cao Trật Tự An Toàn Giao Thông Đường Bộ

1.1. Khái niệm về văn hóa

Như giới thiệu trong nhiều tài liệu, văn hóa là sản phẩm của con người; là hệ quả của sự tiến hóa nhân loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó có những định nghĩa khác nhau về Văn hóa.

Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of concept and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.

Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì ” Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…“[8]; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì ” Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng“[9]…

Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngôn ngữ,… đến âm nhạc, pháp luật… Còn các định nghĩa của F. Boas, Nguyễn Đức Từ Chi, tổ chức UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc sống là văn hóa. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.

Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.

1.2. Người có văn hóa

Con người có văn hóa luôn kết hợp hài hòa hai yếu tố căn bản gồm:

Một – Hành vi ứng xử đúng mực, luôn nhã nhặn lịch thiệp, kính trên nhường dưới, biết tôn trọng thuần phong mỹ tục, cổ vũ cái tốt và đấu tranh chống cái xấu, có trách nhiệm công dân;

Hai – Hành động thiết thực nhằm quảng bá lối sống đẹp, có tri thức cao nhưng phải biết khuếch tán giá trị tri thức với cộng đồng.

Như vậy, tri thức và lối sống tạo nên nhân cách hoàn chỉnh của con người có văn hóa, nhưng cái gốc vẫn là tính nhân bản sâu sắc.

II. VĂN HÓA GIAO THÔNG2.1. Khái niệm về văn hóa giao thông

Khái niệm Văn hoá giao thông tất nhiên là một biểu hiện cụ thể của khái niệm Văn hoá nói chung…Văn hoá giao thông là một khái niệm khá mới mẻ với nhiều cách hiểu khác nhau: có người bảo thực hiện tốt luật lệ giao thông là Văn hoá giao thông, có người lại bảo nội dung Văn hoá giao thông rộng hơn nhiều nội dung luật lệ giao thông, người khác thì nói Văn hoá giao thông là cách ứng xử của mọi người khi tham gia giao thông…

Theo Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia: ” Văn hoá giao thông được biểu hiện bằng hành vi xử sự đúng pháp luật, theo các chuẩn mực của xã hội về lẽ phải, cái đẹp, cái thiện của người tham gia giao thông. Xây dựng Văn hoá giao thông nhằm tạo nên thói quen cư xử có văn hoá, đúng pháp luật; coi việc tự giác tuân thủ pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông như một chuẩn mực đạo đửc truyền thống và là biểu hiện văn minh hiện đại của con người khi tham gia giao thông”. Cũng theo Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, trong Văn hoá giao thông có ba tiêu chí:

Một là, về nhận thức và hành động, hiểu biết đầy đủ và tự giác chấp hành đúng các quy định của pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông;

Hai là: có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, tôn trọng, nhường nhịn và giúp đỡ người khác;

Ba là, có thái độ ứng xử văn minh lịch sự khi xảy ra va chạm giao thông và tinh thần thượng tôn pháp luật.

Theo báo Văn hoá: ” Văn hoá giao thông là tự giác chấp hành trật tự an toàn giao thông, ngăn chặn các hành vi gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông, tôn trọng, nhường nhịn người khác, tận tình giúp đỡ người tham gia giao thông gặp hoạn nạn, giúp đỡ người tàn tật, trẻ em, người cao tuổi để hướng tới một xã hội giao thông an toàn, thân thiện”.

Theo TS. Nguyễn Thị Hồng: Văn hoá giao thông hiểu theo nghĩa hẹp là cách ứng xử có văn hoá của mọi người khi tham gia giao thông. Đó chính là sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, biết nhường nhịn và giúp đỡ người khác, có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự khi xảy ra va chạm…

Theo chúng tôi Hồ Sĩ Vịnh: ” Văn hoá giao thông là một thành tố của lối sống đô thị, của văn hoá thẩm mỹ, là gương mặt của đô thị. Khi ta nói người Hà Nội văn minh thanh lịch, hiện đại thì tín hiệu đầu tiên gây ấn tượng mạnh đối với khách công vụ hay khách du lịch là Văn hoá giao thông”.

Theo Giáo sư Hoàng Chương: Nhận thức về văn hóa giao thông (VHGT) trong xã hội hiện nay còn chưa thực sự chính xác, dường như chỉ tập trung vào ý thức văn hóa, tinh thần chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông mà chưa quan niệm đầy đủ các thành tố tạo nên văn hóa giao thông cũng như mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố đó. Từ quan điểm lệch lạc đó dẫn đến các nội dung xây dựng Văn hoá giao thông cũng chỉ nhằm vào vận động mọi người chấp hành tốt luật giao thông và ứng xử có văn hóa khi tham gia giao thông. Đây cũng là một trong những lý do khiến việc xây dựng văn hóa giao thông chậm tiến triển, thiếu đột phá. Nói đến Văn hoá giao thông là nói đến cái phải, cái đẹp, cái thiện của con người trong quá trình xây dựng, sử dụng các công trình, phương tiện giao thông, trong xây dựng và thực thi pháp luật về giao thông và trong tham gia giao thông. Văn hóa giao thông vừa là động lực, vừa là mục tiêu tạo nên một hệ thống giao thông hiện đại, văn minh, hiệu quả, một môi trường giao thông an toàn, nhân ái, thân thiện.

Văn hóa giao thông bao gồm cả hai mặt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất bao gồm các hạ tầng kỹ thuật giao thông (các loại đường giao thông, hệ thống chỉ dẫn giao thông), phương tiện giao thông, thiết bị diều hành giao thông. Văn hóa tinh thần bao gồm luật giao thông, cách thực thi luật giao thông, hành vi tham gia giao thông, trách nhiệm và tâm lý tham gia giao thông…

Khi bàn về văn hóa giao thông, lâu nay chúng ta thường chủ yếu nói đến yếu tố, ý thức, tinh thần mà cũng chỉ tập trung đến những yêu cầu, chuẩn mực văn hóa đối với những người trực tiếp tham gia giao thông. Muốn hiểu đúng về Văn hoá giao thông cần nhận thức về văn hóa giao thông với các mặt, các đối tượng các cấp độ. Văn hóa giao thông không chỉ là văn hóa vận hành giao thông mà còn là văn hóa pháp luật giao thông, văn hóa quy hoạch giao thông, văn hóa quản lý, quan trị giao thông.

Theo tác giả của bài báo này thì: Văn hóa giao thông là hành vi có văn hóa của con người khi tham gia hoạt động giao thông.

Văn hóa giao thông nằm trong phạm trù văn hóa chung. Có nghĩa là biểu hiện của văn hóa của con người trong quá trình tham gia hoạt động giao thông (giao thông ở đây bao gồm cả giao thông tĩnh và giao thông động). Đây cũng là nội dung thuộc về yếu tố con người trong chỉnh thể: Hạ tầng – Phương tiện – Con người.

Hành vi là sự biểu hiện của các hiện tượng tâm lý thông qua các thao tác, các hoạt động cụ thể góp phần đáp ứng và làm thỏa mãn nhu cầu của con người.

Hành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân được thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của mỗi cá nhân đó. Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh và thậm chí ngay cả với chính bản thân họ. Hành vi ứng xử văn hóa là kết quả của quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, niềm tin của con người trong quá trình sống, học tập và lao động. Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội.

Ứng xử là thể hiện thái độ, hành động thích hợp trước những việc có quan hệ giữa mình với người khác. Là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau.

Những chủ thể (con người) tham gia trong hoạt động giao thông đường bộ:

1) Người tham gia giao thông gồm: Người điều khiển phương tiện, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; Người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ; Người điều khiển phương tiện gồm: người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Người lái xe là người điều khiển xe cơ giới. Hành khách là người được chở trên phương tiện vận tải hành khách đường bộ, có trả tiền.

2) Người điều khiển giao thông: Là cảnh sát giao thông. Người được giao nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông, ở bến phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.

3) Người làm công tác quản lý, khai thác hạ tầng giao thông và thanh tra giao thông: Đảm bảo và duy trình khả năng khai thác của hạ tầng giao thông an toàn và đúng quy đinh. Như người quản lý đường hay tuần kiểm viên… thanh tra giao thông.

Văn hóa giao thông được thể hiện qua biểu hiện văn hóa trong các hành vi của các chủ thể nói trên.

Hành vi có văn hóa của người tham gia giao thông được thể hiện ở các nội dung sau:

– Thứ nhất, thể hiện sự hiểu biết nội dung quy định của pháp luật (Luật, nghị định, thông tư…) về loại hình giao thông mà mình tham gia. Giới thiệu, phổ biến cho người thân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen biết khác về những quy định của các văn bản, quy định nêu trên. Thường xuyên cập nhật và nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật giao thông.

– Thứ hai, hiểu đúng, tuân thủ báo hiệu khi tham gia hoạt động giao thông. Hướng dẫn những người cùng tham gia giao thông với mình hiểu, hiểu đúng và tuân thủ báo hiệu giao thông. Thông báo cho cảnh sát giao thông, người quản lý giao thông về những sai sót, khiếm khuyết, chất lượng của báo hiệu (nếu có). Cảnh báo cho người tham gia giao thông khác không rơi vào “bẫy” do lỗi của hệ thống báo hiệu, để vô tình trở thành người vi phạm Luật giao thông. Kiên trì bảo vệ quan điểm của mình khi bị cảnh sát giao thông phạt nếu lỗi do báo biệu giao thông không đúng hoặc không đúng hoàn toàn và kiến nghị CSGT phải có ý kiến với cơ quan quản lý hạ tầng.

– Thứ ba, sử dụng và điều khiển phương tiện an toàn. Có trình độ và kỹ năng sử dụng phương tiện giao thông (đã qua đào tạo tại các sơ sở uy tín và có bằng). Không sử dụng phương tiện không an toàn (kể cả đã đăng kiểm). Thông báo cho người cùng tham gia giao thông về tình trạng mất an toàn nếu có. Giới thiệu và hướng dẫn cho người khác sử dụng phương tiện an toàn. Không tham gia hoạt động mua bán bằng lái xe, hối lộ đăng kiểm.

– Thứ tư, sử dụng hạ tầng giao thông an toàn. Sử dụng đúng làn đường, không vượt quá tốc độ quy định và đi với tốc độ phù hợp với điều kiện đường và thông tin có được về tuyến đường. Khi chuyển làn, chuyển hướng và dừng đỗ phải có tín hiệu theo quy định, không đột ngột và lựa chọn phần xe chạy an toàn để thực hiện hành động này. Không hoặc hạn chế đi vào những đoạn đường có nguy cơ tiềm ẩn cao về tai nạn giao thông. Thông báo cho người cùng tham gia giao thông, cơ quan quản lý giao thông, cảnh sát giao thông về sự hỏng hóc, không an toàn của hạ tầng giao thông.

– Thứ năm, phối hợp với người điều khiển giao thông, cơ quan quản lý giao thông và những người tham gia giao thông khác thực hiện nhiệm vụ đảm bảo giao thông thông suốt và an toàn.

Hành vi có văn hóa của người điều khiển giao thông được thể hiện ở các nội dung sau:

– Chấp hành đúng điều lệnh, tác phong người chiến sỹ công an nhân.

– Tập trung vào nhiệm vụ hướng dẫn giao thông cho người tham gia giao thông hơn tập trung xử phạt vi phạm giao thông.

– Kiên quyết xử phạt nặng nhất với các đối tượng có hành vi cố tình vi phạm giao thông.

– Hướng dẫn và giáo dục tại chỗ đối với người không cố ý vi phạm giao thông.

– Thông báo các vi phạm của người tham gia giao thông về địa phương và cơ quan với người tham gia giao thông vi phạm ( cả cố tình và vô tình).

– Tiếp thu các ý kiến, thông báo của người tham gia giao thông về sự cố giao thông.

– Thông báo cho cơ quan quản lý và khai thác hạ tầng về sự cố, bất cập của hạ tầng giao thông.

– Đối với cán bộ làm công tác điều khiển giao thông của các đơn vị thi công nâng cấp cải tạo, bảo trì trên đường đang khai thác cần

Hành vi có văn hóa của người làm công tác quản lý, khai thác hạ tầng giao thông và thanh tra giao thông được thể hiện ở các nội dung sau:

– Thường xuyên tuần tra, kiểm tra nhằm phát hiện sự cố hỏng hóc, bất cập của hạ tầng có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động giao thông và an toàn đối với người tham gia giao thông.

– Sửa chữa kịp thời các hỏng hóc, bất cập của hạ tầng giao thông tạo điều kiện cho người tham gia giao thông thực hiện hành vi giao thông thuận tiện và an toàn.

– Thanh tra các trường hợp vi phạm và xử phạt nghiêm minh.

– Phối hợp với cho cảnh sát giao thông để xử lý về sự cố, bất cập của hạ tầng để phối hợp hướng dẫn cho người tham gia giao thông được giao thông thuận tiện và an toàn.

2.2. Văn hoá giao thông hiện nay ở Việt Nam

Trong 9 tháng đầu năm 2012, lực lượng cảnh sát giao thông đường bộ toàn quốc đã kiểm tra, lập biên bản gần 5,2 triệu trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông; kho bạc Nhà nước thu 1.668,4 tỷ đồng; tạm giữ 19.091 xe ôtô, 467.865 xe môtô.

Theo phân tích, các hành vi vi phạm của người tham gia giao thông chủ yếu tập trung ở các lỗi vi phạm như chở quá tải; đón, trả khách không đúng nơi quy định; không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy trên đường. Đặc biệt là vi phạm tốc độ; đi không đúng làn đường, tránh, vượt sai, sử dụng rượu, bia thường dẫn đến xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng.

Thực tế ở nhiều nơi, ý thức tự giác chấp hành luật giao thông của người tham gia giao thông cũng chưa cao, có cảnh sát thì người tham gia giao thông chấp hành nghiêm vì sợ bị xử phạt, không có cảnh sát thì không chấp hành mặc dù có tín hiệu đèn giao thông. Trong khi thực tế cảnh sát giao thông cũng không thể bố trí thường xuyên trên tất cả các tuyến, địa bàn để giám sát và xử phạt.

Thêm vào đó, tâm lý đôi khi người điều khiển phương tiện muốn đi nhanh do việc gấp, hay “vui một tý” bằng bia, rượu của người dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc tham gia giao thông của họ.

Nhìn vào số liệu phân tích tai nạn giao thông 6 tháng đầu năm 2012, tai nạn giao thông do người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới vi phạm đi không đúng phần đường, làn đường chiếm 27,8%; vi phạm tốc độ chiếm 15,1%; vi phạm nồng độ cồn chiếm 4,7% tổng số vụ tai nạn giao thông xảy ra…

Thực tế cho thấy, những người tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm; những người chưa đủ tuổi đi xe gắn máy chở ba – chở bốn ngang nhiên vượt đèn đỏ; đi sai phần đường; đỗ xe không đúng qui định; hành vi uống rượu bia, phóng nhanh vượt ẩu; đi vào đường một chiều, đường cấm, bóp còi inh ỏi; phương tiện cũ kỹ, hàng hóa chở cồng kềnh; xe buýt tranh giành khách, chở quá số người qui định, chạy quá tốc độ, lên xe khách là chen chúc, xô lấn nhau để tranh chỗ ngồi tốt, móc túi, nói tục, chửi bậy; taxi phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn nhiều và còn xuất hiện những cuộc đua xe với tốc độ cao bất chấp cảnh sát giao thông và người đi đường để lạng lách, đánh võng; đinh tặc vẫn xảy ra thường xuyên… . Đây không đơn thuần là sự yếu kém về văn hóa giao thông mà thực sự là sự suy thoái đạo đức trong văn hóa ứng xử giữa người với người.

Bức tranh Văn hoá giao thông Việt Nam thời kỳ hội nhập rất đa dạng, phong phú, có mặt tích cực và cả mặt tiêu cực (mặt tiêu cực có phần nổi bật hơn). Tìm hiểu vấn đề Văn hoá giao thông ở Việt Nam cần phải có một cái nhìn toàn diện.

Giao thông đô thị ở Việt Nam, nhất là ở những đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… rất dễ nhận ra những hành vi thiếu ý thức, kém văn hoá khi tham gia giao thông như: học sinh không có giấy phép lái xe vẫn sử dụng xe máy; không thắt dây an toàn khi đi xe ôtô; dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe không đúng quy định; đi xe búyt không nhường ghế cho người già, trẻ nhỏ, phụ nữ có thai, người tàn tật; phóng nhanh; vượt ẩu; đi vào đường ngược chiều; uống rượu, bia trước khi điều khiển phương tiện cơ giới; không có tín hiệu xin đường khi chuyển làn chuyển hướng; không đi đúng phần đường của loại phương tiện điều khiển; đi xe quá tốc độ cho phép; vượt đèn đỏ; lạng lách; không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm mang tính chất đối phó; kẹp ba, kẹp bốn… thậm chí có trường hợp kẹp tám trên xe máy; vừa điều khiển phương tiện giao thông vừa nghe điện thoại, nghe nhạc; làm xiếc khi đi xe máy như đi xe máy một bánh; rúc còi inh ỏi; đua xe trái phép; vượt qua đường sắt khi tàu sắp tới, hành hung cảnh sát giao thông khi bị dừng xe vì vi phạm luật lệ giao thông… Đặc biệt nghiêm trọng là nạn rải đinh trên đường, nhất là đường Pháp Vân – Cầu Giẽ ( Hà Nội), trên đoạn đường Bình Dương ( Thị xã Thủ Dầu Một) và một số tỉnh thành khác; nạn trộm cắp nguyên vật liệu của cơ sở hạ tầng giao thông như nắp hố ga, dây cáp đèn đường…

2.4. Giải pháp xây dựng Văn hoá giao thông ở Việt Nam

Chỉ một va chạm nhỏ trên đường phố, thay vì xin lỗi, cảm ơn…thì người ta quay ra cãi lộn, đánh đấm nhau thậm chí rượt đuổi đâm chém, bắn nhau dẫn đến tử vong.

Ở Việt Nam hiện còn tồn tại rất nhiều hành vi gây cản trở giao thông như họp chợ, buôn bán trái phép, lấn chiếm lòng đường, vỉa hè; Mang vật liệu cồng kềnh quá giới hạn cho phép, gây cản trở tầm nhìn và tầm hoạt động cho các phương tiện khác; Đi bộ sai đường không đúng vạch vôi quy định; Tụ tập đông người dưới lòng đường, vỉa hè trước cửa trường học, bệnh viện,

Theo quan điểm của tác giả cần có những giải pháp cụ thể và bám sát thực tế:

– Xây dựng các phương án tổ chức giao thông hợp lý, phù hợp với điều kiện hạ tầng và lưu lượng, thành phần tham gia giao thông.

– Xây dựng hệ thống báo hiệu đường bộ trong tổ chức giao thông phải rõ ràng thân thiện và thuận tiện với người tham gia giao thông. Tạo điều kiện cho người tham gia giao thông tiếp cận và tuân thủ dễ dàng phương án tổ chức giao thông và người điều khiển giao thông.

– Tiếp tục xây mới, nâng cấp hạ tầng giao thông đường bộ nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế, đồng thời xây dựng và phát triển hệ thống vận tải công cộng.

– Khuyến khích người tham gia giao thông sử dụng phương tiện vận tải công cỗng nhằm định hình tính cộng đồng trong ý thức của họ.

– Giáo dục văn hóa và đạo đức của người điều khiển phương tiện thông qua các khóa đào tạo lái xe.

– Công tác tuyên truyền về điều kiện giao thông trên các tuyến đường, tuyến phố và phương án tổ chức giao thông nhằm giúp người tham gia giao thông có được thông tin nhất định trong việc tham gia giao thông.

– Tăng cường công tác hướng dẫn việc giao thông cho người tham gia giao thông. Tăng cường công tác kiểm tra, tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm người cố tình vi phạm trật tự ATGT. Tăng cường sử dụng các công nghệ hiện đại và thông minh như camera, hộp đen giám sát hành trình phương tiện đường dài. Thu tiền phạt tự động qua thẻ, tài khoản ngân hàng…

Quan trọng là xử phạt nghiêm đối với các trường hợp cố tình vi phạm. Đối với các trường hợp vô tình vi phạm thì cần nhắc nhở hướng dẫn không nên nặng về xử phạt. Bổ sung các biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm về trật tự ATGT mang tính nghiêm trọng như thu hồi vĩnh viễn giấy phép lái xe, tạm giữ phương tiện, truy tố trước pháp luật, xét xử công khai nơi công cộng để răn đe, giáo dục các đối tượng khác…

– Tích cực và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá của một bộ phận công chức, viên chức tham gia điều hành, quản lý hệ thống giao thông để tạo ra môi trường văn hoá giao thông trong sạch, an toàn.

Hiện có nhiều quan niệm về Văn hóa giao thông với sự khác biệt lớn. Do vậy việc xây dựng và hình thành văn hóa giao thông sẽ có nhiều phương thức và kết quả là khác nhau. Chính vì vậy việc thống nhất quan niệm về văn hóa giao thông là rất cần thiết.

Tình trạng bất cập về văn hóa giao thông thấp một phần là do có quá nhiều phương tiện cá nhân, thiếu hụt giao thông công cộng. Bản thân người tham gia giao thông sử dụng các phương tiện vận tải hành khách công công sẽ có ý thức cộng đồng cao hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Xây dựng “Văn hóa giao thông” được coi như một giải pháp hữu hiệu vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài nhằm tạo dựng một môi trường giao thông thân thiện, trong đó các chủ thể cùng phối hợp giải quyết những vấn đề giao thông nhằm hạn chế tai nạn, ùn tắc, nâng cao khả năng thông hành trong bối cảnh hạ tầng giao thông còn yếu kém, bất cập.

Cần nghiên cứu cơ sở hình thành hành vi của người tham gia giao thông trên sơ sở tâm sinh lý của con người Việt Nam nhằm xây dựng các giải pháp về văn hóa giao thông đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện đặc thù ở Việt Nam. ■

[1]. Đào tạo tư vấn thẩm tra ATGT đường bộ, 2009, TS. Đào Huy Hoàng.

[2]. Tài liệu đào tạo thẩm tra ATGT Đương bộ, 2012, Trung tâm ĐT&TT – Viện Khoa học và Công nghệ GTVT.

[3] Tài liệu Hội nghị Quốc tế về ATGT tại Việt Nam năm 2012, Ủy ban ATGT Quốc gia

Cập nhật thông tin chi tiết về Lấy Ý Kiến Nhân Dân Đối Với Dự Thảo Luật Bảo Đảm Trật Tự, An Toàn Giao Thông Đường Bộ trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!