Xu Hướng 6/2023 # Khái Niệm Cơ Quan Nhà Nước # Top 13 View | 2atlantic.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Khái Niệm Cơ Quan Nhà Nước # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Khái Niệm Cơ Quan Nhà Nước được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Khái niệm cơ quan nhà nước

Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, bao gồm các thiết chế tập thể hoặc cá nhân được giao những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước.

Đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước

_Là một tổ chức công quyền có tính độc lập tương đối với các tổ chức nhà nước khác, một tổ chức cơ cấu bao gồm những cán bộ, công chức được giao những quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ và chức năng nhà nước theo quy định của pháp luật.

_Chỉ có cơ quan nhà nước mới có quyền lực nhà nước và thực hiện quyền của nhân dân, giải quyết các vấn đề quan hệ công dân, mỗi cơ quan nhà nước đều do pháp luật quy định, đó là tổng thể những quyền hạn và nghĩa vụ mang tính quyền lực- pháp lí mà nhà nước trao để thực hiện nhiệm vụ, chức năng nhà nước.

_Thẩm quyền của cơ quan nhà nước có những giới hạn về không gian, về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác động và phụ thuộc vào địa vị pháp lí của nó trong bộ máy nhà nước.

_Mỗi cơ quan nhà nước có hình thức, phương pháp hoạt động riêng do pháp luật quy định.

_Các loại cơ quan nhà nước ở nước ta gồm:

+Các cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

+Các cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND.

+Các cơ quan xét xử: TAND tối cao, TAND địa phương, TA quân sự, TA đặc biệt, TA khác do luật định.

+Các cơ quan kiểm sát: VKSND tối cao, VKSND quân sự, VKSND địa phương.

+Chủ tịch nước: là 1 chức vụ nhà nước, một cơ quan đặc biệt thể hiện sự thống nhất của quyền lực, hoạt động thực hiện cả 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp…

TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 – GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI

Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn. Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư – Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số:

1900.0191

để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Phân Tích Khái Niệm, Đặc Điểm Của Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước.

Phân tích khái niệm, đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước. Lời mở đầu Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước mang đầy đủ đặc điểm của cơ quan nhà nước nói chung tuy nhiên bên cạnh đó cơ quan hành chính nhà nước cũng có những đặc điểm riêng biệt giúp phân biệt với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Việc tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước không chỉ giúp chúng ta có thể nhận biết các cơ quan hành chính trong bộ máy nhà nước mà còn giúp xác định vai trò của cơ quan hành chính nhà nước với tư cách là chủ thể của pháp luật hành chính và là chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính. Nội dung 1.Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước. Để hiểu được khái niệm cơ quan hành chính nhà nước, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc và trình tự nhất định, có cơ cấu tổ chức nhất định và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện một phần nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước (Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội). Các cơ quan nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất đó chính là bộ máy nhà nước. Nếu căn cứ vào trật tự hình thành cũng như tính chất, vị trí, chức năng của các cơ quan nhà nước thì bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay gồm có bốn hệ thống cơ quan, đó là: hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, hệ thống các cơ quan xét xử và hệ thống các cơ quan kiểm sát. Trong đó, các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm: Chính phủ, các bộ, các ủy ban nhà nước, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp và các sở, phòng ban thuộc ủy ban nhân dân. Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, có phương diện hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp hành – điều hành, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định (Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội). 2.Đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan nhà nước, là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước. Do vậy, cơ quan hành chính nhà nước cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của các cơ quan nhà nước: Cơ quan hành chính nhà nước được sử dụng quyền lực nhà nước, có quyền nhân danh nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí với mục đích hướng tới lợi ích công. Biểu hiện của quyền lực nhà nước đó là: cơ quan hành chính nhà nước có quyền ban hành các văn bản pháp luật và có thể được áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật như Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003… Các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền riêng và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao. Đây là một điều kiện quan trọng đảm bảo cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước của mình, tránh sự chồng chéo, trùng lặp trong quá trình thực thi hoạt động quản lý nhà nước. Nguồn nhân sự chính trong cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ cán bộ, công chức được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Ngoài những đặc điểm chung nói trên, cơ quan hành chính nhà nước còn có những đặc điểm riêng như sau: Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước. Để thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiên hoạt động chấp hành – điều hành (những hoạt động được tiến hành trên cơ sơ luật và để thi hành luật). Như vậy hoạt động chấp hành – điều hành (hoạt động quản lý hành chính nhà nước) là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân. Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội… Và việc thực hiện hoạt động đó là nhằm hoàn thành chức năng quản lý hành chính nhà nước. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành – điều hành. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng của cơ quan hành chính nhà nước đó là chức năng quản lý hành chính nhà nước. Và để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước được hiệu quả thì cần phải phân định thẩm quyền rõ ràng, tránh sự chồng chéo giữa các cơ quan do đó pháp luật phải quy định cụ thể thẩm quyền của từng cơ quan trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ như UBND cấp xã chỉ có thẩm quyền quản lý hành chính tại địa phương của mình, không được phép xâm phạm vào thẩm quyền của các UBND cấp xã khác cũng như UBND cấp trên của mình; mỗi Bộ cũng chỉ được quản lý một lĩnh vực chuyên môn nhất định. Các cơ quan hành chính đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước. Trước hết, các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp do cơ quan quyền lực lập ra. Ví dụ: Quốc hội trực tiếp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thủ tướng chính phủ, phê chuẩn đề nghị của thủ tướng chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ; Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra… Mọi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước đều chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và phải báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực. Sở dĩ cơ quan hành chính nhà nước chịu sự lệ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp là do cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực. Với chức năng quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm thực hiện trên thực tế các văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước do đó có sự lệ thuộc vào cơ quan quyền lực. Trong khi Tòa án hay Viện kiểm sát với chức năng xét xử, kiểm sát việc tuân theo pháp luật nên phải ít lệ thuộc vào cơ quan quyền lực để đảm bảo sự khách quan, trung thực, rõ ràng trong hoạt động. Các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước đều có các đơn vị cơ sở trực thuộc. Ví dụ: Các trường đại học trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo, các bệnh viện trực thuộc Bộ y tế; các tổng công ty, công ty, nhà máy trực thuộc Bộ công thương, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ giao thông vận tải…Hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng như đáp ứng các dịch vụ xã hội, bảo đảm công bằng, vì lợi ích chung của xã hội. Kết luận Qua việc phân tích khái niệm cũng như đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước có thể thấy rằng cơ quan hành chính nhà nước không chỉ một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước mà còn là chủ thể quản lý hành chính nhà nước quan trọng nhất. Để cơ quan hành chính nhà nước có thể phát huy vai trò của mình trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi phải tiến hành cải cách bộ máy hành chính – một nội dung quan trọng của cải cách hành chính. Tài liệu tham khảo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội, 2009.

Phân Tích Khái Niệm Và Chứng Minh Rằng: Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Là Chủ Thể Quản Lý Hành Chính Nhà Nước Quan Trọng Nhất

MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Khái niệm và đặc điểm của các cơ quan hành chính nhà nước. 1. Khái niệm. Cơ quan hành chính nhà nước cũng là một cơ quan nhà nước. Do đó để hiểu được khái niệm cơ quan hành chính nhà nước trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc và trình tự nhất định, có cơ cấu tổ chức nhất định và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện mộ phần những nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước”. Từ định nghĩa trên có thể thấy rằng cơ quan nhà nước có một số đặc điểm cơ bản sau đây: cơ quan nhà nước phải là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định; cơ quan nhà nước được giao một phần nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn cũng như cơ cấu tổ chức của cơ quan nhà nước được quy định trong các văn bản pháp luật… Các cơ quan nhà nước có có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất đó chính là bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay gồm có bốn hệ thống cơ quan, đó là: hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, hệ thống các cơ quan xét xử và hệ thống các cơ quan kiểm sát. Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước (quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp). Đó là hệ thống cơ quan đứng đầu là Chính phủ, ngoài ra còn có các bộ và các cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp. Trên cơ sở những nội dung trên, ta có thể định nghĩa: Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, có phương diện hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp hành – điều hành, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định 2. Đặc điểm. Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận của bộ máy nhà nước nên cũng có các đặc điểm chung của cơ quan nhà nước như sau: – Cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí với mục đích hướng tới lợi ích công. – Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Ví dụ: Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, qyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của Bộ và cơ quan nganh bộ,.. – Các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền riêng và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao. – Nguồn nhân sự chính trong cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ cán bộ, công chức được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Ngoài những đặc điểm chung nói trên, cơ quan hành chính nhà nước còn có những đặc điểm riêng như sau: – Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước. Để thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước thực hiên hoạt động chấp hành – điều hành (những hoạt động được tiến hành trên cơ sơ luật và để thi hành luật). Như vậy hoạt động chấp hành – điều hành (hoạt động quản lý hành chính nhà nước) là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân. Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội… Và việc thực hiện hoạt động đó là nhằm hoàn thành chức năng quản lý hành chính nhà nước. – Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. – Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trên cơ sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành – điều hành. Trong đó cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương (Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ), thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ; cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương gồm ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực trong phạm vi địa giới hành chính nhất định – Các cơ quan hành chính đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước. Trước hết, các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp do cơ quan quyền lực lập ra. Ví dụ: Quốc hội trực tiếp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thủ tướng chính phủ, phê chuẩn đề nghị của thủ tướng chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ; Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra… Mọi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước đều chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và phải báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực. Sở dĩ cơ quan hành chính nhà nước chịu sự lệ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp là do cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực. Với chức năng quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm thực hiện trên thực tế các văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước do đó có sự lệ thuộc vào cơ quan quyền lực. – Các cơ quan hành chính nhà nước có mạng lưới các đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước đều có các đơn vị cơ sở trực thuộc. Ví dụ: Các trường đại học trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo, các bệnh viện trực thuộc Bộ y tế; các tổng công ty, công ty, nhà máy trực thuộc Bộ công thương, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ giao thông vận tải…Hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng như thực hiện những chức năng phục vụ đời sống xã hội của mình. II. Cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể quản lý hành chính nhà nước quan trọng nhất. 1.Định nghĩa quản lý hành chính nhà nước, chủ thể quàn lý hành chính nhà nước. Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị . Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. Chủ thể của quản lý hành chính nhà nước là các tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền hoặc nhà nước trao quyền quản lý hành chính trong những trường hợp cụ thể, bao gồm: – Các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong các cơ quan này. – Các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước thực hiện quản lý hành chính nhà nước trong xây dựng chế độ ổn định công tác nội bộ. – Các cán bộ nhà nước có thẩm quyền. – Các tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý hành chính trong một số trường hợp cụ thể. Những chủ thể này khi tham gia vào các quan hệ quản lý hành chính có quyền sử dụng quyền lực nhà nước để chỉ đạo các đối tượng quản lý thuộc quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý đồng thới bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên trong số các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thì cơ quan hành chính nhà nước được coi là chủ thể quan trọng nhất. 2. Cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể quản lý hành chính nhà nước quan trọng nhất. Cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể quản lý hành chính nhà nước quan trọng nhất, điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau: 2.1 Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là chức năng chủ yếu và thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước. Quan hệ thuộc phạm vi quản lý hành chính nhà nước bao gồm ba nhóm cơ bản, đó là: – Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. – Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. – Các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân và tổ chức được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định. Trong bộ máy nhà nước, mỗi hệ thống cơ quan có chức năng khác nhau và chức năng của cơ quan hành chính nhà nước được xác định là chức năng quản lý hành chính nhà nước (thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành). Biểu hiện của tính chất chấp hành là mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật. Tính chất điều hành được thể hiện ở hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền để đảm bảo các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước được thực hiện trên thực tế. Để thực hiện chức năng này, cơ quan hành chính nhà nước tiến hành hoạt động quản lý thường xuyên trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý nhà nước về văn hóa, quản lý nhà nước về xã hội… thông qua các hình thức: ban hành văn bản quy phạm pháp luật; ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật; thực hiện những hoạt động khác mang tính chất pháp lý; áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp; thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật. Các cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện những hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu, thường xuyên mà chỉ là hoạt động được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của cơ quan nhà nước đó như: Chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của tòa án nhân dân, chức năng công tố và kiểm sát việc xét xử của viện kiểm sát nhân dân. Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội… Và việc thực hiện hoạt động đó là nhằm hoàn thành chức năng quản lý hành chính nhà nước. Các cán bộ nhà nước có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước cũng thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước thường xuyên, liên tục trong nhiệm kì công tác của họ. Nhưng hoạt động của họ phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động cơ quan họ đang công tác, không thể có chuyện cán bộ được quyền độc lập, vượt quá thẩm quyền được pháp luật quy định cho cơ quan mà họ đang công tác. Hoạt động của các cá nhân trong cơ quan hành chính nhà nước suy cho cùng cũng chính là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và phụ thuộc vào cơ quan hành chính mà họ làm việc. Một số cá nhân và tổ chức cũng được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhưng họ chỉ được trao quyền ấy trong một số trường hợp cụ thể, như cơ trưởng máy bay khi đang bay, thuyền trưởng tàu, thuyền đang hoạt động trên biển… Như vậy có thể thấy rằng chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước một cách, chủ yếu và thường xuyên nhất. 2.2 Các cơ quan hành chính nhà nước tham gia quản lý hành chính nhà nước có số lượng lớn và tạo thành một hệ thống từ trung ương đến cơ sở.. Các cơ quan hành chính nhà nước tham gia quản lý hành chính nhà nước với số lượng rất lớn và tạo thành một hệ thống từ trung ương đến cơ sở, thông qua các cấp hành chính từ trên xuống dưới ( cấpTrung ương, cấp tỉnh, huyện, xã). Việc phân chia các cơ quan hành chính thành các loại khác nhau dựa trên những tiêu chí về lãnh thổ , thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và giải quyết công việc. Nếu căn cứ vào phạm vi lãnh thổ thì cơ quan hành chính nhà nước gồm có: Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương (Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ), thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương gồm ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực trong phạm vi địa giới hành chính nhất định. Căn cứ vào thẩm quyền, cơ quan hành chính chia thành cơ quan hành chính có thẩm quyền chung (Chính phủ, Uỷ ban Nhân dân các cấp) và cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn (Bộ và cơ quan ngang bộ). Căn cứ vào các nguyên tắc tô chức và giải quyết công việc, cơ quan hành chính được chia thành cơ quan hành chính nhà nước tổ chức và hoạt động theo chế độ tập thể lãnh đạo (Chính phủ và Uỷ ban Nhân dân các cấp) và cơ quan hành chính hoạt động theo chế độ thủ trưởng một người (Bộ và cơ quan ngang bộ). Các cơ quan hành chính nhà nước này, dù được phân chia thành những loại khác nhau nhưng giữa chúng đều có và phải có sự thống nhất ý chí, liên hệ chặt chẽ khi tham gia vào các hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Giúp cơ quan hành chính thực hiện tốt chức năng của mình là đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo hình thành qua con đường bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm hay tuyển dụng. Mối quan hệ trong nội bộ một cơ quan và giữa các cơ quan với nhau thể hiện rõ nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Các cá nhân trong nội bộ cơ quan hành chính và các cơ quan hành chính không thể và không được đứng độc lập, không được tự mình làm những việc theo ý chí chủ quan của mình mà phải phối hợp chặt chẽ với nhau, phải thống nhất với nhau để thực hiện tốt chức năng chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước là quản lý hành chính nhà nước. 2.3. Hình thức và phương pháp quản lý hành chính nhà nước được thể hiện đầy đủ nhất thông qua hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến hành quản lý hành chính nhà nước bằng những hình thức và phương pháp khác nhau. Trong đó chỉ có các cơ quan hành chính nhà nước mới có đầy đủ quyền hạn thực hiện những hình thức và phương pháp này. Các hình thức quản lý hành chính nhà nước gồm: các hình thức mang tính chất pháp lý (ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban hành văn bản áp dụng pháp luật, thực hiện những hoạt động mang tính chất pháp lý khác); hình thức không mang tính pháp lý (áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp, thực hiện những tác động nghiệp vụ- kĩ thuật). Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước bao gồm: phương pháp thuyết phục và cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế. So với các chủ thể khác, hoạt động quản lý hành chính nhà nước là chức năng chủ yếu và thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước. Do vậy, các cơ quan hành chính có đầy đủ khả năng thực hiện, áp dụng các hình thức và phương pháp quản lý hành chính một trong hoạt động của mình. Các chủ thể khác hoặc không phải là chủ thể quản lý hành chính chuyên môn hoặc chỉ được trao quyền trong những tình huống cụ thể do vậy các chủ thể này ít nhiều có những hạn chế trong việc tự do, chủ động trong việc thực hiện, áp dụng các hình thức, phương pháp nêu trên. Trong số các hình thức quản lý hành chính nhà nước ở trên thì những hình thức mang tính chất pháp lý có vai trò quan trọng, là những hình thức quản lý hành chính nhà nước trực tiếp, được sử dụng trong thời gian dài. Trong các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước quy định những quy tắc chung trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước, xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành hoạt động của các chủ thể quản lý…Thông qua việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật cơ quan hành chính nhà nước không chỉ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc để thực hiện chức năng của mình mà còn quy định thẩm quyền của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước khác. Đồng thời vai trò điều chỉnh của hoạt động chấp hành quyền lực nhà nước qua đó được thể hiện một cách tương đối đầy đủ và sáng tạo. Như vậy có thể thấy rằng phạm vi hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước và khả năng sử dụng nó nhằm điều chỉnh các mặt khác nhau của hoạt động chấp hành- điều hành là rất lớn.

Khái Niệm Nhà Nước Pháp Quyền

– Khái niệm NNPQ được hiểu theo ba cấp độ:

Cấp độ thấp nhất, tối thiểu: NNPQ (tác giả gọi là Nhà nước luật pháp) là Nhà nước cầm quyền phải đặt mình dưới pháp luật.

Cấp độ thứ hai, cao hơn: NNPQ là Nhà nước phải đặt mình dưới luật pháp và không được làm ra những luật, những nguyên tắc pháp lý trái với những nguyên tắc tổng quát cao hơn mà Hiến pháp có thể công nhận tinh túy.

Ở cấp độ thứ ba: NNPQ là Nhà nước mà trong đó người dân được đảm bảo những quyền và tự do một cách hữu hiệu.[1]

– NNPQ là một khái niệm chỉ về nội dung dân chủ của Nhà nước. Tư tưởng về NNPQ đã xuất hiện từ thời kì cổ đại nhưng thuật ngữ NNPQ xuất hiện muộn hơn…Ngày nay, khi nói đến NNPQ trước hết là nói đến sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội và chính trị với tính cách là ý chí của nhân dân và có giá trị phổ biến. Có thể thấy hai khía cạnh của NNPQ:

1) Pháp lí hình thức, tức là sự ngự trị của pháp luật, sự ràng buộc của pháp luật đối với Nhà nước và tất cả các thành viên của xã hội ( hay nói cách khác đây là yêu cầu bảo đảm pháp chế trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật )

2) Nội dung pháp lí tức là bản thân của pháp luật, phải đảm bảo yêu cầu khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ở Việt Nam, đảng và Nhà nước dã chủ trương xây dựng NNPQ với nội dung cơ bản là xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức và họat động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nguyên tắc thống nhất quyền lực có sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.[2]

– NNPQ là một hình thức chính trị – pháp lý hợp lý để quản lý, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ.[3]

– NNPQ là Nhà nước tuân theo pháp luật, xem pháp luật có vị trí chi phối mọi hành vi của cơ quan công quyền và công dân.[4]

– NNPQ là một hình thức tổ chức Nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.[5]

– NNPQ là một hiện tượng chính trị – pháp lý phức tạp, được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu NNPQ theo một cách đơn giản, đó là một Nhà nước quản lí kinh tế xã hội bằng pháp luật và Nhà nước họat động tuân theo pháp luật. NNPQ là Nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng pháp luật trước hết là các cơ quan Nhà nước và công chức Nhà nước.[6]

– Khái niệm NNPQ đề cập đến phương thức , xây dựng và vận hành bộ máy Nhà nước nói chung thong qua hệ thống pháp luật như Hiên pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói cách khác, NNPQ là Nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo, bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ của pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật.[7]

– NNPQ là Nhà nước quản lí xã hội theo pháp luật , tuân thủ nghiêm minh pháp luật, sống và hành động theo pháp luật, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân và quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.[8]

– Cơ bản, trên phương diện lí luận, NNPQ là một học thuyết chính trị – triết học xem pháp luật là nền tảng trong việc tổ chức và họat động của bộ máy Nhà nước trong quan hệ giữa Nhà nước và xã hội và trong các quan hệ xã hội.

Trên phương diện thực tiễn, có thể xem NNPQ là phương thức tổ chức dân chủ của quyền lực Nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể khác có trong xã hội.[9]

– Về mặt khái niệm, pháp quyền cũng như NNPQ là một phương thức tổ chức và vận hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này được tổ chức và phân định sao cho sự lạm dụng quyền không thể xảy ra và quyền tự do dân chủ của người dân được bảo vệ.[10]

– NNPQ là một thuật ngữ mô tả một Nhà nước mà không can thiệp vào cá nhân và tồn tại chủ yếu cho lợi ích công dân của nó.[11]

– Đối với học thuyết đương thời, NNPQ là một Nhà nước mà, trong mối quan hệ với công dân của mình, phải phục tùng một “chế độ pháp trị”: trong một quốc gia cụ thể, quyền lực chỉ được sử dụng theo các cách thức được phép bởi trật tự pháp lí hiện hành, trong khi những người bị trị có cách thức cầu viện tài phán xét.[12]

– NNPQ, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm, đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức và họat động của bộ máy Nhà nước trong đời sống xã hội. NNPQ là Nhà nước quản lí xã hội theo pháp luật và đề cao quyền của con người, quyền của công dân.[13]

– Tại hội nghị quốc tế họp tại Benin (9/1991) với sự tham gia của 40 nước đã đưa ra một khái niệm chung về NNPQ như sau:”NNPQ là một chế độ chính trị mà ở đó Nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình, các quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống tòa án độc lập. NNPQ có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất của con người và bảo đảm cho công dân có khả năng, điều kiện chống lại sự tùy tiện của pháp luật cũng như các họat động của bộ máy Nhà nước. NNPQ phải đảm baeo cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoìa Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền tự do và quyền công dân”[14]

v.v……….

Tiếp cận khái niệm NNPQ hay NNPQ, chúng ta cần phải làm rõ quan điểm: NNPQ không phải là một kiểu Nhà nước mới trong lịch sử. Theo Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, khái niệm kiểu Nhà nước được định nghĩa là:”kiểu Nhà nước là tổng thể những dáu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của Nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của Nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định”[15].Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật cũng chỉ rõ: Cơ sở để xác định kiểu Nhà nước là học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Mỗi kiểu Nhà nước phù hợp với một chế độ kinh tế nhất định của một xã hội có giai cấp. Dựa vào đây, có bốn kiểu Nhà nước trong lịch sử nhân loại, tính đến thời điểm này,là: Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước Tư sản và Nhà nước XHCN. Rõ ràng NNPQ không thỏa nội hàm của khái niệm kiểu Nhà nước nên nó không là kiểu Nhà nước. NNPQ không phải là một Nhà nước của một hình thái kinh tế xã hội mới. Tuy nhiên, NNPQ có thể được xem là yếu tố của hình thức Nhà nước. Theo lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, hình thức Nhà nước là cách tổ chức và những phương pháp thực hiện quyền lực Nhà nước. NNPQ, như trên đã phân tích, để đảm bảo tính dân chủ thì đòi hỏi Nhà nước được gọi là NNPQ phải có cách thức, phương thức tổ chức, hoạt động hợp lí (hiện nay là tam quyền phân lập hoặc là thống nhất và phân công, phối hợp quyền lực Nhà nước…). Điều này thỏa mãn khái niệm hình thức Nhà nước. Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật xác định các yếu tố của hình thức Nhà nước gồm có: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc Nhà nước và chế độ chính trị. Vấn đề đặt ra là NNPQ là yếu tố mới của hình thức Nhà nước hay là một trong những yếu tố trên? Hình thức chính thể của Nhà nước tức là xem Nhà nước đó là cộng hòa hay quân chủ, hình thức thức cấu trúc thì xem xét nhà nước đó là đơn nhất hay liên bang, chế độ chính trị là xem xét tính dân chủ của Nhà nước (dân chủ hay không dân chủ). Như vậy, ta thấy NNPQ không phải là một yếu tố mới của hình thức Nhà nước cũng không phải là một trong những yếu tố nói trên của hình thức Nhà nước mà NNPQ hòa vào trong ba yếu tố đó, trở thành yếu tố nội tại trong từng yếu tố đó. Ngày nay, dù là chính thể nào, cộng hòa hay quân chủ, hình thức cấu trúc nào thì vẫn có thể xây dựng NNPQ. Tuy nhiên, NNPQ chỉ là hình thức của Nhà nước có tính dân chủ. Điều đó có nghĩa là NNPQ là hình thức Nhà nước nhưng là hình thức Nhà nước đặc biệt chỉ tồn tại trong xã hội có tính dân chủ (dân chủ tư sản hay dân chủ XHCN). Tựu trung lại, NNPQ chỉ là hình thức nhà nước của kiểu Nhà nước tư sản và Nhà nước XHCN.

Cũng cần phải thấy được sự khác biệt giữa NNPQ và “Nhà nước pháp trị”. Điểm cơ bản ở đây là sự phân biệt giữa “pháp quyền” và “pháp trị”. Pháp quyền có hai nội dung cơ bản là quyền lực của pháp luật ( tức sức mạnh của pháp luật, sự bắt buộc thực hiện của pháp luật đối với tòan xã hội ) và pháp luật về quyền.”Pháp trị” có nghĩa là cai trị bằng pháp luật.Nói pháp trị là khi tầng lớp thống trị dùng pháp luật làm phương tiện chủ yếu để cai trị dân, đối lập với nhân trị (hay “đức trị”). Pháp trị gắn liền với nền chuyến chế phong kiến, điển hình là Trung Hoa.Ở đó, vua là người đứng đầu Nhà nước , pháp luật là phương tiện cai trị của vua, pháp luật được đề cao trong Nhà nước pháp trị nhưng pháp luật đó không dân chủ, Nhà nước đó không đảm bảo dân chủ. Đó là sự khác biệt giữa pháp quyền và pháp trị.

KIỀU ANH VŨ

[1] Cao Huy Thuần,Nhà nước pháp quyền, http://www.tiasang.com.vn/new?id=2320

[2] Từ Điển Bách Khoa Việt Nam,2003,tập 3, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội,trang 217, 218.

[3] Trần Hậu Thành-Trần Thế Thuấn,2007,Hỏi và đáp về Nhà nước và Pháp luật, phần 1, NXB Chính trị, trang 42.

[4] Dẫn theo Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật, Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập I, NXB Lí luận chính trị,trang 107.

[5] Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học,NXB Lí luận chính trị, trang 497.

[6] Trần Thị Cúc-Nguyễn Thị Phượng, 2007, Câu hỏi và hướng dẫn trả lời môn Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư Pháp, trang 113,114.

[7] Nguyễn Văn Hiện,Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta, http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=17134687&News_id=18159773

[8] Lê Quốc Hùng,2004, Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực Nhà nước ở Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội , trang 67.

[9] Lê Tuấn Huy,2006, Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng NNPQ Việt Nam, NXB Tổng Hợp TpHCM, trang 143 -144.

[10] Nguyễn Sĩ Dũng, Nguồn cội của pháp quyền, http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Luat-Phap/Nguon_coi_cua_phap_quyen/

[11] Dẫn theo Ngô Huy Cương, 2006, Dân chủ và pháp luật dân chủ, NXB Tư Pháp, Hà Nội, trang 51.

[12] Dẫn theo Ngô Huy Cương, 2006, Dân chủ và pháp luật dân chủ, NXB Tư Pháp, Hà Nội, trang 54.

[13] Trần Đức Lương, Xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân ngày càng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=17134687&News_ID=18157820

[14] Dẫn theo Trần Thị Cúc-Nguyễn Thị Phượng, 2007, Câu hỏi và hướng dẫn trả lời môn Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư Pháp, trang 116.

[15] Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007, Giáo trình lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, trang 59.

Cập nhật thông tin chi tiết về Khái Niệm Cơ Quan Nhà Nước trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!