Bạn đang xem bài viết Học Tập Tích Cực Là Gì? được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Học tập tích cực là trải nghiệm, tư duy và tham gia. Qua đó, bạn có thể khám phá một chuỗi các trải nghiệm hiệu quả và thú vị, đồng thời, có trách nhiệm với việc học tập của bản thân. Điều này đặc biệt quan trọng trong môi trường học tập trực tuyến, nơi bạn thậm chí không cần gặp giáo viên hay bạn học.
Hãy bắt đầu bằng cách xác định nội dung (nghiên cứu cái gì) và thiết lập mục tiêu (học cái gì). Tiếp đó hãy đọc! Hãy nghiên cứu. Sau đó, xây dựng nền tảng cho các hoạt động có thể hỗ trợ việc học của bạn và trao đổi những gì bạn học được. Nhiều thứ có thể không gây hứng thú cho bạn; nhiều thứ lại rất phù hợp với phong cách học tập mà bạn thích.
Bạn có thể tự thực hành các hoạt động đầu tiên này: Lắng nghe tích cực:
Lắng nghe tích cực chủ định tập trung vào người nào mà bạn đang lắng nghe (dù đó là trong một buổi diễn thuyết, một cuộc trò chuyện hay một nhóm) nhằm hiểu được những gì họ nói. Là người nghe, bạn nên có khả năng “tua lại” hoặc trình bày lại bằng lời của mình những gì đã được nói với sự hài lòng của họ. Điều này không có nghĩa là bạn đồng tình với, hay nói đúng hơn là hiểu, những điều họ nói.
Thấy và nghe:
Ngoài các bài giảng PowerPoint, truyền thông đa phương tiện và phim có lợi thế trong việc minh họa nội dung đọc và bài giảng theo các định dạng mới (hấp dẫn).
Chúng cũng cho phép bạn – người học được chứng kiến sự thực hành các khái niệm hoặc minh hoạ trong quá trình thực tế hoặc tình huống cụ thể.
Hãy nhớ rằng: Bạn không nhất thiết phải đi dã ngoại cùng cả lớp thì mới đến các địa điểm phục vụ cho việc nghiên cứu của bạn! Hãy đến các tổ chức, nhà máy,… và gửi email hoặc gọi điện thoại để xin tổ chức một chuyến tham quan. Đừng chỉ đi và kì vọng các chuyên gia ngừng công việc của họ để tiếp đón bạn.
Như chúng ta đã đề cập đến nhóm học tập “tích cực”, một nhóm có thể khiến nhiệm vụ học tập trở nên hiệu quả hơn. Trong nhóm này, bạn chia sẻ trách nhiệm, cùng tham gia và hợp tác, tận dụng được sức mạnh của từng cá nhân và sự vận hành tốt của dự án cũng như việc học tập hiệu quả phụ thuộc vào mỗi người.
Trình bày trên lớp, trực tuyến hoặc công khai:
Hình thành, “cho ra lò”, luyện tập và đem đến những bài thuyết trình, trình bày; các chương trình ứng dụng đa phương tiện và tương tác; các trang web và blog…
Các bước thực hiện:
Xác định mục tiêu
Hình thành quan điểm cá nhân
Tìm cảm hứng và viết
Phác thảo nội dung chương trình
Tìm các công cụ/ nguồn tài liệu phục vụ cho bài thuyết trình và các công nghệ hỗ trợ tương tác
Viết chương trình / phát triển các phần; luyện tập và trình bày nó
Ghi lại thông điệp của bạn
Đánh giá cách bạn có thể làm tốt hơn.
Đây không phải một bài tập cố định mà là một quá trình học tập năng động.
Thiết lập, áp dụng và củng cố những gì bạn học được, không chỉ nội dung của nó, mà còn cả quá trình phát triển nó.
Trong quá trình chuyển hóa nội dung thành thông điệp, bạn củng cố kiến thức và nhận ra rằng bạn sẽ cần phải hiểu những kiến thức đó vì cuộc giao tiếp dựa phụ thuộc vào độ phát triển của thông điệp hướng đến một đối tượng cụ thể.
Nếu trong một dự án hợp tác, bạn có lợi thế chia sẻ quan điểm cũng như kỹ năng; mỗi người nên được thoải mái phản hồi cá nhân bao gồm các câu hỏi, lắng nghe và đánh giá các câu trả lời.
Bạn càng làm việc với kiến thức được học,
Nói và làm:
bạn càng tự tin hơn khi nhớ lại nó.
Viết là trao đổi/ thể hiện những gì mình đã học, một phương pháp đo lường độ hiểu biết cũng như các hoạt động học tập tích cực.
Viết ở đâu?
Dù làm việc theo cặp hoặc nhóm, trực tuyến hoặc gặp mặt, bạn có thể đọc và tương tác với bài viết của những người học khác và phản hồi trong một môi trường hợp tác, thậm chí hợp tác để phát triển một bài tập.
chứ không chỉ là một bài thực hành nháp và biên tập đơn giản.
Viết là một quá trình
Mục tiêu là chắt lọc giá trị thông điệp cho người đọc, vì thế, bạn cần độc giả/ khán giả!
Học cách lắng nghe những ý kiến về nội dung trình bày:
Học cách trao đổi ý kiến phản hồi về bài tập.
Họ hiểu nó như thế nào, hoặc hi vọng sẽ hiểu nó:
Điểm mạnh và điểm yếu, quan điểm,…
Quy tắc ngữ pháp và từ vựng mà bạn đang sử dụng là gì?
Đặng Thanh Hiền dịch
Hợp tác trong bài tập viết, dù hoạt động nhóm hay trực tuyến, có thể thực hành trong các tình huống thực tế!
(Nguồn: http://www.studygs.net/activelearn.htm)
Xây Dựng Thói Quen Học Tập Tích Cực
Hai người thợ xây đang xây một bức tường. Một người nọ tình cờ đi ngang và hỏi, “Các anh làm gì đó?” Thợ xây thứ nhất quắc mắt và trả lời, “Anh không thấy nó là gì sao? Tôi đang xếp gạch.” Thợ xây thứ hai mỉm cười và trả lời, “Tôi là thành viên của nhóm xây dựng trường, ngôi trường này sẽ phục vụ cộng đồng trong nhiều thế hệ, kết nối mọi người với nhau qua học tập và tình bạn.”
Xây dựng tầm nhìn. Tầm nhìn là thứ học sinh cần chú trọng xây dựng, bên cạnh bài vở, điểm số ở trường. Khi chúng ta có tầm nhìn xuất phát từ đam mê, việc học không còn là nghĩa vụ mà trở thành cơ hội. Khi đó, các em học vì một mục đích cụ thể. Nhờ vậy, các em sẽ cố gắng hết mình để đạt mục tiêu, để giúp đỡ người khác và để rèn luyện những kỹ năng quan trọng. Xác định “tầm nhìn tổng thể” sẽ thúc đẩy các em học tập và có nuôi dưỡng những mơ ước to lớn.
Tạo môi trường lành mạnh. Luôn giữ cảm hứng tại môi trường học tập rất có ích cho việc học. Nếu phần lớn thời gian học trong ngày đều tập trung vào màn hình máy tính hay máy chiếu thì các em hãy học mà không cần các thiết bị hỗ trợ bất cứ khi nào có thể. Hãy giảm sự phân tán bằng cách chọn ra hai hay ba địa điểm học tập dễ chịu. Ở đó cần có đủ ánh sáng, một chỗ ngồi thoải mái và đầy đủ tài liệu cần thiết. Ngoài ra, hãy ăn uống lành mạnh và ngủ đủ giấc để tạo nền tảng cho sự thành công.
Tạo Dựng Môi Trường Học Tập Tích Cực
“Công việc quan trọng nhất mà một giáo viên hiệu quả thực hiện đầu năm học là tạo ra một môi trường tốt cho học tập.” – Mary Beth Blegan, nhà quản lí giáo dục.
Là một học sinh, tôi sẽ: * Luôn luôn cố gắng để hoàn thành công việc tốt nhất có thể. * Chia sẻ và giúp đỡ bạn bè cùng lớp. * Thể hiện sự tôn trọng bản thân, trường học của tôi và những người khác. * Tuân thủ những quy tắc của lớp học, trường học và những nơi công cộng. * Thể hiện sự tôn trọng với đồ vật của người khác bằng việc không đánh cắp và phá hỏng chúng. * Đến trường khi đã chuẩn bị bài tập về nhà và những vật dụng cần thiết cho buổi học. * Tin tưởng vào bản thân rằng tôi có thể và sẽ học được nhiều điều bổ ích. * Dành ít nhất 15 phút mỗi ngày để học và đọc ở nhà. * Trò chuyện với bố mẹ mỗi ngày về các hoạt động ở trường học.
Là giáo viên, tôi sẽ: * Thể hiện sự tôn trọng với mọi học sinh và gia đình của các em. * Sử dụng hiệu quả thời gian học tập. * Tạo ra một môi trường an toàn và thân thiện để thuận lợi cho việc học. * Giúp mỗi học sinh phát triển tối đa tiềm năng của mình. * Đưa ra những hoạt động(bài tập) về nhà đầy ý nghĩa và thích hợp. * Cung cấp những hỗ trợ cần thiết để các phụ huynh có thể trợ giúp con mình với bài tập về nhà. * Thực hiện các nội quy trường học, lớp học công bằng và kiên định. * Cung cấp cho học sinh và phụ huynh những đánh giá rõ ràng về sự tiến bộ của học sinh. * Sử dụng các hoạt động đặc biệt trong lớp học để làm cho việc học trở nên thú vị. * Thể hiện tác phong chuyên nghiệp và một thái độ làm việc tích cực. Còn bây giờ là thời điểm chúng ta ngồi lại cùng nhau để cam kết thực hiện những thỏa thuận này.
LUÔN THEO SÁT NGƯỜI HỌC Tất nhiên, các kĩ thuật quản lí lớp học được sử dụng thường xuyên nhất có tác dụng ngăn ngừa những vần đền nhỏ leo thang thành những vấn đề lớn. Rất nhiều sự cố lớp học có thể được giải quyết bởi những kĩ thuật đơn giản. Bencker, một giáo viên giàu kinh nghiệm cho rằng các giáo viên nên thiết lập một “cảm giác thân thiện” mỗi ngày bằng cách chào hỏi từng cá nhân học sinh khi chúng bước vào lớp học. Sử dụng những cơ hội nhằm thiết lập mối quan hệ gần gũi với học sinh, qua đó có thể dễ dàng giải quyết những vấn đề nhỏ như: nhai kẹo cao su, hành vi hung hăng, tâm trạng xấu, hoặc học sinh mang theo những vật dụng không mong muốn một cách lạng lẽ và kín đáo – trước khi chúng biến thành một cuộc đối đầu công khai có thể đe dọa và phá vỡ kĩ luật lớp học. Nhưng đừng dừng lại ở đó. Khi học sinh ở trong lớp, bạn hãy tiếp tục một số kĩ thuật được gợi ý từ các giáo viên giàu kinh nghiệm để có thể quản lí lớp học mà tránh sự đối đầu. Một số mẹo nhỏ như: * Giao tiếp bằng mắt. * Di chuyển xung quanh lớp học và tăng cường sự gần gũi với học sinh. * Hãy giữ khoảng lặng khi cần thiết. * Đưa ra một lời nhắc nhỏ khéo léo. * Thu hút sự chú ý của học sinh. * Bắt đầu một hoạt động mới. * Đưa ra cho học sinh một sự chọn lựa. * Sử dụng sự hài hước. * Động viên sự tích cực. * Thông báo sự chờ đợi để tất cả học sinh cảm thấy có sực thúc ép. * Đặt một câu hỏi trực tiếp. Và khi vẫn thất bại, hãy thử những cách làm khác hoặc làm những điều mới mẻ hơn! Tạo ra một môi trường tốt cho học tập có lẽ là một nhiệm vụ quan trọng nhất – khó khăn nhất mà một giáo viên phải đối mặt, thậm chí thực sự rất khó với những giáo viên trẻ. Có một giáo viên đã nói rằng: “Thiết lập môi trường lớp học là chìa khóa. Đối với một giáo viên mới có nghĩa là giả vở bạn biết những điều bạn đang làm”. (Người dịch: Nguyễn Văn Vương – Nguyễn Hữu Long) Nguồn: http://www.educationworld.com/a_curr/curr155.shtml
Phương Pháp Dạy Học Tích Cực Là Gì?
Phương pháp dạy học tích cực đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Phương pháp này đã mang đến nhiều hiệu quả tích cực và hỗ trợ trong việc giảng dạy và học tập, thúc đẩy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của học viên. Tuy nhiên, bạn có chắc là hiểu rõ về phương pháp dạy học tích cực là gì không?
1 – Phương pháp dạy học tích cực là gì?
Phương pháp này tập trung vào việc sử dụng tư duy sáng tạo, chủ động, tích cực của học sinh làm nền tảng và giáo viên chỉ là người hướng dẫn và gợi mở vấn đề.
Để có thể áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy học đòi hỏi giáo viên phải là người có chuyên môn, kiến thức sâu cùng sự bản lĩnh, nhiệt thành và hoạt động hết mình trong công việc.
► ĐỌC THÊM 4 phương pháp dạy học trực tuyến tối ưu nhất
2 – Cách tiền hành phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy
2.1 – Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh
Điều này nghĩa là trong các buổi học thì học sinh là những đối tượng chính để giáo viên khai phá kiến thức. Bởi vậy, giáo viên cần phải có những cách thức gợi ý vấn đề ở một mức độ nhất định có thể tác động được đến tư duy của học sinh và thúc đẩy, khuyến khích học sinh cùng nhau bàn luận, tìm tòi để giải quyết vấn đề đó.
2.2 Tập trung vào phương pháp tự học
Nếu các giáo viên chủ động áp dụng phương pháp dạy học tích cực đồng nghĩa với việc giáo viên phải loại bỏ hoàn toàn suy nghĩ về phương thức dạy truyền thống như chỉ tay, đọc – chép …Với phương pháp dạy học tích cực, giáo viên sẽ tập trung vào các cách thức rèn luyện để học viên tự học, tự suy nghĩ tìm tòi ra phương pháp học tập tốt nhất và phù hợp với bản thân nhất. Tuy nhiên, những kiến thức mới sẽ được giáo viên kiểm định trước và đảm bảo về độ chuẩn xác.
2.3 – Khuyến khích phương pháp học nhóm, tập thể.
Áp dụng phương pháp dạy học tích cực, giáo viên cần biết cách phân chia các nhóm, các đội để các em có thể phối hợp, trao đổi với nhau và tìm ra phương thức học tập tốt nhất.
2.4 Tổng hợp lại các kiến thức đã học
Cuối mỗi buổi học, các giáo viên sẽ cùng học sinh tổng hợp lại những kiến thức trong suốt buổi học, đồng thời giải đáp các vấn đề mà học sinh còn thắc mắc, khó hiểu, cùng trao đổi và chốt lại toàn bộ kiến thức trong một buổi học.
3 – Một số những phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy nhóm
Đây là phương pháp dạy học tích cực được đánh giá cao hiện nay. Với phương pháp này, các giáo viên có thể giúp các em phát huy tích cực khả năng sáng tạo, làm việc nhóm, giao tiếp của bản thân.
Cách thức thực hiện:
Xác định nhiệm vụ chung và phân chia các nhóm
Báo cáo kết quả làm việc cho giáo viên
Giáo viên đánh giá kết quả làm việc nhóm
Kỹ thuật phân chia nhóm: các giáo viên có thể chia nhóm dựa vào thứ tự điểm danh, dựa theo hình ghép, dựa theo sở thích chung của học sinh hoặc dựa vào tháng sinh của các em để tạo nhóm với nhau.
Phương pháp nghiên cứu các trường hợp điển hình
Đây cũng là một trong những phương pháp dạy học tích cực được áp dụng phổ biến hiện nay. Với phương pháp này, các giáo viên sẽ dùng những câu chuyện có thật hoặc hư cấu để chứng minh cho một vấn đề nào đó giúp các em học sinh dễ tưởng tượng, hình dung và hiểu vấn đề. Phương pháp này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng văn bản, các đoạn ghi âm, clip, video …
Các thức thực hiện:
Học sinh sẽ cùng nghe hoặc xem về một trường hợp điển hình nào đó
Suy ngẫm về câu chuyện đó
Tiến hành trao đổi dưới sự hướng dẫn của giáo viên
Phương pháp giải quyết vấn đề
Đây là phương pháp dạy học tích cực mới nhằm kích thích khả năng chủ động giải quyết vấn đề của học sinh. Để áp dụng phương pháp này, các giáo viên sẽ đưa ra các vấn đề nhận thức có sự mâu thuẫn giữa những vấn đề đã biết và chưa biết để hướng học sinh tìm cách giải quyết dựa vào đó.
Cách thức thực hiện
Xác định vấn đề cần giải quyết
Liệt kê các biện pháp có thể giải quyết vấn đề
Phân tích và đánh giá hiệu quả của từng biện pháp
Chọn biết pháp tối ưu nhất và thực hiện biện pháp đó
Rút kinh nghiệm khi giải quyết vấn đề khác
Phương pháp nhập vai
Cách thức thực hiện
Các nhóm lần lượt diễn thử
Giáo viên đưa ra kết luận, định hướng cho học sinh đâu là cách ứng xử tốt nhất và giải thích lý do, ý nghĩa.
Phương pháp trò chơi
Đây là phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên sẽ tổ chức cho các em học sinh tìm hiểu về vấn đề nào đó thông qua việc tiến hành các trò chơi phù hợp.
Cách thức thực hiện
Giáo viên phổ biến về trò chơi gồm tên, nội dung và quy tắc trò chơi
Các học viên tiến hành chơi thử
Phương pháp dự án
Đây là phương pháp dạy học tích cực yêu cầu học sinh phải thực hiện một nhiệm vụ học tập gắn liền với thực tiễn và có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành.
Cách thức thực hiện
Bước 1: Lập kế hoạch
Lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ học tập
Bước 2: Thực hiện dự án
Tìm kiếm dữ liệu, thông tín
Bước 3: Tổng hợp kết quả
Tổng hợp các kết quả tìm được
Lên kế hoạch và trình bày về kết quả tìm được
Phản ánh lại kết quả trong quá trình học tập
Phương pháp nghiên cứu, thực nghiệm
Hiện nay có một số phương pháp dạy học tích cực dựa trên các thí nghiệm, nghiên cứu và thường được áp dụng cho những môn học tự nhiên.
Với phương pháp này, các học viên sẽ được trực tiếp tham gia nghiên cứu, tiến hành các thí nghiệm để tự tìm ra câu trả lời cho vấn đề
Phương pháp dạy học theo góc
Là một trong những phương pháp dạy học tích cực mới mà ở đây các học sinh cần thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, ở các vị trí cụ thể trong phạm vi lớp học và đáp ứng được nhiều các phong cách học tập khác nhau.
► ĐỌC THÊM Từ A đến Z dịch vụ cung cấp nên tảng học online trực tuyến tốt nhất từ UPM
Ngoài ra, nếu bạn đang có nhu cầu tìm đến một phần mềm nhằm hỗ trợ đào tạo, giảng dạy, quản lý trực tuyến thì có thể liên hệ ngay với UPM. UPM là phần mềm với lõi thiết kế được sản xuất từ châu Âu, cùng đầy đủ các tính năng, công cụ để tích hợp, liên kết với các nền tảng khác hay các trang web khi thiết kế bài giảng online, giảng dạy trực tuyến. Thêm vào đó, phần mềm của UPM còn được đánh giá là một trong những phần mềm có khả năng bảo mật tốt nhất hiện nay cùng đội ngũ nhân viên thân thiện, giàu kinh nghiệm.
Để được tư vấn chi tiết hơn về phần mềm E-learning của UPM, bạn vui lòng liên hệ với đội ngũ của chúng tôi qua:
Facebook: facebook.com/UPM.elearning
Hotline: (+84) 888 22 9382
Email: info@upm.com.vn
Thế Nào Là Dạy Học Tích Cực?
LTS: Đề cập đến việc đổi mới giáo dục, hai tác giả Từ Tấn Phúc và Đỗ Tấn Ngọc nhấn mạnh đến vai trò của người thầy trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá. Toà soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.
Đổi mới phương pháp dạy học là bước chuyển đổi từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là tổ chức cho học sinh hoạt động thay vì thụ động nghe giảng.
Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất.
Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Gắn chặt việc sử dụng phương pháp dạy học với các hình thức tổ chức dạy học
Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp…
Giáo viên cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho người học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, giờ giảng của mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa.
Đổi mới dạy học lấy người học là trung tâm và giáo viên có vai trò tổ chức, kiểm tra, hỗ trợ hoạt động học tập của học sinh một cách hợp lý sao cho học sinh tự chủ chiếm lĩnh tri thức.
Khả năng chuyên môn của người thầy sẽ tăng lên nhờ áp lực của phương pháp, bởi nội dung kiến thức của từng giờ giảng phải được cập nhật liên tục để đáp ứng các câu hỏi của người học trong thời đại thông tin rộng mở.
Học sinh thì lúng túng khi giáo viên triển khai các phương pháp dạy học tích cực.
Bằng cách làm sáng tạo của Sở Giáo dục và Đào tạo, các cụm chuyên môn được hình thành, các buổi sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt cụm được tổ chức thường xuyên, giáo viên có điều kiện giao lưu học hỏi, được dự giờ các tiết giảng mẫu.
Đổi mới phương pháp giảng dạy cũng gắn liền với vận dụng công nghệ thông tin vào việc soạn giảng, phần lớn giáo viên có trình độ công nghệ thông tin tốt và biết cách vận dụng vào các bài học của mình.
Không chỉ vậy, các kỳ thi tuyển giáo viên và hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp cũng đồng bộ áp dụng phương pháp dạy học tích cực, nhiều tiết học sinh động, hấp dẫn và thu hút học sinh, giáo viên cũng linh hoạt trong sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học đi đôi với đổi mới kiểm tra, đánh giá
Hình thức thi trắc nghiệm khách quan hầu như được áp dụng trong các môn học với kĩ thuật xây dựng ma trận đề và biên soạn câu hỏi kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Đề kiểm tra bao gồm các câu hỏi theo các cấp độ nhận thức cụ thể từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao.
Các môn học thuộc tổ hợp xã hội cũng có nhiều đổi mới đáng nói về tư duy ra đề.
Đặc biệt, môn Ngữ văn với hình thức thi tự luận, do đặc thù của bộ môn cũng tập trung chủ yếu vào đánh giá hai năng lực đọc và viết, tuân thủ quy trình biên soạn đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực.
Những đề thi hay và thời sự giúp học sinh phải tư duy nhiều chiều chứ không còn tư duy theo kiểu bài văn mẫu. Đó là những đổi mới mang tính đột phá và từng bước đạt những kết quả khả quan.
Dạy học là quá trình trao đổi kiến thức giữa thầy và trò. Nếu thầy chỉ thuyết trình, có gì nói nấy thì những gì thầy giảng chỉ là kiến thức một chiều.
Có thể người học đã biết những kiến thức ấy, hay đó là những nội dung không hữu ích đối với cuộc sống hiện tại và tương lai của họ.
Người thầy phải luôn đổi mới bài giảng cũng như phong cách đứng lớp.
Quá trình dạy học là quá trình tương tác thống nhất giữa giáo viên và học sinh. Khi giáo viên tổ chức giờ học bằng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, người học thấy họ “được học” chứ không “bị học”.
Người học được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp.
Họ hạnh phúc khi được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm chủ kiến thức.
Nhờ học theo hướng tích cực mà học sinh ghi nhớ sâu kiến thức và tăng khả năng áp dụng vào thực tế lên gấp 3-4 lần so với cách học thụ động một chiều.
Học sinh sẽ vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các tình huống thực tiễn, nhờ vậy mà các em trở nên tự tin, chủ động và quan trọng hơn hết, kiến thức các em học được không chỉ gói gọn trong những trang sách mà trở thành những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm thực tiễn.
Khi áp dụng phương pháp giáo dục chủ động, người học là chủ thể nhận thức, người thầy thông qua tổ chức các hoạt động học tập mà hỗ trợ, giúp đỡ học sinh của mình.
Như vậy, nhiều người sẽ tự đặt câu hỏi rằng liệu vai trò của người thầy có giảm đi không với cách dạy học đổi mới như vậy?
Tôi xin khẳng định ngay là không. Ngược lại, vai trò người thầy càng trở nên quan trọng. Giữa biển thông tin mênh mông, điều gì cần gạn lọc, cách sử dụng ra sao và ứng dụng chúng vào cuộc sống như thế nào…
Tất cả những điều ấy đều cần đến sự linh hoạt của người thầy.
Mời quý bạn đọc quan tâm đón đọc phần cuối của bài viết, Thầy cô cần làm gì để thay đổi phương pháp dạy học? TỪ TẤN PHÚC – ĐỖ TẤN NGỌC
Phương Pháp Dạy Học Tích Cực
phương pháp dạy học tích cực ( PPDH tích cực ) là một thuật ngữ rút gọn , được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục , dạy học theo hướng phát huy tính tích cực , chủ động , sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa , tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học , tức là tập kết và o phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy , tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Một số phương pháp dạy học tích cực
Mục tiêu: – Hiểu được bản chất của biện pháp dạy học tích cực. -Nắm được vai trò và nội dung căn bản của một số biện pháp dạy học tích cực. – thực hành được biện pháp dạy học hăng hái trong một số bài giảng. – tự tin tuyên bố sự cần thiết và Hữu ý thức tự giác , sáng tạo áp dụng PPDH tích cực
.II. Nội dung: 1. Biện pháp dạy học hăng hái là gì? a. Định hướng cách tân biện pháp dạy học: Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết nghị Trung ương 4 khóa VII ( 1 – 1993 ) , quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII ( 12 – 1996 ) , được thể chế hóa trong Luật Giáo dục ( 12 – 1998 ) , được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là chỉ thị số 15 ( 4 – 1999 ). Luật Giáo dục , điều 24.2 , đã ghi: ” biện pháp giáo dục phổ quát phải phát huy tính hăng hái , tự giác , chủ động , sáng tạo của học sinh; ăn nhập với đặc điểm của tầng lớp học , môn học; bồi bổ biện pháp tự học , đoàn luyện Năng lực áp dụng tri thức vào thực tiễn; tác động đến tính cách , đem lại niềm vui , hứng thú Học hỏi cho học sinh”. có khả năng nói cốt lõi của cách tân dạy và học là hướng tới hoạt động Học hỏi chủ động , chống lại thói quen Học hỏi thụ động. b. Thế nào là tính hăng hái học tập?
Tính hăng hái ( TTC ) là một phẩm chất vốn có của con người , do để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động , hăng hái cải biến môi trường tự nhiên , cải tạo từng lớp. Bởi vậy , hình thành và phát triển TTC từng lớp là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Tính hăng hái Học hỏi – về bản chất là TTC nhận thức , đặc điểm ở khát vọng thông hiểu , gắng gổ trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. TTC nhận thức trong hoạt động Học hỏi liên tưởng trước tiên với động cơ Học hỏi. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. hứng thú là tiền đề của tự giác. hứng thú và tự giác là hai nhân tố tạo nên tính hăng hái. Tính hăng hái sản sinh nếp tư duy độc lập. Nghĩ suy độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại , phong cách Học hỏi hăng hái độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác , hứng thú , bồi dưỡng động cơ Học hỏi. TTC Học hỏi thể hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của thầy giáo , tu bổ các câu trả lời của bạn , thích phát biểu ý kiến của mình trước Sự tình nêu ra; hay nêu thắc mắc , đòi hỏi giải thích cặn kẽ những Sự tình chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức , kĩ năng đã học để nhận thức Sự tình mới; tập kết để ý vào Sự tình đang học; bền chí hoàn tất các bài tập , không nản trước những tình huống khó khăn… TTC học tập biểu hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như: – Bắt chước: gắng sức a dua mẫu Bắt đầu làm của thầy , của bạn… – Tìm tòi: Đứng riêng ra giải quyết Sự tình nêu ra , tìm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề…
– Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới , độc đáo , hữu hiệu.
c. phương pháp dạy học tích cực:phương pháp dạy học tích cực ( PPDH tích cực ) là một thuật ngữ rút gọn , được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục , dạy học theo hướng phát huy tính tích cực , chủ động , sáng tạo của người học. “Tích cực” trong PPDH – tích cực được dùng với tức là hoạt động , chủ động , trái nghĩa với không hoạt động , thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa , tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học , tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy , tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học , nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn , có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được , hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực nhưng không Thành tựu vì học sinh chưa thích nghi , vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì thế , thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức , từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò , sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới Thành tựu. Như vậy , việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”.
d. Mối giao tiếp giữa dạy và học , tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm.Từ thập kỉ lần cuối của thế kỷ XX , các tài liệu giáo dục ở ngoại bang và trong nước , một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc nhu yếu phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trọng tâm sang dạy học lấy học trò làm trung tâm.
Dạy học lấy học trò làm trọng tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy Học hỏi trung vào người học , dạy học căn cứ vào người học , dạy học hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học trò trong qúa trình dạy học , khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên.
2. Đặc điểm của các biện pháp dạy học tích cực. a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.Trong phương pháp dạy học tích cực , người học – đối tượng của hoạt động “dạy” , song song là chủ thể của hoạt động “học” – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do thầy giáo tổ chức và chỉ đạo , thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp nhận những kiến thức đã được thầy giáo sắp xếp. Được đặt vào những tình huống của Chỗ ở thực tế , người học trực tiếp quan sát , bàn bạc , làm thí nghiệm , giải quyết Sự tình đặt ra theo cách suy nghĩ của mình , từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới , vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức , kĩ năng đó , không rập theo những khuôn mâu sẵn có , được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì thầy giáo không chỉ đơn giản truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn Bắt đầu làm. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết Bắt đầu làm và tích cực dự khán các Các quy định Bắt đầu làm của cộng đồng.
b. Dạy và học coi trọng rèn luyện phương pháp tự học.c. Tăng cường học tập cá thể , phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học mà Thấp kiến thức , tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi vận dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp thuận sự phân hóa về cường độ , tiến độ hoàn tất nhiệm vụ học tập , nhất là khi bài học được thiết kế thành Một xâu Công việc độc lập. áp dụng biện pháp tích cực ở Thấp càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông cáo trong nhà trường sẽ đáp ứng đề nghị cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên , trong học tập , không phải mọi kiến thức , tài năng , thái độ hoài nghi đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân chủ nghĩa. Lớp học là môi trường tiếp xúc với nhau thầy – trò , trò – trò , tạo nên mối quan hệ hiệp tác giữa các cá nhân chủ nghĩa trên con đường chiếm lĩnh nội dung Học hỏi. Phê duyệt đàm luận , tranh luận trong tập thể , quan điểm mỗi cá nhân chủ nghĩa được thổ lộ , tự tin tuyên bố hay bác bỏ , qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học ứng dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường , phương pháp Học hỏi hiệp tác được tổ chức ở cấp nhóm , tổ , lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ thông trong dạy học là hoạt động hiệp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học hỏi hiệp tác làm tăng hiệu quả Học hỏi , nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay go , lúc xuát hiện thực sự nhu cầu kết hợp giữa các cá nhân chủ nghĩa để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ chẳng thể có hiện tượng ỷ lại; tình cảm năng lực của mỗi thành viên được thổ lộ , uốn nắn , phát triển tình bạn , ý thức tổ chức , tinh thần bạc nhược trợ giúp. Mô hình hiệp tác trong xã hội đưa vào đời sống trường học sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân việc hiệp tác trong cần lao xã hội. Trong nền kinh tế thị trường đã hiện ra nhu cầu hiệp tác xuyên quốc gia , liên quốc gia; năng lực hiệp tác phải trở nên một mục đích giáo dục mà nhà trường phải để sẵn cho học sinh.
d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học , việc đánh giá học trò không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo hoàn cảnh nhận định thực trạng và sắp xếp hoạt động dạy của thầy.
dĩ vãng giáo viên giữ độc quyền đánh giá học trò. Trong phương pháp hăng hái , giáo viên phải chỉ dẫn học trò phát triển tài năng tự đánh giá để tự sắp xếp cách học. Liên tưởng với điều này , giáo viên cần tạo hoàn cảnh thuận tiện để học trò được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và sắp xếp hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp hăng hái để đào tạo những con người năng động , sớm thích ứng với đời sống xã hội , thì việc kiểm tra , đánh giá chẳng thể dừng lại ở request tái hiện các tri thức , lặp lại các tài năng đã học mà phải xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất trí sáng ý , óc sáng tạo trong việc giải quyết những cảnh huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị nghệ thuật , kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một nghề nghiệp nặng nhọc đối với giáo viên , song cho nhiều thông tin kịp thời hơn để mẫn tiệp sửa đổi hoạt động dạy , chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học bị động sang dạy và học hăng hái , giáo viên không còn đóng vai trò thuần tuý là người truyền đạt tri thức , giáo viên trở nên người thiết kế , tổ chức , chỉ dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học trò tự lực chiếm lĩnh nội dung Học hỏi , chủ động đạt các mục đích tri thức , Năng lực , thái độ hoài nghi theo đề nghị của thời hạn. Trên lớp , học trò hoạt động là chính , giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó , khi soạn giáo án , giáo viên đã phải đầu tư công sức , thời kì rất nhiều so với kiểu dạy và học bị động mới có khả năng thực hành bài lên lớp với vai trò là người gợi mở , xúc tác , cổ vũ , cố vấn , trọng tài trong các hoạt động tìm tòi háo hức , tranh cãi rầm rộ của học trò. Giáo viên phải có trình độ chuyên trị sâu rộng , có trình độ sư phạm lành nghề mới có khả năng tổ chức , chỉ dẫn các hoạt động của học trò mà nhiều khi biến diễn ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
có khả năng so sánh đặc điểm của dạy học cựu truyền và dạy học mới như sau:Dạy học cựu truyền
Các mô hình dạy học mới
quan niệm
Học là qúa bẩm hấp thụ và lĩnh hội , qua đó hình thành kiến thức , Năng lực , tư tưởng , tình cảm.
Học là qúa bẩm kiến tạo; học trò tìm tòi , khám phá , phát hiện , tập luyện , khai khẩn và xử lí thông tin , … tự hình thành thông hiểu , năng lực và phẩm chất.
bản chất
Truyền thụ tri thức , truyền thụ và chứng minh chân lí của giáo viên.
Tổ chức hoạt động nhận thức biếu học trò . Dạy học trò cách tìm ra chân lí.
mục đích
chú trọng cung cấp tri thức , Năng lực , xảo thuật. Học để đối phó với thi cử . Sau khi thi xong những điều đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến.
chú trọng hình thành các năng lực ( sáng tạo , hiệp tác , … ) dạy biện pháp và văn chương cần lao khoa học , dạy cách học. Học để đáp ứng những đề nghị của cuộc sống hiện nay và tương lai. Những điều đã học cần thiết , hữu ích cho bản thân học trò và cho sự phát triển xã hội.
Nội dung
Từ sách giáo khoa + giáo viên
Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK , GV , các tài liệu khoa học ăn nhập , thử nghiệm , bảng tàng , thực tế…: gắn với:
– Vốn thông hiểu , kinh nghiệm và nhu cầu của HS.
– cảnh huống thực tiễn , bối cảnh và môi trường địa phương
– Những vấn đề học trò quan tâm.
biện pháp
Các biện pháp diễn giảng , truyền thụ tri thức một chiều.
Các biện pháp tìm tòi , điều tra , giải quyết vấn đề ; dạy học tương tác.
Hình thức tổ chức
Cố định: giới hạn trong 4 bức tường của lớp học , giáo viên đối diện với cả lớp.
Cơ động , linh hoạt: Học ở lớp , ở phòng thử nghiệm , ở hiện trường , trong thực tế… , học cá nhân chủ nghĩa , học đôi bạn , học theo cả nhóm , cả lớp đối diện với giáo viên.
Một số biện pháp dạy học hăng hái cần phát triển ở trường Trung học phổ quát
a. Biện pháp vấn đáp Vấn đáp ( đàm thoại ) là biện pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời , hoặc học sinh có thể bàn cãi với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lãnh hội được nội dung bài học. Chứng cứ vào thuộc tính hoạt động nhận thức , người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp: – Vấn đáp tái hiện: thầy giáo đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ , không thèm suy luận. Vấn đáp tái tạo không được xem là phương pháp quý báu sư phạm. Đó là phương pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học. – Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục tiêu làm sáng tỏ một đề tài nào đó , thầy giáo lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những giá dụ minh hoạ để học sinh sáng sủa , dễ nhớ. phương pháp này đặc biệt có công hiệu khi có sự tương trợ của các phương tiện nghe – nhìn. – Vấn đáp tìm tòi ( Nói chuyện Ơxrixtic ): thầy giáo dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát xuất hiện thực chất của sự vật , tính quy luật của cảnh tượng đang tìm hiểu , kích thích sự thèm muốn am hiểu. Thầy giáo tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả bàn cãi – giữa thầy với cả lớp , có khi giữa trò với trò , nhằm giải quyết một Sự tình xác định. Trong vấn đáp tìm tòi , thầy giáo giống như người tổ chức sự tìm tòi , còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì thế , khi chấm dứt cuộc Nói chuyện , học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về Thấp tư duy.
b. phương pháp đặt và giải quyết vấn đề. Trong một tầng lớp đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường , cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những Sự tình nảy sinh trong thực tế là một năng lực đảm bảo sự Thành tựu trong cuộc sống , đặc biệt trong kinh doanh. Vì thế , tập dượt cho học sinh biết phát hiện , đặt ra và giải quyết những Sự tình gặp phải trong học tập , trong cuộc sống của cá nhân , Nhà ở và cộng đồng không chỉ cố ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. cấu trúc một bài học ( hoặc một phần bài học ) theo phương pháp đặt và giải quyết Sự tình thường như sau
– Đặt Sự tình , xây dựng bài toán nhận thức o Tạo tình huống có vấn đề; o Phát hiện , nhận dạng Sự tình nảy sinh; o Phát hiện Sự tình cần giải quyết
– Giải quyết Sự tình đặt ra o Đề xuất cách giải quyết; o lập mưu hoạch giải quyết; o thực hiện kế hoạch giải quyết.
có thể phân biệt bốn mức Thấp đặt và giải quyết vấn đề: Mức 1: thầy giáo đặt Sự tình , nêu cách giải quyết Sự tình. Học sinh thực hiện cách giải quyết Sự tình theo hướng dẫn của thầy giáo. Thầy giáo đánh giá Cuối cùng làm việc của học sinh. Mức 2: thầy giáo nêu Sự tình , gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết Sự tình. Học sinh thực hiện cách giải quyết Sự tình với sự giúp rập của thầy giáo khi cần. Thầy giáo và học sinh cùng đánh giá. Mức 3: thầy giáo cung cấp thông báo tạo tình huống có Sự tình. Học sinh phát hiện và xác định Sự tình nảy sinh , tự đề xuất các giả thuyết và tuyển trạch giải pháp. Học sinh thực hành cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học trò cùng đánh giá. Mức 4 : học trò tự lực phát hiện vấn đề phát sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng , lựa chọn vấn đề giải quyết. Học trò giải quyết vấn đề , tự đánh giá chất lượng , hiệu quả , có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề , học trò vừa nắm được tri thức mới , vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó , phát triển tư duy hăng hái , sáng tạo , được để sẵn một năng lực thích ứng với đời sống xã hội , phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề phát sinh.
c. Phương pháp hoạt động nhóm
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích , request của vấn đề Học hỏi , các nhóm được phân chia không hẹn mà có hay có chủ tâm , được duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của tiết học , được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ , mỗi thành viên đều phải làm việc hăng hái , chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả Học hỏi chung của cả lớp. Để trình diễn.# kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp , nhóm có xác xuất cử ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên trình diễn.# một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
thành công của bài học nước phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia của mọi thành viên , vì vậy phương pháp này còn làm gọi là phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên , phương pháp này bị ngăn lại trong một giới hạn nhất định bởi không gian có phạm vi nhỏ của lớp học , bởi thời kì hạn định của tiết học , thành thử giáo viên phải biết tổ chức hợp lý và học trò đã khá quen với phương pháp này thì mới có kết quả. Cần nhớ rằng , trong hoạt động nhóm , tư duy hăng hái của học trò phải được phát huy và tác phong quan yếu của phương pháp này là đoàn luyện năng lực hiệp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.Cần tránh xu hướng hình thưc và xơ cua lạm dụng , ý là tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu điển hình nhất của canh tân PPDH và hoạt động nhóm càng nhiều thì chứng tỏ phương pháp dạy học càng đổi mới.
d. Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học trò thực hành một số cách xử sự nào đó trong một cảnh huống giả định. phương pháp đóng vai có những phần ưu tú sau : – học trò được đoàn luyện thực hành những kỹ năng xử sự và giãi bày thái độ hoài nghi trong môi trường không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro trước khi thực hành trong thực tiễn. – Gây hứng thú và chú ý cho học trò – Tạo hoàn cảnh làm phát sinh óc sáng tạo của học trò – khích lệ sự thay đổi thái độ hoài nghi , hành vi của học trò theo chuẩn mực hành vi tư tưởng và chính trị – xã hội – có xác xuất thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
v Cách tiến hành có xác xuất như sau : o giáo viên chia nhóm , Tình bạn huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực , thời gian đóng vai o Các nhóm bàn bạc chuẩn bị đóng vai o Các nhóm lên đóng vai o thầy giáo phỏng vấn học sinh đóng vai – vì sao em lại ứng xử như vậy ? – cảm xúc , thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được cách ứng xử ( đúng hoặc Không đúng ) o Lớp bàn bạc , nhận xét : Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp ? Chưa phù hợp ở điểm nào ? vì sao ? o thầy giáo kết luận về cách ứng xử nhu yếu trong tình huống. v Những điều cần lưu ý khi sử dụng : o tình huống nên để mở , không cho trước ” kịch bản” , lời thoại o Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai o Người đóng vai phải Hiểu ra vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề o Nên động viên cả những học sinh rút rát dự khán o Nên cải dạng và đạo cụ đơn giản để tăng tính quyến rũ của trò chơi đóng vai
V. Cách tiến hành o thầy giáo nêu câu hỏi , Sự tình cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm o động viên học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt o thống kê tất thảy các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to , không loại trừ một ý kiến nào , trừ trường hợp trùng lặp o Phân loại ý kiến o Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và bàn bạc sâu từng ý.
4. Điều kiện vận dụng phương pháp dạy học tích cực
a. Thầy giáo : thầy giáo phải được đào tạo nghiêm mật để thích nghi với những đổi thay về chức năng , nhiệm vụ rất Đa chủng và phức tạp của mình , nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Thầy giáo vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng , có Thấp sư phạm lành nghề , biết ứng sử tinh tế , biết sử dụng các công nghệ tin vào dạy học , biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức.
b. Học sinh : Dưới sự chỉ đạo của thầy giáo , học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích nghi với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục tiêu học tập , tự giác trong học tập , cố ý thức trách nhiệm về Cuối cùng học tập của mình và Cuối cùng chung của lớp , biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi , mọi lúc , bằng mọi cách , phát triển các loại hình tư duy biện chứng , lôgíc , hình tượng , tư duy kĩ thuật , tư duy kinh tế…
d. Thiết bị dạy học Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai Các quy định , sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực , chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học trò thực hành các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
e. Cách tân đánh giá kết quả Học hỏi của học sinh. Đánh giá là một khâu quan yếu chẳng thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn sau cuối của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở nên khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với đề nghị cao hơn , chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.
Đánh giá kết quả Học hỏi là qúa trình thu nhặt và xử lí thông tin về trình độ , khả năng thực hành mục đích Học hỏi của học trò về tác động và căn nguyên của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân học trò để học trò Học hỏi càng ngày càng phát triển theo hướng đi lên hơn.
cách tân biện pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những đề nghị mới của mục đích nên việc kiểm tra , đánh giá phải biến chuyển mạnh theo hướng phát triển trí sáng dạ sáng tạo của học trò , xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất áp dụng mẫn tiệp các tri thức Năng lực đã học vào những cảnh huống thực tiễn , làm biểu lộ những xúc cảm , thái độ hoài nghi của học trò trước những vấn đề nóng hổi của hoàn cảnh sống cá nhân chủ nghĩa , gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra , đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo Học hỏi bị động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực. hợp nhất với quan điểm cách tân đánh giá như trên việc kiểm tra , đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục đích của từng bài , từng chương và mục đích giáo dục của môn học ở tầng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực hành các mục đích được xác định.
– Hướng tới đề nghị kiểm tra đánh giá công bình , khách quan kết quả Học hỏi của học trò , bộ công cụ đánh giá sẽ được Sửa sang các hình thức đánh giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi , bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả qúa trình lĩnh hội tri thức của học trò , quan hoài tới mức độ hoạt động hăng hái , chủ động của học trò trong từng tiết học , kể cả ở tiết hấp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành , thử nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan hoài và giám sát hoạt động này.
– hệ thống giao thông câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần biểu lộ sự phân hóa , đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn – mặt bằng về nội dung học thức dành cho mọi học trò THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao , dành cho học trò có năng lực trí óc và thực hành cao hơn. g. Bổn phận quản lý : Hiệu trưởng chịu bổn phận trực tiếp về việc cách tân biện pháp dạy học ở trường mình , đặt vấn đề này ở tầm quan yếu đúng mức trong sự kết hợp các hoạt động tất cả của nhà trường. Hiệu trưởng cần trân trọng , tỏ thái độ đồng tình , xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất mỗi sáng kiến , sửa đổi cho tiến bộ hơn dù nhỏ của giáo viên , đồng thời cũng cần biết chỉ dẫn , giúp đỡ giáo viên áp dụng các biện pháp dạy học hăng hái phù hợp với môn học , đặc điểm học trò , hoàn cảnh dạy và học ở địa phương , làm cho phong trào cách tân biện pháp dạy học càng ngày càng rộng rãi , luôn luôn và có công hiệu hơn.
Hãy cố gắng để trong mỗi tiết học ở trường phổ quát , học sinh thắng hoạt động nhiều hơn , thực hiện nhiều hơn , bàn luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập.
5. Khai thác yếu tố tích cực trong các biện pháp dạy học truyền thống Đối mới biện pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh không có nghĩa là gạt bỏ , loại trừ , thay thế hoàn toàn các biện pháp dạy học truyền thống , hay phải “nhập nội” một số biện pháp xa lạ vào qúa trình dạy học. Sự tình là ở chỗ cần kế thừa , phát triển những mặt tích cực của biện pháp dạy học hiện có , song song phải học hỏi , áp dụng một số biện pháp dạy học mới một cách mẫn tiệp nhằm phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập , phù hợp với tình cảnh điều kiện dạy và học cụ thể.
biện pháp thuyết trình là một trong những biện pháp dạy học truyền thống được thực hiện trong các hệ thống nhà trường đã từ lâu. Đặc điểm cơ bản nổi của biện pháp thuyết trình là thông cáo – tái tạo. Bởi thế , biện pháp thuyết trình còn có tên gọi là biện pháp thuyết trình thông cáo – tái tạo. Biện pháp này chỉ rõ thuộc tính thông cáo bằng lời của thầy và thuộc tính tái tạo khi lãnh hội của trò. Thầy giáo Học hỏi tài liệu , sách giáo khoa , Dự bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thông cáo luồng thông cáo kiến thức đến học sinh. Học sinh tiếp nhận những thông cáo đó bằng việc nghe , nhìn , cùng tư duy theo lời giảng của thầy , hiểu , ghi chép và ghi nhớ.
Như vậy , những kiến thức đến với học sinh theo biện pháp này Hầu như đã được thầy “chuẩn bị sẵn” để trờ thu nạp , sự hoạt động của trò tương đối thụ động. Biện pháp thuyết trình chỉ cho phép người học đạt đến Thấp tái tạo của sự lãnh hội kiến thức mà thôi. Từ thời gian này , theo hướng hoạt động hóa người học , cần phải giữ lại bớt biện pháp thuyết trình thông cáo – tái tạo , tăng cường biện pháp thuyết trình giải quyết Sự tình. Đây là kiểu dạy học bằng cách đặt học sinh trước những bài toán nhận thức , kích thích học sinh hứng giải bài toán nhận thức , tạo ra sự chuyển hóa từ qúa trình nhận thức có tính Học hỏi khoa học vào tổ chức qúa trình nhận thức trong học tập. Thầy giáo đưa học sinh vào tình huống có Sự tình rồi học sinh tự mình giải quyết Sự tình đặt ra. Theo hình mẫu đặt và giải quyết Sự tình mà thầy giáo thể hiện , học sinh được học thói thường suy nghĩ lôgic , biết cách phát hiện Sự tình , đề xuất giả thuyết , bàn luận , làm thí nghiệm để thẩm tra các giả thuyết nêu ra.
Thuyết trình kiểu đặt và giải quyết Sự tình thuần túy do thầy giáo thể hiện cũng đã có công hiệu phát triển tư duy của học sinh. Nếu được xen kẽ vấn đáp , bàn luận một cách hợp lý thì công hiệu sẽ Thêm lên. Muốn vậy , lớp không nên quá đông , có điều kiện thuận lợi cho hội thoại , song song học sinh phải có thói thường bạo dạn biểu lộ tư kiến trước Sự tình nêu ra.
Để lôi cuốn sự để ý của người học và tích cực hóa biện pháp thuyết trình ngay khi khai mạc bài học thầy giáo có khả năng thông cáo Sự tình dưới hình thức những câu hỏi có thuộc tính định hướng , hoặc có thuộc tính “xuyên tâm”. Trong qúa trình thuyết trình bài giảng , thầy giáo có khả năng thực hiện một số hình thức thuyết trình lôi cuốn sự để ý của học sinh như sau:
– thể hiện kiểu nêu vấn đề: Trong qúa trình thể hiện bài giảng thầy giáo có khả năng biểu đạt Sự tình dưới dạng nghi vấn , gợi mở để gây tình huống lôi cuốn sự để ý của học sinh.
– Thuyết trình kiểu thuật chuyện: thầy giáo có khả năng phê chuẩn những sự kiện kinh tế – từng lớp , những câu chuyện hoặc tác phẩm văn học , phim ảnh… làm tư liệu để phân tách , minh họa , đại quát và rút ra nhận xét , kết luận nhằm xây dựng biểu trưng , khắc sâu nội dung kiến thức của bài học.
– Thuyết trình kiểu diễn tả , phân tích: thầy giáo có khả năng dùng công thức , sơ đồ , biểu mẫu… để diễn tả phân tách nhằm chỉ ra những đặc điểm , khía cạnh của từng nội dung. Trên cơ sở đó đưa ra những bằng chứng lôgíc , nói hay để làm rõ thực chất của vấn đề.
– Thuyết trình kiểu nêu Sự tình có tính giả thuyết: thầy giáo đưa vào bài học một số giả thuyết hoặc ý kiến có thuộc tính mâu thuẫn với Sự tình đang Học hỏi nhằm xây dựng tình huống có Sự tình thuộc loại giả thuyết ( hay luận chiến ). Kiểu nêu Sự tình này đòi hỏi học sinh phải tuyển trạch ý kiến đúng , sai và có lập luận kiên cố về sự tuyển trạch của mình. Song song học sinh phải biết cách phê phán , chưng một cách chuẩn xác , khách quan những ý kiến không đúng đắn , chỉ ra tính không khoa học và căn nguyên của nó.
– Thuyết trình kiểu so sánh , tổng hợp: Nếu nội dung của Sự tình thể hiện chứa đựng những mặt tương phản thì thầy giáo cần chính xác những Dấu hiệu để ghi nhận để so sánh từng mặt , thuộc tính hoặc giao tế giữa hai đối tượng đối đầu nhau nhằm rút ra kết luận cho từng Dấu hiệu để ghi nhận so sánh. Mặt khác , thầy giáo có khả năng sử dụng số liệu báo cáo để phân tách , so sánh rút ra kết luận nhằm góp phần làm tăng tính chuẩn xác và tính thuyết phục của vấn đề.
– hiện tại , bài giảng hiện đại đang có khuynh hướng sử dụng càng ngày càng nhiều các phương tiện công nghệ thông cáo , làm tăng sức quyến rũ và hiệu quả. Ngày trước , để minh họa nội dung bài giảng , thầy giáo chỉ có khả năng sử dụng lời nói giàu hình tượng và gợi cảm kèm theo những cử chỉ , điệu bộ biểu đạt nội tâm hoặc có thêm bộ tranh giáo khoa hỗ trợ. Hiện tại có cả một loạt phương tiện để thầy giáo tuyển trạch sử dụng như: máy chiếu , băng thu thanh , băng ghi hình , đĩa CD , phần mềm máy vi tính… Tiến tới mọi thầy giáo phải có khả năng soạn bài giảng trên máy vi tính được nối mạng , biết sử dụng đầu máy đa năng để thực hiện bài giảng của mình một cách sống động , hiệu qủa , phát huy cao nhất tính tích cực học tập của học sinh.
Tác giả bài viết: PGS.TS Vũ Hồng Tiến Nguồn tin: trung tam gia su day kem TTV sưu tầm và chia sẽ
Cập nhật thông tin chi tiết về Học Tập Tích Cực Là Gì? trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!