Bạn đang xem bài viết Hoàn Thiện Chế Định Thanh Tra Chuyên Ngành Trong Hệ Thống Pháp Luật Về Thanh Tra được cập nhật mới nhất trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Có thể thấy, các quy định của pháp luật về TTCN hiện nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, có sự chồng chéo giữa pháp luật về thanh tra và pháp luật chuyên ngành (phần lớn các luật, bộ luật chuyên ngành đều có quy định về TTCN(2)); mục đích, khái niệm, nội dung về TTCN không phù hợp với tính chất quản lý Nhà nước chuyên ngành; nhiệm vụ, quyền hạn chồng chéo giữa thanh tra hành chính với TTCN, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan thanh tra của ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan thanh tra của cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành; tổ chức thanh tra được thiết lập chưa phù hợp; quy trình, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và các biện pháp xử lý cứng nhắc, chưa được cập nhật, không phù hợp với tính chất, yêu cầu của quản lý Nhà nước chuyên ngành…
Thanh tra giao thông là lực lượng Thanh tra chuyên ngành rất cần thiết trong quản lý Nhà nước về lĩnh vực tải trọng xe.
Trong phạm vi bài viết này, trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về thanh tra và qua thực tiễn quản lý thanh tra ngành, tác giả đưa ra một số ý kiến đề xuất như sau:
Thứ nhất, cần có chế định về TTCN trong Luật Thanh tra để thống nhất điều chỉnh về tổ chức và hoạt động TTCN trên toàn quốc thuộc các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Như đã phân tích ở trên, do quy định nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, ngoài luật chuyên ngành còn có tại các Điều ước quốc tế chuyên ngành mà Việt Nam là thành viên nên cần có chế định quy định về TTCN trong Luật Thanh tra. Thực tế hiện nay, có nhiều hoạt động TTCN có tên gọi khác nhau nhưng chưa có pháp luật điều chỉnh, như kiểm tra chuyên ngành, giám sát an toàn, kiểm tra phát hiện xử lý vi phạm(3). Bản chất của các hoạt động này là xem xét, đánh giá việc tuân thủ pháp luật chuyên ngành (chủ yếu là các quy chuẩn, tiêu chuẩn, yêu cầu về chuyên môn gắn với hoạt động cung cấp dịch vụ cho xã hội) đối với tổ chức, cá nhân, qua đó đưa ra các biện pháp xử lý nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm nhằm bảo vệ an toàn về tính mạng của con người và bảo vệ tài sản của Nhà nước, xã hội.
Từ bản chất đó, chế định về TTCN cần quy định có tính nguyên tắc để “định danh” rõ các hoạt động này nhằm làm cơ sở để thiết kế các nguyên tắc cụ thể, điều khoản về vị trí, chức năng, niệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, chức danh và quy trình hoạt động TTCN. Nếu không có sự điều chỉnh thống nhất, chắc chắn trong thực tiễn thi hành pháp luật về thanh tra sẽ tiếp tục bị chồng chéo, trùng lặp như đã và đang diễn ra khá phổ biến hiện nay. Điều này sẽ tác động rất tiêu cực đến sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ, đặc biệt các hoạt động có tính sáng tạo, phát minh của các chuyên ngành.
Thứ hai, quy định rõ hơn về khái niệm TTCN (định nghĩa, giải thích từ ngữ), mục đích TTCN gắn với đặc điểm, tính chất và yêu cầu quản lý Nhà nước chuyên ngành.
Định danh rõ TTCN có ý nghĩa rất quan trọng để hoàn thiện chế định về TTCN trong Luật Thanh tra. Theo quan điểm của tác giả, khái niệm hay định nghĩa về TTCN cần hội tụ các yếu tố sau:
Chủ thể của TTCN là cơ quan thanh tra Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được cơ quan có thẩm quyền ủy quyền thực hiện TTCN. Đây là vấn đề mới, song khá phù hợp với thực tiễn quản lý và thông lệ quốc tế. Không phải khi nào, lúc nào cơ quan Nhà nước cũng phải tổ chức bộ máy hoặc có năng lực chuyên môn thực hiện TTCN mà khi cần thiết, Nhà nước ủy quyền cho cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp Nhà nước có năng lực tiến hành TTCN trong phạm vi, nội dung, đối tượng quản lý nhất định. Ví dụ, theo quy định của Tổ chức Hàng không Quốc tế (ICAO), Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), người tiến hành TTCN phải bảo đảm tiêu chuẩn chuyên môn phù hợp, tương xứng với trình độ chuyên môn của đối tượng thanh tra; nhà chức trách hàng không, hàng hải không bị ràng buộc bởi sự bắt buộc phải là cơ quan Nhà nước tiến hành thanh tra, xong phải bảo đảm tính độc lập cũng như tính chuyên nghiệp. Có như vậy mới phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời được hành vi vi phạm có thể phát sinh.
Hoạt động TTCN là hoạt động kiểm tra, xem xét đánh giá việc tuân thủ pháp luật chuyên ngành, bao gồm cả Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (gồm quy định, quy tắc, quy chuẩn và các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh dân sự trong quản lý ngành).
Mục đích của hoạt động TTCN là phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật chuyên ngành nhằm hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội theo hướng hiệu quả, thuận tiện, an toàn vì con người; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Thứ ba, quy định phạm vi thẩm quyền TTCN và thiết kế mô hình tổ chức phù hợp.
Như trên đã phân tích, cần làm rõ phạm vi thẩm quyền thanh tra theo cấp hành chính và thanh tra theo ngành lĩnh vực. Cần nghiên cứu quy định rõ cấp nào thanh tra cấp đó và với phạm vi, đối tượng nhất định, không chồng chéo giữa các cấp thanh tra với nhau, giữa thanh tra theo cấp hành chính với TTCN. Quy định hiện nay, việc chồng chéo là khó tránh khỏi, Ví dụ: Thanh tra Chính phủ có thể thanh tra tất cả các đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ từ trung ương đến địa phương; thanh tra bộ có thể thanh tra đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của tổng cục, cục, sở; thanh tra tỉnh có thể thanh tra các đối tượng trên địa bàn thuộc phạm vi thanh tra của thanh tra bộ.
Trong thẩm quyền của các cơ quan thanh tra cần quy định rõ thẩm quyền tham mưu quản lý Nhà nước, thẩm quyền thanh tra và thẩm quyền thực hiện các biện pháp xử lý, khuyến cáo, ngăn chặn hành vi vi phạm.
Lực lượng Thanh tra giao thông kiểm tra kích thước thành thùng xe.
Như vậy, với quan điểm trên, cần thiết kế mô hình tổ chức của các cơ quan thanh tra theo hướng, Thanh tra Chính phủ sẽ thu hẹp phạm vi thanh tra về kinh tế – xã hội; thanh tra bộ có địa vị pháp lý tương đương với cấp tổng cục thuộc bộ và được ủy quyền TTCN theo phạm vi, trình tự, thủ tục nhất định; thanh tra sở có địa vị pháp lý tương đương cấp chi cục thuộc sở và được ủy quyền TTCN theo phạm vi, trình tự, thủ tục nhất định.
Thứ tư, quy định về chức danh làm công tác TTCN và chế tài kiểm soát đối với các chức danh này.
Người làm nhiệm vụ TTCN là thanh tra viên, được đào tạo, bổ nhiệm, cấp thẻ nghiệp vụ bảo đảm chặt chẽ, đây là lực lượng nòng cốt của cơ quan, tổ chức TTCN.
Bên cạnh các chức danh TTCN còn có lực lượng có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật chuyên ngành theo các quy định của pháp luật chuyên ngành và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như trên đã phân tích đây thực chất là hoạt động TTCN. Lực lượng này có đặc điểm là có trình độ chuyên môn sâu, có kinh nghiệm, kỹ năng quản lý, vận hành hệ thống bảo đảm an toàn, an ninh chuyên ngành. Ví dụ, thanh tra việc bảo đảm an toàn kỹ thuật của tàu biển, phải có một nhóm kỹ sư chuyên sâu về vỏ tàu, điều khiển tàu biển, máy tàu biển và có trình độ ngoại ngữ tốt; thanh tra về bay, người làm thanh tra phải là phi công có kinh nghiệm, đang trong giai đoạn được năng định (kiểm tra đánh giá lại) theo tiêu chuẩn của ICAO.
Như vậy, pháp luật cần quy định mở rộng các chức danh thực hiện thẩm quyền TTCN, ngoài thanh tra viên chuyên trách có thanh tra viên kiệm nhiệm, thanh tra viên ủy quyền. Có quy định chặt chẽ việc quản lý đối với thanh tra viên chuyên ngành. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý hoạt động TTCN nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp, tham gia của con người vào quá trình thanh tra. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế tài chính cho hoạt động TTCN, trong đó có kinh phí chi trả cho việc ủy quyền thanh tra, hợp đồng hành chính để hỗ trợ TTCN; quy định về quỹ hoạt động TTCN trên cơ sở các nguồn thu từ thu hồi qua hoạt động TTCN. Quỹ này sẽ sử dụng để phục vụ hoạt động tác nghiệp, khen thưởng trực tiếp cho người làm công tác TTCN.
Thứ năm, quy định nhằm đổi mới trình tự, thủ tục và quyền trong hoạt động thanh tra phù hợp với quản lý Nhà nước chuyên ngành.
Đổi mới phương thức và quy trình hoạt động TTCN, phải đổi mới toàn diện từ hình thức, phương pháp thanh tra đến công tác hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thanh tra trong toàn ngành; đổi mới các hình thức thực hiện thẩm quyền thanh tra; quy trình, trình tự, thủ tục thực hiện các cuộc TTCN, xử lý vi phạm và đưa ra các yêu cầu, khuyến cáo.
Đề cao vai trò chỉ đạo, định hướng hoạt động TTCN của người đứng đầu bộ quản lý Nhà nước chuyên ngành; sử dụng các hình thức TTCN phù hợp với đặc điểm, tính chất quản lý CN và đối tượng quản lý; xây dựng hệ thống quy trình thanh tra phù hợp với từng nội dung, tính chất chuyên ngành và hình thức TTCN. Ví dụ, ngành lao động khác với ngành GTVT; ngành môi trường khác với ngành y tế, giáo dục…;
Thiết lập quy trình bảo đảm tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên, người trực tiếp thực hiện quyền thanh tra, xử lý vi phạm, đưa ra yêu cầu, khuyến cáo (hoạt động tác nghiệp) khi tiến hành TTCN.
Thứ sáu, quy định về quản lý Nhà nước và phân cấp quản lý Nhà nước về TTCN.
Thanh tra Chính phủ giúp Chính phủ quản lý Nhà nước chung về thanh tra, trong đó có thanh tra chuyên ngành. Tham mưu thiết kế nguyên tắc về những vấn đề chung của TTCN, nguyên tắc, cơ chế hoạt động TTCN; chức danh thực hiện thẩm quyền TTCN…;
Bộ trưởng bộ quản lý chuyên ngành có chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động TTCN, quy định cụ thể về thầm quyền, quy trình, trình tự, thủ tục hoạt động TTCN đối với từng nội dung quản lý, thậm chí là đối tượng quản lý nhất định; tổ chức lực lượng làm công tác TTCN trong phạm vi quản lý được giao.
Tóm lại, để phát huy hiệu lực, hiệu quả trong quản lý Nhà nước chuyên ngành, chế định về TTCN rất cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Chế định về TTCN hoàn thiện theo hướng đổi mới như đề xuất trên, thiết nghĩ không chỉ góp phần tăng cường quản lý Nhà nước mà còn nâng cao trách nhiệm tự kiểm soát của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ cho xã hội, đồng thời tạo điều kiện để xã hội tham gia cùng Nhà nước quản lý, quản trị xã hội, giảm gánh nặng chi ngân sách và đồng thời góp phần xây dựng Nhà nước kiến tạo, phát triển./.
TS.Trần Văn Trường
Phó Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải
Chú thích:
(1) Báo cáo Tổng kết 10 năm thi hành Luật Thanh tra 2010 của Thanh tra Chính phủ.
(2) Điều 86 Luật Giao thông đường bộ; Điều 11 Bộ Luật Hàng hải; Điều 9 Luật Hàng không; Điều 201 Luật Đất đai và còn nhiều Luật, Bộ luật khác;
(3) Kiểm tra trong tất cả các lĩnh vực quản lý chuyên ngành (GTVT, Y tế, Giáo dục, Môi trường…); giám sát an toàn trong hàng không, hàng hải theo IMO, ICAO; giám sát an toàn lao động theo ILO; kiểm tra nhà nước cảng biển theo IMO…;
Ban Pháp Chế Giám Sát Công Tác Thanh Tra Kt
Đ.C Hoàng Minh Tuấn, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Trưởng Ban Pháp chế (HĐND) tỉnh kết luận buổi giám sát tại Thanh tra tỉnh.
(HBĐT) – Sáng 27/3, đồng chí Hoàng Minh Tuấn, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Trưởng Ban Pháp chế (HĐND) tỉnh đã chủ trì giám sát công tác thanh tra KT-XH và giải quyết đơn thư KN-TC tại thanh tra tỉnh. Tham gia đoàn giám sát có lãnh đạo các Ban của HĐND tỉnh và một số sở, ngành.
Báo cáo kết quả công tác của Thanh tra tỉnh nêu rõ: 2 năm qua, công tác thanh tra đã có nhiều chuyển biến tích cực, toàn ngành Thanh tra đã chủ động triển khai thực hiện chương trình kế hoạch thanh tra và thanh tra đột xuất. Gắn kết chặt chẽ giữa thanh tra trách nhiệm với thanh tra KT-XH. Bám sát sự chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, Thủ trưởng cơ quan QLNN để xây dựng, triển khai công tác thanh tra. Nội dung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, hạn chế chồng chéo, trùng lặp. Qua thanh tra, ngành đã phát hiện, xử lý nhiều vi phạm pháp luật hơn so với những năm trước, đồng thời kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục những bất cập, sơ hở trong công tác quản lý. Công tác tiếp công dân và giải quyết KN-TC được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Chủ động phối hợp với các ngành, địa phương kiểm tra, rà soát các vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, tiến hành phân loại và có phương án tham mưu cho cho Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết dứt điểm để chấm dứt khiếu nại. Tăng cường công tác tham mưu, hướng dẫn, đôn đốc các ngành, cấp thực hiện các giải pháp về phòng ngừa tham nhũng. Công tác giám sát, kiểm tra, xử lý sau thanh tra và xây dựng lực lượng được quan tâm chú trọng… Qua đó đã góp phần quan trọng trong giữ vững ANCT, đảm bảo TTAT xã hội trên địa bàn tỉnh.
Thanh tra tỉnh cũng nêu rõ một số hạn chế, tồn tại, đó là: hiệu quả một số cuộc thanh tra KT-XH chưa cao, còn để kéo dài. Việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện kết luận, quyết định xử lý sau thanh tra chưa tích cực. Một số vụ việc công dân KN-TC giải quyết chưa kịp thời. Công tác phòng – chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra. Việc xử lý sau thanh tra chưa được thực hiện triệt để… Bên cạnh đó, Thanh tra tỉnh kiến nghị một số khó khăn, bất cập về chính sách, pháp luật; vai trò của cấp ủy, chính quyền cơ sở trong giải quyết KN- TC, biên chế, trang thiết bị, phương tiện đề nghị các cấp, ngành quan tâm để nâng cao chất lượng thanh tra và giải quyết KN-TC.
Kết luận buổi giám sát, đồng chí Trưởng đoàn, đánh giá cao những kết quả ngành thanh tra đạt được trong những năm qua. Đồng chí tiếp thu những kiến nghị, đề xuất của Thanh tra tỉnh và nhấn mạnh định hướng trong thời gian tới, gồm: Phối hợp làm tốt công tác tham mưu cho Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, địa phương giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc phức tạp, kéo dài. Tăng cường công tác thanh tra công vụ. Chú trọng việc hướng dẫn, đôn đốc, giám sát và phối hợp giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài và những vấn đề đã kết luận sau thanh tra. Tăng cường đôn đốc để công tác tiếp dân đi vào nề nếp, nhất là ở các huyện, thành phố. Làm tốt công tác xây dựng lực lượng để đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
ĐP
Viện Chiến Lược Và Khoa Học Thanh Tra
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trụ cột trong tổ chức và vận hành của bộ máy nhà nước để bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng đắn và hiệu quả. Hành pháp được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành Hiến pháp, Bộ luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước để tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp, thường xuyên công cuộc xây dựng và quản lý về mặt hành chính nhà nước các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị.
I. Khái quát về khu vực công và khu vực tư
Trước khi đề cập đến hoạt động thanh tra, kiểm tra trong khu vực công và khu vực tư, chúng ta cần xác định nội hàm của hai khái niệm này. Hiện nay, thế giới tồn tại nhiều cách tiếp cận và nghiên cứu về khu vực công và khu vực tư. Theo giáo trình Hành chính công của Học viện Hành chính Quốc gia thì khu vực công là môt thuật ngữ được sử dung phổ biến trên thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Vềlý thuyết, khu vực công là một thuật ngữ diễn đạt phạm trù kinh tế – xã hội có nguồn gốc trong tiếng Anh là Public Sector và tiếng Pháp là Secteur public. Khu vực công khái quát một khu vực kinh tế – xã hội rộng tồn tại ở mọi quốc gia. Theo Joseph E. Stiglitz (nhà Kinh tế học người Mỹ, giáo sư Trường Đại học Columbia), một cơ quan hay đơn vị được xếp vào khu vực công khi có hai đặc điểm: Một là, về phương diện lãnh đạo, trong một chế độ dân chủ, những người chịu trách nhiệm lãnh đạo các cơ quan công lập đều được công chúng bầu ra hoặc được chỉ định (trực tiếp hoặc gián tiếp), hoạt động của các cơ quan này phải phục vụ cho đại đa số lợi ích của cộng đồng tức là khu vực công là khu vực phi lợi nhuận; hai là, vềquyền lực hoạt động, các đơn vị trong khu vực công được giao một số quyền hạn nhất định có tính chất bắt buộc, cưỡng chế mà các cơ quan tư nhân không thể có được. Giáo sư Lionel Ouellet thuộc Trường Hành chính Quốc gia Québec – Canada định nghĩa: “Khu vực công là toàn bộ các cơ quan, các viên chức của cơ quan đó và các hoạt động của họ mà mục tiêu và mục đích đã được xã hội hóa tổng thể. Sự tồn tại và hoạt động của khu vực công đều phụ thuộc vào hệ thống chính trị”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ khu vực công – khu vực tư mới được sử dụng trong những năm gần đây khi nền kinh tếnước ta chuyển sang cơ chế thị trường kéo theo sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của các chủ thể phi nhà nước tồn tại song song cùng Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước, tạo thành một bộ phận có vai trò ngày một lớn trong tiến trình phát triển quốc gia, gọi là khu vực tư.
Về nguồn gốc lịch sử, khu vực tư được hình thành từ rất sớm, từ khi xã hội loài người có sản xuất hàng hóa và sự chiếm hữu tư liệu sản xuất. Khu vực tư tồn tại, phát triển ngày càng đa dạng và chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế của mọi quốc gia nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng. Có thể nói, khái niệm khu vực công (public sector) cần được xem như một thuật ngữ mới và do đó khi nói đến khu vực công người ta thường hiểu nó như khu vực nhà nước (state sector) và trong nhiều tài liệu về khoa học hành chính thì hai thuật ngữ này hoàn toàn trùng nhau. Nhưng đôi khi, khu vực công còn bị người ta đồng nhất với khu vực công cộng, điều này chưa phản ánh đúng ý nghĩa của nó. Khu vực công hay khu vực nhà nước là để phân biệt với khu vực tư (khu vực không phải nhà nước), khu vực công là khu vực hoạt động kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội mà Nhà nước là người quyết định, trong khi đó khu vực tư là khu vực do tư nhân quyết định.Trong bối cảnh và xu hướng phát triển ở Việt Nam hiện nay, khu vực tư đang phát triển mạnh, giữ vai trò ngày một quan trọng trong cấu trúc kinh tế – xã hội
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa khu vực công – khu vực tư trong nhiều lĩnh vực ngày nay đang không thật sự rõ ràng. Thực tế cho thấy, khi các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá, bộ máy quản trị sẽ hoạt động theo các nguyên tắc như một doanh nghiệp tư nhân. Ngược lại, khi nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân phát triển mạnh, dẫn đến hệ lụy là bản thân họ cũng hình thành các phương thức quản trị phức tạp hơn, tiệm cận với những phương thức quản trị nhà nước nhưng ở một mức độ và cách thức thể hiện khác. Trong số đó, thanh tra, kiểm tra trong khu vực tư cũng có xu hướng vận hành giống như khu vực công, dưới dạng các thiết chế kiểm soát nội bộ, thanh tra công ty, thanh tra tập đoàn… Tuy nhiên, chủ thể,mục đích và phương thức thanh tra, kiểm tra của hai khu vực này có những điểm khác nhau cơ bản dẫn đến những kết quả khác nhau.
II. Những điểm khác giữa thanh tra, kiểm tra khu vực công và khu vực tư
1. Các chủ thể trong mối quan hệ thanh tra, kiểm tra
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trụ cột trong tổ chức và vận hành của bộ máy nhà nước để bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng đắn và hiệu quả. Hành pháp được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành Hiến pháp, Bộ luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước để tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp, thường xuyên công cuộc xây dựng và quản lý về mặt hành chính nhà nước các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Hoạt động thanh tra, kiểm tra là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong hành pháp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của khu vực công hiện nay đang được tiến hành ở hai dạng: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Có thể hiểu, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra nội bộ, hướng vào bên trong nhà nước, trong khi thanh tra chuyên ngành hướng ra bên ngoài xã hội. Có thể nói, đối với khu vực công, đối tượng bị thanh tra, kiểm tra bao gồm cả Nhà nước và xã hội.
Khác với khu vực công, khu vực tư không tồn tại hoạt động thanh tra, kiểm tra hướng ra bên ngoài xã hội. Hoạt động thanh tra, kiểm tra khu vực tư chỉ hướng vào bên trong. Theo đó, đối tượng chịu thanh tra, kiểm tra là bản thân các công ty, tập đoàn, các tổ chức và doanh nghiệp tư nhân… Sự khác biệt so với khu vực công này là hết sức dễ hiểu. Bởi Nhà nước, đại diện cho quyền lực nhân dân, giữ vai trò quản lý và vận hành xã hội. Với địa vị, vai trò pháp lý này, Nhà nước có tư cách, thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể trong xã hội nhằm bảo đảm các chủ thể trong cấu trúc kinh tế – xã hội vận hành hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngược lại, nguồn gốc của khu vực tưkhông bắt nguồn từ quyền lực nhân dân. Các chủ thể trong khu vực này xuất hiện, hoạt động và tồn tại dựa trên lợi ích của riêng nó. Các công ty, tập đoàn,tổ chức tư nhân không có thẩm quyền, chức năng tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác trong xã hội. Trên thực tế, các chủ thể này vẫn có thể thực hiền quyền giám sát các chủ thể tư khác thông qua việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đối với cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, trách nhiệm thanh tra, kiểm tra cũng như xử lý sai phạm hoàn toàn không thuộc về họ.
2. Mục đích của thanh tra, kiểm tra
Mục đích của thanh tra là phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật; phát huy những nhân tố tích cực; phòng ngừa, xử lý những vi phạm, bảo đảm để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành đầy đủ và nghiêm túc các quy định của pháp luật. Thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn là hiện thân của kỷ cương pháp luật. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là cách thức phân tích một cách sâu sắc, đầy đủ nhất các nguyên nhân, mục đích, tính chất, mức độ của một hành vi vi phạm.
Đối với khu vực công, thanh tra, kiểm tra góp phần chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch bộ máy nhà nước và nâng cao chất lượng dịch vụ. Dịch vụ công ngoài yếu tố phục vụ xã hội còn là công cụ để quản lý xã hội. Đối với một số lĩnh vực, dịch vụ công có tính độc quyền như dịch vụ đăng ký sở hữu trí tuệ, dịch vụ đăng ký quyền sử dụng đất, dịch vụ cung cấp điện, v.v… Những dịch vụ này chỉ có khu vực công cung cấp, không có dịch vụ tư nhân nào thay thế hoặc tồn tại song hành. Trong khi đó, giải pháp chính sách về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công được thực hiện cầm chừng ở các bộ, ngành và địa phương.Hơn nữa, văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn ban hành chậm trễ, mục tiêu chính sách cung ứng dịch vụ công chưa rõ, do đó việc đánh giá đổi mới chính sách cung ứng dịch vụ công còn gặp khó khăn.
Đối với khu vực tư, thanh tra, kiểm soát làm trong sạch bộ máy quản trị, nâng cao chất lượng, bảo vệ uy tín doanh nghiệp, tổ chức. Khác với khu vực công và dịch vụ công, khu vực tư hoàn toàn bị chi phối bởi quy luật thị trường. Sự thành bại của một doanh nghiệp phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Hệ quả là chất lượng dịch vụ, sản phẩm đóng vai trò chủ đạo trong mục đích thanh tra, kiểm tra.Những yếu tố tiền đề để tiến hành thanh tra, kiểm tra là cảm nhận, ý kiến, kiến nghị của đối tác, khách hàng, công chúng. Điều này không hoàn toàn được hiểu theo logic rằng chất lượng dịch vụ, sản phẩm tốt đồng nghĩa với việc không có nội dung để tiến hành thanh tra, kiểm tra. Nhưng chắc chắn, chừng nào còn phản biện, chừng nào còn ý kiến trái chiều chứng tỏ bộ phận đó, khâu quản lý đó còn vấn đề để tiến hành thanh tra, kiểm tra.Vì vậy, kiểm soát chặt chẽ chất lượng đầu ra của sản phẩm, dịch vụ và thanh tra, xử lý nhanh chóng các trường hợp vi phạm gây ảnh hưởng đến tiến độ công việc, uy tín là yếu tố sống còn của doanh nghiệp.
Không chỉ có chất lượng đầu ra, chất lượng của đội ngũ cán bộ, nhân viên bên trong cũng là một trong những mục đích quan trọng của hoạt động thanh tra, kiểm tra. Ở các doanh nghiệp nhỏ, công việc này thuộc trách nhiệm của bộ phận nhân sự. Các doanh nghiệp quy mô lớn hoặc rất lớn tổ chức hẳn các bộ phận, phòng, ban, khối “kiểm soát nội bộ”. Nếu như mục đích của thanh tra quy định trong Luật thanh tra là để “phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý…; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật..”, thì khu vực tư, ngoài yếu tố hợp pháp (tuân thủ quy định của công ty, tập đoàn, tổ chức), hiệu quả công việc được cho là căn cứ quan trọng để giám sát vấn đề con người trong nội bộ doanh nghiệp, tổ chức. Nói một cách ngắn gọn, ở khu vực tư, đánh giá chất lượng cán bộ nhân viên được gắn với công tác thanh tra, kiểm tra. Hệ lụy của nó là một nhân viên hoặc một lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp, tổ chức có thể bị kỷ luật do không hoàn thành chất lượng công việc, bất chấp việc anh ta tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc và quy định của công ty hoặc tổ chức. Điều này hoàn toàn khác so với khu vực công bởi đánh giá chất lượng công chức, viên chức không hoàn toàn gắn với hoạt động thanh tra, kiểm tra hành chính. Hơn nữa, khu vực tư còn thể hiện sự vượt trội so với khu vực công trong vấn đề đánh giá chất lượng cán bộ nhân viên. Ở gần như tất cả các công ty, doanh nghiệp, mỗi chức danh, chức vụ sẽ có bản mô tả công việc và kế hoạch làm việc hàng tháng mà dựa vào đó các nhà quản lý sẽ áp dụng các chỉ số đánh giá hiệu quả của chức danh, chức vụ đó. Key Performance Indicator (KPI) là tên gọi tiếng anh của hệ thống các chỉ số này. Dựa trên việc hoàn thành hay không hoàn thành KPI, công ty, doanh nghiệp sẽ có các chế độ thưởng phạt, cũng như xem xétkỷ luật, sa thải đối với từng cá nhân. Ngược lại, trong khu vực công, những khái niệm như mô tả công việc, kế hoạch làm việc chi tiết hay chỉ tiêu hoàn thành công việc vẫn còn hết sức mơ hồ, không rõ ràng, nếu có cũng chỉ mang tính định tính, thậm chí hình thức. Gắn công tác đánh giá hiệu quả công việc của cán bộ nhân viên với hoạt động thanh tra, kiểm tralà một việc làm đúng đắn, thiết thực tuy nhiên việc áp dụng công cụ này đối với khu vực công còn là một chặng đường dài.
3. Phương thức thanh tra, kiểm tra
Cách một doanh nghiệp, công ty thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của mình rõ ràng sẽ rất khác so với hoạt động của Thanh tra Chính phủ hay Thanh tra Tỉnh (thanh tra chuyên ngành không được dẫn chiếu để so sánh ở đây bởi lý do khu vực tư không có chức năng thanh tra, kiểm tra ra ngoài xã hội như đã phân tích ở trên). Tổ chức các ban thanh tra, kiểm soát nội bộ tại các Tổng Công ty, Tập đoàn lớn hiện nay vẫn còn một khoảng cách rất xa so với các thiết chế thanh tra, kiểm tra nhà nước ở nhiều khía cạnh, đặc biệt trong phương thức thực hiện.
Điểm khác nhau tiếp theo nằm ở việc khu vực công tiến hành thanh tra, kiểm tra theo một quy trình hết sức phức tạp bao gồm nhiều trình tự, thủ tục. Ví dụ, quá trình chuẩn bị thanh tra đã phải trải qua các bước: khảo sát, nắm tình hình; ra quyết định; xây dựng, phê duyệt kế hoạch tiến hành; phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra; xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo… Khác với các cơ quan thanh tra, kiểm tra nhà nước, các doanh nghiệp, tập đoàn không dồi dào về nguồn lực, thời gian để tiến hành việc thanh tra, kiểm soát nội bộ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa rằng công việc này được tiến hành một cách hời hợt. Giảm bớt những quy trình, thủ tục rườm rà, không cần thiết, các ban thanh tra, kiểm soát nội bộ thường tiến hành thanh tra, kiểm tra một cách quyết liệt nhưng nhanh chóng, gọn gàng. Nhiệm vụ này thực tế bị chịu áp lực lớn từ lãnh đạo công ty, doanh nghiệp bởi như phân tích ở mục 2, kiểm soát chặt chẽ, xử lý kịp thời các tác nhân gây ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp hay nguy hiểm hơn là chất lượng đầu ra (sản phẩm, dịch vụ) là yếu tố sống còn. Ở một tập đoàn lớn luôn bảo đảm chất lượng dịch vụ5 sao, thái độ không đúng mực trong việc chăm sóc khách hàng của ngay một nhân viên bảo vệ cũng có thể dẫn đến những thiệt hại không nhỏ. Thanh tra, kiểm tra và xử lý nhanh chóng sai phạm, lược bỏ các yếu tố thủ tục, hình thức là một đòi hỏi cấp bách đối với mỗi chủ thể tư nhân nếu muốn tồn tại trong cuộc chơi thị trường.
II. Kết luận
Nhìn chung, khi đi vào chi tiết, thanh tra, kiểm tra ở từng khu vực đảm nhiệm những vai trò khác nhau nhưng giống nhau về bản chất. Qua việc đánh giá mức độ hiệu quả của từng mô hình, chúng ta có thể thẳng thắn nhận thấy rằng thanh tra, kiểm tra ở khu vực tư hoạt động hiệu quả hơn khu vực công. Sự trùng lắp trong các khâu kiểm soát, trình tự tiến hành rườm rà, hình thức triển khai không tinh gọn… là những nguyên nhân có thể kể đến khiến cho công tác thanh tra, kiểm tra hành chính vận hành chưa thật sự hiệu quả. So với những vi phạm diễn ra trong toàn bộ máy hành chính thì số lượng kết luận thanh tra, kiểm tra chưa thật sự đáng kể. Thêm vào đó, tham nhũng vặt diễn ra khắp nơi, qua từng biểu hiện của cán bộ khiến cho việc kiểm tra, kiểm soát gặp nhiều khó khăn. Việc làm trong sạch bộ máy hành chính là trách nhiệm hàng đầu của các cán bộ thanh tra nhưng làm thế nào và tiến hành ra sao để đạt hiệu quả là một câu hỏi lớn. Cách triển khai công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở khu vực tư là một mô hình đáng học hỏi để cải thiện chất lượng thanh tra, kiểm tra trong khu vực công hiện nay.
TS. Đinh Lương Minh Anh
Kiểm Tra Chuyên Ngành Với Hàng Hóa Xuất Nhập Khẩu
Bạn muốn tìm hiểu Kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu là như thế nào? Tại sao phải kiểm tra? Những mặt hàng nào thuộc diện này…?
Trước hết, hãy tìm hiểu một chút về khái niệm.
Kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu là thế nào?
Khi muốn làm thủ tục xuất, nhập khẩu hàng hóa, một trong những bước bạn cần lưu ý từ đầu là tìm hiểu xem hàng hóa của mình có thuộc diện phải kiểm tra chuyên ngành hay không. Không phải kiểm tra thì khỏe. Còn nếu có thì cần phải chuẩn bị tương ứng về chứng từ, thời gian, chi phí… cho phù hợp, tránh bị động, tính thiếu thời gian, chi phí.
Vậy khái niệm đó có nghĩa là thế nào? Tôi xin giải thích nôm na như sau:
Kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu là việc cơ quan chức năng lấy mẫu hàng để kiểm tra xem hàng hóa đó có đạt yêu cầu hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của chuyên ngành hay không.
Nếu kết quả kiểm tra là đạt, thì lô hàng sẽ được cấp giấy chứng nhận. Còn nếu không đạt, thì sẽ bị từ chối cấp chứng nhận, và hàng sẽ không đủ tiêu chuẩn nhập hoặc xuất khẩu. Bạn sẽ thấy kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu thường gặp nhiều hơn với hàng xuất khẩu.
Có thể lấy ví dụ:
Hàng mây tre xuất khẩu phải làm kiểm dịch thực vật & hun trùng theo quy định trong hợp đồng mua bán (trước đây là bắt buộc, giờ chỉ là tự nguyện). Người xuất khẩu làm thủ tục đăng ký, lấy mẫu, để cơ quan kiểm dịch kiểm nghiệm. Nếu đạt yêu cầu, họ sẽ cấp chứng thư kiểm dịch cho lô hàng.
Hàng xe nâng, máy xúc, máy đào nhập khẩu phải làm kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (gọi tắt là Đăng kiểm), với Cục đăng kiểm – Bộ Giao thông vận tải.
Hàng thủy sản nhập khẩu phải làm Kiểm dịch động vật và An toàn thực phẩm với cơ quan kiểm dịch động vật Bộ NN & PTNT trước khi hàng được thông quan.
Những thủ tục mà tôi vừa nêu trong ví dụ trên, thực hiện tại các cơ quan như kiểm dịch, đăng kiểm, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm… được gọi là thủ tục kiểm tra chuyên ngành.
Hiện tôi thấy khái niệm “kiểm tra chuyên ngành” đang dùng hơi lẫn lộn với thuật ngữ “kiểm tra chất lượng” đối với hàng xuất nhập khẩu.
Vì thế, tôi muốn làm rõ một chút để phân biệt.
Về mặt ngữ nghĩa, thì 2 thuật ngữ trên đều mô tả việc cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra mẫu hàng hóa để xem có đạt yêu cầu theo quy định hay không. Thường thì đó là những yêu cầu về mặt chất lượng nói chung. Vì thế mới gọi là kiểm tra chuyên ngành, hay kiểm tra chất lượng cũng đều được. Và thực tế thì anh em đi làm thủ tục cũng thường xuyên dùng chung cả 2 cụm từ này.
Để tránh nhầm lẫn, cần cụm từ bao quát hơn cho các bộ ngành nói chung. Và cụm từ “kiểm tra chuyên ngành” phù hợp và mang tính khái quát cao hơn.
Bộ Y tế: kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm (mà bộ này phụ trách)
Bộ GTVT: đăng kiểm phương tiện giao thông, xe máy chuyên dùng
Bộ Nông Nghiệp PTNT: kiểm dịch động thực vật, thủy sản (có cả ATTP theo loại hàng thuộc quản lý của Bộ này)
Bộ Khoa học Công nghệ: kiểm tra chất lượng
V.v…
Khái niệm chung chung là như vậy. Nhưng là nhà xuất nhập khẩu, điều bạn quan tâm và muốn tìm kiếm chính là: hàng của mình có thuộc diện phải kiểm tra chuyên ngành không, và nếu có thì thuộc bộ ngành nào, và thủ tục ra sao.
Đó là nội dung phần tiếp…
Số lượng quá nhiều phải không?
Ấy là chưa kể đến việc có những mặt hàng phải chịu nhiều hình thức quản lý. Phó thủ tướng chính phủ gần đây cũng đã phải có chỉ đạo về việc Không kiểm tra chuyên ngành chồng chéo đối với một mặt hàng
Công văn 613/CB-CD-BNNPTNT ngày 08/07/2016 về danh sách mặt hàng máy móc nông nghiệp phải Kiểm tra Chất lượng Nhà nước khi nhập khẩu
Thông tư liên tịch 58/2015/TTLT-BCT-BKHCN, có quy định Danh Mục các sản phẩm thép phải kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu
Chuyển từ Kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu về Xuất nhập khẩu Chuyển từ Kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu đến Thủ tục hải quan
Cập nhật thông tin chi tiết về Hoàn Thiện Chế Định Thanh Tra Chuyên Ngành Trong Hệ Thống Pháp Luật Về Thanh Tra trên website 2atlantic.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!